Tình hình thực hiện quản lý chi phí kinh doanh & giá thành sản phẩm tại Công ty Dệt vải Công Nghiệp Hà Nội

Chương I Cơ sở lý luận chung về chi phí kinh doanh và giá thành SảN PHẩm trong các Doanh nghiệp Chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp Khái niệm và kết cấu chi phí kinh doanh 1.1 Khái niệm chi phí kinh doanh Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra trên các lĩnh vực sản xuất, xây dựng cơ bản, thương mại dịch vụ... là để sản xuất và cung cấp hàng hóa dịch vụ cho người tiêu dùng nhằm thu được lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu kinh doanh đó nhất thiết các doanh ng

doc91 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1106 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình thực hiện quản lý chi phí kinh doanh & giá thành sản phẩm tại Công ty Dệt vải Công Nghiệp Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiệp phải bỏ ra những chi phí nhất định. Các chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra trước hết là chi phí cho việc sản xuất sản phẩm. Trong khi tiến hành sản xuất, các doanh nghiệp phải tiêu hao các loại vật tư như nguyên liệu, vật liệu, hao mòn máy móc, thiết bị, công cụ dụng cụ, doanh nghiệp còn thực hiện trả lương (hay tiền công cho cán bộ công nhân viên). Như vậy có thể thấy chi phí sản xuất của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về vật chất và lao động mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất sản phẩm trong một thời kỳ nhất định. Các chi phí này phát sinh có tính chất thường xuyên và gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm. Ngoài việc sản xuất, chế biến sản phẩm, doanh nghiệp còn phải tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Trong quá trình tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp cũng phải bỏ ra những chi phí nhất định như chi phí về bao gói sản phẩm, vận chuyển, bảo quản sản phẩm. Bên cạnh đó, để giới thiệu rộng rãi sản phẩm cho người tiêu dùng, cũng như để hướng dẫn người tiêu dùng, điều tra, khảo sát thị trường để có những quyết định đối với việc sản xuất thì doanh nghiệp còn phải bỏ ra những chi phí về nghiên cứu, tiếp thị, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm hay bảo quản sản phẩm. Tất cả những chi phí có liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm gọi là chi phí tiêu thụ hay còn gọi là chi phí lưu thông sản phẩm. Tóm lại : Chi phí kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của các hao phí về vật chất, về sức lao động và các chi phí bằng tiền khác liên quan và phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định, đồng thời được bù đắp từ doanh thu kinh doanh của doanh nghiệp trong thời kỳ đó. Chi phí kinh doanh của các doanh nghiệp phát sinh thường xuyên hàng ngày, hàng giờ đa dạng và rất phức tạp tuỳ thuộc vào việc thực hiện các hành vi khác nhau, vào tính chất của hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động khác mà chúng cũng rất khác nhau trong suốt quá trình tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp. Nhưng để phục vụ cho yêu cầu quản lý, chi phí sản xuất phải được tập hợp theo từng thời kỳ : tháng, quí hoặc năm. 1.2 Kết cấu chi phí kinh doanh Kết cấu của chi phí kinh doanh được biểu hiện qua tỷ trọng tính thành % của từng loại chi phí kinh doanh trong tổng số chi phí kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong một năm (hoặc một kỳ hạch toán) bao gồm : Chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh và chi phí khác. Chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm hai bộ phận : Chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa và dịch vụ Chi phí hoạt động tài chính. Chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa và dịch vụ là một bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí ở một thời kỳ nhất định của doanh nghiệp. Bộ phận này phục vụ các hoạt động sản xuất kinh doanh của doah nghiệp trong thời kỳ đó chúng bao gồm : + Chi phí nguyên liệu, vật liệu : gồm toàn bộ chi phí về các loại nguyên liệu, vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế dùng để sử dụng vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. + Chi phí nhân công gồm toàn bộ số tiền lương tiền công phải trả cho người lao động kể cả các chi phí khác có tính chất lương như tiền trích BHXH, KPCĐ, BHYT của công nhân sản xuất. + Chi phí khấu hao tài sản cố định là toàn bộ số trích khấu hao của những tài sản cố định tính vào giá thành sản phẩm hàng hoá dịch vụ đã thực hiện trong kỳ hạch toán, tương ứng với toàn bộ tài sản cố định đã dùng cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. + Chi phí dịch vụ mua ngoài : là số tiền trả cho tổ chức các nhân ngoài doanh nghiệp về các dịch vụ mua ngoài phục vụ cho hoạt động sản xuất được thực hiện theo yêu cầu của doanh nghiệp như vận chuyển vật tư hàng hoá, tiền điện, nước, điện thoại, fax, sửa chữa tài sản cố định thuê ngoài, dịch vụ tư vấn quảng cáo môi giới uỷ thác... + Chi phí khác bằng tiền : là toàn bộ các chi phí khác dùng cho hoạt động sản xuất ngoài các yếu tố chi phí đã nêu trên như chi bảo hộ lao động, chi phí bảo vệ môi trường, một số loại thuế nộp qua phí, tiền thưởng do cải tiến công nghệ, chi phí về chế tạo sản phẩm mới hợp lý hóa sản xuất, chi mở lớp bồi dưỡng đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, chi ủng hộ từ thiện... Chi phí hoạt động tài chính : đó là các chi phí liên doanh liên kết liên quan đến đầu tư tài chính ra ngoài doanh nghiệp, chi phí cho thuê tài sản, mua bán chứng khoán, chi phí về trả lãi tiền vay khác, chiết khấu thanh toán trả cho người mua hàng hóa dịch vụ, các chi phí khác liên quan đến đầu tư tài chính ra ngoài doanh nghiệp. Chi phí khác là những khoản chi phí bất thường bao gồm : Các khoản chi phí xảy ra không thường xuyên mà doanh nghiệp không kế hoạch hóa được trong kỳ hạch toán. Chi phí thanh lý, nhượng bán tài sản cố định; giá trị tài sản tổn thất thực tế sau khi đã trừ tiền đền bù của người phạm lỗi và tổ chức bảo hiểm, trị giá phế liệu thu hồi và số đã được bù đắp từ quỹ dự phòng tài chính, chi về tiền phạt hợp đồng kinh tế và các chi phí bất thường khác. Phạm vi chi phí kinh doanh ở mỗi doanh nghiệp kinh doanh khác nhau có những mục tiêu chiến lược sản xuất kinh doanh không giống nhau, song mục đích cuối cùng mà các doanh nghiệp muốn đạt được là tối đa hóa lợi nhuận. Từ đó để hình thành mục tiêu chiến lược đề ra, các doanh nghiệp phải tự mình hạch toán, quản lý có hiệu quả. Vì thế việc quản lý chi phí phát sinh trong quán trình sản xuất kinh doanh là một khâu quan trọng và cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp. Để tính toán và quản lý chi phí kinh doanh có hiệu quả mỗi doanh nghiệp cần phải xác định đúng đắn phạm vi chi phí kinh doanh. Phạm vi chi phí kinh doanh được tính toán như sau : Chỉ tính vào chi phí kinh doanh những khoản chi phí phát sinh trực tiếp hoặc gián tiếp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp : Chi phí nguyên vật liệu : gồm toàn bộ chi phí về các loại nguyên vật liệu, nhiên liệu dùng cho sản xuất. Tiền lương và các khoản trích nộp theo quy định của Nhà nước: gồm toàn bộ số tiền lương tiền công phải trả cho cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp, tiền trích BHXH, KPCĐ, BHYT của cán bộ công nhân viên. Khấu hao tài sản cố định : là toàn bộ số trích khấu hao của những tài sản cố định dùng cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí dịch vụ mua ngoài : là số tiền trả cho các dịch vụ mua ngoài phục vụ cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp như tiền điện, nước, điện thoại... Chi phí bằng tiền khác : là toàn bộ các chi phí khác dùng cho hoạt động sản xuất ngoài 4 yếu tố chi phí trên. Những khoản chi phí có nguồn gốc bù đắp riêng không được tính vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm : Chi phí đầu tư dài hạn : Là những khoản chi phí phát sinh cần thiết để tạo ra các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh theo mục tiêu đầu tư nhằm phục vụ cho những phương hướng kinh doanh trong tương lai doanh nghiệp. Chi phí này bao gồm : Chi phí đầu tư xây dựng cơ bản Chi phí để đào tạo dài hạn lực lượng lao động Các khoản chi về phúc lợi xã hội của doanh nghiệp bao gồm : Chi về học tập văn hóa Chi về tham quan nghệ thuật Chi trợ cấp khó khăn cho người lao động Các khoản chi phí này không được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. Các khoản vi phạm hợp đồng kinh tế, vi phạm kỷ luật thanh toán, phạt khai man trốn thuế... Như vậy, việc xác định đúng phạm vi chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp giúp cho doanh nghiệp quản lý chặt chẽ các khoản chi phí trên cơ sở đó xác định chính xác kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Nếu xác định không đúng phạm vi chi phí kinh doanh theo chế độ hiện hành sẽ không đảm bảo tính thực tiễn của chi phí kinh doanh và phát sinh những khoản chi phí sai, chi không đúng đối tượng làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Phân loại chi phí kinh doanh Để quản lý và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện các định mức chi phí, tính toán được kết quả tiết kiệm chi phí ở từng bộ phận sản xuất và toàn bộ doanh nghiệp cần phải tiến hành phân loại chi phí. Việc phân loại chi phí có tác dụng để kiểm tra, phân tích quá trình phát sinh chi phí và hình thành giá thành sản phẩm nhằm nhận biết và phát huy mọi khả năng tiềm tàng để hạ thấp giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó cho thấy vị trí chức năng hoạt động của chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh nhằm cung cấp thông tin có hệ thống và chính xác cho việc lập báo cáo tài chính. Vì vậy hạch toán chi phí kinh doanh theo từng loại sẽ nâng cao tính chi tiết của thông tin hạch toán phục vụ đắc lực cho công tác quản lý, lập kế hoạch đồng thời tạo cơ sở tin cậy cho việc phấn đấu tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh tế. Tùy theo công tác quản lý và hạch toán người ta phân loại chi phí kinh doanh theo các tiêu chuẩn đặc trưng khác nhau một cách khoa học thống nhất. 3.1 Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo nội dung kinh tế của chi phí Đặc điểm của cách phân loại theo nội dung kinh tế là dựa vào hình thái nguyên thuỷ của chi phí bỏ vào sản xuất kinh doanh, không phân biệt chi phí đó được dùng ở đâu và dùng cho mục đích gì. Trên cơ sở đó sắp xếp những chi phí có cùng nội dung kinh tế vào một loại và mỗi loại đó được gọi là một yếu tố chi phí. Theo cách phân loại này, toàn bộ chi phí kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ được phân thành các loại như sau: Chi phí tiền lương và các khoản tính theo lương của người lao động : Là toàn bộ tiền lương hay tiền công phải trả cho người lao động trong doanh nghiệp và các khoản chi phí trích theo lương như : bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn được tính trên cơ sở quỹ tiền lương của doanh nghiệp theo chế độ hiện hành của Nhà nước. Nhóm chi phí này là biểu hiện bằng tiền của lượng lao động nhất định hao phí trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí nguyên vật liệu là toàn bộ giá trị tất cả các loại vật tư mua từ bên ngoài dùng vào hoạt động kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp như: nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu... Chi phí về khấu hao tài sản cố định của doanh nghiệp là toàn bộ số tiền khấu hao các loại tài sản cố định trích trong kỳ bao gồm các khoản như : Tiền khấu hao tài sản cố định, hao phí nguyên, nhiên, vật liệu, bảo quản... Chi phí dịch vụ mua ngoài : Là toàn bộ số tiền phải trả về dịch vụ, lao vụ đã sử dụng vào hoạt động kinh doanh trong kỳ do các đơn vị khác ở