Tình hình triển khai sản phẩm An Sinh Giáo Dục của tổng Công ty Bảo Việt nhân thọ

LỜI NÓI ĐẦU Người Việt Nam chúng ta có câu: “Trẻ em như búp trên cành, biết ăn biết ngủ biết học hành là ngoan”, một đặc tính của người Việt là rất yêu trẻ con, vì thế mà cha mẹ thường dành cho con cái những gì tốt đẹp nhất của họ, mong muốn rằng con cái sau này sẽ có một tương lai được bảo đảm vững chắc cho dù có vấn đề gì xảy ra với bản thân họ đi nữa.Vì vậy, tổng công ty bảo hiểm đã cho ra đời chương trình bảo hiểm dành cho trẻ em-An Sinh Giáo Dục và được đón nhận nồng nhiệt bởi lẽ nó không

doc69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1374 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình triển khai sản phẩm An Sinh Giáo Dục của tổng Công ty Bảo Việt nhân thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chỉ mang tính tiết kiệm, bảo vệ cho đối tượng trẻ em mà cho cả phụ huynh - người chủ hợp đồng, nếu có rủi ro xảy ra đối với chủ hợp đồng trẻ em đó vẫn được bảo đảm. Nghĩa là sản phẩm này đã đáp ứng được nguyện vọng của nhiều người, được thể hiện tình cảm với con cái, xây dựng quỹ tài chính độc lập để các khoản chi không ảnh hưởng đến nhau, là hành trang để cho con vững bước vào đời, An sinh giáo dục không chỉ mang tính kinh tế mà còn mang tính xã hội đó là tính nhân văn cao cả. Bảo đảm cho trẻ em đến tuổi trưởng thành, tạo dựng cho con cái mình một tương lai vững chắc về mặt tài chính, được thể hiện tình thương yêu đối với con cái đó chính là mong muốn của các bậc cha mẹ - điều này giải thích tại sao sản phẩm An sinh giáo dục luôn là sản phẩm được bán chạy nhất trong các công ty Bảo hiểm. Nhận thức được tầm quan trọng của sản phẩm An Sinh Giáo Dục, em đã tiến hành nghiên cứu đề tài “ Tình hình triển khai sản phẩm An Sinh Giáo Dục của tổng công ty Bảo Việt nhân thọ” và đưa ra ý kiến nhằm tiếp tục phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh của sản phẩm An Sinh Giáo Dục. Mặc dù bản thân em đã rất cố gắng nhưng do còn thiếu kinh nghiệm nên trong chuyên đề tốt nghiệp không tránh khỏi những thiếu xót, em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô giáo trong khoa nói chung và cô giáo Nguyễn Ngọc Hương nói riêng để chuyên đề hoàn chỉnh hơn về mặt lý luận và mang tính khả thi hơn trong thực tiễn hoạt động kinh doanh của công ty. Phần I: Khái quát về bảo hiểm nhân thọ I. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ: 1. Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ: 1.1. Trên thế giới: BHNT là sự cam kết giữa người mua bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đó định trước xảy ra (người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến một thời điểm nhất định), còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói cách khác, BHNT là quá trình bảo hiểm các rủi ro có liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người. Đối tượng tham gia BHNT rất rộng, bao gồm mọi người ở các lứa tuổi khác nhau. Lịch sử ra đời của BHNT khá sớm. Hợp đồng BHNT đầu tiên trên thế giới ra đời năm 1583, do công dân Luân Đôn là ông William Gybbom tham gia. Phí bảo hiểm ông đóng lúc đó là 32 bảng Anh, khi ông chết trong năm đó, người thừa kế của ông được hưởng 400 bảng Anh. Năm 1759, Công ty BHNT ra đời đầu tiên ở Philadelphia (Mỹ). Công ty này đến nay vẫn còn hoạt động, nhưng lúc đầu nó chỉ bán bảo hiểm cho các con chiên ở nhà thờ của mình. Năm 1762, ở Anh thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ Equitable. Đây là công ty đầu tiên bán các hợp đồng bảo hiểm rộng rãi cho nhân dân và áp dụng nguyên tắc phí bảo hiểm không đổi trong suốt thời gian bảo hiểm. Năm 1812, một công ty bảo hiểm nhân thọ nữa được thành lập ở Bắc Mỹ. Năm 1860, bắt đầu xuất hiện hệ thống mạng lưới đại lý bán bảo hiểm nhân thọ. Ở Châu Á, các công ty BHNT ra đời đầu tiên ở Nhật Bản. Năm 1868 công ty bảo hiểm Meiji của Nhật ra đời và đến năm 1888 và 1889, 2 công ty khác: Kyoei và Nippon ra đời và phát triển cho đến ngày nay. Trên thế giới, BHNT là loại hình bảo hiểm phát triển nhất, năm 1985 doanh thu phí BHNT mới chỉ đạt 63.5 tỷ đô la, năm 1989 đã lên tới 1.210,2 tỷ và năm 1993 con số này là 1.647 tỷ, chiếm gần 48% tổng phí bảo hiểm. Hiện nay có 5 thì trường BHNT lớn nhất thế giới là: Mỹ, Nhật Bản, CHLB Đức, Anh, Pháp. Theo số liệu thống kê năm 1993, phí BHNT của 5 thị trường thể hiện bảng sau: Cơ cấu phí BHNT của 5 thị trường lớn nhất thế giới năm 1993: Tên nước Tổng doanh thu phí bảo hiểm (triệu USD) Cơ cấu