Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Công ty Bảo Minh Hà Nội trong thời gian qua

Một số từ viết tắt hay sử dụng trong bài viết 1. DNBH : Doanh nghiệp bảo hiểm 2. GTBH : Giá trị bảo hiểm 3. STBH : Số tiền bảo hiểm 4. HĐBH : Hợp đồng bảo hiểm 5. TTC : Tổn thất chung 6. TTR : Tổn thất riêng 7. TTTB : Tổn thất toàn bộ 8. TTBP : Tổn thất bộ phận 9. XNK : Xuất nhập khẩu Lời mở đầu Hiện nay, trên thế giới hàng hoá xuất nhập khẩu (XNK) vận chuyển bằng đường biển chiếm khoảng gần 90% tổng khối lượng hàng hoá của thế giới. Do loại hình vận chuyển này có cước phí r

doc54 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1361 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Công ty Bảo Minh Hà Nội trong thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẻ, lại vận chuyển được một khối lượng lớn với đủ mọi chủng loại hàng hoá. Tuy nhiên vận chuyển bằng đường biển thường gặp rất nhiều loại rủi ro gây nên tổn thất, cho nên đã từ lâu bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển trở thành tập quán thương mại quốc tế. Bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển ra đời không chỉ đáp ứng nhu cầu đảm bảo an toàn cho các chủ hàng mà còn góp phần thúc đẩy mối quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước. Trong những năm qua nền kinh tế nước ta đã có tốc độ tăng trưởng khá cao. Đóng góp vào thành công chung đó không thể không kể đến vai trò của hoạt động XNK hàng hóa. Với đặc điểm địa lý của nước ta có hơn 3.000 km bờ biển, lại nằm ở trung tâm của khu vực Đông Nam á. Điều này rất thuận lợi cho hoạt động ngoại thương với các nước trên thế giới, nhất là hoạt động XNK hàng hóa vận chuyển bằng đường biển. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam nói chung và Bảo Minh Hà Nội nói riêng phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển. Với ý nghĩa đó, sau một thời gian thực tập ở Công ty Bảo Minh Hà Nội em đã chọn đề tài: "Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Công ty Bảo Minh Hà Nội trong thời gian qua" để làm chuyờn đề thực tập tốt nghiệp. Cấu trúc bài viết được chia làm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. Chương II: Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở Công ty Bảo Minh Hà Nội trong thời gian qua. Chương III: Kiến nghị và giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Bảo Minh Hà Nội. Do thời gian thực tập không nhiều và còn hạn chế trong lý luận cũng như kinh nghiệm thực tế nên đề tài không tránh khỏi thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được những đóng góp và ý kiến của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! Chương I Lý luận chung về bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển 1. Vai trò của vận tải biển và sự cần thiết của bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển 1.1. Vai trò của vận chuyển bằng đường biển Việc thông thương buôn bán hàng hóa đóng vai trò quan trọng đối với mỗi quốc gia. Để vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu người ta sử dụng nhiều phương thức khác nhau như: đường bộ, đường sắt, đường biển, đường hàng không… Nhưng đến nay, vận tải đường biển vẫn giữ một vị trí quan trọng trong các phương thức vận tải hàng hóa. Có được vai trò quan trọng như vậy là do vận tải biển có những ưu điểm vượt trội như: - Chi phí cho việc xây dựng, cải tạo, bảo dưỡng các tuyến đường biển thấp vì hầu hết là những tuyến giao thông tự nhiên (trừ các cảng biển). - Năng lực chuyên chở của phương tiện vận tải biển thường rất lớn: một tuyến có thể tổ chức chạy nhiều chuyến tàu trong cùng một thời gian cho cả hai chiều, đồng thời phương tiện vận tải biển có thể chở được hầu hết các loại hàng hóa với khối lượng lớn. Vận tải bằng đường biển còn tỏ ra đặc biệt có ưu thế trong việc vận chuyển nhiều loại hàng hóa khác nhau, đặc biệt là khả năng sử dụng để vận chuyển các container chuyên dụng. - Cước phí vận chuyển thấp hơn so với các