bên ngoài cung cấp như : Tiền cước phí vận chuyển, bốc dỡ hàng hóa, thuê kho bãi, điện thoại, điện, nước, lãi vay của các tổ chức tín dụng... Chi phí khác bằng tiền : là toàn bộ các chi phí khác dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh ngoài các yếu tố chi phí trên. Việc phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo nội dung kinh tế cho doanh nghiệp thấy rõ mức chi phí về lao động sống lao động vật hóa trong toàn bộ chi phí của doanh nghiệp phát sinh trong năm. Điều này rất cần thiết để xác định trọng điểm quản lý chi phí và kiểm tra sự cân đối với các kế hoạch khác như kế hoạch lao động tiền lương, kế hoạch nhu cầu vốn lưu động, kế hoạch giá thành sản phẩm... 3.2 Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo công dụng kinh tế, mục đích sử dụng và địa điểm phát sinh của chi phí. Theo cách phân loại này có thể sắp xếp những chi phí có cùng công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh vào một loại và mỗi loại như vậy được gọi là một khoản mục chi phí. Có những khoản mục chi phí sau đây : Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp : là toàn bộ các chi phí nguyên liệu, vật liệu chính, vật liệu phụ, vật liệu khác... được sử dụng trực tiếp vào viẹc sản xuất, chế tạo ra sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ. Chi phí nhân công trực tiếp : là các chi phí phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm như tiền lương, các khoản phụ cấp, các khoản bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn, bảo hiểm y tế trích theo tiền lương của công nhân trực tiếp. Chi phí sản xuất chung : là các khoản chi phí sản xuất ngoại trừ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp phát sinh ở các phân xưởng hoặc bộ phận kinh doanh của doanh nghiệp như : chi phí nhân viên phân xưởng, chi phí khấu hao tài sản cố định dùng cho sản xuất, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí bằng tiền phát sinh ở phạm vi phân xưởng... Chi phí bán hàng gồm các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ như tiền lương, các khoản phụ cấp trả cho nhân viên bán hàng, tiếp thị, đóng gói vận chuyển, bảo quản... khấu hao tài sản cố định, chi phí vật liệu bao bì, công cụ dụng cụ, chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí bằng tiền khác như chi phí bảo hành sản phẩm, chi phí quảng cáo... Chi phí quản lý doanh nghiệp là các chi phí cho bộ máy quản lý và điều hành doanh nghiệp, các chi phí có liên quan đến hoạt động chung của doanh nghiệp như chi phí về công cụ dụng cụ, khấu hao tài sản cố định phục vụ cho bộ máy quản lý điều hành doanh nghiệp và các chi phí phát sinh ở phạm vi toàn doanh nghiệp khác như tiền lương và phụ cấp trả cho hội đồng quản trị (nếu có), Ban giám đốc và các nhân viên quản lý ở các phòng ban, chi phí vật liệu, đồ dùng văn phòng, một số khoản thuế phí, lệ phí, bảo hiểm, chi phí dịch vụ mua ngoài thuộc văn phòng doanh nghiệp, dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng nợ phải thu khó đòi, công tác phí... Việc phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo cách này giúp cho doanh nghiệp quản lý định mức chi phí, cung cấp số liệu cho công tác tính giá thành các loại sản phẩm đồng thời xác định ảnh hưởng của sự biến động từng khoản mục đối với toàn bộ giá thành sản phẩm nhằm khai thác khả năng tiềm tàng trong nội bộ doanh nghiệp để hạ thấp giá thành. 3.3 Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm sản xuất ra Chi phí khả biến (biến phí hay chi phí biến đổi) : là những khoản chi phí có sự thay đổi về lượng tương quan tỷ lệ thuận với sự thay đổi của khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ hay thay đổi theo mức lưu chuyển hàng hoá. Tuy nhiên nếu tính biến phí cho 1 đơn vị sản phẩm thì đây là khoản chi phí ổn định, không thay đổi. Thuộc loại chi phí này có: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí bao bì vật liệu đóng gói, chi phí lao động trực tiếp, lương khoán doanh thu. Nếu biểu diễn trên cùng một hệ trục toạ độ XOY đồ thị của nó có dạng như một đường thẳng xuất phát từ gốc toạ độ. Mối tương quan giữa chi phí khả biến với tổng khối lượng sản phẩm sản xuất có dạng như hàm số : Fb = y = a * x Chi phí biến đổi Fb = a*x 0 Sản lượng Trong đó a : Tổng khối lượng sản phẩm x : Chi phí sản xuất biến đổi của đơn vị sản phẩm Chi phí bất biến (định phí hay chi phí cố định) : là những khoản chi phí phát sinh trong kỳ không biến đổi khi mức độ hoạt động hay mức lưu chuyển hàng hóa của doanh nghiệp thay đổi, nhưng khi tính cho một đơn vị hoạt động thì chi phí này lại thay đổi. Chi phí bất biến trong các doanh nghiệp gồm : chi phí khấu hao tài sản cố định, tiền thuê cửa hàng, kho tàng trong một kỳ, lương nhân viên quản lý, chi phí bảo hiểm rủi ro...Chi phí bất biến tồn tại ngay cả khi doanh nghiệp không sản xuất kinh doanh. Nếu biểu diễn trên hệ trục toạ độ XOY, đường chi phí bất biến luôn luôn là một đường thẳng song song với trục hoành cắt trục tung tại điểm b nhất định nào đó ( Fđ =b). Đồ thị biểu diễn quan hệ này được thể hiện : Chi phí cố định Fđ 0 Sản lượng Như vậy ta có thể thấy rằng khi khối lượng sản phẩm thay đổi sẽ làm cho tổng chi phí sản xuất thay đổi nhưng tác động của sự thay đổi của khối lượng sản xuất đến các bộ phận sản xuất là không giống nhau. Có thể biểu diễn mối quan hệ giữa khối lượng sản xuất với tổng chi phí và các bộ phận chi phí cố định và chi phí biến đổi : F = Fb + Fđ Tổng chi phí F = Fb + Fđ Fb Fđ 0 Sản lượng Hiện nay, doanh nghiệp thường có xu hướng tăng chi phí cố định vì hai lý do : Càng ngày càng có nhiều doanh nghiệp ứng dụng tự động hóa trong quá trình sản xuất kinh doanh vào doanh nghiệp mình, tự động hóa tăng lên đồng nghĩa với đầu tư vào máy móc thiết bị tăng lên làm cho chi phí cố định tăng. Hoạt động của tổ chức công đoàn ngày càng phát triển, họ đấu tranh đòi hỏi đảm bảo công ăn việc làm và tiền lương ổn định. Thông qua các hợp đồng lao động, mức lương được quy định rõ, thời gian lao động của người công nhân được đảm bảo làm giảm sự biến động của chi phí lao động so với sự thay đổi của chi phí sản xuất. Xu hướng tăng dần tỷ trọng chi phí cố định so với chi phí biến đổi có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc phát triển lâu dài và cơ bản của doanh nghiệp. Nhưng đồng thời khi chi phí cố định cao hơn so với chi phí biến đổi thì nhà quản trị khi lập kế hoạch dễ bị động và có ít sự lựa chọn trong việc ra quyết định. Phân loại chi phí theo cách này cho thấy : Qua việc xem xét mối quan hệ giữa chi phí và sản lượng sản xuất sản phẩm giúp nhà quản lý phân tích tình hình tiết kiệm chi phí sản xuất và xác định các biện pháp thích hợp để hạ thấp chi phí sản xuất cho một đơn vị sản phẩm, giúp cho doanh nghiệp xác định được sản lượng sản xuất hoặc doanh thu để năng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 3.4 Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh thành chi phí cơ bản và chi phí chung Chi phí cơ bản : là những chi phí chủ yếu cần thiết cho quá trình sản xuất sản phẩm kể từ lúc đưa nguyên vật liệu vào sản xuất cho đến lúc sản phẩm được chế tạo xong. Những chi phí này chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành. Bởi vậy, để quản lý tốt khoản chi phí này phải xác định định mức tiêu hao cho từng khoản và phải tìm mọi biện pháp giảm bớt định mức đó. Thuộc loại chi phí cơ bản gồm có chi phí nguyên liệu, vật liệu, tiền lương công nhân sản xuất, chi phí khấu hao tài sản cố định... Chi phí chung : là những khoản chi phí không có liên quan trực tiếp đến quá trình chế tạo sản phẩm, song để đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục cần phải tổ chức bộ máy quản lý và phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thuộc loại chi phí chung gồm có : tiền lương nhân viên quản lý, các khoản chi phí về văn phòng, ấn loát, bưu điện, sách báo... Chi phí chung chiếm tỷ trọng nhỏ trong giá thành. Bởi vậy, chi phí chung không cần xác định định mức tiêu hao mà chỉ cần xây dựng chỉ tiêu chi trong kỳ kế hoạch. Cách phân loại này cho thấy rõ tác dụng của từng loại chi phí để từ đó đặt ra phương hướng phấn đấu tiết kiệm chi phí riêng đối với từng loại. Đồng thời qua sự biến động của chi phí chung trong giá thành ở các thời kỳ khác nhau giúp cho việc kiểm tra chất lượng công tác quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Giá thành sản phẩm và phân loại giá thành sản phẩm 4.1 Khái niệm giá thành sản phẩm và mối quan hệ giữa chi phí với giá thành 4.1.1 Khái niệm Quá trình sản xuất trong các doanh nghiệp sản xuất luôn luôn tồn tại hai mặt đối lập nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau, đó là : các chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra và kết quả sản xuất thu được - sản phẩm, công việc hoàn thành. Như vậy, doanh nghiệp phải tính được chi phí đã bỏ ra để sản xuất được sản phẩm, công việc hoàn thành. Vậy : Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền các chi phí sản xuất kinh doanh tính cho một khối lượng sản phẩm (công việc, lao vụ) nhất định đã hoàn thành. Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất, kết quả sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp. Giá thành sản phẩm có hai chức năng chủ yếu là chức năng thước đo bù đắp chi phí và chức năng lập giá. Toàn bộ các chi phí sản xuất mà doanh nghiệp chi ra để sản xuất sản phẩm sẽ được bù đắp bởi số tiền thu về tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời, căn cứ vào giá thành sản phẩm doanh nghiệp mới có thể xác định được giá bán sản phẩm hợp lý đảm bảo doanh nghiệp có thể trang trải chi phí đầu vào và có lãi. 4.1.2 Mối quan hệ giữa chi phí với giá thành Chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm là hai khái niệm riêng biệt nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Chúng giống nhau về chất vì đều là những hao phí về lao động sống (V), lao động vật hóa (C) mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Tuy nhiên xét về mặt lượng thì chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm lại không giống nhau. Chi phí sản xuất hợp thành giá thành sản phẩm. Nhưng không phải toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ đều được tính vào giá thành trong kỳ. Giá thành là biểu hiện lượng chi phí để hình thành việc sản xuất và tiêu thụ 1 đơn vị hay khối lượng sản phẩm nhất định, nó phản ánh về mặt kết quả của quá trình sản xuất. Hay nói cách khác sự khác nhau ở đây là do cách tập hợp và đánh giá chi phí. Chi phí sản xuất kinh doanh được tập hợp theo tiêu thức thời gian, còn giá thành sản phẩm được tập hợp theo tiêu thức khối lượng sản phẩm đã hoàn thành. Z = Dđk + F - Dck Trong đó : Z : Tổng giá thành sản phẩm Dđk : Trị giá sản phẩm làm dở đầu kỳ Dck : Trị giá sản phẩm làm dở cuối kỳ F : Tổng chi phí kinh doanh phát sinh trong kỳ (đã trừ các khoản thu hồi ghi giảm chi phí) Sơ đồ mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm : CPSX dở dang đầu kỳ CPSX phát sinh trong kỳ Tổng giá thành sản phẩm CPSX dở dang cuối kỳ 4.2 Phân loại giá thành sản phẩm 4.2.1 Phân loại theo thời gian và cơ sở số liệu tính giá thành Theo cách phân loại này thì giá thành sản phẩm được chia thành 3 loại: Giá thành kế hoạch : là giá thàh sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí kế hoạch, sản lượng kế hoạch. Giá thành kế hoạch do bộ phận kế hoạch của doanh nghiệp tính trước khi bắt đầu quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Giá thành kế hoạch là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp, là căn cứ để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, kế hoạch hạ giá thành của doanh nghiệp. Giá thành định mức : là giá thành sản phẩm được tính trên định mức chi phí hiện hành. Việc tính