phí bảo hiểm (%) Nhân thọ Phi nhân thọ 1. Mỹ 522,468 41,44 58,56 2. Nhật Bản 320,143 73,86 26,14 3. Đức 107,403 39,38 60,62 4. Anh 102,360 64,57 35,43 5. Pháp 84,303 56,55 43,65 (Nguồn: Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, tháng 8 năm 1996) Sở dĩ BHNT phát triển nhanh, doanh thu phí bảo hiểm ngày càng tăng vì loại hình bảo hiểm này có vai trò rất lớn. Vai trò của BHNT không chỉ thể hiện trong từng gia đình và đối với từng cá nhân trong việc góp phần ổn định cuộc sống, giảm bớt khó khăn về tài chính khi gặp phải rủi ro, mà còn thể hiện rõ trên phạm vi toàn xã hội. Trên phạm vi xã hội, BHNT góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài, huy động vốn trong nước từ nguồn tiền mặt nhà rỗi nằm trong dân cư. Nguồn vốn này không chỉ có tác dụng đầu tư dài hạn, mà còn góp phần thực hành tiết kiệm, chống lạm phát và tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. 1.2 Tại Việt Nam: Với nhận thức sâu sắc về vai trò và tầm quan trọng của bảo hiểm nhân thọ, trong những năm qua Chính phủ và Bộ Tài chính rất quan tâm phát triển nghiệp vụ này. Với sự ra đời của công ty bảo hiểm nhân thọ, chính thức đầu tiên ở Việt Nam năm 1996 đã khẳng định rõ sự quan tâm của các cơ quan Nhà nước tầm vĩ mô. Mặc dù chúng ta mới tiến hành nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ gần ba năm, nhưng trong thực tế bảo hiểm nhân thọ đã xuất hiện ở Việt Nam từ rất sớm dưới nhiều hình thức khác nhau. Trước năm 1954, ở miền Bắc, những người làm việc cho Pháp đã được bảo hiểm và một số gia đình đã được hưởng quyền lợi bảo hiểm của các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ này. Các hợp đồng bảo hiểm này đều do các công ty bảo hiểm của Pháp trực tiếp thực hiện. Trong những năm 1970 - 1971 ở miền Nam công ty Hưng Việt bảo hiểm đã triển khai một số loại hình bảo hiểm như “An sinh giáo dục”, “Bảo hiểm trường sinh” (Bảo hiểm nhân thọ trọn đời), “Bảo hiểm tử kỳ thời hạn 5 - 10 - 20 năm”, nhưng công ty này chỉ hoạt động từ một đến hai năm nên các nghiệp vụ bảo hiểm không được biết đến rộng rãi. Năm 1987, Bảo Việt đã có đề án “Bảo hiểm nhân thọ và việc vận dụng vào Việt Nam”, nhưng vào lúc đó điều kiện đất nước còn gặp nhiều khó khăn như: - Tỷ lệ lạm phát rất cao và không ổn định. - Thu nhập của nhân dân chỉ đủ để chi tiêu cho những nhu cầu tối thiểu thường ngày, phần tiết kiệm rất ít. - Chưa có điều kiện để công ty bảo hiểm hoạt động trong lĩnh vực đầu tư. Công ty bảo hiểm lúc đó chưa được phép sử dụng quỹ bảo hiểm đi đầu tư, môi trường đầu tư chưa phát triển. - Chưa có những qui định mang tính chất pháp lý để điều chỉnh mối quan hệ giá công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, bảo vệ quyền lợi cho người được bảo hiểm và khả năng thanh toán của công ty bảo hiểm. Với những khó khăn trên đã không cho phép công ty Bảo Việt phát triển nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ. Thay cho bảo hiểm nhân thọ, năm 1990, Bộ Tài chính cho phép công ty Bảo Việt triển khai “Bảo hiểm sinh mạng con người thời hạn 1 năm”.Thực tế triển khai nghiệp vụ này cho thấy: - Việc lo xa cho gia đình khi không may người chủ gia đình bị mất mà chỉ tính đến trong vòng 1 năm là không hấp dẫn. Tâm lý người tham gia loại hình bảo hiểm này cũng không thoải mái. Và do đó loại hình bảo hiểm này chỉ đáp ứng được nhu cầu cho những người già. - Mọi người tham gia bảo hiểm đều thắc mắc, nếu không gặp rủi ro có được nhận lại gì không? Với thực tế trên, cùng với việc đánh giá các điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam trong những năm đầu thập kỷ 90, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam đã bắt đầu tiến hành nghiên cứu triển khai nghiệp bảo hiểm nhân thọ với hai loại hình mang tính chất tiết kiệm từ cuối năm 1993. Đến tháng 1 năm 1994, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam mới chính thức trình Bộ Tài chính dự án thành lập công ty Bảo hiểm nhân thọ. Với những yêu cầu về quản lý quỹ bảo hiểm nhân thọ, Bộ Tài chính đã ký quyết định số 568/QĐ/TCCB ngày 22/6/1996 thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ trực thuộc Bảo Việt. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt mới trong sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam. 2. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ: Bảo hiểm là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông với một số ít trong số họ phải gánh chịu những rủi ro. Có thể nói nguyên tắc này lần đầu tiên được ghi vào lịch sử là năm 1583, ở thị trường Luân đôn một nhóm người đã thoả thuận góp tiền và số tiền này sẽ được trả cho người nào trong số họ bị chết trong 1 năm. Đây cũng là mầm mống của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ (BHNT). Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro do nhiều nguyên nhân, ví dụ như: - Các rủi ro do môi trường thiên nhiên: Bão, lụt, động đất, hạn hán... Các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ và phát triển của khoa học kỹ thuật. Khoa học kỹ thuật phát triển, một mặt thúc đẩy sản5 xuất và tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống con người nhưng mặt khác cũng gây ra nhiều tai nạn bất ngờ như tai nạn ôtô, hàng không , tai nạn lao động... Các rủi ro do môi trường xã hội. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ra rủi ro cho con người, khi xã hội càng phát triển thì con người càng có nguy cơ gặp nhiều rủi ro như thất nghiệp, tệ nạn xã hội, lạm phát... Bất kể là do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con người những khó khăn trong cuộc sống như nguy hại đến bản thân, hao tổn tài chính gia đình... làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội. Để đối phó với những rủi ro con người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát cũng như khắc phục những hậu quả do rủi ro gây ra. Đó là nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro. + Nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp né tránh rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp này thường được sử dụng để ngăn chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro. Tuy nhiên là biện pháp này đã giúp chúng ta ngăn chặn và giảm thiểu rất nhiều rủi ro trong cuộc sống nhưng khi rủi ro xảy ra chúng ta không ngăn ngừa hết được hậu quả. + Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận rủi ro và bảo hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra với mục đích khắc phục các hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có. Khi chấp nhận rủi ro thì con người phải đối phó với những khó khăn không những cho bản thân mà còn về mặt tài chính của gia đình nữa cho nên bảo hiểm là phương pháp tốt hơn để đối phó với rủi ro. Bảo hiểm là một phần quan trọng trong các chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan điểm của các nhà quản lý rủi ro, bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Theo quan điểm xã hội bảo hiểm không chỉ chuyển giao rủi ro mà còn là sự giảm rủi ro do việc tập trung một số lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về các tổn thất khi chúng xảy ra. Bảo hiểm là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra, có hiệu quả nhất. Như vậy, bảo hiểm ra đời là đòi hỏi tất yếu khách quan của cuộc sống con người. Sự ra đời và phát triển của BHNT đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển cuả nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham gia BHNT trở thành một nhu cầu tất yếu của người dân các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển. ở châu á, những năm gần đây BHNT phát triển hết sức mạnh mẽ, thực hiện chức năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, tạo nguồn đầu tư dài hạn cho sự phát triển kinh tế- xã hội, giảm bớt tình trạng vay vốn nước ngoài với lãi suất cao. Theo số liệu của Thời báo kinh tế thì trong năm 2008 doanh thu phí BHNT đạt 10.339 tỷ đồng, chiếm 0,88% GDP. BHNT giúp tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước, góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội như vấn đề thất nghiệp, vấn đề giáo dục...Hiện nay hầu hết các công ty lớn trên thế giới đều tham gia BHNT nhằm duy trì hoạt động của công ty, bù đắp phần thiệt hại do rủi ro trong trường hợp người chủ công ty phải ngừng làm việc do tử vong hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn. Trong điều kiện kinh tế Việt nam, trải qua hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng phấn khởi và có ý nghĩa rất quan trọng. Đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dài, tạo ra được những cơ sở vật chất thuận lợi cho sự nghiệp phát triển đất nước, cho phép chúng ta chuyển sang thời kỳ mới: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội văn minh". Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 8 đến 9% và tốc độ tiêu dùng thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thì tiết kiệm trong dân sẽ không ngừng tăng cả về số tuyệt đối và tỷ trọng so với GDP. Đa số với người dân, ngoài khả năng gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng thì thường rất ít khả năng để đầu tư những khoản tiền nhàn rỗi. Như vậy cùng với việc tăng nhanh số lượng và tỷ lệ tiết kiệm trong dân, nhà nước cần phải có giải pháp, chính sách và công cụ để huy động mạnh nguồn vốn trong dân cho đầu tư phát triển. BHNT từ khi ra đời và triển khai các nghiệp vụ BHNT hỗn hợp mang tính chất vừa bảo hiểm vừa tiết kiệm đã và đang huy động được một lượng vốn không nhỏ trong dân. Tuy bước đầu, lượng người tham gia bảo hiểm chưa lớn, số hợp đồng tham gia ở mức trách nhiệm cao cũng chưa nhiều, nhưng đã mở ra thêm cho người dân một cách thức tiết kiệm mới đồng thời góp phần vào phát triển nguồn vốn, tăng đầu tư cho đất nước. II. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản: BHNT đáp ứng đước rất nhiều mục đích khác nhau. Đối với những người tham gia mục đích chính của họ hoặc là để bảo vệ con cái và những người ăn theo tránh khỏi những nỗi bất hạnh về cái chết bất ngờ của họ hoặc tiết kiệm để đáp ứng các nhu cầu về tài chính trong tương lai...Do vậy, người được bảo hiểm đã thực hiện đa dạng hoá các sản phẩm BHNT, thực chất đa dạng hoá các loại hợp đồng nhằm đáp ứng và thoả mãn mọi nhu cầu của người tham gia bảo hiểm. Trong thực tế, có 3 loại BHNT cơ bản: - Bảo hiểm trong trường hợp tử vong - Bảo hiểm trong trường hợp sống - BHNT hỗn hợp Ngoài ra, người được bảo hiểm còn áp dụng các điều khoản bổ sung cho các loại hợp đồng BHNT cơ bản như: - Bảo hiểm tai nạn - Bảo hiểm sức khoẻ - Bảo hiểm không nộp phí khi thương tật - Bảo hiểm cho người đóng phí v.v... Thực chất, các điều khoản bổ sung không phải là BHNT, vì không phụ thuộc vào sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người, mà là bảo hiểm các rủi ro khác có liên quan đến con người. Tuy nhiên, đôi khi người tham gia bảo hiểm vẫn thấy rất cần thiết phải tham gia để bổ sung cho hợp đồng cơ bản (hợp đồng tiêu chuẩn) 1. Bảo hiểm trong trường hợp tử vong: Đây là loại hình phổ biến nhất trong BHNT và được chia thành 2 nhóm. a, Bảo hiểm tử kỳ (còn được gọi là bảo hiểm tạm thời hay bảo hiểm sinh mạng có thời hạn) loại hình bảo hiểm này được ký kết bảo hiểm cho cái chết xảy ra trong thời gian đã quy định của hợp đồng. Nếu cái chết không xảy ra trong thời gian đó thì người được bảo hiểm không nhận được bất kỳ một khoản hoàn phí nào từ số phí bảo hiểm đã đóng. Điều đó cũng có nghĩa là người bảo hiểm không phải thanh toán STBH cho người được bảo hiểm. Ngược lại, nếu cái chết xảy ra trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng, thì người bảo hiểm phải có trách nhiệm thanh toán STBH cho người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm được chỉ định. Đặc điểm: - Thời hạn bảo hiểm xác định - Trách nhiệm và quyền lợi mang tính tạm thời - mức phí bảo hiểm thấp vì không phải lập nên quỹ tiết kiệm cho người được bảo hiểm Mục đích: - Đảm bảo các chi phí mai táng chôn cất - Bảo trợ cho gia đình và người thân trong một thời gian ngắn - Thanh toán các khoản nợ nần về những khoản vay hoặc thế chấp của người được bảo hiểm Bảo hiểm tử kỳ còn được đa dạng hoá thành các loại hình sau: - Bảo hiểm tử kỳ cố định: Có mức phí bảo hiểm và STBH cố định, không thay đổi trong suốt thời gian có hiệu lực của hợp đồng. Mức phí thấp nhất và người được bảo hiểm không thanh toán khi hết hạn hợp đông. Hợp đồng hết hiệu lực nếu sau ngày gia hạn hợp đồng không nộp phí bảo hiểm. Loại này chủ yếu nhằm thanh toán cho các khoản nợ tồn đọng trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong. - Bảo hiểm tử kỳ có thể tái tục: Loại này có thể được tái tục vào ngày kết thúc hợp đồng và không yêu cầu có thêm bằng chứng nào về sức khoẻ của người được bảo hiểm, nhưng có sự giới hạn về độ tuổi (thường độ tuổi tối đa là 65). Tại lúc tái tục, phí bảo hiểm tăng lên vì độ tuổi của người được bảo hiểm lúc này tăng lên. Ví dụ: Anh A có độ tuổi là 45, anh không tham gia HĐBH tử kỳ với thời hạn 20 năm, mà chỉ tham gia với thời hạn 5 năm sau đó tái tục, sau mỗi thời kỳ là 5 năm. Nhưng sau mỗi lần tái tục phí sẽ tăng lên vì độ tuổi của anh ta tăng dần. - Bảo hiểm tử kỳ có thể chuyển đổi: Đây là loại hình bảo hiểm tử kỳ cố định nhưng cho phép người được bảo hiểm có sự lựa chọn chuyển đổi một phần hay toàn bộ hợp đồng thành một hợp đồng BHNT trọn đời hay BHNT hỗn hợp tại một thời điểm nào đó khi hợp đồng đang còn hiệu lực. Phí bảo hiểm được tính dựa trên hợp đồng BHNT trọn đời hay hỗn hợp mới theo đọ tuổi của người