Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm học sinh, sinh viên ở Công ty Bảo Việt Phú Thọ trong những năm gần đây

LỜI MỞ ĐẦU Chăm lo cho thế hệ học sinh là công việc có ý nghĩa vô cùng quan trọng, không chỉ ở hiện tại mà còn có tác dụng to lớn để xây dựng xã hội tốt đẹp trong tương lai. Vì vậy, việc đảm bảo cho thế hệ trẻ được phát triển lành mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần chính là chăm lo cho xã hội phát triển cả về thế và lực. Với quan điểm chăm lo cho thế hệ trẻ là trách nhiệm và nghĩa vụ của toàn xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng chỉ đạo các cấp, các ngành có liên quan thực hiện chủ trương

doc60 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1223 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm học sinh, sinh viên ở Công ty Bảo Việt Phú Thọ trong những năm gần đây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đó nhằm mục đích chăm sóc và bảo vệ cho thế hệ trẻ. Để cùng gánh vác với xã hội trách nhiệm chăm sóc và bảo vệ trẻ em, các Công ty Bảo hiểm đã triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh, sinh viên. Mục đích nhằm giúp gia đình, nhà trường và bản thân các em biết cách đề phòng và hạn chế rủi ro, và quan trọng hơn là bảo hiểm sẽ giúp những học sinh gặp tai nạn, rủi ro và gia đình có thể ổn định tài chính, khắc phục những khó khăn khi rủi ro xảy ra. Trong lĩnh vực Bảo hiểm học sinh, sinh viên Bảo Việt là Công ty đầu tiên triển khai kinh doanh trên thị trường. Vốn là một trong những nghiệp vụ truyền thống, Bảo Việt đã cung cấp dịch vụ này tới hầu hết các em, và chiếm hơn 60% thị phần trên thị trường. Hiện nay Bảo Việt Phú Thọ cũng đang tích cực triển khai nhằm ngày một hoàn thiện mình, qua đó cung cấp cho các em một dịch vụ tốt nhất. Chính vì vậy, trong quá trình thực tập tại Công ty Bảo Việt Phú Thọ, em đã chọn nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh, sinh viên làm chuyên đề thực tập của mình với tên đề tài: “ Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm học sinh, sinh viên ở Công ty Bảo Việt Phú Thọ trong những năm gần đây”. Kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương sau: Chương I: Tổng quan về Bảo hiểm học sinh. Chương II: Tình hình triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh tại Bảo Việt Phú Thọ. Chương III: Kiến nghị và giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn nữa nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh, sinh viên tại Bảo Việt Phú Thọ. Là một sinh viên chuyên ngành Bảo hiểm, lần đầu tiên được tiếp xúc với thực tế, nhưng do còn hạn chế về thời gian, kinh nghiệm nghiên cứu nên chuyên đề của em sẽ không tránh khỏi những sai sót và hạn chế nhất định. Em rất mong được sự giúp đỡ của thầy cô, cũng như các anh chị cán bộ tại chi nhánh Bảo Việt Phú Thọ về chuyên đề này. Qua đây, em xin chân thành cảm ơn toàn thể các thầy cô giáo trong bộ môn đã trang bị cho em những kiến thức cơ bản về bảo hiểm và đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn tới giảng viên - thạc sỹ Nguyễn Thị Chính đã trực tiếp hướng dẫn, động viên và giúp đỡ em thực hiện chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn các anh chị, cán bộ nhân viên tại văn phòng Bảo Việt Phú Thọ đã tạo điều kiện cho em được tham gia tiếp xúc với thực tế tại phòng và đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình thu thập tài liệu để hoàn thành chuyên đề này. Chương I: Tổng quan về bảo hiểm học sinh, sinh viên. Sự cần thiết khách quan và vai trò của bảo hiểm học sinh, sinh viên. Sự cần thiết khách quan phải triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh, sinh viên. Học sinh, sinh viên là những chủ nhân tương lai của đất nước, là hạt nhân của một xã hội phồn vinh, là nguồn hạnh phúc của mỗi gia đình... Một đất nước muốn phát triển bền vững thì không chỉ quan tâm đến các nguồn lực trước mắt mà phải quan tâm đến các nguồn lực trong tương lai, trong đó nguồn lực con người là quan trọng nhất. Mỗi quốc gia đều