phương tiện vận tải khác, ví dụ: cước phí trung bình vận chuyển cùng một loại hàng hóa bằng đường hàng không là 7$/kg, trong khi vận chuyển bằng đường biển là 0,7$/kg. - Vận chuyển bằng đường biển góp phần phát triển mối quan hệ kinh tế với các nước, thực hiện đường lối kinh tế đối ngoại của Nhà nước, góp phần tăng thu ngoại tệ… 1.2. Sự cần thiết của bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển - Vận tải biển chịu tác động của điều kiện thiên nhiên như: mưa, bão,lũ lụt…vì quãng đường di chuyển dài lại qua nhiều vùng khí hậu rất khác nhau. Các yếu tố thiên nhiên diễn ra không tuân theo một quy luật nhất định nào. Vì vậy, mặc dù khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển và có thể dự báo thời tiết nhưng rủi ro vẫn có thể xảy ra. Đặc biệt trong điều kiện thời tiết khí hậu hiện nay có nhiều biến đổi bất thường, các hiện tượng thiên nhiên xảy ra ngày càng nhiều, nhất là các cơn bão nên tổn thất hàng hải cũng dễ xảy ra hơn. - Trong quá trình vận chuyển đôi khi rủi ro đâm ra và trục trặc kỹ thuật do sai sót trong việc thiết kế chế tạo, bảo dưỡng tàu cũng xảy ra. Các tàu biển hoạt động tương đối độc lập giữa vùng không gian rộng lớn, nếu xảy ra sự cố thì có thể việc cứu hộ, cứu nạn rất khó khăn. Mặt khác thị trường hàng hải thường rất lớn và nhất là hiện nay số lượng tàu đưa vào khai thác nhiều, trọng tải tàu ngày càng lớn và giá trị hàng hóa ngày càng cao, cho nên nếu rủi ro tổn thất là khôn lường. - Đường dài vận tải dài nên các tàu phải dừng chân ở nhiều cảng khác nhau thuộc các quốc gia khác nhau, do đó bị ảnh hưởng bởi các chính sách pháp luật của quốc gia đó. Nhất là quốc gia có chiến tranh, đình công quan hệ ngoại giao không tốt đối với quốc gia sở hữu tàu hoặc hàng hóa chuyên chở trên tàu. - Người chuyên chở cũng có thể gây ra tổn thất cho hàng hóa do sai sót. Tuyệt đại bộ phận các công ước về các loại hàng hóa vận chuyển bằng đường biển và luật hàng hải các quốc gia trên thế giới, kể cả luật hàng hải Việt Nam, đều cho phép người chuyên chở giới hạn trách nhiệm bồi thường. Vì vậy, các nhà xuất nhập khẩu không bù đắp được thiệt hại thực tế xảy ra. Để kịp thời khắc phục những rủi ro, tổn thất, một mặt người ta ngày càng hiện đại hóa, nâng cao chất lượng các đội tàu, mặt khác phải tính đến một biện pháp hữu hiệu để giải quyết các thiệt hại bằng bù đắp kinh tế, đó là thông qua bảo hiểm - hình thức phân tán rủi ro theo nguyên tắc số đông bù số ít. Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu ra đời từ rất sớm, được thừa nhận, được ủng hộ và phát triển không ngừng. Đến nay, bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển đã có bề dày lâu năm và đã trở thành tập quán thương mại quốc tế trong hoạt động ngoại thương. 2. Các loại rủi ro và tổn thất trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển 2.1. Các loại rủi ro Rủi ro hàng hải là những rủi ro do thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển gây ra làm hư hỏng hàng hóa và phương tiện chuyên chở. Trong hoạt động hàng hải có nhiều loại rủi ro khác nhau làm thiệt hại đến hàng hóa và phương tiện vận chuyển. Người ta có thể phân loại rủi ro dựa trên các căn cứ khác nhau: * Căn cứ vào nguyên nhân gây ra tổn thất, rủi ro được chia ra làm 3 loại: - Rủi ro do thiên tai gây ra như biển động, bão lốc, sóng thần, thời tiết quá xấu. - Rủi ro do tai nạn bất ngờ ngoài biển như: bao gồm rủi ro do mắc cạn, chìm đắm, mất tích, đam va với tàu khác. - Rủi ro do con người gây ra: các rủi ro như ăn trộm, ăn cắp, chiến tranh, đình công, bắt giữ, tịch thu… * Căn cứ vào nghiệp vụ bảo hiểm, rủi ro được chia làm 3 loại: Loại 1: Những rủi ro thông thường được bảo hiểm, bao gồm: - Rủi ro mắc cạn: Tàu bị chạm đáy vào chướng ngại vật nào đó mà không thể tiếp tục hành trình được nữa. - Rủi ro chìm đắm: Do nguyên nhân nào đó mà tàu bị chìm xuống biển hoặc bị đắm do sóng thần, bão tố, không thể tiếp tục hành trình được nữa, hàng hóa trên