giá thành định mức cũng thực hiện trước khi tiến hành quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Giá thành định mức là thước đo để xác định kết quả sử dụng các loại tài sản, vật tư, tiền vốn của doanh nghiệp từ đó có cơ sở đánh giá các giải pháp kinh tế, kỹ thuật mà doanh nghiệp đã áp dụng. Giá thành thực tế : là loại giá thành được xác định trên cơ sở số liệu chi phí thực tế đã phát sinh và tập hợp được trong kỳ. Giá thành thực tế chỉ có thể áp dụng được sau khi kết thúc quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Giá thành thực tế sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức áp dụng các giải pháp kinh tế kỹ thuật để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm, là cơ sở để xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 4.2.2 Phân loại theo phạm vi chi phí tính vào giá thành Theo cách phân loại này thì giá thành sản phẩm được chia thành : Giá thành sản xuất : là giá thành chỉ bao gồm các khoản chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm. Giá thành sản xuất lại được chia thành: + Giá thành sản xuất toàn bộ : là giá thành bao gồm toàn bộ các chi phí sản xuất như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. Giá thành sản xuất toàn bộ có vai trò quan trọng trong các quyết định mang tính chất chiến lược dài hạn như quyết định ngừng sản xuất hay tiếp tục sản xuất một loại sản phẩm nào đó. + Giá thành sản xuất theo biến phí : là giá thành chỉ bao gồm các biến phí sản xuất kể cả biến phí trực tiếp và biến phí gián tiếp. Như vậy nếu xác định giá thành sản xuất theo biến phí thì các chi phí sản xuất cố định được ghi vào báo cáo kết quả kinh doanh như các chi phí thời kỳ trong niên độ mà không tính vào giá thành sản xuất. + Giá thành sản xuất có phân bổ hợp lý chi phí cố định : là giá thành bao gồm toàn bộ biến phí sản xuất (trực tiếp và gián tiếp) và phần định phí sản xuất chung cố định được phân bổ trên cơ sở công suất hoạt động thực tế so với công suất hoạt động chuẩn theo công suất thiết kế và định mức (công suất hoạt động bình thường). Như vậy nếu xác định giá thành sản xuất có phân bổ hợp lý chi phí cố định thì phần định phí sản xuất chung cố định không được phân bổ vào giá thành sản phẩm gọi là định phí sản xuất chung hoạt động dưới công suất và được coi là chi phí thời kỳ (ghi vào báo cáo kết quả kinh doanh). Giá thành tiêu thụ sản phẩm (giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ): là giá thành sản xuất toàn bộ cộng các chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Chỉ tiêu này chỉ xác định khi sản phẩm đã tiêu thụ và được sử dụng để xác định kết quả tiêu thụ của doanh nghiệp. Công thức tính giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ như sau: Giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hóa, dịch vụ = Giá thành sản xuất của sản phẩm hàng hóa, dịch vụ + Chi phí bán hàng + Chi phí quản lý doanh nghiệp Các chỉ tiêu phản ánh chi phí kinh doanh và giá thành của doanh nghiệp Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá tình hình thực hiện chi phí kinh doanh Hệ thống chỉ tiêu chi phí kinh doanh là tập hợp các chỉ tiêu có quan hệ với nhau và phản ánh đầy đủ các mặt có tính chất quan trọng nhất của quá trình thực hiện chi phí. Có thể nói cách khác hệ thống chỉ tiêu về chi phí kinh doanh là một số chỉ tiêu vừa đầy đủ, vừa phản ánh được toàn diện quá trình thực hiện chi phí của doanh nghiệp. Thông qua các chỉ tiêu đặc trưng quan trọng có thể đánh giá thật khách quan tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, kết hợp đánh giá bằng chủ quan mang tính chất định tính của các nhà quản trị thông qua kinh nghiệm và sự nhạy cảm có thể nhận thức được một cách đúng đắn và chính xác về hoạt động của doanh nghiệp. 1.1 Chỉ tiêu tổng chi phí kinh doanh Tổng chi phí kinh doanh là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh toàn bộ chi phí kinh doanh phân bổ cho khối lượng hàng hóa, dịch vụ sẽ thực hiện trong kỳ kế hoạch tới của doanh nghiệp. Trong công tác lập kế hoạch chi phí kinh doanh của doanh nghiệp chỉ tiêu này có thể được dự tính theo nhiều phương pháp khác nhau như : * Dự tính theo tỷ lệ phần trăm trên tổng thu nhập của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch, từ đó tính ra tổng mức chi phí kinh doanh. * Tuy nhiên do những nhu cầu về nghiên cứu thị trường, quảng cáo và các chi phí hỗ trợ Marketing và phát triển hoặc do những đặc điểm khác nhau của từng loại chi phí kinh doanh trong kỳ kế tiếp, doanh nghiệp có thể, hoặc cần thiết phải lập kế hoạch chi tiết cho từng bộ phận chủ yếu của chi phí kinh doanh trong kỳ kế hoạch, sau đó tổng hợp lại sẽ có chỉ tiêu tổng mức chi phí kinh doanh của kỳ kế hoạch. Để xác định các chỉ tiêu chi phí theo từng khoản mục cụ thể, doanh nghiệp có thể sử dụng những phương pháp thích hợp như thống kê kinh nghiệm tỷ lệ phần trăm trên doanh thu... Chỉ tiêu tổng mức chi phí kinh doanh mới chỉ phản ánh quy mô tiêu dùng vật chất, tiền vốn và mức kinh doanh để phục vụ quá trình kinh doanh của doanh nghiệp nhưng không phản ánh trình độ sử dụng các loại chi phí kinh doanh, không phản ánh được chất lượng của công tác quản lý chi phí kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ đó. 1.2 Tỷ suất chi phí kinh doanh Tỷ suất chi phí kinh doanh là chỉ được xác định bằng tỷ lệ phần trăm giữa chi phí kinh doanh và doanh thu kinh doanh hoặc thu nhập của doanh nghiệp trong kỳ. F' = F * 100 M Trong đó : F' : Tỷ suất chi phí kinh doanh (%) F : Tổng mức chi phí kinh doanh M : Tổng số doanh thu hoặc thu nhập của doanh nghiệp Chỉ tiêu tỷ suất chi phí kinh doanh phản ánh cứ một đồng lưu chuyển hàng hóa hoặc thu nhập doanh nghiệp đạt được trong kỳ thì mất bao nhiêu đồng chi phí. Vì vậy có thể sử dụng nó để phân tích so sánh trình độ quản lý chi phí kinh doanh giữa các kỳ của doanh nghiệp hoặc giữa các doanh nghiệp cùng loại trong một thời kỳ cụ thể. 1.3 Mức độ tăng giảm tỷ suất chi phí kinh doanh Mức độ tăng giảm tỷ suất chi phí kinh doanh của doanh nghiệp là chỉ tiêu tương đối phản ánh tình hình và kết quả hạ thấp chi phí kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ theo công thức : DF' = F'₁ - F'₀ Trong đó : DF' : Mức độ tăng (giảm) tỷ suất chi phí kinh doanh F'₁ : Tỷ suất chi phí kinh doanh kỳ so sánh F'₀ : Tỷ suất chi phí kinh doanh kỳ gốc Tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà chọn kỳ so sánh và kỳ gốc cho phù hợp. Có thể chọn kỳ gốc là chỉ tiêu kế hoạch còn kỳ so sánh là chỉ tiêu thực hiện của cùng một thời kỳ, hoặc kỳ gốc là số thực hiện năm trước, kỳ so sánh là số kế hoạch năm sau... để đánh giá mức độ hạ thấp tỷ suất chi phí kinh doanh trong doanh nghiệp. 1.4 Tốc độ tăng giảm tỷ suất chi phí kinh doanh Tốc độ tăng giảm tỷ suất chi phí kinh doanh của doanh nghiệp là chỉ tiêu phản ánh tốc độ tăng hoặc giảm chi phí kinh doanh nhanh hay chậm giữa hai doanh nghiệp cùng loại trong cùng một thời kỳ hoặc hai thời kỳ của một doanh nghiệp. d = DF' * 100 F'₀ Trong đó : d là tốc độ giảm chi phí kinh doanh Chỉ tiêu này giúp người quản lý doanh nghiệp thấy rõ hơn tình hình kết quả phấn đấu giảm chi phí kinh doanh, bởi vì trong một số trường hợp giữa hai thời kỳ của doanh nghiệp đều có mức độ hạ thấp chi phí kinh doanh như nhau nhưng tốc độ giảm chi phí kinh doanh lại khác nhau, khi đó doanh nghiệp nào giảm nhanh hơn thì được đánh giá tốt hơn và ngược lại. 1.5 Mức tiết kiệm hay lãng phí chi phí kinh doanh Mức tiết kiệm hay lãng phí chi phí kinh doanh chính là số tiền tiết kiệm được hoặc vượt chi do hạ thấp hay tăng chi phí kinh doanh. Kết quả việc hạ thấp chi phí kinh doanh là làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Chỉ tiêu này xác định rõ do hạ thấp chi phí kinh doanh thì sẽ tiết kiệm được bao nhiêu chi phí theo số tuyệt đối. U = DF' * M₁ Trong đó : U : Mức tiết kiệm hay lãng phí chi phí kinh doanh. M₁ : Tổng mức doanh thu hay thu nhập thực tế của doanh nghiệp trong kỳ Các chỉ tiêu trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Để phân tích, đánh giá chi phí kinh doanh một cách toàn diện, cần phải đi sâu xét phân tích các chỉ tiêu đó và từng khoản mục chi phí cụ thể của chi phí kinh doanh. Nhưng việc phân tích đó cũng chỉ là bước đầu, cần phải kết hợp phân tích tình hình đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ, để có được những ý kiến đánh giá sát đúng với tình hình và trình độ quản lý chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. 1.6 Hệ số lợi nhuận của chi phí Hệ số sinh lợi của chi phí là chỉ tiêu tương đối phản ánh quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận với tổng chi phí kinh doanh trong một thời kỳ nhất định và được xác định bằng công thức : H = P F Trong đó._. : H: Là hệ số sinh lời của chi phí kinh doanh P : Là tổng lợi nhuận đạt được trong kỳ kinh doanh F : Là tổng chi phí kinh doanh trong kỳ Để có được lợi nhuận thì bắt buộc doanh nghiệp phải bỏ ra những khoản chi phí nhất định và để đánh giá được tình hình quản lý và sử dụng chi phí có hợp lý hay không người ta sử dụng chỉ tiêu hệ số sinh lợi của chi phí. Chỉ tiêu này cho thấy cứ 100 đồng chi phí bỏ ra doanh nghiệp thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Hệ số sinh lợi càng lớn thì chứng tỏ khả năng kinh doanh của doanh nghiệp là tốt. Doanh nghiệp thu được nhiều lợi nhuận trong kỳ. Đây cũng là chỉ tiêu quan trọng mà doanh nghiệp phấn đấu nâng cao đến mức tối đa. Thông qua chỉ tiêu này ta có thể thấy được hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, trình độ sử dụng các nguồn nhân tài, vật lực của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh. Một số chỉ tiêu về giá thành 2.1 Mức hạ giá thành sản phẩm Mức hạ giá thành sản phẩm so sánh được là một số tuyệt đối được tính theo công thức : Mz = [(Sil * Zil) - (Sil * Zi0)] Trong đó : Mz : Mức hạ giá thành sản phẩm hàng hóa so sánh được Zi0 : Giá thành đơn vị sản phẩm i ở kỳ gốc Zil : Giá thành đơn vị sản phẩm i ở kỳ kế hoạch Sil : Số lượng sản phẩm so sánh được loại i ở kỳ kế hoạch i : Loại sản phẩm so sánh được (i = ) 2.2 Tỷ lệ hạ giá thành sản phẩm Tỷ lệ hạ giá thành sản phẩm so sánh được được xác định theo công thức sau đây : Tz = Mz (Sil * Zi0) Trong đó : Tz : Tỷ lệ hạ giá thành sản phẩm so sánh được Mz : Mức hạ giá thành sản phẩm hàng hóa so sánh được Zi0 : Giá thành đơn vị sản phẩm i ở kỳ gốc Sil : Số lượng sản phẩm so sánh được loại i ở kỳ kế hoạch Những phương pháp cơ bản dùng trong phân tích chi phí kinh doanh và tính giá thành sản phẩm 3.1 Phương pháp dùng trong phân tích chi phí kinh doanh 3.1.1 Phương pháp so sánh : Là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung cũng như trong phân tích chi phí nói riêng để xác định xu hướng, mức độ biến động của các chỉ tiêu phân tích. Vì vậy để tiến hành so sánh phải giải quyết những vấn đề cơ bản như xác định gốc để so sánh xác định điều kiện và mục tiêu so sánh : Thực tế năm nay so với năm trước. Thực tế doanh nghiệp so với thực tế bình quân ngành và bình quân của toàn xã hội. Khi so sánh số liệu thành một dãy số, chúng ta có thể nhận định được tình hình phát triển của đối tượng nghiên cứu trong thời gian dài, phương pháp so sánh đòi hỏi điều kiện : Các chỉ tiêu so sánh có cùng nội dung kinh tế Các số liệu thu thập trong một kỳ tương ứng Phương pháp so sánh thực hiện các nghiệp vụ sau : Đánh giá tình hình hoàn thành kế hoạch (bước đầu tiên quan trọng trong phân tích hoạt động kinh tế) Đánh giá tình hình phát triển kinh tế của đơn vị trong một kỳ hoặc nhiều kỳ. 3.1.2 Phương pháp thay thế liên hoàn Phương pháp thay thế liên hoàn : Là phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến sự biến động của chỉ tiêu phân tích (đối tượng phân tích) quá trình thực