rất chú trọng đến việc chăm sóc, giáo dục trẻ em và giành nhiều điều kiện để trẻ em được phát triển toàn diện. Xuất phát từ những đặc điểm của lứa tuổi học sinh rất hiếu động, ham hiểu biết nhưng cũng rất dễ bị tổn thương bởi các em chưa có ý thức được đầy đủ về hành động của mình, hay bị cuốn hút vào những trò nguy hiểm. Vì vậy mà các em luôn bị những nguy cơ rủi ro rinh rập. Từ khi sinh ra và lớn lên các em đều được sống trong vòng tay yêu thương, sự quan tâm chăm sóc của gia đình, nhà trường và xã hội. Họ luôn tạo những điều kiện tốt nhất để các em được tự do phát triển về thể lực, trí lực, tuy vậy các em cũng không thể tránh khỏi những nguy cơ ốm đau, bệnh tật. Mặt khác nhận thức của các em ở lứa tuổi này còn chưa hoàn thiện, thiếu sự hiểu biết về pháp luật, chưa đủ nhận thức để tự bảo vệ mình nên thường hành động thiếu suy nghĩ, chưa ý thức được cái tốt, cái xấu dễ bị lôi kéo vào những trò chơi nguy hiểm mà không lường trước được hậu quả của nó. Vì vậy, ở lứa tuổi học sinh nguy cơ xảy ra rủi ro cao hơn so với các lứa tuổi khác. Khi không may xảy ra rủi ro, trẻ em rất cần được sự chăm sóc, chữa trị để phục hồi sức khỏe, nếu không sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ. Trong khi đó kinh phí chăm sóc này đôi khi là rất lớn mà không phải gia đình nào cũng có khả năng chi trả được, đây là một thiệt thòi lớn cho các em. Vì vậy, vấn đề đặt ra mà bất kì một xã hội nào cũng quan tâm là làm thế nào để khắc phục được những hậu quả khi xảy ra rủi ro để đảm bảo cuộc sống cho các em? Để trả lời cho câu hỏi đó, mỗi gia đình, mỗi xã hội đều giành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề này. Rất nhiều biện pháp đã được đặt ra như cứu trợ xã hội, sự giúp đỡ của các tổ chức, cá nhân. Trong đó có một biện pháp hiệu quả cao rất phổ biến trên thế giới đó là “ Bảo hiểm cho học sinh, sinh viên”. Theo công ước “ quyền trẻ em” của Liên Hợp Quốc đã ghi rõ: “ các quốc gia thành viên đêu thừa nhận mọi trẻ em đều được hưởng an toàn xã hội bao gồm cả Bảo hiểm xã hội và phải thi hành những biện pháp cần thiết để thực hiện các quyền đó phù hợp với pháp luật của quốc gia mình”. ở Việt Nam, theo thống kê số lượng học sinh ở nước ta chiếm khoảng 20% dân số cả nước. Đây chính là nguồn nhân lực, nguồn hi vọng của đất nước trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội. Việc chăm sóc, giáo dục và bảo vệ các em là nhiệm vụ quan trọng mà Đảng ta đã xác định “ Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Vì thế Việt Nam đã tham gia phê chuẩn công tác về quyền trẻ em của Liên Hợp Quốc và được Quốc hội thông qua ngày 12/ 08/ 1991 đã khẳng định “ trẻ em có quyền tài sản, quyền thừa kế, thừa hưởng các chế độ bảo hiểm theo quy định của pháp luật”. Quán triệt tinh thần đó Đảng ta đã dành nhiều biện pháp kinh tế để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chăm sóc giáo dục trẻ em... Tuy nhiên, thực tế cho thấy vì điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn nên đã ảnh hưởng đến chất lượng chăm sóc giáo dục và bảo vệ trẻ em. Cụ thể: hiện có rất ít khu vui chơi giải trí dành riêng cho trẻ; ở các thành phố hay có hiện tượng các em rủ nhau tắm hồ hay đá bóng vỉa hè vi phạm nghiêm trọng luật an toàn giao thông. ở nông thôn học sinh thường rủ nhau chơi những trò rất nguy hiểm như: tắm sông, trèo cây... Những việc đó đe dọa đến tính mạng và sức khỏe của trẻ em, và thực tế đã gây ra nhiều hậu quả đáng tiếc. Hơn nữa, vì điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn, việc quan tâm chăm sóc của gia đình và nhà trường đối với các em cũng còn hạn chế, tình trạng này đã làm tăng khả năng xảy ra rủi ro đối với các em học sinh. Đặc biệt, trong những năm gần đây theo số liệu thống kê cho thấy số vụ tai nạn của học sinh ngày càng có xu hướng tăng lên. Khi tai nạn xảy ra, hậu quả người phải gánh chịu trước hết là bản thân các em, tiếp đến là gia đình, người thân và cả xã hội. Mà để khắc phục nó thì cần phải có nguồn lực lớn mà không phải gia đình nào cũng