tàu bị hư hại. - Rủi ro đâm va: tàu vị đâm, va phải chướng ngại vật trên biển (đá ngầm, công trình xây dựng, tàu thuyền khác) dẫn đến hư hỏng, hành trình bị gián đoạn. - Rủi ro cháy nổ. - Rủi ro do thiên tai: là những hiện tượng do thiên nhiên gây ra như biển động, bão, lốc, sét, thời tiết quá xấu… mà con người không chống lại được. Cách phân loại này giúp cho các chủ hàng cũng như các công ty bảo hiểm dễ dàng nhận biết các loại rủi ro để đi đến ký kết hợp đồng bảo hiểm. Loại 2: Những rủi ro không được bảo hiểm: Loại này thường là rủi ro xảy ra do hành vi cố ý của thuyền trưởng, thủy thủ, bao bì không đúng quy cách và vi phạm thể lệ XNK… Loại 3: Những rủi ro đặc biệt: chiến tranh, đình công, bạo loạn, cướp biển thường không được bảo hiểm, nhưng nếu chủ hàng có yêu cầu, sẽ được nhận bảo hiểm kèm theo rủi ro thông thường được bảo hiểm với điều kiện trả thêm phụ phí đặc biệt chứ không nhận bảo hiểm riêng cho các rủi ro đặc biệt. Các rủi ro được bảo hiểm phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra tổn thất. Việc phân biệt nguyên nhân trực tiếp hay nguyên nhân gián tiếp có vai trò rất quan trọng để xác định được rủi ro gây ra tổn thất có phải là rủi ro được bảo hiểm hay không. Những tổn thất nào có nguyên nhân trực tiếp là những rủi ro được bảo hiểm gây ra thì mới được bảo hiểm bồi thường. 2.2. Các loại tổn thất Tổn thất trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển là những thiệt hại hư hỏng của hàng hóa được bảo hiểm do rủi ro gây ra. * Căn cứ vào quy mô và mức độ của tổn thất: người ta chia ra tổn thất bộ phận và tổn thất toàn bộ. ã Tổn thất bộ phận: là sự mất mát hoặc giảm giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa nhưng chưa ở mức độ mất hoặc giảm hoàn toàn. Tổn thất bộ phận được chia ra 4 trường hợp sau: - Giảm về số lượng: Hàng hóa bị thiếu bao thiếu kiện. - Giảm về trọng lượng: Hàng hóa còn nguyên bao nhưng bị mốc rách. - Giảm về thể tích. - Giảm về giá trị: Số lượng, trọng lượng của hàng hóa có thể còn nguyên nhưng giá trị thì không còn được như lúc đầu, ví dụ như trường hợp lương thực thực phẩm bị ngấm nước dẫn đến mốc, ẩm… Có hai loại tổn thất toàn bộ là tổn thất toàn bộ thực tế và tổn thất toàn bộ ước tính. - Tổn thất toàn bộ thực tế: là toàn bộ đối tượng bảo hiểm theo một hợp đồng bảo hiểm bị hư hỏng, mất mát, thiệt hại hoặc bị biến chất, biến dạng không còn như lúc mới được bảo hiểm hay bị mất đi, bị tước đoạt không lấy lại được nữa. Chỉ có tổn thất toàn bộ thực tế trong 4 trường hợp sau đây: + Hàng hóa bị hủy hoại hoàn toàn. + Hàng hóa bị tước đoạt không lấy lại được + Hàng hóa không còn là vật thể bảo hiểm + Hàng hóa ở trên tàu được tuyên bố là mất tích. - Tổn thất toàn bộ ước tính: là trường hợp đối tượng bảo hiểm bị thiệt hại, mất mát chưa tới mức độ toàn bộ thực tế, nhưng không thể tránh khỏi tổn thất toàn bộ thực tế, hoặc nếu bỏ thêm chi phí cứu chữa thì chi phí cứu chữa có thể bằng hoặc lớn hơn giá trị bảo hiểm. Khi gặp trường hợp này tốt nhất chủ hàng sẽ thông báo từ bỏ lô hàng và bảo hiểm phải bồi thường tổn thất cho các bên và quyền sở hữu lô hàng này thuộc về bảo hiểm. * Căn cứ vào quyền lợi bảo hiểm: Tổn thất được chia làm 2 loại: ã Tổn thất riêng: là loại tổn thất chỉ gây ra thiệt hại cho một hoặc một số quyền lợi của chủ hàng và chủ tàu trên một con tàu. Như vậy, tổn thất riêng, ngoài thiệt hại vật chất còn phát inh các chi phí liên quan đến tổn thất riêng nhằm hạn chế những hư hại khi tổn thất xảy ra. Những chi phí đó gọi là tổn thất chi phí riêng. Nếu tổn thất riêng thuộc phạm vi bảo hiểm, người bảo hiểm có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại cho những tổn thất riêng này, đồng thời cũng phải chi trả những chi phí có liên quan đến tổn thất riêng. Những chi phí này bao gồm: chi phí xếp dỡ hàng, gửi hàng, phân loại hàng hóa, thay thế bao bì đối với những lô hàng bị tổn thất. Những chi phí tổn thất riêng này nhằm hạn chế và giảm bớt tổn