hiện phương pháp thay thế liên hoàn gồm ba bước : Bước 1 : Xác định đối tượng phân tích là mức chênh lệch chỉ tiêu kỳ phân tích so với kỳ gốc. Nếu gọi : Q1 là các chỉ tiêu kỳ phân tích Q0 là chỉ tiêu kỳ gốc Đối tượng phân tích được xác định như sau : DQ = Q1 - Q0 Bước 2 : Thiết lập mối quan hệ của các nhân tố với chỉ tiêu phân tích và sắp xếp các nhân tố theo trình tự nhất định, từ nhân tố lượng đến nhân tố chất. Để xác định nhân tố trước, nhân tố sau : Giả sử có 3 nhân tố có quan hệ tổng số với chỉ tiêu Q (có thể có các nhân tố quan hệ thương, hiệu với chỉ tiêu) là a, b, c và nhân tố phản ánh tuần tự đến nhân tố phản ánh về vật chất, ta thiết lập mối quan hệ các nhân tố như sau : Kỳ phân tích : Q1 = a1 * b1 * c1 Kỳ gốc: Q0 = a0 * b0 * c0 Bước 3 : Lần lượt thay thế các nhân tố kỳ phân tích vào kỳ gốc theo trình tự sắp xếp ở bước 2 Thay thế lần thứ nhất : a1 * b0 * c0 Thay thế lần thứ hai : a1 * b1 * c0 Thay thế lần thứ ba : a1 * b1 * c1 Thế lần cuối chính là các nhân tố ở kỳ phân tích thay thế toàn bộ nhân tố kỳ gốc. Bước 4 : Xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến đối tượng phân tích bằng cách lấy kết quả thay thế lần sau so với kết quả thay thế lần trước (lần trước của nhân tố đầu tiên là so với gốc) ta được mức độ ảnh hưởng của nhân tố được xác định bằng đối tượng phân tích là DQ. Xác định mức ảnh hưởng : Mức ảnh hưởng của nhân tố a : Da = a1 * b0 * c0 - a0 * b0 * c0 Mức ảnh hưởng của nhân tố b : Db = a1 * b1 * c0 - a1 * b0 * c0 Mức ảnh hưởng của nhân tố c : Dc = a1 * b1 * c1 - a1 * b1 * c0 Tổng cộng các nhân tố ảnh hưởng : DQ = Q1 - Q0 DQ = Da + Db + Dc DQ = a1 * b1 * c1 - a0 * b0 * c0 Ưu điểm : Đơn giản dễ tính toán, dễ hiểu. Phương pháp thay thế liên hoàn xác định được từng nhân tố ảnh hưởng đến đối tượng phân tích. Nhược điểm : Các nhân tố đều phải có quan hệ với nhau theo dạng tích số hoặc thương số, mỗi nhân tố đều có quan hệ tuyến tính với chỉ tiêu phân tích. Khi xác định đến nhân tố nào, ta phải giả định các nhân tố đó không thay đổi (cố định ở kỳ gốc khi nhân tố đó chưa được xác định). Nhưng trong thực tế các nhân tố luôn biến động. Việc sắp xếp trật tự các nhân tố từ lượng đến chất, trong nhiều trường hợp để phân loại nhân tố nào là chất thì không đơn giản. Nếu phân tích sai thì việc sắp xếp và kết quả tính toán các nhân tố cho ta kết quả không chính xác. 3.1.3 Phương pháp số chênh lệch Phương pháp tính số chênh lệch : Là một dạng đặc biệt của phương pháp thay thế liên hoàn nhằm phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động của các chỉ tiêu kinh tế. Vì là một dạng đặc biệt của phương pháp thay thế liên hoàn nên phương pháp tính số chênh lệch tôn trọng đầy đủ nội dung các bước tiến hành của phương pháp liên hoàn. Chúng chỉ khác ở chỗ là khi xác định các nhân tố đơn giản hơn, chỉ việc nhóm các số hạng và tính chênh lệch các nhân tố sẽ cho ta mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích. Như vậy phương pháp số chênh lệch chỉ áp dụng trong trường hợp các nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu bằng thương số và tích số. 3.1.4 Phương pháp liên hệ cân đối Phương pháp liên hệ cân đối cũng là phương pháp dùng để phân tích mức độ ảnh hưởng của các nhân tố mà giữa chúng sẵn có mối quan hệ cân đối và chúng là những nhân tố độc lập. Một lượng thay đổi trong mỗi nhân tố sẽ làm thay đổi trong chỉ tiêu phân tích đúng một lượng tương ứng. Những liên hệ cân đối thường gặp trong phân tích như : tài sản và nguồn vốn, cân đối hàng tồn kho, đẳng thức quá trình kinh doanh, nhu cầu vốn và sử dụng vốn... 3.1.5 Phương pháp chi tiết Chi tiết theo bộ phận, thời gian, địa điểm. Trong phân tích chi phí sản xuất chỉ tiêu chi phí thường được chi tiết theo các khoản mục chi phí. 3.1.6 Phương pháp dùng biểu mẫu Biểu mẫu trong phân tích kinh tế nói chung và phân tích chi phí sản xuất nói riêng được thiết lập theo các dòng, các cột, trong đó ghi chép đầy đủ các khoản mục các chỉ tiêu, các số hiệu của phân tích. 3.2 Phương pháp tính giá thành sản phẩm 3.2.1 Phương pháp tính giá thành giản đơn Phương pháp giản đơn thích hợp với các doanh nghiệp sản xuất có quy trình công nghệ sản xuất giản đơn, khép kín từ khi đưa nguyên vật liệu vào cho tới khi hoàn thành sản phẩm, mặt hàng sản phẩm ít, khối lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn, kỳ tính giá thành phù hợp với kỳ báo cáo. Theo phương pháp này giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí sản xuất đã tập hợp được trong kỳ, chi phí của sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ. Công thức tính : Tổng giá thành sản phẩm = Chi phí của sản phẩm dở dang đầu kỳ + Chi phí sản xuất trong kỳ - Chi phí của sản phẩm dở dang cuối kỳ Giá thành đơn vị sản phẩm = Tổng giá thành sản phẩm Khối lượng sản phẩm hoàn thành 3.2.2 Phương pháp tính giá thành phân bước Phương pháp này thích hợp với các doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản xuất phức tạp kiểu liên tục, sản phẩm phải qua nhiều giai đoạn (phân xưởng) chế biến liên tục kế tiếp nhau, nửa thành phẩm giai đoạn trước là đối tượng tiếp tục sản xuất ở giai đoạn sau. Trong trường hợp này đối tượng tính giá thành có thể là thành phẩm. Do đó có sự khác nhau về đối tượng tính giá thành nên phương pháp này có 2 phương án như sau: Phương án tính giá thành phân bước có tính giá thành nửa thành phẩm Giai đoạn 1 Giai đoạn 2 Giai đoạn n Giá thành nửa thành phẩm giai đoạn (n-1) chuyển sang Giá thành nửa thành phẩm giai đoạn 1 chuyển sang Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp + + + Chi phí sản xuất khác ở giai đoạn n Chi phí sản xuất khác ở giai đoạn 2 Chi phí sản xuất khác ở giai đoạn 1 Tổng giá thành và giá thành đơn vị nửa thành phẩm ở giai đoạn 2 Tổng giá thành và giá thành đơn vị nửa thành phẩm ở giai đoạn 1 Tổng giá thành và giá thành đơn vị của thành phẩm Trong đó : Giá thành nửa thành phẩm giai đoạn i = Giá thành NTP giai đoạn i-1 chuyển sang + CPXS dở dang đầu kỳ giai đoạn i + CPSX phát sinh trong kỳ giai đoạn i - CPSX dở dang cuối kỳ giai đoạn i Việc kết chuyển tuần tự chi phí từ giai đoạn trước sang giai đoạn sau có thể theo số tổng hợp hoặc theo từng khoản mục giá thành. Phương án tính giá thành phân bước không tính giá thành nửa thành phẩm Chi phí sản xuất giai đoạn n Giai đoạn 1 Giai đoạn 2 Giai đoạn n Chi phí sản xuất giai đoạn 1 Chi phí sản xuất của giai đoạn 2 trong thành phẩm Chi phí sản xuất của giai đoạn 1 trong thành phẩm Chi phí sản xuất giai đoạn 2 Chi phí sản xuất của giai đoạn n trong thành phẩm Giá thành thành phẩm Công thức tính đối với chi phí sản xuất thành phẩm Đối với chi phí bỏ vào lần đầu của quá trình sản xuất : CPSX giai đoạn i có trong thành phẩm = CPSX dở dang ĐK giai đoạn i + CPSX phát sinh giai đoạn i * Số lượng thành phẩm Số lượng NTP (TP) hoàn thành giai đoạn i + Số lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ giai đoạn i Đối với chi phí bỏ dần trong quá trình sản xuất : CPSX giai đoạn i có trong thành phẩm = CPSX dở dang ĐK giai đoạn i + CPSX phát sinh giai đoạn i * Số lượng thành phẩm hoàn thành ở giai đoạn cuối Số lượng NTP (TP) hoàn thành giai đoạn i + Số lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ giai đoạn i đã tính đổi Tính tổng giá thành thành phẩm hoàn thành ở giai đoạn cuối cùng theo từng khoản mục phí theo công thức : Tổng giá thành TP hoàn thành ở giai đoạn cuối cùng = Ci Trong đó : Ci : Chi phí sản xuất giai đoạn i có trong thành phẩm i : Số giai công nghệ sản xuất (i = ) Các biện pháp chủ yếu nhằm tiết kiệm chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp ý nghĩa của việc tiết kiệm chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung phải chịu tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế đặc biệt là quy luật cạnh tranh. Vì vậy, việc tiết kiệm chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp là một trong những nhiệm vụ chủ yếu để doanh nghiệp có thể đứng vững trên thị trường. ý nghĩa quan trọng của việc tiết kiệm chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm được thể hiện ở các mặt: Tiết kiệm chi phí kinh doanh trong phạm vi từng doanh nghiệp là điều kiện cần thiết để doanh nghiệp hạ thấp giá thành sản phẩm hàng hóa, tăng sức cạnh tranh trên thị trường, hàng hóa tiêu thụ được nhiều hơn làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp tăng lên, các quỹ doanh nghiệp ngày càng được mở rộng. Vì có thu nhập và lợi nhuận, doanh nghiệp sẽ có điều kiện để nâng mức tiền lương, tiền thưởng cho cán bộ công nhân viên chức. Có thu nhập ổn định đời sống vật chất và tinh thần của công nhân viên ngày càng được đảm bảo, điều kiện lao động ngày càng được cải thiện giúp họ yên tâm tích cực vươn lên trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt khác tiết kiệm chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm cũng có nghĩa là doanh nghiệp có thể tận dụng công suất máy móc thiết bị, năng lực của tài sản cố định nên đã tăng khối lượng sản xuất, giảm bớt chi phí khấu hao tài sản cố định trên mỗi đơn vị sản phẩm. Do đó có thể nói tiết kiệm chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể sản xuất nhiều sản phẩm hơn mà không cần phải tăng thêm vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Tiết kiệm chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm trong phạm vi cả nước là nguồn vốn quan trọng để mở rộng tái sản xuất xã hội. Trong điều kiện giá cả được ổn định, giá thành sản phẩm càng hạ thì tích luỹ tiền tệ càng tăng và dẫn đến nguồn vốn để mở rộng tái sản xuất càng nhiều. Điều đó giúp doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước, tạo dựng vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Tiết kiệm chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp còn góp phần hạ thấp giá bán lẻ hàng tiêu dùng, từ đó cải thiện đời sống của nhân dân. Tiết kiệm chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm có thể giảm bớt được nhu cầu vốn lưu động và tiết kiệm vốn cố định. Vốn lưu động của doanh nghiệp chiếm dùng nhiều hay ít phụ thuộc vào các nhân tố như : quy mô sản xuất lớn hay nhỏ; quá trình cung cấp sản xuất và tiêu thụ sản phẩm dài hay ngắn. Vì vậy nếu các nhân tố trên không thay đổi thì giá thành sản phẩm càng hạ, vốn lưu động chiếm dùng càng ít. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp Các doanh nghiệp luôn tồn tại trong một môi trường kinh doanh nhất định, sự thành công hay thất bại luôn phụ thuộc vào môi trường này. Môi trường kinh doanh của một doanh nghiệp là một tập hợp bao gồm tất cả các yếu tố, các mối quan hệ bên trong cũng như bên ngoài của doanh nghiệp tác động qua lại lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các yếu tố môi trường kinh doanh vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan luôn vận động, tác động một cách trực tiếp, gián tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp. 2.1 Nhóm các nhân tố chủ quan thuộc môi trường bên trong doanh nghiệp 2.1.1 Nhân tố công nghệ và kỹ thuật khoa học Có thể hiểu công nghệ là tổng hợp các thiết bị kỹ thuật, kỹ năng, phương pháp được dùng để chuyển hóa các nguồn lực thành một loại sản phẩm nào đó phục vụ cho nhu cầu xã hội. Việc ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất là một nhân tố cực kỳ quan trọng cho phép các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí kinh doanh, hạ thấp giá thành sản phẩm và thành công trong kinh doanh. Nhất là trong điều kiện hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, các máy móc thiết bị được sử dụng vào sản xuất hết sức hiện đại, tinh vi, thay thế nhiều lao động nặng nhọc của con người, thay đổi nhiều điều kiện cơ bản của sản xuất như việc tiêu hao nguyên vật liệu để sản xuất ra sản phẩm ngày một ít, nhiều loại vật liệu mới ra đời, lượng lao động dùng vào sản xuất cũng giảm bớt do áp dụng tự động hóa, công nghệ mới... Do vậy, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là tùy theo điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp mà đón bắt thời cơ, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm. 2.1.2 Nhân tố tổ chức lao động và con người Tổ chức lao động là nhân tố rất quan trọng để nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp nhất là đối với các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong sản xuất. Việc tổ chức lao động khoa học sẽ tạo ra sự kết hợp các yếu tố sản xuất một cách hợp lý, loại trừ được tình trạng lãng phí lao động, có tác dụng lớn thúc đẩy việc nâng cao năng suất lao động và hạ thấp giá thành. Ngoài ra, trong việc tổ chức quản lý lao động của một doanh nghiệp, để nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm, doanh nghiệp còn cần biết sử dụng "yếu tố con người". Bởi con người vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế xã hội. Bên cạnh đó doanh nghiệp còn phải biết khơi dậy tiềm năng trong mỗi con người làm cho họ gắn bó và cống hiến tài năng cho doanh nghiệp. Điều đó tạo ra một khả năng to lớn để nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Điều đó cũng đòi hỏi người quản lý doanh nghiệp phải biết bồi dưỡng trình độ cho công nhân, nhân viên, quan tâm đến đời sống, điều kiện làm việc của mỗi người trong doanh nghiệp, biết khen thưởng vật chất và tinh thần một cách thoả đáng và tôn trọng con người. 2.1.3 Nhân tố tổ chức quản lý sản xuất và tài chính Tổ chức tốt sản xuất kinh doanh và quản lý tài chính tác động mạnh mẽ đến việc hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Trước hết, tổ chức quản lý sản xuất đạt trình độ cao có thể giúp cho doanh nghiệp xác định được mức sản xuất tối ưu và phương án sản xuất tối ưu làm cho giá thành sản phẩm hạ xuống. Nhờ vào việc bố trí các khâu sản xuất hợp lý có thể hạn chế sự lãng phí về sử dụng nguyên vật liệu, hạ thấp tỷ lệ phế phẩm, chi phí về ngừng sản xuất. Vai trò của tài chính ngày càng tăng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp và tác động của nó đối với việc tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm và tăng lợi nhuận ngày càng mạnh mẽ. Tổ chức sử dụng vốn hợp lý, đáp ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu cho việc mua sắm vật tư để tránh được những tổn thất cho sản xuất như việc ngừng sản xuất do thiếu vật tư, hàng hoá... Đồng thời thông quan việc tổ chức sử dụng vốn, kiểm tra được tình hình dự trữ vật tư, tồn kho thành phẩm, từ đó phát hiện ngăn ngừa kịp thời tránh tình trạng ứ đọng, mất mát, hao phí vật tư, sản phẩm... Tất cả sự tác động trên đều làm giảm bớt chi phí sản xuất, góp phần tích cực hạ giá thành sản phẩm. 2.1.4 Nhân tố thông tin trong doanh nghiệp Ngày nay sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học kỹ thuật đã mang lại sự thay đổi lớn trong các lĩnh vực sản xuất, trong đó công nghệ thông tin đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nhờ có công nghệ thông tin mà mọi thông tin về mọi lĩnh vực được truyền tải và cập nhật ngày càng nhanh hơn giúp cho các doanh nghiệp thích ứng linh hoạt đối với sự thay đổi của thị trường. Trong cơ chế thị trường hiện nay, khi mà sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp diễn ra ngày càng gay gắt đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải luôn coi trọng yếu tố thông tin và coi đó là yếu tố quyết định đến thành bại của doanh nghiệp nhờ đó mà doanh nghiệp có thể đi tắt đón đầu. Điều này đòi hỏi thông tin được cung cấp phải chính xác thường xuyên và liên tục (về nhu cầu thị trường hàng hoá, về sự thay đổi các chính sách Nhà nước, tình hình giá cả thị trường trong và ngoài nước...) nhờ đó mà doanh nghiệp có các biện pháp thích ứng với sự thay đổi đó. Một môi trường thông tin lành mạnh, hoàn hảo trong doanh nghiệp phải đảm bảo các yêu cầu về tính chính xác, kịp thời, đầy đủ, tổng hợp và có hệ thống. Vì vậy mà thông tin được coi là hàng hóa, là đối tượng kinh doanh trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Do đó việc ứng dụng công nghệ thông tin trong doanh nghiệp là rất cần thiết và nó cũng là một trong những yếu tố góp phần tiết kiệm chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm. 2.2 Các nhóm nhân tố khách quan thuộc môi trường bên ngoài doanh nghiệp Môi trường kinh doanh bên ngoài của doanh nghiệp là môi trường bao gồm các yếu tố nằm hoàn toàn bên ngoài doanh nghiệp nhưng có tác động ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh bên ngoài của doanh nghiệp luôn tồn tại một cách khách quan do vậy mà doanh nghiệp khó có thể kiểm soát hết được. 2.2.1 Nhân tố môi trường chính trị, pháp luật : Môi trường chính trị pháp luật chi phối mạnh mẽ tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Sự ổn định của chính trị được xác định là một trong những tiền đề quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Sự thay đổi của môi trường chính trị có thể có lợi đối với một nhóm các doanh nghiệp khác và ngược lại. Một hệ thống pháp luật hoàn thiện không thiên vị là một trong những nền tảng để các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định. Mức độ hoàn thiện, sự thay đổi và thực thi của pháp luật trong nền kinh tế có ảnh hưởng đến việc hoạch định và tổ chức thực hiện chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường này có tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bởi vì môi trường pháp luật ảnh hưởng tới mặt hàng sản xuất, ngành nghề, phương thức kinh doanh của doanh nghiệp... Không những thế nó còn tác động đến chi phí kinh doanh của doanh nghiệp cũng như chi phí lưu thông, chi phí vận chuyển, mức độ về thuế... đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu còn bị ảnh hưởng bởi các chính sách thương mại quốc tế, hạn ngạch do Nhà nước giao cho, luật bảo hộ cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh. Do đó để thành công trong kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm hiểu luật và thực thi đúng theo luật. Các doanh nghiệp phải biết phân tích, dự đoán trước được xu hướng thay đổi của các chính sách pháp luật như sự ổn định về chính trị, đường lối ngoại giao, sự cân bằng các chính sách Nhà nước, vai trò kinh tế của Đảng và Chính phủ, sự điều tiết và khuynh hướng can thiệp của Chính phủ vào đời sống kinh tế, sự phát triển, các quyết định bảo vệ người tiêu dùng, hệ thống pháp luật, sự hoàn thiện và hiệu lực thi hành chúng. 2.2.2 Môi trường tự nhiên và cơ sở hạ tầng Môi trường tự nhiên và cơ sở hạ tầng luôn là mối đe dọa tiềm năng đối với các doanh nghiệp bao gồm các yếu tố : Nhân tố thời tiết khí hậu, mùa vụ : Các nhân tố này ảnh hưởng rất lớn đến quy trình công nghệ, tiến độ thực hiện kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng mang tính thời vụ. Nhân tố tài nguyên thiên nhiên : Nhân tố này chủ yếu ảnh hưởng đến doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên, ngoài ra các doanh nghiệp cần đến những nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu liên quan cũng bị ảnh hưởng. Nhân tố địa lý : tác động đến việc giao dịch, vận chuyển mua bán... các nhân tố này tác động thông qua sự tác động lên các chi phí tương ứng. 2.2.3 Đối thủ cạnh tranh Đối thủ cạnh tranh là các doanh nghiệp có mặt hàng giống nhau như mặt hàng của doanh nghiệp hoặc các mặt hàng có thể thay thế lẫn nhau. Việc xuất hiện càng nhiều đối thủ cạnh tranh sẽ gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong vấn đề tiêu thụ sản phẩm và khách hàng. Tuy nhiên, cạnh tranh là động lực thúc đẩy sự phát triển cả nền kinh tế thị trường với nguyên tắc doanh nghiệp nào có sản phẩm tốt hơn, giá rẻ hơn, sản phẩm có uy tín chất lượng cao thì sẽ có được nhiều khách hàng hơn so với các doanh nghiệp khác. Nhờ có cạnh tranh mà doanh nghiệp luôn không ngừng tự hoàn thiện và vượt lên đối thủ cạnh tranh. Các biện pháp nhằm tiết kiệm chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp Tuỳ thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh và tình hình thực tế của từng doanh nghiệp mà mỗi doanh nghiệp có thể đưa ra các biện pháp khác nhau nhằm tiết kiệm chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm. Song qua việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm chúng ta có thể đưa ra một số biện pháp nhằm tiết kiệm chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp : 3.1 Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường Thị trường là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát triển của bất cứ một doanh nghiệp nào. Nó vừa tạo điều kiện phát triển cho các doanh nghiệp, vừa loại bỏ đào thải các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Để doanh nghiệp có thể tồn tại trên thị trường thì sản phẩm của doanh nghiệp phải được thị trường chấp nhận, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Song song với sự phát triển của xã hội thì nhu cầu thị hiếu của con người cũng thay đổi. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải thường xuyên nghiên cứu thị trường nhằm đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Nhờ việc nắm bắt tốt nhu cầu thị trường thông qua nghiên cứu thị trường đã góp phần trực tiếp tiết kiệm chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm. Hơn nữa làm tốt công tác nghiên cứu thị trường còn tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. 3.2 Nâng cao năng suất lao động Năng suất lao động làm cho số giờ công tiêu hao để sản xuất mỗi đơn vị sản phẩm giảm bớt hoặc làm cho số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng thêm. Kết quả của việc nâng cao năng suất lao động làm cho chi phí về tiền lương của công nhân sản xuất và một số khoản chi phí cố định khác trong giá thành sản phẩm được hạ thấp. Nhưng sau khi năng suất lao động tăng lên, chi phí tiền lương trong mỗi đơn vị sản phẩm hạ thấp nhiều hay ít còn phụ thuộc vào chênh lệch giữa tốc độ tăng năng suất lao động và tốc độ tăng tiền lương bình quân. Vì vậy, khi xây dựng kế hoạch và quản lý quỹ tiền lương phải quán triệt nguyên tắc: tốc độ tăng năng suất lao động phải vượt quá tốc độ tăng tiền lương sao cho việc tăng năng suất lao động một phần dùng để tăng thêm tiền lương, nâng cao mức sống cho công nhân viên chức trong doanh nghiệp, phần khác để tăng thêm lợi nhuận của doanh nghiệp, đảm bảo sản xuất phát triển. Muốn không ngừng nâng cao năng suất lao động để giảm chi phí và hạ giá thành sản phẩm, doanh nghiệp phải nhanh chóng đón nhận sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, áp dụng những thành tựu về khoa học và công nghệ mới vào sản xuất. Tổ chức lao động khoa học để tránh lãng phí sức lao động và máy móc thiết bị, động viên sức sáng tạo của con người ngày càng cống hiến trí tuệ cho sự giàu có của doanh nghiệp. Tổ chức quản lý lao động tốt như: chăm lo công tác bảo hộ lao động, cải thiện điều kiện lao động, nâng cao trình độ văn hóa kỹ thuật cho công nhân viên chức, thực hiện chế độ tiền lương và tiền thưởng hợp lý sẽ tạo khả năng để người lao động phát huy sáng kiến, cống hiến sức lực và tài năng của mình để nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm. 3.3 Tiết kiệm nguyên vật liệu tiêu hao Nguyên liệu vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm, thường vào khoảng 60% - 70%. Bởi vậy phấn đấu tiết kiệm nguyên liệu vật liệu tiêu hao có ý nghĩa quan trọng đối với việc giảm chi phí và hạ giá thành sản phẩm. Muốn tiết kiệm nguyên liệu, vật liệu tiêu hao, doanh nghiệp phải xây dựng định mức tiêu hao tiên tiến và thực hiện để khống chế số lượng tiêu hao, cải tiến kỹ thuật sản xuất và thiết kế sản phẩm nhằm giảm bớt số lượng tiêu hao cho mỗi