có hợp đồng. Loại hợp đồng này phát hành như một sự bảo chứng cho khoản tiền vay. Đồng thời nó còn nhằm thực hiện yếu tố tiết kiệm trong tương lai của người được bảo hiểm. - Bảo hiểm tử kỳ giảm dần: Đây là loại hình bảo hiểm mà có một bộ phận của STBH giảm dần hàng năm theo một mực quy định. Bộ phận này giảm tới 0 vào cuối kỳ hạn hợp đồng. Đặc điểm của loại này là: + Phí bảo hiểm giữ ở mức cố định + Phí thấp hơn bảo hiểm tử kỳ cố định + Giai đoạn nộp phí ngắn hơn toàn bộ thời hạn hợp đồng để tránh việc thanh toán vào cuối thời hạn của hợp đồng khi mà số tiền bảo hiểm còn rất nhỏ. Loại hình bảo hiểm này đáp ứng nhu cầu của người tham gia, khi họ phải nợ một khoản tiền phải tra dần chẳng hạn: Anh C ở độ tuổi 31, anh mua 1 chiếc ô tô theo phương thức trả góp 10 năm. Đơn giá chiếc xe mua theo phương thức này là 100.000.000 VND, mỗi năm anh phải trả người bán ô tô 10.000.000 VND. Anh lựa chọn mua bảo hiểm ? + Loại hình bảo hiểm tử kỳ giảm dần + Số tiền bảo hiểm: 120.000.000 VND Trong đó có: 100.000.000 VND giảm dần hàng năm. + Thời hạn hợp đồng là 10 năm. Như vậy, mỗi năm STBH giảm 10.000.000 VND tương ứng với số nợ giảm đi 10.000.000 mà anh C đã trả . Nếu chẳng may năm 35 tuổi anh bị chết, quyền lợi bảo hiểm mà gia đình anh được nhận từ công ty bảo hiểm là: 70.000.0000 VND. Với số tiền này, gia đình anh vẫn đủ để trả nợ và có tiền chi mai táng, khắc phục khó khăn sau cái chết của anh. - Bảo hiểm tử kỳ tăng dần: Loại này được phát hành nhằm giúp người tham gia bảo hiểm có thể ngăn chặn được yếu tố lạm phát của đồng tiền. Có nghĩa STBH thực trong hợp đồng bị giảm do đồng tiền sụt giá trong 1 khoảng thời gian. Để ngăn chặn có thể: + Tăng số tiền bảo hiểm theo 1 tỷ lệ % được lập hàng năm + Hoặc đưa ra các loại hợp đồng ngắn hạn và sau đó tái tục với một số tiền bảo hiểm tăng dần. Như vậy, loại hợp đồng này có đặc điểm là phí bảo hiểm sẽ tăng dần theo STBH và phải dựa trên tuổi tác của người được bảo hiểm khai tái tục hợp đồng. - Bảo hiểm thu nhập gia đình: Loại hình bảo hiểm này nhằm đảm bảo thu nhập cho 1 gia đình khi không may người trụ cột trong gia đình bị chết. Quyền lợi bảo hiểm mà gia đình nhận được sau cái chết của người trụ cột có thể: + Nhận được toàn bộ (trọn gói) + Nhận được từng phần dần dần cho đến khi hết hạn hợp đồng Nếu người được bảo hiểm còn sống đến hết hạn hợp đồng, gia đình sẽ không nhận được bất kỳ một khoản thanh toán nào từ công ty bảo hiểm. - Bảo hiểm thu nhập gia đình tăng lên: Loại hình bảo hiểm này cũng nhằm tránh yếu tố lạm phát của đồng tiền. Đảm bảo các khoản thanh toán của công ty bảo hiểm cho gia đình không may có người được bảo hiểm bị chết, tương ứng với STBH khi mới ký hợp đồng. - Bảo hiểm tử kỳ có điều kiện: Điều kiện ở đây là: việc thanh toán trợ cấp chỉ được thực hiện khi người được bảo hiểm bị chết, đông thời người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm được chỉ định trong hợp đồng phải còn sống. b, Bảo hiểm nhâm thọ trọn đời (Bảo hiểm trường sinh) Loại hình bảo hiểm này cam kết chi tra cho người thụ hưởng bảo hiểm một STBH đã được ấn định trên hợp đồng, khi người được bảo hiểm chết vào bất cứ lúc nào kể từ ngày ký hợp đồng. Phương châm của người bảo hiểm ở đây là: “ bảo hiểm đến khi chết”. Ngoài ra, có một số trường hợp loại hình bảo hiểm này còn đảm bảo chi trả cho người được bảo hiểm ngay cả khi họ sống đến 100 tuổi. Đặc điểm: - STBH trả một lần khi người được bảo hiểm bị chết - Thời hạn bảo hiểm không xác định - Phí bảo hiểm có thể đóng một lần hoặc đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt quá trình bảo hiểm - Phí bảo hiểm cao hơn so với bảo hiểm sinh mạng có thời hạn, vì rủi ro chết chắc chắn sẽ xảy ra, nên STBH chắc chắn phải chi trả. - BHNT trọn đời là loại hình bảo hiểm dài hạn, phí đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt quá trình bảo hiểm, do đó đã tạo nên một khoản tiết kiệm cho người thụ hưởng bảo hiểm vì chắc chắn người bảo hiểm sẽ chi trả STBH. Mục đích: - Đảm bảo các chi phí mai táng, chôn cất - Bảo đảm thu nhập để ổn định cuộc sống gia đình - Giữ gìn tài sản, tạo dựng và khởi nghiệp kinh doanh cho thế hệ sau. Hiện nay, loại hình bảo hiểm này thường có các loại hợp đồng sau: - BHNT trọn đời phi lợi nhuận: loại này có mức phí và số tiền bảo hiểm cố định suốt cuộc đời. Vì vậy, khi thanh toán số tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng không có khoản lợi nhuận được chia. - BHNT trọn đời có tham gia chia lợi nhuận: Loại hợp đồng