có được, trong thực tế nhiều trường hợp vì không đủ tiền cứu chữa đã để lại di chứng suốt đời, hủy hoại tương lai của các em. Điều này là một thiệt thòi rất lớn đối với các em. Để khắc phục những hậu quả trên, Nhà nước và xã hội đã tiến hành nhiều biện pháp để giúp đỡ như trợ cấp một phần hay toàn bộ chi phí khám chữa bệnh cho những hoàn cảnh đặc biệt, kêu gọi sự giúp đỡ của các cá nhân, đoàn thể... nhiều tổ chức xã hội được thành lập như Hội chữ thập đỏ. Sự hỗ trợ của Nhà nước, các tổ chức xã hội là rất cần thiết nhưng nó chỉ mang tính tức thời và không thể đáp ứng hết nhu cầu của các em. Hơn nữa, để nhận được sự hỗ trợ này đôi khi cần nhiều thời gian nên không đáp ứng được nhu cầu cấp bách trong trường hợp xảy ra rủi ro với các em mà cần được điều trị ngay. Để khắc phục được những nhược điểm của các biện pháp trên, Bảo hiểm học sinh đã ra đời. Với một số tiền nhỏ khi tham gia bảo hiểm nếu xảy ra tai nạn thì học sinh đó sẽ được trợ cấp một phần hay toàn bộ chi phí chăm sóc sức khỏe từ phía các Công ty Bảo hiểm. Như vậy, sẽ đảm bảo được những quyền lợi chính đáng trong việc chăm sóc hồi phục sức khỏe khi không may xảy ra tai nạn. Đây là biện pháp rất tích cực và đạt hiệu quả cao, nó vừa mang tính chủ động lại có phạm vi rộng lớn vì không bị giới hạn với bất kì học sinh nào, hơn nữa việc giải quyết hậu quả khi xảy ra tai nạn lại được tiến hành nhanh chóng. Như vậy, sự ra đời của Bảo hiểm học sinh là một tất yếu khách quan để đảm bảo cho mọi học sinh đều nhận được sự chăm sóc cần thiết khi không may gặp rủi ro. Bảo hiểm học sinh, sinh viên là phương thức thiết thực nhất đảm bảo sức khỏe, tính mạng cho các em. Là người bạn, người bảo vệ đắc lực an toàn cho các em. Vai trò của Bảo hiểm học sinh, sinh viên. Như đã nói ở trên, Bảo hiểm cho học sinh, sinh viên là sự đảm bảo về quyền lợi cho các em theo công ước quốc tế và Luật chăm sóc giáo dục trẻ em. Vì vậy, trước hết Bảo hiểm cho học sinh, sinh viên là để phục vụ cho chính lợi ích của các em. Điều đó được thể hiện: Việc tham gia bảo hiểm giúp các em và gia đình có nguồn tài chính phục vụ chăm sóc phục hồi sức khỏe sau khi bị tai nạn, ốm đau, bệnh tật để nhanh chóng trở lại học tập. Chỉ với một số tiền đóng phí bảo hiểm nhỏ nhưng khi có rủi ro xảy ra các em sẽ được Công ty Bảo hiểm trả tiền gấp nhiều lần để trang trải các chi phí y tế và từ đó các em sẽ có điều kiện được chăm sóc tốt. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các em học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như học sinh ở nông thôn, miền núi, cao nguyên... khi mà chỉ duy trì cho các em đi học cũng rất vất vả thì sẽ không có điều kiện chi trả chăm sóc khi gặp tai nạn. Do đó, Bảo hiểm cho học sinh, sinh viên thực sự là người bạn đáng tin cậy đảm bảo cho các em có điều kiện được học tập liên tục. Mặt khác, việc tham gia bảo hiểm còn giúp các em nâng cao ý thức cộng đồng, giáo dục cho các em tinh thần tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, khi tham gia bảo hiểm Công ty Bảo hiểm sẽ phối hợp với gia đình và nhà trường thường xuyên nhắc nhở các em ý thức tự bảo vệ mình. Điều này có ý nghĩa quan trọng góp phần hạn chế tai nạn xảy ra cho các em, đảm bảo cho các em phát triển khỏe mạnh, không ngừng trau dồi, rèn luyện về mặt thể chất, tư chất đạo đức, khoa học để phấn đấu trở thành người có ích cho đất nước. Đây là tác dụng lớn nhất của Bảo hiểm học sinh. 1.2.2. Đối với gia đình các học sinh tham gia bảo hiểm. Trước hết, Bảo hiểm học sinh là công cụ hữu hiệu giúp các gia đình ổn định về mặt tài chính. Bảo hiểm học sinh là một nghiệp vụ trọng tâm trong Bảo hiểm con người, bằng cách huy động sự đóng góp của cha mẹ học sinh để tạo nên quỹ tập trung. Quỹ này dùng chủ yếu để chi trả kịp thời những thiệt hại về tính mạng, tình trạng sức khỏe cho các em học sinh khi rủi ro xảy ra. Khi tai nạn xảy ra, người bị nạn đầu tiên chính là bản thân các em học sinh, sau đó là người thân trong gia đình các em vì phải trang trải những chi phí phát sinh như: chi phí thuốc men, chi phí nằm viện, phẫu thuật, bồi dưỡng phục hồi sức khỏe cho các em trong khi thu nhập của gia đình không đổi, thậm chí là giảm sút vì phải nghỉ việc để chăm sóc con cái. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế của gia đình, nhất là với các gia đình khó khăn. Trong khi đó, nếu tham gia bảo hiểm thì sẽ được các Công ty Bảo hiểm chi trả phần lớn hay toàn bộ các chi phí này. Như vậy, các gia đình sẽ ổn định hơn về mặt tài chính, yên tâm chăm sóc con cái và yên tâm làm việc. Ngoài ra, thông qua Bảo hiểm học sinh các bậc phụ huynh sẽ có điều kiện để chăm sóc con cái tốt hơn vì được Công ty Bảo hiểm phổ biến kiến thức về phòng tránh tai nạn cho các em học sinh. 1.2.3. Đối với nhà trường. Bảo hiểm giúp học sinh nhanh chóng ổn định sức khỏe trở lại làm cho việc học tập của các em ít bị gián đoạn và công tác giảng dạy của nhà trường được đảm bảo đúng kế hoạch. Qua Bảo hiểm học sinh nhà trường được trang bị thêm các kiến thức về phòng tránh giảm thiểu rủi ro cho học sinh, đồng thời nhà trường có thể cùng phối hợp với các bậc phụ huynh và Công ty Bảo hiểm mở thêm các lớp ngoại khóa để giáo dục các em ý thức tự bảo vệ mình, nhờ đó mà chương trình giảng dạy của nhà trường sẽ được phong phú hơn, giúp nhà trường tạo được sự tin cậy và nâng cao uy tín của mình đối với các bậc phụ huynh. Sau khi thu phí bảo hiểm, Công ty sẽ trích một phần phí bảo hiểm cho nhà trường để sử dụng vào công tác đề phòng hạn chế tổn thất như: mua sắm các trang thiết bị y tế, sách báo, thuốc men... giúp nhà trường giảm bớt được những chi phí này. 1.2.4. Đối với các Công ty Bảo hiểm. Mục tiêu của các Công ty Bảo hiểm khi tiến hành kinh doanh là thu được lợi nhuận. Tuy nhiên, do Bảo hiểm học sinh là một nghiệp vụ Bảo hiểm có liên quan đến các định hướng phát triển của Đảng và Nhà nước, đồng thời thể hiện sự quan tâm của các xã hội đến các thế hệ tương lai. Vì vậy các Công ty Bảo hiểm không chỉ coi trọng mục tiêu hiệu quả kinh doanh mà còn hết sức chú ý đến hiệu quả xã hội của Nghiệp vụ này. Là một nghiệp vụ Bảo hiểm ra đời từ rất sớm, Bảo hiểm học sinh chiếm một phần khá lớn trong tổng thu của Công ty Bảo hiểm, vừa góp phần làm tăng doanh thu, đồng thời thông qua công tác tuyên truyền, quảng bá đã đưa được hình ảnh Công ty đến đông đảo công chúng. Thực hiện tốt nghiệp vụ này sẽ góp phần nâng cao uy tín của Công ty tới công chúng. Đây là tác dụng đối với Công ty, giúp Công ty có thể dễ dàng bán các loại hình bảo hiểm khác. Đồng thời, việc học sinh tham gia bảo hiểm ngay từ khi còn nhỏ sẽ giúp các em hiểu rõ về Bảo hiểm, đây sẽ là một thị trường bảo hiểm đầy tiềm năng trong tương lai. 1.2.5. Đối với xã hội. Bảo hiểm cho học sinh, sinh viên góp phần quan trọng vào công tác xã hội hóa giáo dục với mục tiêu chuẩn bị cho thế hệ tương lai một nền tảng vững chắc về sức khỏe, thể chất và tri thức khoa học. Thực hiện Bảo hiểm cho học sinh, sinh viên là biện pháp thiết thực trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực con người của Đảng và Nhà nước ta. Bảo hiểm cho học sinh, sinh viên tạo nên quỹ tiền tệ phi tập trung lớn, ngoài phần bồi đắp chi trả bồi thường còn góp phần đầu tư phát triển kinh tế. Bảo hiểm hoạt động theo nguyên tắc: “ Số đông bù số ít”. Do đó khi triển khai Bảo hiểm cho học sinh, sinh viên Công ty Bảo hiểm sẽ thu một khoản phí bảo hiểm ( thường là rất nhỏ) của từng em để tạo nên một quỹ tiền tệ lớn. Quỹ này mặc dù mục đích chính là chi trả, bồi thường cho các em học sinh khi không may gặp phải rủi ro, tuy nhiên, số tiền đó không phải là bồi thường toàn bộ một lúc. Vì vậy, luôn luôn có những khoản tiền nhàn rỗi chưa sử dụng đến. Khoản tiền nhàn rỗi này sẽ được đem đi đầu tư dưới nhiều hình thức khác nhau để phát triển kinh tế. II, Nội dung cơ bản của Nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh, sinh viên. Theo luật kinh doanh bảo hiểm và Thông tư thi hành luật quy định về Bảo hiểm học sinh, sinh viên như sau: 2.1. Đối tượng bảo hiểm và trách nhiệm