thất riêng. ã Tổn thất chung: là những hy sinh hay chi phí đặc biệt được tiến hành một cách cố ý và hợp lý nhằm mục đích cứu tàu và hàng hóa chở tàu thoát khỏi một sự nguy hiểm chung đối với chúng. Nói một cách khác, tổn thất chung là loại tổn thất liên quan đến tất cả các quyền lợi trên một con tàu và vì vậy nó phải được phân bổ một cách chính xác cho tất cả các quyền lợi trên con tàu đó. Để phân bổ được phải xác định chính xác giá trị tổn thất chung. Giá trị tổn thất chung bao gồm 2 bộ phận: giá trị hy sinh tổn thất chung và chi phí tổn thất chung. - Hy sinh tổn thất chung: là sự hy sinh một phần tài sản để cứu những tài sản còn lại. Hy sinh tổn thất chung phải thỏa mãn đồng thời 3 điều kiện sau: + Tài sản hy sinh tổn thất chung phải mang tính cố ý (cố ý gây ra tổn thất nhưng vẫn được bảo hiểm). + Hậu quả phải vì sự an toàn chung của các quyền lợi trên tàu. + Hy sinh tổn thất chung phải trong trạng thái cấp bách. - Chi phí tổn thất chung: là những chi phí phải trả cho người thứ ba trong việc cứu tàu và hàng hóa thoát nạn hoặc chi phí làm cho tàu tiếp tục hành trình. Chi phí tổn thất chung bao gồm: chi phí cứu nạn, chi phí làm nổi tầu khi bị mắc cạn, chi phí thuê kéo, lai, dắt tàu khi bị nạn. 3. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển 3.1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm a. Đối tượng bảo hiểm Cũng như các nghiệp vụ khác, việc xác định đúng đối tượng bảo hiểm sẽ cho phép giải quyết bồi thường một cách thuận lợi, nhanh chóng. Trong hoạt động xuất nhập khẩu thì hàng hóa có nhiều khả năng gặp rủi ro cho nên các thương gia phải mua bảo hiểm cho hàng hóa vận chuyển bằng đường biển. Như vậy, đối tượng của bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển là các hàng hóa xuất nhập khẩu. ở Việt Nam, căn cứ vào Quyết định số 254/TCCDBN ngày 25/5/1990 của Bộ Tài chính, hàng hóa xuất nhập khẩu hoạt động trong vòng nội thủy và hàng hải Việt Nam không phân biệt thành phần kinh tế đều có thể tham gia bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm được Bộ Tài chính cấp giấy phép hoạt động. b. Phạm vi bảo hiểm Phạm vi bảo hiểm là giới hạn rủi ro được bảo hiểm và cũng là giới hạn trách nhiệm của công ty bảo hiểm. Hàng hóa được bảo hiểm theo điều kiện nào thì chỉ những rủi ro tổn thất qui định trong điều kiện đó mới được bồi thường. Phạm vi trách nhiệm càng rộng thì những rủi ro được bảo hiểm càng nhiều và kéo theo mức phí lớn. 3.2. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm a. Giá trị bảo hiểm Giá trị bảo hiểm của hàng hóa là giá trị của hàng hóa tại cảng đi "C" cộng với bảo hiểm "I" và cước phí vận chuyển đến cảng "F" tức là bằng giá CIF. Ngoài ra để thỏa mãn nhu cầu của người tham gia bảo hiểm nhằm đảm bảo quyền lợi của họ. Người được bảo hiểm có thể bảo hiểm thêm cả các khoản lãi dự tính do việc xuất, nhập khẩu mang lại. Giá trị bảo hiểm lúc đó sẽ là CIF + 10% CIF Công thức xác định giá giá trị theo giá CIF Ta có: I = R . CIF Trong đó - I: là phí bảo hiểm - R: là tỷ lệ phí - CIF: giá trị của lô hàng được nhập về Mà CIF = C + I + F = C + R . CIF + F = ị Giá trị bảo hiểm (V) = giá CIF = Trong đó: C (Cost): Giá hàng được tính bằng giá FOB ở cảng đi F (Freight): Cước phí vận chuyển Nếu bảo hiểm cả phần lãi dự tính thì: V = Trong đó: a là số % lãi dự tính b. Số tiền bảo hiểm Số tiền bảo hiểm là số tiền đăng ký bảo hiểm được ghi trong hợp đồng bảo hiểm. Giá trị bảo hiểm là cơ sở của số tiền bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm có thể mua bảo hiểm bằng giá trị bảo hiểm (bảo hiểm đúng giá trị) nhỏ hơn giá trị bảo hiểm (bảo hiểm dưới giá trị) hoặc mua bảo hiểm với số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm (bảo hiểm trên giá trị). Về nguyên tắc số tiền bảo hiểm có thể nhỏ hơn hoặc bằng giá trị bảo hiểm, nếu số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm thì phần lớn hơn thực chất chỉ là bảo hiểm phần lãi dự kiến. Ngược lại nếu