đơn vị sản phẩm, sử dụng vật liệu thay thế và tận dụng phế liệu phế phẩm, cải tiến công tác mua, bảo quản... để vừa giảm hư hỏng kém phẩm chất vừa giảm được chi phí mua. 3.4 Tận dụng công suất máy móc thiết bị : Khi sử dụng phải làm cho các loại máy móc thiết bị sản xuất phát huy hết khả năng hiện có của chúng để sản xuất được nhiều hơn, để chi phí khấu hao và một số chi phí cố định khác giảm bớt một cách tương ứng trong một đơn vị sản phẩm. Muốn tận dụng công suất máy móc thiết bị phải lập và chấp hành đúng đắn định mức sử dụng thiết bị, chấp hành nghiêm chỉnh chế độ bảo quản, kiểm tra, sửa chữa thường xuyên, tổ chức sản xuất và tổ chức lao động hợp lý, cân đối năng lực sản xuất trong dây chuyền sản xuất, cải tiến kỹ thuật để nâng cao năng lực sản xuất của thiết bị. 3.5 Giảm bớt những tổn thất trong sản xuất Những tổn thất trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp là những chi phí về sản phẩm hỏng và chi phí ngừng sản xuất. Các khoản chi phí này không tạo thành giá trị của sản phẩm nhưng nếu phát sinh trong sản xuất đều dẫn đến lãng phí về nhân lực, vật lực và giá thành sản phẩm tăng cao. Vì vậy, doanh nghiệp phải cố gắng giảm bớt những tổn thất về mặt này. Muốn giảm bớt sản phẩm hỏng phải không ngừng nâng cao kỹ thuật sản xuất công nghệ và phương pháp thao tác, nâng cao ý thức trách nhiệm trong sản xuất, vật liệu và máy móc thiết bị dùng trong sản xuất phải đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, xây dựng và chấp hành nghiêm chỉnh chế độ kiểm tra chất lượng sản phẩm ở các công đoạn sản xuất, thực hiện chế độ trách nhiệm vật chất khi xảy ra sản phẩm hỏng. Muốn giảm bớt tình trạng ngừng sản xuất phải đảm bảo cung cấp nguyên liệu, vật liệu đều đặn, tuân thủ nghiêm ngặt chế độ kiểm tra và sửa chữa máy móc thiết bị đúng kế hoạch, tìm cách khắc phục tính chất thời vụ trong sản xuất. 3.6 Tiết kiệm chi phí quản lý hành chính Chi phí quản lý hành chính là chi phí cần thiết trong công tác tổ chức quản lý kinh doanh nhất là đối với doanh nghiệp có quy mô lớn. Nội dung của khoản chi phí này bao gồm tiền lương của cán bộ nhân viên quản lý, chi phí về văn phòng, bưu điện, tiếp tân... Vì vậy muốn tiết kiệm chi phí quản lý hành chính phải chấp hành nghiêm chỉnh dự toán chi về quản lý hành chính. Cần phải căn cứ vào đặc điểm từng khoản và tiêu chuẩn định mức để lập ra dự toán chi phí quản lý trong từng thời kỳ hoạt động. Khi dự toán chi phí được lập, các khoản chi phí phục vụ cho đối tượng quản lý chi phí nào thì các phòng ban liên quan phải lập và trực tiếp quản lý các khoản chi phí đó, có sự kiểm tra giám đốc của nhà quản lý tài chính. Mặt khác luôn phải cải tiến phương pháp làm việc để nâng cao hiệu suất công tác quản lý, giảm bớt số lượng nhân viên quản lý. Ngoài ra phấn đấu tăng năng suất lao động để tăng thêm sản lượng cũng là biện pháp quan trọng để giảm bớt chi phí quản lý hành chính. 3.7 Tổ chức tốt công tác quản lý tài chính doanh nghiệp Tổ chức tốt công tác quản lý tài chính doanh nghiệp là biện pháp hữu hiệu để tiết kiệm chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm cho doanh nghiệp. Tổ chức tốt công tác quản lý tài chính doanh nghiệp biểu hiện ở các mặt chủ yếu sau : Thứ nhất : Đảm bảo kịp thời và đầy đủ nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp trên cơ sở lựa chọn các phương thức kinh doanh thích hợp để khai thác, thu hút vốn. Thứ hai : Đảm bảo việc sử dụng vốn tự có, huy động vốn một cách tiết kiệm và hiệu quả để hạ thấp chi phí lãi tiền vay, tăng cường hiệu quả kinh tế và hạ giá thành sản phẩm. Thứ ba : Tổ chức tốt công tác quản lý tài chính doanh nghiệp nhằm đảm bảo việc giám đốc, phân tích, kiểm tra chặt chẽ các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đặc biệt là việc kiểm tra các chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm bằng cách lập kế hoạch chi phí và kế hoạch giá thành sản phẩm. Sau đó tổ chức thực hiện các kế hoạch đã lập và tiến hành kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch bằng các biện pháp kiểm tra tài chính như : Kiểm tra tài chính đối với các khoản chi phí nguyê._. cho 1 đơn vị sản phẩm từng loại để tính tiền lương kế hoạch cho từng loại sản phẩm được sản xuất ra trong tháng. Sau đó căn cứ vào tổng tiền lương phải trả cho công nhân sản xuất trong tháng và tổng tiền lương kế hoạch để xác định hệ số phân bổ chi phí nhân công trực tiếp. Hệ số phân bổ (H) = Tổng chi phí NCTT phát sinh trong kỳ của từng XN Tổng chi phí NCTT kế hoạch của từng XN Sau đó tiến hành phân bổ chi phí nhân công trực tiếp cho từng mặt hàng của từng xí nghiệp. Chi phí NCTT phân bổ cho từng mặt hàng = Hệ số phân bổ (H) * Chi phí NCTT kế hoạch cho từng mặt hàng Bảng 6 : Bảng phân bổ chi phí nhân công trực tiếp ở xí nghiệp vải mành Tháng 01 năm 2005 Đơn vị tính : đồng STT Mặt hàng Đơn vị Sản lượng nhập kho Đơn giá lương Lương kế hoạch Lương thực tế 1 Mành 840D/1 Kg 49.045,9 1.420 69.645.178 71.834.767 2 Mành 840D/2 Kg 44.368,6 3.085 145.750.851 150.333.141 3 Mành 1260 Kg 10.650,4 1.175 12.514.220 12.907.657 4 Bạt 840D/1*840D/1 Kg 3.958,2 7.445 29.468.799 30.395.274 ... ... ... ... ... ... Tổng cộng 108.606,6 257.379.048 265.470.839 (Nguồn số liệu : Phòng Kế toán tài chính công ty Dệt vải Công Nghiệp Hà Nội) Theo bảng trên ta có hệ số phân bổ H là : H = 265.470.839 / 259.379.048 = 1,031439199 Vậy chi phí tiền lương phân bổ cho từng mặt hàng : Mành 840D/1 = 49.045,9 * 1.420 * 1,031439199 = 71.834.767 đồng Mành 840D/2 = 44.368,6 * 3.285 * 145.750.851 = 150.333.141 đồng Các mặt hàng khác tương tự. Chi phí sản xuất chung : Chi phí sản xuất chung sau khi tập hợp được, kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm tiến hành phân bổ cho từng mặt hàng, mã hàng. Căn cứ vào định mức chi phí sản xuất chung cho từng đơn vị sản phẩm của từng mặt hàng và sản lượng nhập kho của mặt hàng đó để tính ra chi phí sản xuất chung cho từng mặt hàng ở từng phân xưởng, từng xí nghiệp. Cụ thể: H = Tổng chi phí SXC thực tế phát sinh trong kỳ của từng xí nghiệp Tổng chi phí sản xuất chung kế hoạch của từng xí nghiệp Chi phí SXC phân bổ = Hệ số phân bổ * Chi phí SXC kế hoạch cho từng mặt hàng (H) của từng mặt hàng Bảng 7 : Bảng phân bổ chi phí sản xuất chung ở xí nghiệp vải mành Tháng 01 năm 2005 Đơn vị tính : đồng STT Mặt hàng Đơn vị Sản lượng nhập kho Định mức phân bổ /1sp Chi phí SXC kế hoạch Chi phí SXC thực tế 1 Mành 840D/1 Kg 49.045,9 4.910 240.815.369 242.736.769 2 Mành 840D/2 Kg 44.368,6 5.192 230.369.771 232.207.990 3 Mành 1260 Kg 10.650,4 4.063 43.272.575 43.617.847 4 Bạt 840D/1*840D/1 Kg 3.958,2 8.465 33.506.163 33.773.509 ... ... ... ... ... ... Tổng cộng 108.606,6 547.963.878 552.336.115 (Nguồn số liệu : Phòng Kế toán tài chính công ty Dệt vải Công Nghiệp Hà Nội) Theo bảng trên ta có hệ số phân bổ H là : H = 552.336.115 = 1,007979061 547.963.878 Vậy chi phí sản xuất chung phân bổ cho từng mặt hàng : Mành 840D/1 = 49.045,9 * 4.910 * 1,007979061 = 242.736.769 đồng Mành 840D/2 = 44.368,6 * 5.192 * 1,007979061 = 232.207.990 đồng Các mặt hàng khác tương tự. Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp : Hai loại chi phí này không phân bổ riêng cho từng mặt hàng mà được tập hợp chung cho toàn công ty. Sau đó từ các bảng phân bổ nguyên vật liệu và công cụ dụng cụ, bảng phân bổ chi phí nhân công trực tiếp... kế toán tập hợp chi phí cho từng xí nghiệp. Đến cuối tháng kế toán căn cứ vào kết quả chi phí sản xuất đã được tập hợp, được phân bổ trên sổ tập hợp chi phí sản xuất và những tài liệu liên quan để lập bảng tính giá thành cho từng loại mặt hàng xí nghiệp vải mành, xí nghiệp vải bạt, xí nghiệp vải không dệt, xí nghiệp may. Công thức tính : Tổng giá thành sản xuất sản phẩm = Chi phí của sản phẩm dở dang đầu kỳ + Chi phí sản xuất trong kỳ - Chi phí của sản phẩm dở dang cuối kỳ Giá thành đơn vị sản phẩm = Tổng giá thành sản phẩm Khối lượng sản phẩm hoàn thành Ví dụ : Bảng tính giá thành vải mành 840D/1 (tháng 01 năm 2005) (bảng 8) Hiệu quả tình hình thực hiện chi phí kinh doanh và tính giá thành sản phẩm tại công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội Một trong những nhiệm vụ chủ yếu của công ty là tiến hành sản xuất kinh doanh các loại vải dùng trong công nghiệp, không ngừng nâng cao hiệu quả và mở rộng sản xuất, cung cấp ngày càng nhiều hàng hoá cho xã hội. Trong quá trình sản xuất, để đạt được kết quả cao nhất thì công ty phải khai thác và tận dụng năng lực sản xuất, ứng dụng thiết bị khoa học kỹ thuật, tiết kiệm chi phí, giảm giá thành sản phẩm. Trong điều kiện kinh tế hàng hoá nhiều thành phần để đảm bảo kinh doanh có hiệu quả và có lãi, trước hết đòi hỏi việc xây dựng kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp phải gắn với thị trường. Thị trường là môi trường hoạt động của doanh nghiệp, là các quyết định vấn đề doanh nghiệp sẽ làm cái gì? làm như thế nào? làm bao nhiêu? Bởi vậy sau mỗi kỳ kinh doanh cần thiết phải tiến hành xem xét hiệu quả mà doanh nghiệp đã thực hiện được, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm trong việc chỉ đạo, điều hành và quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bảng 9 : Hiệu quả thực hiện chi phí sản xuất kinh doanh tại công ty qua 2 năm 2003 - 2004 Đơn vị tính :1.000 đồng TT Các chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 So sánh Số tuyệt đối Tỷ lệ 1 Tổng doanh thu 112.587.432 127.267.166 14.679.734 13,04 2 Tổng chi phí 112.135.834 126.721.415 14.585.581 13.01 3 Tỷ suất chi phí (%) 99,599 99,571 - - 4 Mức độ tăng giảm TSCP(%) - - - -0,028 5 Tốc độ tăng giảm TSCP (%) - - - -0,028 6 Mức tiết kiệm (lãng phí) - - -3.563.480,65 - 7 Tổng lợi nhuận 451.598 525.751 74.153 16,42 8 Hệ số sinh lời của chi phí (%) 0,4030 0,415 0,012 2,98 (Nguồn số liệu : Phòng Kế toán tài chính công ty Dệt vải Công Nghiệp Hà Nội) Qua số liệu ở bảng 9 ta có nhận xét về hiệu quả sử dụng chi phí kinh doanh tại công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội như sau: Năm 2004 tổng doanh thu của công ty đạt được là 127.267.166 nghìn đồng tăng lên 14.679.734 nghìn đồng so với năm 2003 hay tương ứng với tốc độ tăng là 13,04%. Trong khi đó tổng chi phí kinh doanh của công ty đạt được năm 2003 là 112.135.834 nghìn đồng, năm 2004 là 126.721.415 nghìn đồng tăng hơn về số tuyệt đối là 14.585.581 nghìn đồng tương ứng với tốc độ tăng là 13,01%. Ta thấy doanh thu của công ty tăng lên, bên cạnh đó chi phí của công ty lại cũng tăng lên cũng là điều dễ hiểu. Bởi một công ty muốn mở rộng sản xuất kinh doanh thì cũng phải đầu tư thêm chi phí vào điều đó làm cho tổng chi phí kinh doanh năm 2004 của công ty tăng hơn so với năm 2003. Tuy nhiên, việc tăng thêm chi phí của công ty là hợp lý. Cụ thể, ta có thể nhận thấy tốc độ tăng của doanh thu vẫn lớn hơn (13,04 - 13,01 = 0,03 %) tốc độ tăng của chi phí. Với tốc độ tăng của chi phí nhỏ hơn tốc độ tăng của doanh thu thì tỷ suất chi phí kinh doanh năm 2003 (99,599%) cũng nhỏ hơn tỷ suất chi phí kinh doanh năm 2004 (99,571%) là 0,028%. Chứng tỏ cứ 1 đồng thu nhập doanh nghiệp đạt được trong năm 2003 thì mất 99,599 đồng chi phí còn trong năm 2004 cứ 1 đồng thu nhập doanh nghiệp đạt được thì doanh nghiệp chỉ mất có 99,571 đồng chi phí. Vì thế, công ty cũng đã tiết kiệm được một khoản tiền không nhỏ là 3.563.480,65 nghìn đồng. Do đó, công tác quản lý và sử dụng chi phí tại Công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội được đánh giá là tương đối tốt. Doanh thu của công ty tăng lên cũng đồng nghĩa với việc tăng thêm của lợi nhuận bởi doanh thu và lợi nhuận tỷ lệ thuận chiều với nhau. Lợi nhuận của công ty năm 2004 so với năm 2003 tăng thêm là 74.153 nghìn đồng tương ứng với tốc độ tăng của lợi nhuận là 16,42%. Tốc độ tăng của lợi nhuận tăng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng của chi phí kinh doanh. Do vậy hệ số sinh lời của chi phí năm 2004 cũng tăng lên thêm so với năm 2003. Trong năm 2003 hệ số sinh lời của chi phí là 0,4035 nó phản ánh cứ 100 đồng chi phí kinh doanh bỏ ra thì công ty thu được 0,403 đồng lợi nhuận. Trong năm 2004 thì hệ số sinh lời này là 0,4155 có nghĩa cứ 100 đồng chi phí kinh doanh bỏ ra công ty thu được 0,415 đồng lợi nhuận. Điều đó cho thấy khả năng kinh doanh của công ty là khá khả quan, doanh nghiệp cũng đã chú trọng đến công tác quản lý và sử dụng chi phí kinh doanh. Những phân tích ở trên dù chưa phản ánh hết hiệu quả thực hiện chi phí kinh doanh tại công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội nhưng cũng phần nào khẳng định được công tác quản lý chi phí của công ty trong 2 năm gần đây. Đánh giá chung về tình hình thực hiện chi phí kinh doanh và tính giá thành sản phẩm tại công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội Hoạt động sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp đều hướng tới mục đích cuối cùng là lợi nhuận. Để đạt được điều này mỗi doanh nghiệp có một bước đi khác nhau và sử dụng những biện pháp khác nhau. Song một trong những biện pháp cơ bản được nhiều doanh nghiệp quan tâm là không ngừng tiết kiệm chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm. Bởi chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế phản ánh chất lượng sản xuất kinh doanh và nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận. Việc giảm được chi phí kinh doanh trong khi đó doanh thu không đổi hoặc tăng lên thì lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được cũng sẽ tăng lên và ngược lại. Do đó, nhiều công ty đã rất chú trọng tới việc tiết kiệm chi phí kinh doanh để hạ giá thành sản phẩm nhằm tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Qua thời gian thực tập tìm hiểu thực tế tại công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội, em đã thấy được sự phát triển đi lên của công ty kể từ ngày thành lập cho đến nay. Xuất phát từ một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động theo cơ chế quản lý tập trung, sản xuất kinh doanh theo kế hoạch của Nhà nước giao. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp, công ty đã gặp không ít khó khăn. Trước sức ép của nền kinh tế thị trường, để có thể tồn tại và phát triển, ban lãnh đạo đã nhạy bén chủ động tìm hiểu thị trường, đầu tư trang thiết bị kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, công ty cũng đã quan tâm đến việc nâng cao trình độ và tay nghề cho cán bộ công nhân viên trong công ty. Mặt khác, công ty đã tăng cường công tác quản lý kinh tế, quản lý kinh doanh, đặc biệt là công tác quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm mà phòng tài chính - kế toán đảm nhận. Công tác tài chính kế toán của công ty cũng không ngừng được hoàn thiện, đáp ứng các yêu cầu sản xuất kinh doanh, đảm bảo tính thống nhất về phạm vi, phương pháp tính toán và các chỉ tiêu kinh tế giữa những bộ phận có liên quan. Đồng thời số liệu được phản ánh một cách trung thực, chính xác, rõ ràng tình hình hiện có và sự biến động của chi phí kinh doanh. Do đó về cơ bản việc tổ chức thực hiện chi phí kinh doanh ở công ty phù hợp với những điều kiện cụ thể của công ty, phù hợp với điều kiện chung của nền kinh tế thị trường hiện nay. Công tác quản lý giá thành ở công ty tương đối chặt chẽ. Với đặc thù sản xuất kinh doanh của mình công ty đã xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất cũng như đối tượng tính giá thành một cách phù hợp nhất. Việc tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được tiến hành đều đặn hàng tháng một cách hoàn chỉnh. Kỳ hạch toán chi phí sản xuất và kỳ tính giá thành sản phẩm được tính theo tháng là rất phù hợp với tình hình biến động của thị trường. Đặc biệt trong điều kiện sản xuất nhiều mặt hàng mà công ty vẫn thực hiện tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung cho từng loại sản phẩm để tính giá thành là cơ sở để công ty hạch toán kết quả sản xuất kinh doanh theo từng loại sản phẩm. Song bên cạnh những thành tích đạt được, công tác quản lý và thực hiện chi phí kinh doanh tại công ty vẫn không thể tránh khỏi một số hạn chế, thiếu xót xảy ra mà nếu khắc phục được thì việc kinh doanh của công ty sẽ đạt hiệu quả ngày càng cao : Mặc dù công ty đã có sự đầu tư về trang thiết bị kỹ thuật nhưng hiện tại số máy móc thiết bị mới đó không nhiều. Trong một số xí nghiệp vẫn còn tồn tại những máy móc lạc hậu so với quá trình phát triển của thế giới về khoa học kỹ thuật. Đối với những xí nghiệp được đầu tư trang thiết bị mới thì trình độ công nhân lao động trực tiếp không đồng đều, công nhân vẫn còn bị hạn chế trong việc vận hành để có thể tận dụng tối đa công suất của máy móc thiết bị. Do đó số máy móc này chưa hoạt động hết công suất gây ra sự lãng phí về chi phí cho việc vận hành dây chuyền sản xuất. Bên cạnh đó đối với những xí nghiệp chưa được đầu tư trang thiết bị mới thì năng suất lao động không cao. Chất lượng sản phẩm sản xuất ra của công ty không đồng đều, vẫn còn xảy ra tình trạng hàng hóa sau khi xuất đi rồi bị trả lại. Nguyên nhân do quy cách, chủng loại không đạt yêu cầu khách hàng... Điều đó làm ảnh hưởng đến chi phí vận chuyển hàng hóa, gây lãng phí chi phí mà về phía chủ quan của công ty có thể kiểm soát được. Mặt khác, trên thị trường hiện nay, khi chúng ta đang trong tiến trình đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới và chuẩn bị gia nhập tổ chức kinh tế WTO thì việc cạnh tranh là rất lớn. Đặc biệt là trong mấy năm gần đây chúng ta còn phải đối mặt với hàng dệt may của Trung Quốc. Bởi đó là một lợi thế cạnh tranh của Trung Quốc, giá nguyên vật liệu đầu vào của các loại sản phẩm này tại Trung Quốc rất rẻ kéo theo giá thành sản phẩm đầu ra cũng tương đối thấp. Trong khi đó nguyên vật liệu đầu vào của công ty Dệt vải công nghiệp Hà Nội phần nhiều là phải nhập khẩu từ nước ngoài về bởi thị trường trong nước không đủ đáp ứng nhu cầu đòi hỏi và phát triển. Vì thế giá đầu vào nguyên vật liệu của công ty cao hơn nhiều so với Trung Quốc. Vậy làm thế nào để sản phẩm đầu ra có sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước thì đó là bài toán mà các nhà kinh doanh luôn phải tìm phương án trả lời. Chương 3 Một số ý kiến đề xuất nhằm tiết kiệm chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm tại công ty Dệt vải Công Nghiệp Hà Nội Phương hướng mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh Để đạt được hiệu quả trong sản xuất kinh doanh thì bất kỳ một doanh nghiệp nào đều phải tìm ra cho mình một giải pháp thích hợp mà mục tiêu cuối cùng là làm tăng lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp mình. Nghĩa là trong doanh nghiệp cần sản xuất một loại sản phẩm gì? tiêu thụ thế nào? giá thành ra sao? có phù hợp với người tiêu dùng không? cho nên việc tìm ra được nguyên nhân để tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm là một trong những vấn đề không thể thiếu trong mỗi doanh nghiệp. Từ đó đề ra những phương hướng mục tiêu cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty nó như một cái đích để cho doanh nghiệp hướng tới. Mục tiêu về doanh thu Doanh thu là một trong các nhân tố quyết định đến quy mô của lợi nhuận. Chính vì vậy doanh nghiệp luôn phải có chiến lược để phát triển sản xuất kinh doanh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu nhằm tăng doanh thu giảm chi phí tăng lợi nhuận. Song để tăng doanh thu thì yếu tố quyết định không thể thiếu được là năng suất lao động. Trong những năm tới công ty sẽ có những chính sách đối với cán bộ công nhân viên của công ty để khuyến khích họ tích cực hơn nữa trong công việc như công ty sẽ có những khen thưởng về vật chất tinh thần cho những ai có thành tích tốt trong lao động. Cùng với sự phát triển về khoa học công nghệ, công ty cũng chú trọng và phát triển đội ngũ cán bộ trẻ. Để giúp cho đội ngũ cán bộ này được nâng cao trình độ, công ty đã gửi một số cán bộ đi học ở nước ngoài đồng thời đưa người có trình độ tương đối cao và đồng đều làm việc với các chuyên gia để thuận tiện cho việc chuyển giao công nghệ mới. Mục tiêu về lợi nhuận Lợi nhuận giữ vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì lợi nhuận được coi là đòn bẩy kinh tế đồng thời là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường thì điều quyết định lớn nhất là doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay không? Mức lợi nhuận mà công ty tạo ra là bao nhiêu? Lợi nhuận tác động trực tiếp đến các hoạt động, đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Do vậy công ty đã đề ra các giải pháp nhằm tăng lợi nhuận trong năm tới như sau : Quản lý chặt chẽ các khoản mục chi phí nhằm tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm xuống mức thấp nhất có thể để tiêu thụ được lượng hàng hóa tối ưu mà doanh nghiệp sản xuất ra đồng thời thu hút nhiều khách hàng, mở rộng thị trường hoạt động sản xuất kinh doanh. Mục tiêu mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và mở rộng thị trường Song song với việc tăng doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp trong thời gian tới thì doanh nghiệp cũng luôn có chủ trương về mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường. Mở rộng thị trường có vai trò quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm Hiện nay, phương thức bán hàng của Công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội chủ yếu qua hai kênh phân phối chính : Kênh trực tiếp : bán trực tiếp cho khách hàng tại công ty, hình thức này chiếm tỷ trọng chủ yếu 75% khối lượng sản phẩm tiêu thụ Kênh gián tiếp : tiêu thụ sản phẩm qua các đại lý trung gian. Công ty có 3 đại lý ở 3 miền : Miền Bắc (Công ty Thương mại Hải Trần - TP Hà Nội), miền Trung (Công ty TNHH Hồng Hà - TP Đà Nẵng), miền Nam (Công ty TNHH An Huy - Quận Bình Thạnh - TP Hồ Chí Minh). Trong môi trường cạnh tranh quyết liệt như hiện nay, việc đưa sản phẩm có uy tín chất lượng đến tận tay khách hàng một cách nhanh nhất, thuận tiện nhất với chi phí tiết kiệm nhất là một điều đáng được quan tâm hàng đầu. Để đáp ứng được điều này thì trong năm tới mục tiêu của công ty là không ngừng phát triển và hoàn thiện việc mở rộng sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường. Một số ý kiến đề xuất nhằm tiết kiệm chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, cùng với sự hoạt động kinh doanh của nhiều thành phần kinh tế, chính sách mở cửa của nền kinh tế đã khơi đậy tiềm năng và sức sáng tạo của các doanh nghiệp trong nước, đưa thị trường trong nước tiếp cận với thị trường khu vực và thế giới đòi hỏi các doanh nghiệp không ngừng đổi mới và vươn lên, không bao giờ được phép thoả mãn với kết quả đã đạt được, thực sự năng động tự chủ và sáng tạo trong kinh doanh đảm bảo kinh doanh có lãi, phát triển rộng về quy mô, tăng về chiều sâu, tạo nên vị thế vững chắc của doanh nghiệp trên thị trường. Cùng với các biện pháp phát triển doanh nghiệp, công ty phải luôn hoàn thiện các hoạt động kinh doanh diễn ra trong doanh nghiệp, thúc đẩy việc kinh doanh có hiệu quả cao thu được lợi nhuận tối đa. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận nhưng trong đó nhân tố cơ bản tác động đến lợi nhuận của công ty đó là chỉ tiêu chi phí kinh doanh. Tiết kiệm chi phí kinh doanh là biện pháp quan trọng trong việc tăng lợi nhuận của công ty và là cơ sở để hạ giá thành sản phẩm. Trên cơ sở những kiến thức đã được trang bị ở trường và tình hình thực tế về công tác quản lý chi phí, đặc điểm tổ chức quản lý kinh doanh tại công ty Dệt vải Công Nghiệp Hà Nội, em xin đưa ra một số ý kiến về vấn đề tiết kiệm chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm tại công ty. Biện pháp tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Trong quá trình sản xuất của các doanh nghiệp thì chi phí về nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng rất lớn trong giá thành sản phẩm. Vì vậy, khi tiết kiệm chi phí nguyên nhiên vật liệu, vật tư thì giá thành cũng giảm đáng kể. Việc giảm bớt chi phí nguyên vật liệu nhưng vẫn đảm bảo chất lượng theo thiết bị kỹ thuật. Cần cải tạo quy trình công nghệ, sử dụng vật liệu thay thế, giảm tỷ lệ phế phẩm, giảm chi phí mua sắm, vận chuyển bảo quản và cấp phát nguyên vật liệu. Để tính toán ảnh hưởng của các biện pháp này ta cần xác định tỷ lệ giảm mức tiêu hao nguyên vật liệu cho một đơn vị sản phẩm và giá thành kế hoạch của từng loại nguyên vật liệu. Ta có thể dùng phương pháp chỉ số để tính toán ảnh hưởng của những biện pháp tiết kiệm nguyên vật liệu, năng lượng để tỷ lệ hóa giá thành sản phẩm trong kỳ kế hoạch theo công thức sau: Chỉ số hạ giá thành do giảm chi phí NVL = Chỉ số định mức tiêu hao NVL * Chỉ số giá cả kỳ kế hoạch của NVL * Chỉ số chi phí NVL trong giá thành kỳ báo cáo Theo công thức trên thì chỉ số hạ giá thành sản phẩm do 3 yếu tố tác động : Chỉ số định mức tiêu hao nguyên vật liệu trong kỳ kế hoạch so với kỳ báo cáo. Chỉ số giá cả nguyên vật liệu. Chỉ số chi phí NVL trong giá thành. Giảm chi phí lưu thông và thu mua bằng cách sử dụng phương tiện vận chuyển hợp lý. Tính lượng đặt hàng tối ưu để tránh hao phí trong quá trình vận chuyển và bảo quản. Lượng đặt hàng tối ưu được xác định: Số lần đặt hàng = Nhu cầu vật liệu hàng hóa dự trữ trong kỳ * Chi phí cố định cho một lần đặt hàng Chi phí bảo quản cho một đơn vị hàng hóa vật liệu Biện pháp giảm chi phí nhân công trực tiếp Để giảm chi phí này trong giá thành sản phẩm, cần tăng nhanh năng suất lao động hay nói cách khác tăng năng suất lao động góp phần tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả của người lao động, hạ thấp giá thành. Tuy nhiên việc tăng năng suất lao động để tiết kiệm chi phí tiền lương trên một đơn vị sản phẩm phải đảm bảo tốc độ tăng năng suất lao động nhanh hơn tốc độ tăng tiền lương, tiền công bình quân và tốc độ tăng doanh thu lớn hơn tốc độ tăng thu nhập. Như vậy, để thực hiện được điều này, công ty cần phải : áp dụng biện pháp làm giảm lượng thời gian hao phí lao động sản xuất cho một đơn vị sản phẩm như : + Đẩy mạnh trang thiết bị kỹ thuật, cải tiến máy móc thiết bị ở từng xí nghiệp. + Đảm bảo cung cấp nguyên vật liệu bán thành phẩm kịp thời. + Cải tiến quy trình công nghệ, áp dụng kỹ thuật mới, cải tiến tổ chức sản xuất, nâng cao trình độ cơ giới hóa, hoàn thiện định mức lao động, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, bố trí dây chuyền công nghệ sản xuất khép kín tránh để thời gian gián đoạn do phải chờ việc nhằm rút ngắn chu kỳ sản xuất. áp dụng các biện pháp làm tăng thời gian công tác có ích trong ngày như: + Tổ chức và phục vụ tốt nơi làm việc ít mệt mỏi, an toàn, thuận lợi đồng thời giảm bớt các công tác và thời gian vô ích do phải đi tìm kiếm dụng cụ, nguyên vật liệu. + áp dụng các hình thức tiền lương, tiền thưởng, khuyến khích vật chất để kích thích lao động, + Tăng cường giáo dục như đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ thuật của công nhân, + Tăng cường kỷ luật lao động bằng cách kiểm tra tình hình chấp hành kỷ luật lao động. áp dụng các biện pháp làm tăng năng suất lao động bằng cách xác định cơ cấu lao động trực tiếp và gián tiếp một cách hợp lý. Tốc độ tăng của lao động gián tiếp chậm hơn tốc độ tăng của lao động trực tiếp và mức độ tăng phải phù hợp với tốc độ tăng của doanh thu. Tốc độ tăng năng suất lao động nhanh hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân sẽ cho phép giảm chi phí tiền lương trong giá thành sản phẩm. Do đó khoản mục tiền lương sẽ giảm theo tỷ lệ với tỷ trọng tiền lương trong giá thành và ảnh hưởng của việc giảm chi phí tiền lương được tính theo công thức: Chỉ số giá thành do tăng năng suất lao động = Chỉ số tiền lương bình quân * Chỉ số chi phí tiền lương trong giá thành Chỉ số năng suất lao động Công thức này cho thấy chỉ số hạ giá thành sản phẩm do 3 yếu tố là: tiền lương bình quân, năng suất lao động và tỷ trọng chi phí tiền lương trong giá thành sản phẩm. Biện pháp tiết kiệm chi phí sản xuất chung Do chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố nên hướng giải pháp này khá đa dạng và phong phú, đối với từng doanh nghiệp cụ thể ảnh hưởng của các nhân tố cũng hết sức cụ thể và các giải pháp đề ra cũng uyển chuyển đối với từng doanh nghiệp. Để giảm loại chi phí này trong giá thành sản phẩm công ty có thể áp dụng những biện pháp hữu hiệu nhằm tăng tổng sản lượng như : Tăng năng suất lao động, sử dụng hết công suất máy móc thiết bị. Ngoài ra cũng cần có những biện pháp để giảm chi phí sản xuất chung như : Đối với chi phí công cụ dụng cụ : Nên rà soát lại xem mình đã mua sắm, trang bị công cụ dụng cụ như thế nào. Trên cơ sở đó lập kế hoạch mua sắm, chỉ mua những công cụ dụng cụ cần thiết phục vụ cho nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Đối với chi phí sửa chữa tài sản cố định : Công ty cần phải thực hiện theo đúng thứ tự ưu tiên về đầu tư, thanh lý kịp thời những máy móc, thiết bị không thể sửa chữa được hoặc xét thấy việc sửa chữa không đem lại hiệu quả kinh tế cao. Đối với chi phí văn phòng và chi phí khác : muốn giảm được chi phí này công ty cần phải tiết kiệm hơn nữa như chi phí điện thoại, điện, nước, các chi phí tiếp tân, công tác phí, phải tăng cường công tác quản lý, sử dụng đúng mục đích công việc. Biện pháp tiết kiệm các chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp Các chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp nhìn chung tương tự giống với các khoản chi phí sản xuất chung vì vậy hướng giải pháp tương đối giống nhau. Thông thường, khoản mục chi phí này tương đối khó đưa ra giải pháp nhằm hạ giá thành sản xuất của doanh nghiệp thì hướng giải pháp ở đây tập trung giải quyết vấn đề về giá thành toàn bộ. Hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp chỉ có thể thấy rõ nét khi doanh nghiệp tiến hành phân tích để lấy kết quả phục vụ cho công tác quản lý. Một số biện pháp khác Biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm: Chất lượng sản phẩm là một trong những yếu tố quyết định tới thắng lợi của công ty trên thị trường cạnh tranh đầy khốc liệt. Qua quá trình tìm hiểu ở công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội, em thấy rằng chất lượng sản phẩm của công ty không ổn định. Sản phẩm của công ty vẫn bị khách hàng trả lại do không đảm bảo chất lượng cũng như đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Do đó việc tăng năng suất lao động phải gắn liền với việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Để nâng cao chất lượng sản phẩm thì công ty có thể áp dụng các biện pháp sau đây : Kiểm tra chất lượng sản phẩm, đóng dấu kiểm tra vào các sản phẩm đạt chất lượng, loại các sản phẩm hỏng ra khỏi dây chuyền sản xuất, tham gia giám sát việc chấp hành quy trình công nghệ sản xuất. Kiểm tra giám sát việc bảo quản, cấp phát các loại nguyên vật liệu, bán thành phẩm và các loại dụng cụ, phụ tùng. Biện pháp nhằm tổ chức tốt công tác tài chính doanh nghiệp Công tác tài chính doanh nghiệp hiện nay ngày càng có vai trò to lớn trong công tác quản trị doanh nghiệp và việc tiết kiệm chi phí kinh doanh, hạ thấp giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp. Do đó, tổ chức tốt công tác tài chính doanh nghiệp là một trong những biện pháp cần thiết để tiết kiệm chi phí kinh doanh và hạ thấp giá thành sản phẩm. Hiện nay công tác tài chính tại công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội còn nhiều hạn chế, biểu hiện như sau : Cơ cấu bộ máy tài chính của công ty không rõ ràng. Bộ máy tài chính gộp chung với bộ máy kế toán. Nhân viên làm công tác tài chính kế toán chủ yếu làm công tác kế toán, ít quan tâm đến các nghiệp vụ tài chính. Hoạt động tài chính của công ty chưa giao lưu linh động với môi trường bên ngoài. Thị trường vốn vẫn là một lĩnh vực bỏ ngỏ đối với công ty. Tất cả những hạn chế đó đòi hỏi công ty phải tổ chức tốt hơn công tác tài chính doanh nghiệp. Muốn vậy công ty phải phân định rõ ràng các nghiệp vụ tài chính và nghiệp vụ kế toán, giao trách nhiệm cụ thể đến từng nhân viên. Công ty mở rộng hơn nữa hoạt động tài chính, hướng ra thị trường và tận dụng các tiềm lực tài chính của mình để đầu tư thông qua thị trường... Có như vậy công tác tài chính của công ty mới thực sự có ý nghĩa trong công tác quản trị nói chung và công tác quản lý chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm nói riêng. Tăng cường các biện pháp xúc tiến bán hàng và các dịch vụ sau bán Các biện pháp quảng cáo, khuyếch trương bán hàng và các dịch vụ sau bán là các hoạt động nhằm làm tăng khối lượng sản phẩm bán ra từ đó làm tăng doanh thu, lợi nhuận. Cơ chế thị trường càng phát triển thì các biện pháp nhằm khuếch trương thanh thế của mình càng có vai trò quan trọng. Hiện nay công việc quảng cáo và xúc tiến bán hàng của công ty chỉ dừng lại ở trên các tạp chí chuyên ngành dệt may, tham gia các hội chợ triển lãm hàng công nghiệp, tài trợ cho các chương trình thể thao trong ngành, quảng cáo sản phẩm và giới thiệu hình ảnh trên trang Web. Vì thế công ty có thể tiến hành một số giải pháp sau : Công ty cần tích cực duy trì và đầu tư mạnh hơn nữa vào quảng cáo các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh bằng nhiều hình thức tuyên truyền quảng cáo thực hiện qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc qua đường bưu điện mang thông tin tới tận tay khách hàng. Công ty nên duy trì việc tham gia hội chợ triển lãm vì đây là cơ hội giúp công ty tiếp xúc trực tiếp với khách hàng.. lắng nghe ý kiến phản hồi từ khách hàng. Quảng cáo trên mạng là hình thức quảng cáo mới, cập nhật, tiện lợi và có khả năng truyền đạt thông tin rộng rãi tới tận từng khách hàng tạo lòng tin tưởng, an tâm cho khách hàng khi mua sản phẩm mà chi phí lại thấp. Do đó đây là hướng giải pháp mang lại hiệu quả kinh tế cao. Công ty cần mở rộng quảng cáo trên các báo tạp chí kinh tế như thời báo kinh tế Việt Nam, tạp chí thương mại... Đây là những phương tiện có tính chất phổ biến hơn so với các tạp chí chuyên ngành, độc giả của các tạp chí này đều là những người quan tâm đến lĩnh vực kinh doanh và họ có thể là những khách hàng tiềm năng của công ty. Công ty cần tổ chức một đội ngũ nhân viên chuyên làm nhiệm vụ chào hàng và nghiên cứu thị trường. Đội ngũ này sẽ trực tiếp tới khách hàng hiện tại và những khách hàng tiềm năng để giới thiệu sản phẩm của công ty hoặc giải đáp các thắc mắc về sản phẩm để có biện pháp xử lý kịp thời làm hài lòng khách hàng, thiết lập các mối quan hệ giao dịch thương mại. Vì thế vấn đề nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ bán hàng và đội ngũ quản trị bán hàng phải được quan tâm thường xuyên. Thực hiện chính sách giá cả hợp lý Giá cả là một trong những yếu tố hấp dẫn đối với khách hàng. Nhưng hiện nay trong chính sách giá cả Công ty không áp dụng các hình thức chiết khấu bán hàng, mua hàng để khuyến khích những khách hàng mua hàng với số lượng lớn, hoặc mua hàng trả tiền ngay, mua hàng trả trước thời hạn. Thường xuyên kiểm tra khả năng thanh toán của khách hàng và có thể từ chối cung cấp hàng cho những khách hàng không có khả năng thanh toán hay không đáng tin cậy về thanh toán. Đây là vấn đề cần quan tâm để tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn nữa. XN may ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0309.doc
Tài liệu liên quan