này cũng tương tự như loại trên, nhưng khi thanh toán số tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng quyền lợi, họ được chia một phần lợi nhuận như đã thoả thuận trong hợp đồng. - BHNT trọn đời đóng phí liên tục: Loại này yêu cầu người được bảo hiểm phải đóng phí liên tục cho tới khi chết. Vì đóng phí liên tục nên số phí phải đóng phí liên tục cho tới khi chết. Vì đóng phí liên tục nên số phí phải đóng hàng năm sẽ thấp hơn so với các loại hợp đồng khác và mức phí này là bằng nhau giữa các năm Với mực phí phải đóng bằng nhau giữa các năm thì thời kỳ đầu, người bảo hiểm thu được số phí lớn hơn mực cần thiết để chi trả cho những người chết sớm. Sau một khoảng thời gian, xác suất tử vong của những người tham gia sẽ ngày càng cao hơn, số tiền chi trả tất yếu sẽ tăng thêm. Như vậy, khoản tiền dôi ra trong thời kỳ đầu cùng với số lãi thu được sẽ bù đắp để chi trả cho giai đoạn sau và hợp đồng được duy trì ổn định, an toàn. - BHNT trọn đời phí đóng một lần: Đây là loại hình bảo hiểm mà người được bảo hiểm chỉ đóng phí một lần khi ký hợp đồng, còn người bảo hiểm phải đảm bảo chi trả bất cứ lúc nào khi cái chết của người được bảo hiểm xuất hiện. Khoản phí đóng một lần là khá lớn nên người tham gia hạn chế. Loại hợp đồng này rất cổ điển, tuy nhiên nó vẫn được sử dụng để đáp ứng những nhu cầu của những người có thu nhập cao trong xã hội. Ví dụ: khi người thanh niên 25 tuổi ở Mỹ, mua bảo hiểm loại này với số tiền bảo hiểm là 1.000 ÚD, anh ta phải đóng phí 1 lần khi ký hợp đồng là 350 USD. Tương ứng với số tiền bảo hiểm 100.000 USD, anh ta phải đóng phí 35.000 USD. - BHNT trọn đời quy định số lần đóng phí bảo hiểm: Loại này không đòi hỏi người được bảo hiểm phải đóng phí liên tục hay 1 lần, mà quy định rõ số năm đóng phí bảo hiểm. Ví dụ, đóng làm 5 lần, 10 lần, 15 lần, hoặc đóng đến một độ tuổi quy định, chẳng hạn đến 60 hoặc 65 tuổi. Tổng số phí đóng mỗi lần phụ thuộc vào số lần đóng phí. Nếu người được bảo hiểm chết trước khi hết thời hạn đóng phí thì quyền lợi bảo hiểm sẽ được thanh toán cho người thụ hưởng bảo hiểm và không phải trả thêm các khoản phí còn chưa trả hết. Loại hợp đồng này rất phù hợp với những người sau khi nghỉ hưu, thu nhập giảm, việc tiếp tục đóng phí bảo hiểm là một gánh nặng đối với họ, trong khi họ vẫn có nhu cầu được bảo hiểm. 2. Bảo hiểm trong trường hợp sống (còn gọi là bảo hiểm sinh kỳ): Thực chất của loại hình bảo hiểm này là người được bảo hiểm cam kết chi trả những khoản tiền đều đặn trong một khoảng thời gian xác định hoặc trong suốt cuộc đời người tham gia bảo hiểm. Nếu người được bảo hiểm chết trước ngày đến hạn thanh toán thì sẽ không được chi trả bất kỳ một khoản tiền nào. Đặc điểm: - Trợ cấp định kỳ cho người được bảo hiểm trong thời gian xác định hoặc cho đến khi chết - Phí bảo hiểm đóng 1 lần - Nếu trợ cấp định kỳ đến khi chết thì thời gian không xác định Mục đích: - Đảm bảo thu nhập cố định sau khi về hưu hay tuổi cao sức yếu - Giảm bớt nhu cầu phụ thuộc vào phúc lợi xã hội hoặc con cái khi tuổi già - Bảo trợ mức sống trong những năm tháng còn lại của cuộc đời Như vậy, với một khoản phí bảo hiểm phải nộp khi ký hợp đồng mà người tham gia lựa chọn, người bảo hiểm sẽ thanh toán một khoản trợ cấp định kỳ hàng tháng cho người được bảo hiểm. Nếu khoản trợ cấp này thanh toán định kỳ cho đến hết đời, người ta gọi là “ Bảo hiểm niên kim nhân thọ trọn đời”. Nếu chỉ được thanh toán trong một thời kỳ nhất định người ta gọi là “bảo hiểm niên kinh nhân thọ tạm thời”. Loại hình bảo hiểm này rất phù hợp với những người khi về hưu hoặc những người không được hưởng tiền trợ cấp hưu trí từ BHXH đến độ tuổi tương ứng với độ tuổi về hưu đăng ký tham gia, để được hưởng những khoản trợ cấp định kỳ hàng tháng. Vì vậy, tên gọi “bảo hiểm tiền trợ cấp hưu trí”, “bảo hiểm tiền hưu”, “niên kim nhân thọ” v.v... được các công ty bảo hiểm vận dụng linh hoạt. 3. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp: Thực chất của loại hình bảo hiểm này là bảo hiểm cả trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong hay còn sống. Yếu tố tiết kiệm và rủi ro đang xen nhau vì thế nó được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các nước trên thế giới. Đặc điểm: - STBH được trả khi: hết hạn hợp đồng hoặc người được bảo hiểm tử vong trong thời hạn bảo hiểm - Thời hạn bảo hiểm xác định (thường là 5 năm, 10 năm, 20 năm....) - Phí bảo hiểm thường đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt thời hạn bảo hiểm. - Có thể chia lãi thông qua đầu tư phí bảo hiểm và cũng có thể được hoàn phí khi không có điều kiện tiếp tục tham gia. Mục đích: - Đảm bảo ổn định cuộc sống gia đình và người thân - Tạo lập quỹ giáo dục, hưu trí, trả nợ - Dùng làm vật thế chấp vay vốn hoặc khỏi nghiệp kinh doanh.. Khi triển khai BHNT hỗn hợp, các công ty bảo hiểm có thể đa dạng hoá loại sản phẩm này bằng các hợp đồng có thời hạn khác nhau, hợp đồng phi lợi nhuận, có lợi nhuận và các loại hợp đồng khác tuỳ theo tình hình thực tế. 4. Các điều khoản bảo hiểm bổ sung: Khi triển khai các loại hình BHNT, nhà bảo hiểm còn nghiên cứu, đưa ra các điểu khoản bổ sung để đáp ứng nhu cầu đa dạng của người dân. Có các điều khoản bổ sung sau đây thường hay được vận dụng: - Điều khoản bổ sung bảo hiểm nằm viện và phẫu thuật : có nghĩa là nhà bảo hiểm cam kết trả các chi phí nằm viện và phẫu thuật cho người được bảo hiểm khi họ bị ốm đau, thương tích. Tuy nhiên, nếu người được bảo hiểm tự gây thương tích, tự tử, mang thai và sinh nở...thì không được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Mục đích của điều khoản này nhằm trợ giúp người tham gia giảm nhẹ gánh nặng chi phí trong điều trị phẫu thuật, đặc biệt là trong các trưởng hợp ốm đau, thương tích bất ngờ. - Điều khoản bổ sung bảo hiểm tai nạn: Nhằm trợ giúp thanh toán chi phí trong điều trị thương tật, từ đó bù đắp sự mất mát hoặc giảm thu nhập do bị chết hoặc thương tích của người được bảo hiểm. Đìêu khoản bảo hiểm này có đặc điểm là bảo hiểm khá toàn diện các hậu quả tai nạn như: Người được bảo hiểm bị tàn phế, thương tật toàn bộ, thương tích tạm thời và bị tai nạn sau đó bị chết. Nhưng trường hợp tự thương, tai nạn do nghiện rượu, ma tuý, tự tử...sẽ không được hưởng quyền lợi bảo hiểm. - Điều khoản bổ sung bảo hiểm sức khoẻ: Thực chất của điều khoản này là nhà bảo hiểm sẽ cam kết thanh toán khi người được bảo hiểm bị các chứng bệnh hiểm nghèo như: + Đau tim + Ung thư + Suy gan + Suy thận + Suy hô hấp... Mục đích tham gia bảo hiểm ở đây nhằm có được những khoản tài chính nhất định để trợ giúp thanh toán các khoản chi phí y tế lớn và góp phần giải quyết, lo liệu các nhu cầu sinh hoạt ngay trong thời gian điều trị. Ngoài ra, trong một số hợp đồng BHNT, các công ty bảo hiểm còn đưa ra những điểm bổ sung khác nhau như: Hoàn phí bảo hiểm, miễn thanh toán phí khi bị tai nạn, thương tật v.v... nhằm tăng tính hấp dẫn để thu hút người tham gia. Mặc dù có mức phí cao hơn, nhưng các HĐBH nhân thọ có các điều khoản bổ sung đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người tham gia bảo hiểm. Phần II: Những nội dung cơ bản về sản phẩm An Sinh Giáo Dục I. Quá trình hình thành và phát triển của sản phẩm An Sinh Giáo Dục: Theo quyết định số 296 / TC / TCNH ngày 20 / 3 / 1996 của Bộ tài chính, khi bước vào triển khai loại hình BHNT Bảo Việt đã tiến hành triển khai hai loại hình BH đó là BHNT có thời hạn 5, 10 năm (BVNA1, BVNA2/1996) và bảo hiểm trẻ em-chương trình đảm bảo cho trẻ em đến tuổi trưởng thành (BVNA3/1996). Sản phẩm “chương trình bảo đảm cho trẻ em đến tuổi trưởng thành”, đây là tên ban đầu của sản phẩm An Sinh giáo dục (BVNA3/1996) khi mới đưa vào triển khai. Về bản chất sản phẩm này thuộc nhóm bảo hiểm hỗn hợp, nghĩa là loại hình được bảo hiểm cả trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong hay còn sống yếu tố tiết kiệm và rủi ro đan xen lẫn nhau. Vì thế nó rất phù hợp với đối tượng trẻ em, bởi lẽ khi mua sản phẩm bảo hiểm này các bậc phụ huynh hoàn toàn không mong muốn rủi ro xảy ra đối với con em mình mà chỉ mong muốn đó là một khoản tiết kiệm dành cho những kế hoạch trung hay dài hạn cho con cái sau này. Đối tượng được bảo hiểm ở đây là trẻ em cho nên tính tiết kiệm được đề cao hơn tính rủi ro. Trong sản phẩm bảo hiểm này có một số đặc tính sau: - Khi trẻ em được bảo hiểm đến tuổi trưởng thành (năm 18 tuổi) Bảo Việt Nhân Thọ sẽ trả số tiền đã cam kết trong hợp đồng. - Nếu trẻ em không may bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn, Bảo Việt ngừng thu phí và trả trợ cấp mỗi năm bằng 1/4 số tiền bảo hiểm cho đến năm trẻ em tròn 18 tuổi. - Nếu trẻ em không may bị chết, Bảo Việt Nhân Thọ sẽ hoàn trả 80 % số phí đã nộp. - Nếu người chủ hợp đồng bảo hiểm bị chết hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn, công ty sẽ ngừng thu phí bảo hiểm và hợp đồng vẫn tiếp tục có hiệu lực. - Ngoài số tiền bảo hiểm, tuỳ thuộc vào kết quả đầu tư công ty bảo hiểm sẽ trả cho người được