số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị bảo hiểm tức là người được bảo hiểm tự bảo hiểm lấy một phần thì người bảo hiểm cũng chỉ bồi thường trong phạm vi số tiền bảo hiểm sẽ bồi thường theo tỉ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm. Nếu đối tượng bảo hiểm được bảo hiểm trùng nghĩa là cùng một rủi ro cùng một giá trị bảo hiểm nhưng lại bảo hiểm tại nhiều công ty thì trách nhiệm của các công ty bảo hiểm cũng chỉ giới hạn trong số tiền bảo hiểm. Như vậy, số tiền bảo hiểm cùng với điều kiện bảo hiểm sẽ giới hạn trách nhiệm của các công ty bảo hiểm đối với các hợp đồng bảo hiểm. c. Phí bảo hiểm Phí bảo hiểm là một khoản tiền do người tham gia bảo hiểm phải trả cho người bảo hiểm để được bồi thường khi có tổn thất do các rủi ro được bảo hiểm gây ra. Phí bảo hiểm thường được tính trên cơ sở xác xuất rủi ro gây ra tổn thất hoặc trên cơ sở thống kê tổn thất nhằm đảm bảo trang rải bồi thường và đảm bảo có lãi. Căn cứ thứ hai rất quan trọng khi tính phí là giá trị bảo hiểm hoặc số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm (P) được xác định như sau: P = Sb x R (nếu bảo hiểm có lãi dự tính) P = Sb x (a+1) x R Nếu không bảo hiểm lãi dự tính Sb là số tiền bảo hiểm, R là tỷ lệ phí bảo hiểm Tỉ lệ phí bảo hiểm được ghi trong hợp đồng bảo hiểm theo thỏa thuận giữa người tham gia bảo hiểm và người bảo hiểm. 3.3. Điều kiện bảo hiểm Điều kiện bảo hiểm là những điều quy định phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm đối với tổn thất hàng hóa. Hàng được bảo hiểm theo điều kiện bảo hiểm nào, chỉ những rủi ro tổn thất qui định trong điều kiện đó mới được bồi thường. Sau đây là các điều kiện bảo hiểm của Viện những người bảo hiểm Luân Đôn (Insltitute of London Underwriters - ILU). a. Các điều kiện bảo hiểm ra đời năm 1963 a1. Điều kiện bảo hiểm FPA (Free from Particularr Average) - (Điều kiện bảo hiểm miễn tổn thất riêng) Trách nhiệm bảo hiểm của FPA bao gồm: - Tổn thất toàn bộ do thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển hoặc dỡ hàng tại cảng lánh nạn do rủi ro chính đem lại. - Mất nguyên liệu hàng trong quá trình xếp dỡ, chuyển tải. - Bồi thường các chi phí sau: + Chi phí đóng góp tổn thất chung + Chi phí cứu nạn + Chi phí đề phòng, hạn chế tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm do người thứ ba không phải là người được bảo hiểm hay người làm công của họ gây nên. + Chi phí giám định tổn thất nếu tổn thất này do rủi ro được bảo hiểm gây ra. + Chi phí tố tụng khiếu nại a1. Điều kiện bảo hiểm WA (With Particularr Average) - (Điều kiện bảo hiểm tổn thất riêng). Theo điều kiện bảo hiểm này, công ty bảo hiểm đề ra mức miễn thường và giải quyết theo các nguyên tắc sau: - Không đề cập mức miễn thường tổn thất do rủi ro chính, rủi do chiến tranh, đình công và các rủi ro phụ do con người gây ra. - Không cộng tác chi phí để đạt mức miễn thường, chi tính tổn thất thực tế. - Được tính các tổn thất liên tiếp xảy ra để đạt mức miễn thường. - Mỗi sà lan được coi là một con tàu để tính mức miễn thường. - Người được bảo hiểm có quyền chọn cách tính mức tiền thưởng có lợi nhất cho mình để được bồi thường nhiều hơn. a3. Điều kiện bảo hiểm AR (All Ricks) - (Điều kiện bảo hiểm mọi rủi ro) Phạm vi bảo hiểm của điều kiện bảo hiểm AR ngoài các rủi ro tổn thất và chi phí của điều kiện bảo hiểm WA thì còn mở rộng thêm các rủi ro phụ. Người bảo hiểm không áp dụng mức miễn thường. b. Các điều kiện bảo hiểm ra đời năm 1982 b1: Điều kiện bảo hiểm C (Institute Cargo Clauses C - ICC-C) Nhìn chung,điều kiện bảo hiểm này giống điều kiện bảo hiểm miễn tổn thất riêng (FPA) năm 1963. Những điều kiện bảo hiểm ICCC này không phải bồi thường tổn thất do mất nguyên kiện hàng và cũng không phân biệt TTTB hay TTBP. b2. Điều kiện bảo hiểm B (ICC.B) Theo điều kiện bảo hiểm này, ngoài các rủi ro được bảo hiểm theo điều kiện C, công ty bảo hiểm còn bồi thường tổn thất đối với hàng hóa được bảo hiểm do