của các bên tham gia bảo hiểm. 2.1.1. Đối tượng bảo hiểm. Bảo Việt nhận bảo hiểm học sinh đang theo học các trường: nhà trẻ, mẫu giáo, tiểu học, PTCS, PTTH, các trường ĐH, CĐ, THCN, học sinh học nghề. Người được bảo hiểm theo Điều khoản này vẫn được hưởng quyền lợi của các loại hình bảo hiểm khác nếu tham gia đồng thời nhiều hợp đồng bảo hiểm độc lập nhau. Trong đó: Người được bảo hiểm: là người có tên trong hợp đồng bảo hiểm hay giấy chứng nhận bảo hiểm và được hưởng quyền lợi theo hợp đồng bảo hiểm. Người tham gia bảo hiểm: là người có yêu cầu bảo hiểm và trực tiếp hoặc thông qua nhà trường giao kết hợp đồng với Doanh nghiệp bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm. Người thụ hưởng: là người được chỉ định nhận tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm hoặc là người thừa kế theo Pháp luật trong trường hợp không có chỉ định. 2.1.2. Trách nhiệm của bên bảo hiểm. Bên bảo hiểm thường được gọi là Doanh nghiệp bảo hiểm ( DNBH), là một bên trong hợp đồng bảo hiểm, phải chịu trách nhiệm về rủi ro bảo hiểm và trả tiền bảo hiểm khi xảy ra tai nạn hay sự kiện bảo hiểm. DNBH kinh doanh nghiệp vụ Bảo hiểm con người phải là DNBH có đủ điều kiện theo luật định. Luật lệ bảo hiểm của nước ngoài quy định rất chặt chẽ về việc này, chỉ có những tổ chức pháp nhân doanh nghiệp mới được là DNBH của hợp đồng bảo hiểm con người. Chủ yếu là vì Bảo hiểm con người thường là hợp đồng bảo hiểm lâu dài có liên quan tới lợi ích của mọi người, nếu DNBH chỉ là thể nhân, có thể khẳng định vì nhiều lí do khác nhau, không thể đảm bảo tính liên tục, lâu dài của bảo hiểm. Luật kinh doanh bảo hiểm (KDBH) – điều 17 quy định trách nhiệm và nghĩa vụ của DNBH như sau: Giải thích cho bên mua bảo hiểm về các điều kiện, điều khoản bảo hiểm; quyền và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm. Cấp cho bên mua bảo hiểm Giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm ngay sau khi giao kết hợp đồng bảo hiểm. Trả tiền bảo hiểm kịp thời cho người thụ hưởng, bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Giải thích bằng văn bản lí do từ chối trả tiền bảo hiểm hay từ chối bồi thường. Phối hợp với bên mua bảo hiểm để giải quyết yêu cầu của người thứ 3 đòi bồi thường về những thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Khi tham gia bảo hiểm toàn diện học sinh, trên cơ sở nghiêm chỉnh tuân thủ theo Luật KDBH đã quy định trên đây, người được bảo hiểm hay thân nhân của họ phải áp dụng các biện pháp cần thiết và có thể thực hiện để cứu chữa nạn nhân trong trường hợp xảy ra rủi ro được bảo hiểm. Người được bảo hiểm phải trung thực trong việc khai báo và cung cấp các chứng từ chính xác về rủi ro được bảo hiểm. 2.2. Phạm vi bảo hiểm. Phạm vi bảo hiểm theo điều khoản bảo hiểm này chỉ bao gồm những rủi ro xảy ra trong lãnh thổ Việt Nam. Người tham gia có thể lựa chọn hai hay nhiều điều kiện bảo hiểm quy định dưới đây: 2.2.1. Điều kiện bảo hiểm A. Rủi ro được bảo hiểm: bảo hiểm cho trường hợp chết do ốm đau, bệnh tật. Hiệu lực bảo hiểm: Hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực sau 30 ngày kể từ ngày đóng phí bảo hiểm. Những trường hợp tái tục mặc nhiên có hiệu lực ngay sau khi người tham gia bảo hiểm đóng phí cho kì tiếp theo. Quyền lợi bảo hiểm: Trường hợp người được bảo hiểm chết thuộc phạm vi bảo hiểm, Bảo Việt sẽ trả toàn bộ số tiền bảo hiểm ghi trên hợp đồng bảo hiểm hay giấy chứng nhận bảo hiểm. 2.2.2. Điều kiện bảo hiểm B. Rủi ro được bảo hiểm: Bảo hiểm cho trường hợp chết hay thương tật thân thể do tai nạn. Hiệu lực bảo hiểm: Hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực ngay sau khi người tham gia bảo hiểm hoàn thành thủ tục đóng phí theo quy định. Quyền lợi bảo hiểm: Trường hợp người được bảo hiểm chết thuộc phạm vi bảo hiểm, Bảo Việt sẽ trả toàn bộ số tiền bảo hiểm ghi trên hợp đồng bảo hiểm hay giấy chứng nhận bảo hiểm. Trường hợp người được bảo hiểm bị thương tật thân thể do tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm, Bảo Việt trả tiền bảo hiểm theo bảng tỷ lệ trả tiền bảo hiểm ban hành theo quyết định số 05/ TCBH ngày 02/ 01/ 1993 của BTC. Trường hợp người được bảo hiểm bị tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm đã được trả tiền bảo hiểm, trong vòng 1 tháng kể từ ngày xảy ra tai nạn người được bảo hiểm bị chết do chính hậu quả của tai nạn đó, Bảo Việt sẽ trả phần chênh lệch giữa số tiền bảo hiểm ghi trên hợp đồng hay giấy chứng nhận bảo hiểm với số tiền đã trả cho tai nạn trước đó. Hoặc trong vòng tháng kể từ ngày xảy ra tai nạn mức độ thương tật trầm trọng hơn Bảo Việt sẽ trả phần chênh lệch giữa số tiền tương ứng theo tỷ lệ thương tật mới so với số tiền đã trả cho tai nạn trước đó. 2.2.3. Điều kiện bảo hiểm C. Rủi ro được bảo hiểm: Bảo hiểm cho trường hợp phẫu thuật do ốm đau, bệnh tật. Hiệu lực bảo hiểm: Hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực sau 30 ngày kể từ ngày đóng phí bảo hiểm đầy đủ theo quy định. Hợp đồng tái tục mặc nhiên có hiệu lực kể từ ngày đóng phí ki tiếp theo. Quyền lợi bảo hiểm: Trường hợp người được bảo hiểm ốm đau, bệnh tật, tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm phải nằm viện, Bảo Việt trả trợ cấp mỗi ngày 0,3% STBH, không quá 60 ngày/ năm. Công ty bảo hiểm không nhận bảo hiểm và không chịu trách nhiệm bảo hiểm đối với: Những người mắc bệnh thần kinh, tâm thần, phong. Những người bị tàn phế hay thương tật vĩnh viễn từ 50% trở lên. Những người đang trong thời gian điều trị bệnh tật, thương tật. Công ty bảo hiểm không chịu trách nhiệm đối với những rủi ro xảy ra với người được bảo hiểm do: Hành vi cố ý của người được bảo hiểm hay người thụ hưởng. Người được bảo hiểm là học sinh THCS trở lên vi phạm nghiêm trọng Pháp luật, nội quy, quy định của chính quyền địa phương hay các tổ chức xã hội, vi phạm nghiêm trọng luật lệ an toàn giao thông. Người được bảo hiểm bị ảnh hưởng của rượu, bia, ma túy hay các chất kích thích tương tự khác, bị nhiễm HIV, AIDS . Người được bảo hiểm đánh nhau, trừ mục đích tự vệ. Động đất, núi lửa, nhiễm phóng xạ, chiến tranh, nội chiến, đình công. 2.3. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm. 2.3.1. Số tiền bảo hiểm. STBH là hạn mức trách nhiệm của các Công ty bảo hiểm. Đây là cơ sở quan trọng để xác định STBH. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm học sinh hiện nay STBH dao động trong khoảng từ 1,000,000 đồng đến 10,000,000 đồng/ vụ. 2.3.2. Phí bảo hiểm. Khi tham gia bảo hiểm, để được hưởng dịch vụ bảo hiểm người tham gia phải đóng một lượng tiền nhất định cho Công ty bảo hiểm. Số tiền này gọi là phí bảo hiểm hay giá cả của bảo hiểm. Việc xác định được mức phí bảo hiểm hợp lí là yếu tố quan trọng quyết định đến thành công của Công ty Bảo hiểm. Mức PBH phải được xác định để có thể vừa đảm bảo đủ chi trả bồi thường, vừa đem lại lợi nhuận cho các Công ty bảo hiểm. Nếu để mức phí quá thấp thí có thể dẫn đến hiện tượng thu không đủ bù chi, làm ảnh hưởng tới doanh thu và lợi nhuận của Công ty. Ngược lại, nếu để mức phí quá cao, lại ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường đồng thời khó thu hút khách hàng. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến PBH: xác suất rủi ro, tỷ lệ bồi thường, chi quản lý, chi hoa hồng... do đó khi tính PBH cần phải tính đầy đủ các yếu tố trên. Để tính toán hợp lý PBH người ta dùng các cách sau: 2.3.2.1. PBH được xác bởi hai nhân tố là phụ phí là phí thuần: P = d + f Trong đó: P : Phí bảo hiểm. d : phụ phí. f : phí thuần. Phí thuần f được xác định theo công thức sau: f = ể Ci + ể Ti Với: Ci : số tiền trả cho những người bị tai nạn và sau đó bị chết năm thứ i. Ti : số tiền trả cho những người bị thương tật năm thứ i. Li : số người tham gia bảo hiểm học sinh. Phụ phí d bao gồm: chi cho hoạt động quản lý của Công ty bảo hiểm, thông thường là từ 5% - 15%. Chi trích lập quỹ dữ trữ bảo hiểm, đề phòng và hạn chế tổn thất. Khoản thuế mà Công ty phải nộp theo quy định của Nhà nước. Các khoản khác. 2.3.2.2. Phí bảo hiểm được xác định dựa trên STBH. PBH = tỷ lệ phí * STBH. Trong thực tế triển khai bảo hiểm toàn diện học sinh, hầu hết các công ty bảo hiểm trong đó có Bảo Việt thường áp dụng cách tính phí theo tỷ lệ phí và STBH. 2.4. Thời hạn bảo hiểm và vấn đề bồi thường của bảo hiểm. 2.4.1. Thời hạn bảo hiểm. Thời hạn bảo hiểm là 1 năm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với Công ty bảo hiểm. 2.4.2. Vấn đề bồi thường của bảo hiểm. 2.4.2.1. Hồ sơ yêu cầu trả tiền bảo hiểm. Khi yêu cầu Công ty bảo hiểm trả tiền bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng phải gửi cho Công ty bảo hiểm các giấy tờ sau trong vòng 1 năm kể từ ngày xảy ra sự kiện bảo hiểm: Giấy yêu cầu trả tiền bảo hiểm Biên bản xác nhận của nhà trường, chính quyền địa phương hay công an nơi người bị tai nạn ( trường hợp bị tai nạn). Giấy chứng nhận bảo hiểm Các chứng từ y tế: giấy ra viện, phiếu điều trị, phiếu mổ ( nếu phải mổ). Giấy chứng tử trong trường hợp người được bảo hiểm chết. 2.4.2.2. Chi trả tiền bảo hiểm. Công ty bảo hiểm có trách nhiệm xem xét, giải quyết và thanh toán tiền bảo hiểm trong vòng 21 ngày kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ. STBH được trả cho người được bảo hiểm hay người được hưởng thụ, hay người được ủy quyền hợp pháp. Trường hợp người được bảo hiểm, người ủy quyền hay người thụ hưởng không trung thực trong việc thực hiện các quy định trong hợp đồng này, Công ty bảo hiểm có quyền từ chối một phần hay toàn bộ STBH tùy theo mức độ bảo hiểm vi phạm. Nếu người được bảo hiểm bị chết mà nguyên nhân xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm: STBT = STBH. Nếu nguyên nhân chết là do ốm đau mà chỉ tham gia bảo hiểm theo điều kiện B + C thì được hỗ trợ tiền mai táng, không kể có điều trị tại bệnh viện hay không. Trường hợp người được bảo hiểm bị thương tật mà nguyên nhân gây ra thuộc phạm vi bảo hiểm STBT = tỷ lệ thương tật * STBH Tỷ lệ thương tật ghi rõ trong bảng “ tỷ lệ chi tiền bảo hiểm thương tật” do BTC ban hành ngày 02/07/1991. Trường hợp người tham gia bảo hiểm phải nằm viện do ốm đau, bệnh tật: STBT = tỷ lệ trợ cấp nằm viện * STBH * số ngày nằm viện. Tỷ lệ trợ cấp nằm viện thường được quy định theo năm, tuy nhiên theo quy định chung số ngày nằm viện không quá 60 ngày/ người/ năm. Trường hợp người được bảo hiểm phải phẫu thuật do ốm đau, bệnh tật thì trả tiền bảo hiểm theo bảng tỷ lệ trả tiền phẫu thuật. STBT = tỷ lệ phẫu thuật * STBH. Trong trường hợp sau khi bị tai nạn hay phẫu thuật đã nhận được tiền bồi thường, nhưng sau 1 thời gian điều trị ( tối đa 1 năm) lại bị tử vong do chính nguyên nhân cũ gây ra thì sẽ được Công ty trả tiền trong trường hợp chết: Số tiền trả thêm = STBH – STBT đã nhận trước đó. III. Quy trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm học sinh. Việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm học sinh phải tuân theo quy trình nhất định, từ khâu chuẩn bị đến khâu thực hiện phải được tiến hành nhanh gọn, chính xác đảm bảo chất lượng phục vụ tốt nhất đến khách hàng, đồng thời mang lại hiệu quả tốt nhất cho Công ty. DNBH có thể tiến hành thực hiện quy trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm học sinh theo 4 bước sau: Bước 1: Tìm hiểu đánh giá thị trường trong năm để từ đó xây dựng được biểu phí bảo hiểm phù hợp với đời sống người dân. Bước 2: Tiến hành tuyên truyền quảng cáo. Bước 3: Tiến hành thu phí bảo hiểm. Bước 4: Công tác giám định, trả tiền bảo hiểm. Cụ thể: Bước 1: Tìm hiểu đánh giá thị trường trong năm, từ đó xây dựng được biểu phí bảo hiểm phù hợp với đời sống người dân. Trước hết, DNBH phải xem xét đến đời sống của người dân, mức sống của họ hiện nay như thế nào. Chất lượng cuộc sống của người dân ngày nay đang dần được cải thiện một cách rõ rệt, không còn cảnh lo ăn cho từng bữa, “ giật gấu vá vai sống cho qua ngày”, thay vào đó, họ sống ấm no hơn, an nhàn hơn. Khi đó họ bắt đầu quan tâm đến sự an toàn trong đời sống hàng ngày cho gia đình và cho chính bản thân họ. Mà đối với các bậc phụ huynh, cuộc sống của con em họ được đảm bảo, việc học tập của con em đạt hiệu quả là sự quan tâm hàng đầu. Đây là điều kiện tốt để nghiệp vụ bảo hiểm học sinh phát huy chức năng của mình, đó là trợ giúp về mặt tài chính khi học sinh gặp rủi ro, tai nạn hay rủi ro khác, góp phần chăm sóc sức khỏe toàn diện cho học sinh vừa dựa trên tính cộng đồng của đông đảo học sinh, vừa dựa trên tính năng động chủ quan của các DNBH, làm cho phụ huynh học sinh yên tâm hơn để lao động, sản xuất. Bên cạnh đó, DNBH không thể bỏ qua việc đánh giá công tác bồi thường năm trước của chính doanh nghiệp mình. Năm trước, doanh nghiệp đã bồi thường bao nhiêu, với chất lượng đời sống người dân đang đi lên thì bên cạnh đó tiềm ẩn những rủi ro tai nạn nào mà học sinh có khả năng gặp phải. Nếu làm tốt công tác giám định rủi ro trước khi chấp nhận bảo hiểm, các đối tượng bảo hiểm có tỷ lệ bồi thường của năm trước cao, doanh nghiệp nên xem xét tăng phí; không chấp nhận bảo hiểm đối với nghiệp vụ bảo hiểm tự nguyện, điều chỉnh phạm vi bảo hiểm, điều chỉnh STBH để hạn chế sự trục lợi của khách hàng. Biểu phí được xây dựng lên phải đảm bảo được khả năng đáp ứng của người dân, đảm bảo quy luật “ số đông bù số ít” để tỷ lệ tham gia bảo hiểm được cao nhất; đồng thời mức trách nhiệm của DNBH phải phù hợp, không quá cao dẫn đến tình trạng thua lỗ của DNBH, không quá thấp để gia đình các em không đủ trang trải tiền viện phí, thuốc men và không ổn định được cuộc sống nếu không may bị tai nạn. Bước 2: Tiến hành tuyên truyền quảng cáo. Đây là kênh tuyên truyền rất hữu hiệu và thường đạt hiệu quả rất cao vì ban giám hiệu các trường nắm rõ hơn ai hết về hoàn cảnh gia đình các em học sinh, khả năng tham gia bảo hiểm của các em, cùng với các cộng tác viên, các tổ đại lý đánh giá một cách chính xác nhất số lượng tham gia, khả năng gặp rủi ro... giúp DNBH kinh doanh có hiệu quả hơn. Ngoài ra, doanh nghiệp còn quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, truyền hình, loa đài... hay hình thức phát tờ rơi để mọi người đều biết đến và hiểu hơn về sản phẩm bảo hiểm này, từ đó có nhu cầu cho con em họ tham gia một cách tự nguyện và đều đặn. Bước 3: Tiến hành thu phí bảo hiểm. DNBH có thể tiến hành thu phí bảo hiểm bằng 3 phương thức: Từ cán bộ thu trực tiếp. Hệ thống đại lý chuyên nghiệp. Thu tại trường là phương pháp phổ biến hơn cả, nhà trường thu được phí bảo hiểm thì chuyển ngay phí thu được đến Công ty bảo hiểm. Bước 4: Công tác giám định, trả tiền bảo hiểm. Đây là công việc mang tính liên tục trong năm, được Tổng công ty Bảo hiểm Bảo Việt – một công ty coi bảo hiểm học sinh là một trong những nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống về con người - đặt lên hàng đầu với phương châm “ Phục vụ khách hàng một cách tốt nhất để đạt hiệu quả”. Một là, việc tiếp nhận hồ sơ giám định, giải quyết bồi thường các rủi ro của doanh nghiệp phải đúng qui trình, qui phạm, kiểm tra chặt chẽ nên loại trừ và ngăn chặn được việc làm không đúng nhằm đảm bảo chi phù hợp và công bằng với mức độ rủi ro của các tai nạn. Hai là, phối kết hợp với các phòng giáo dục, các cơ sở GD & ĐT đầu tư một số trang thiết bị phục vụ cho công tác đề phòng, hạn chế tổn thất ban đầu như tăng cường vật chất cho việc sơ cấp cứu tại trường, rút ngắn thời gian trả tiền bảo hiểm. Đặc biệt, là các trường hợp tử vong, tai nạn lớn đã có mặt kịp thời để ứng trước tiền bảo hiểm, chia buồn cùng gia đình và chi trả trực tiếp nhằm hỗ trợ giải quyết khó khăn cho gia đình nạn nhân. Chương II: Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm học sinh ở Bảo Việt Phú Thọ. Vài nét về Công ty Bảo Việt Phú Thọ. Bảo hiểm là một ngành dịch vụ tài chính có phạm vi hoạt động rộng liên quan đến mọi lĩnh vực trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh khác nhau. Thực tế trên thị trường thế giới, bảo hiểm đã được ra đời từ rất lâu nhưng do điều kiện kinh tế nước ta còn lạc._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26998.doc
Tài liệu liên quan