động đất, núi lửa, sét đánh, nước biển, nước sông, hồ xâm nhập vào hầm tàu, vào container hoặc nơi để hàng: tổn thất nguyên kiện hàng trong quá trình xếp dỡ, chuyển tải. b3. Điều kiện bảo hiểm A (ACC-A) Đây là điều kiện bảo hiểm có phạm vi rộng nhất, bảo hiểm tất cả những hư hỏng mất mát của hàng hóa. Kể cả rủi ro cướp biển, chỉ trừ những rủi ro loại trừ theo qui định và điều kiện bảo hiểm này không áp dụng mức miễn thường. Ngoài những điều kiện bảo hiểm cơ bản nói trên còn một số điều kiện đặc biệt (các điều kiện bảo hiểm bổ sung) như điều kiện bảo hiểm chiến tranh, đình công… 3.4. Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển a. Khái niệm Hợp đồng bảo hiểm là một văn bản, trong đó người bảo hiểm cam kết bồi thường cho người tham gia bảo hiểm các tổn thất của hàng hóa theo các điều kiện bảo hiểm đã ký kết, còn người được bảo hiểm cam kết trả phí bảo hiểm. b. Các loại hợp đồng bảo hiểm Hợp đồng bảo hiểm có 2 loại: HĐBH chuyến và HĐBH bao. * HĐBH chuyến: là HĐBH cho một chuyến hàng chuyên chở từ nơi này đến nơi khác ghi trong HĐBH. Công ty bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm về hàng hóa trong phạm vi một chuyến. * HĐBH bao (HĐBH mở) là HĐBH cho một khối lượng hàng vận chuyển trong nhiều chuyến kế tiếp nhau trong một thời gian nhất định (thường là một năm) hoặc nhận bảo hiểm cho một lượng hàng vận chuyển nhất định (không kể đến thời gian). Đối với các chủ hàng có khối lượng hàng hóa XNK lớn và ổn định, thông thường họ ký kết với công ty bảo hiểm một HĐBH bao. Nhìn chung, trong HĐBH thường có những nội dung chủ yếu sau: + Ngày cấp đơn bảo hiểm + Tên và địa chỉ của người mua bảo hiểm + Tên hàng được bảo hiểm + Số lượng, trọng lượng của hàng + Tên tàu hoặc phương tiện vận chuyển + Cảng khởi hành, cảng chuyển tải và cảng cuối + Ngày khởi hành + Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm + Điều kiện bảo hiểm + Phí bảo hiểm. 3.5. Giám định và bồi thường tổn thất Giám định là việc làm của nhà bảo hiểm, nhà bảo hiểm có thể cử nhân viên của mình đi giám định hoặc ủy quyền cho người khác. Trong quá trình giám định phải làm rõ các vấn đề sau: - Nguyên nhân gây ra tổn thất có thuộc phạm vi bảo hiểm hay không? - Quy mô và mức độ tổn thất - Mức miễn thường (nếu có) Đối với những hàng hóa đặc chủng việc giám định đôi khi khó khăn phức tạp. Vì vậy một số nhà bảo hiểm phải thuê giám định viên chuyên ngành. Sau khi giám định xong, cán bộ giám định sẽ cấp giấy chứng nhận giám định cho chủ hàng, trong đó ghi đầy đủ những thông tin như thời gian, địa điểm giám định, mức độ tổn thất, người giám định… Dựa vào biên bản và giấy chứng nhận giám định nhà bảo hiểm tiến hành bồi thường theo các nguyên tắc sau: + Số tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm là giới hạn tối đa của số tiền bảo hiểm. Tuy nhiên ngoài số tiền bảo hiểm tổn thất thực tế nhà bảo hiểm còn bồi thường các khoản chi phí như : chi phí cứu nạn, cứu vớt hàng hóa, ép giám định, bán đấu giá hàng hóa. + Bồi thường bằng tiền, không bồi thường bằng hiện vật, thông thường nộp phí bảo hiểm bằng tiền nào thì bồi thường bằng tiền đó. + Khi trả tiền bồi thường nhà bảo hiểm sẽ khấu trừ các khoản tiền mà người tham gia bảo hiểm đã đòi được ở người thứ 3. Chương II Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại công ty bảo Minh Hà Nội 1. Vài nét về tổng Công ty Bảo Minh và Công ty Bảo Minh Hà Nội Có thể nói lịch sử phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu ở Việt Nam được gắn liền với sự ra đời và phát triển của ngành bảo hiểm nước ta. Kể từ khi bảo hiểm Việt Nam ra đời cho đến nay, nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu luôn là một loại hình bảo hiểm chủ yếu và chiếm tỉ trọng cao trong tổng phí bảo hiểm toàn thị trường. Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu ở Việt Nam có thể được nhìn nhận theo hai giai đoạn phát triển. Thời kỳ bảo hiểm hoạt động theo cơ chế độc quyền Nhà nước. Giai đoạn này chỉ có một tổ chức bảo hiểm duy nhất là bảo hiểm hoạt động phục vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu theo nghị định thư. Qui mô và phạm vi bảo hiểm của thời kỳ này còn rất nhiều hạn chế, hoạt động của thị trường không có sự cạnh tranh. Thời kỳ bảo hiểm hoạt động trong nền kinh tế thị trường: Vào những năm cuối thập niên 80, với chính sách kinh tế mở, cùng với nhịp độ phát triển của nền kinh tế, ngành bảo hiểm đã có những bước phát triển đáng kể. Đứng trước yêu cầu đa dạng hóa các loại hình kinh doanh bảo hiểm phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định và nhằm khai thác tốt hơn tiềm năng bảo hiểm trong nước để đầu tư lại phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 của Chính phủ về hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã được ban hành. Sau khi Nghị định này ra đời, hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo hướng thị trường mở trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đã bắt đầu phát triển, nhiều công ty bảo hiểm mới ra đời trên thị trường đã có sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty bảo hiểm để giành khách hàng và tăng doanh thu phí. Nhiều vấn đề mới nảy sinh và bất cập trong thời kỳ nảy đã ảnh hưởng đến hoạt động của các công ty bảo hiểm. Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân và tổ chức tham gia bảo hiểm, đẩy hoạt động kinh doanh bảo hiểm, góp phần thúc đẩy và duy trì sự phát triển bền vững của nền kinh tế - xã hội. Luật kinh doanh bảo hiểm đã được Quốc hội thông qua ngày 09/12/2000, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/2001. Sau khi Luật này được ban hành, Chính phủ và Bộ Tài chính đã ban hành những văn bản thi hành Luật nhằm phát huy tối đa hiệu quả của Luật kinh doanh bảo hiểm. Bảo Minh là công ty bảo hiểm gốc của Nhà nước đầu tiên được thành lập sau Nghị định 100/CP. Ra đời trên cơ sở là một chi nhánh của Bảo Việt tạ thành phố Hồ Chí Minh, Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (gọi tắt là Bảo Minh) đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1995, được phép hoạt động trên phạm vi cả nước và quốc tế, đảm nhận kinh doanh mọi loại hình nghiệp vụ bảo hiểm. Từ năm 1995 đến nay, thị trường bảo hiểm Việt Nam có nhiều thay đổi khi có chính sách mở cửa hoàn toàn, đặc biệt là thị trường bảo hiểm. Thách thức lớn đối với các công ty bảo hiểm trong nước là phải có đủ khả năng cạnh tranh quốc tế. Nhằm mục tiêu tạo ra một tổng công ty bảo hiểm phi nhân thọ mạnh nhất thị trường có đủ khả năng đó, Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh) đã chính thức chuyển đổi từ doanh nghiệp Nhà nước thành Tổng công ty Bảo Minh theo Giấy phép thành lập và hoạt động số 27 GP/KDBH ngày 08/9/2004 của Bộ Tài chính. Đây là một công ty cổ phần gồm 11 cổ đông sáng lập gồm các Tổng Công ty lớn của Nhà nước như: Tổng Công ty Hàng không, Tổng Công ty Sông Đà, Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam, Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam, Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam v.v.. Tiếp đó, Hội đồng Quản trị của Tổng Công ty cổ phần Bảo Minh đã ban hành điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty Bảo Minh Hà Nội (gọi tắt là Bảo Minh Hà Nội) là công ty thành viên của Tổng Công ty cổ phần Bảo Minh (gọi tắt là Tổng Công ty) theo số 1063/2004-BM/HĐQT ngày 01/10/2004. Công ty Bảo Minh Hà Nội trong quá trình hoạt động đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển của Tổng Công ty. Hiệu quả hoạt động của Công ty được thể hiện bằng sự đóng góp doanh thu phí vào tổng doanh thu phí của toàn Tổng Công ty là 20 đến 21%. Hiện nay với hơn 60 cán bộ công nhân viên, cơ cấu tổ chức của Công ty được chia thành 6 phòng ban, 10 phòng khai thác và đảm nhận 21 loại hình nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau, trong đó có nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu là nghiệp vụ truyền thống nhưng vẫn được Công ty quan tâm phát triển. Ban giám đốc Phòng Phi hàng hải Phòng Quản lý đại lý Phòng Tài sản kỹ thuật Phòng Hàng hải Phòng Tổ chức hành chính Phòng Kế toán thống kê Phòng khai thác 1 Phòng khai thác 2 Phòng khai thác 3 Phòng khai thác 8 Phòng khai thác 9 Phòng khai thác 10 … Đứng đầu Công ty là Giám đốc (do Tổng giám đốc bổ nhiệm), chịu trách nhiệm toàn bộ hoạt động kinh doanh, tổ chức quản lý. Hai phó giám đốc quản lý từng phần nghiệp vụ của các phòng ban, giúp đỡ Giám đốc giải quyết các vụ việc liên quan từng phần nghiệp vụ. Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập vận chuyển bằng đường biển ở Bảo hiểm Hà Nội do phòng Hàng hóa đảm nhiệm. * Phòng Hàng hải có các nhiệm vụ sau: - Hướng dẫn và chỉ đạo khai thác các nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải nói trên cho các phòng thuộc Tổng Công ty theo phân cấp của Tổng Giám đốc. - Kiểm tra quản lý toàn bộ đơn bảo hiểm hàng hải do tất cả các phòng, cấp gửi đến. - Tổng hợp, báo cáo tổng kết công tác bảo hiểm hàng hải toàn Tổng Công ty hàng năm. - Thông qua công tác quản lý, chỉ đạo, kiểm tra, phát hiện những yếu kém, sơ hở, vi phạm trong kinh doanh, kiến nghị với Giám đốc biện pháp xử lý, cải tiến doanh nghiệp. - Thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất, quản lý rủi ro bảo hiểm hàng hải. - Tham mưu cho Giám đốc xây dựng kế hoạch doanh thu các nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải. 2. Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở Công ty Bảo Minh Hà Nội trong thời gian qua 2.1. Công tác khai thác bảo hiểm Khai thác bảo hiểm là khâu đầu tiên của quy trình triển khai một nghiệp vụ bảo hiểm. Nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và từng nghiệp vụ bảo hiểm nói riêng, đặc biệt là những nghiệp vụ bảo hiểm mới triển khai, những sản phẩm mới tung ra thị trường. Xuất phát từ nguyên tắc chung của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là "lấy số đông bù số ít" nhằm tạo lập nguồn quỹ bảo hiểm đủ lớn để dễ dàng san sẻ rủi ro, doanh nghiệp bảo hiểm phải tổ chức tốt khâu khai thác (khâu bán hàng). Kết quả khâu này thể hiện chủ yếu ở các chỉ tiêu như: số lượng khách hàng tham gia bảo hiểm (số HĐBH đã được ký kết, số đơn bảo hiểm đã cấp), số phí bảo hiểm thu được… Nếu công ty làm tốt khâu này thì công ty sẽ có nhiều khách hàng, mang lại doanh thu phí bảo hiểm cao. Đây là cơ sở để tăng lợi nhuận, chiếm lĩnh thị phần, nâng cao vị thế của mình trên thị trường bảo hiểm. Chính vì tính chất quan trọng của khâu này mà hầu hết các công ty bảo hiểm phải lập ra các chiến lược khai thác. Công việc khai thác càng trở nên khó khăn hơn trong điều kiện thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, trước tình hình đó đòi hỏi các công ty phải thực hiện tốt khâu khai thác. Đối với Bảo Minh Hà Nội mục tiêu và cũng là thước đo hiệu quả của khâu khai thác là xây dựng và phát triển một thị trường bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu ổn định lâu dài và tăng trưởng cao. Để thực hiện tốt khâu khai thác Bảo Minh Hà Nội thường tiến hành theo các bước: lập kế hoạch, xác định các biện pháp khai thác, tổ chức khai thác, đánh giá rút kinh nghiệm. Trước hết, vào đầu năm phòng hàng hải tiến hành thu thập thông tin về kim ngạch XNK như chủng loại hàng hóa, số lượng hàng hóa của từng công ty XNK tại Hà Nội. Từ đó sẽ tập hợp số liệu để lập kế hoạch khai thác và định mức thu phí trong năm cho từng đối tượng. - Khách hàng là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của công ty bảo hiểm. Khách hàng của công ty thường có 2 loại: Khách hàng cũ và khách hàng mới. Đối với khách hàng cũ, các khách hàng truyền thống, các nhân viên phải thuyết phục được họ tiếp tục hợp đồng một cách tự nguyện, lượng khách hàng truyền thống này sẽ đảm bảo cho công ty một doanh thu ổn định. Một công ty ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36554.doc
Tài liệu liên quan