bảo hiểm một khoản lãi trích từ kết quả kinh doanh tại nghiệp vụ này vào ngày kết thúc hợp đồng được gọi là bảo tức. -Trong thời hạn bảo hiểm khi hợp đồng có hiệu lực từ 2 năm trở lên, người tham gia bảo hiểm có thể huỷ bỏ hợp đồng và nhận được một số tiền gọi là giá trị giải ước. Kể từ ngày 15/5/1998, công ty Bảo Việt._. nhân thọ dừng bán sản phẩm (BVNA3/1996). Tuy nhiên, công ty vẫn duy trì hiệu lực hợp đồng cho đến hết thời hạn bảo hiểm. Thế vào đó công ty triển khai sản phẩm mới Bảo hiểm An Sinh Giáo Dục (BVNA6/1998).Thực chất đây là một bước cải tiến hoàn thiện sản phẩm của công ty BHNT bởi vì sản phẩm mới này về căn bản dựa trên cơ sở sản phẩm BHNT cũ có sửa đổi và hoàn thiện. Sang năm 2001, đứng trước bối cảnh đó là việc nhà nước mở cửa thị trường BHNT nên công ty BHNT phải đối mặt với những thử thách mới, sự canh tranh của các công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoài, nhất là trong lĩnh vực bảo hiểm dành cho trẻ em, do đó đòi hỏi công ty không ngừng đổi mới và phát triển sản phẩm. Vì vậy, dựa trên cơ sở sản phẩm bảo hiểm cũ (BVNA6/1999) công ty đã cho ra đời sản phẩm mới bảo hiểm An Sinh Giáo Dục (BVNA9/2001) thay thế cho cho sản phẩm (BVNA6/1999). Không ngừng đổi mới và hoàn thiện sản phẩm đến đầu năm 2007 công ty ngừng triển khai sản phẩm (BVNA6/1999) và cho ra đời sản phẩm An Sinh Giáo Dục (BVNV23P/2007) thay thế cho sản phẩm cũ. Đây là sản phẩm bảo hiểm An Sinh Giáo Dục mới nhất của công ty hiện nay, với những tính năng ưu việt hơn sản phẩm cũ, hiện nay sản phẩm An Sinh Giáo Dục (BVNT23P/207) đang thu hút được số lượng lớn người tham gia, làm một trong những sản phẩm chiến lược của công ty. II. Đặc trưng cơ bản của sản phẩm An Sinh Giáo Dục: 1. Ý nghĩa của sản phẩm: Sản phẩm An sinh giáo dục là bảo đảm cho trẻ em tới tuổi trưởng thành. Chương trình này là một loại hình thuộc BHNT hỗn hợp nên nó mang rất nhiều ý nghĩa: - An sinh giáo dục: một giải pháp đầu tư cho tương lai, giúp con nhà nghèo có thể học đại học. Hiện nay có nhiều sinh viên phải bỏ dở việc học đại học hay đỗ đại học mà không được đi học, một trong những nguyên nhân là do chi phí phải nộp cùng các khoản đóng góp quá cao. Chi phí cho học hành trở thành vấn đề bức xúc đối với toàn xã hội cũng như các bậc phụ huynh mà phần lớn họ có mức thu nhập thấp. Nhà nước chủ trương không bao cấp mà thu học phí của sinh viên là thể hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” trong giáo dục. Nhiều gia đình ở nông thôn đã phải bán đất bán ruộng để đổi lấy một chỗ ngồi trên giảng đường cho con cái (đây là vấn đề đã được nêu ở trên một tờ báo). Làm sao để con em mình có tiền đi học đại học? Bạn có biết rằng chỉ với một vài ngàn đồng tiết kiệm mỗi ngày, con bạn có thể ngẩng cao đầu trong tương lai. Vậy giải pháp có tính khả thi và phù hợp với tất cả mọi người hiện nay là gì? Đó là An sinh giáo dục. - Sản phẩm An sinh giáo dục giúp cho mọi người thực hiện được mong ước cho tương lai và đảm bảo quyền lợi cho chính con cái và gia đình. - An sinh giáo dục mang ý nghĩa nhân văn, giáo dục sâu sắc Là một loại hình của BHNT hỗn hợp, nên người tham gia chương trình An sinh giáo dục chắc chắn sẽ nhận được số tiền vào một thời điểm nhất định trong tương lai dù rủi ro không xảy ra và nhận được một khoản lãi được gọi là bảo tức tích luỹ mà không phải chi ra một khoản tiền lớn cùng một lúc, chỉ tích luỹ dần dần. Hơn nữa sản phẩm này lại thể hiện tính nhân văn cao cả mà các loại hình bảo hiểm khác không thể hiện được. Có thể cùng nhận một khoản tiền như BHNT có thời hạn 5 năm, 10 năm nhưng nó mang một ý nghĩa to lớn hơn rât nhiều. Trong một xã hội nói chung và một gia đình nói riêng, các thế hệ đi trước thường có mối quan tâm đặc biệt đối với các thế hệ đi sau và sản phẩm bảo hiểm An sinh giáo dục đã thể hiện rõ sự quan tâm đặc biệt đó. Nó thể hiện sự chăm lo sâu sắc của ông bà, cha mẹ đối với con cháu và ngược lại, nó làm cho thế hệ trẻ chúng ta biết sống vì người khác, hiểu rõ hơn sự quan tâm của ông bà, cha mẹ để phấn đấu hơn trong học tập và rèn luyện. - An sinh giáo dục còn góp phần tạo nên một phong cách, tập quán và lối sống mới. Người tham gia bảo hiểm có thể bảo hiểm, tạo quyền lợi cho chính mình và con cháu mình. Điều đó thể hiện một nét sống đẹp là biết chăm lo cho con cái và biết tự lo cho chính bản thân. Cha mẹ tham gia chương trình An sinh giáo dục là một cách để giáo dục con cái mình và sống có trách nhiệm với người khác. - Tham gia bảo hiểm An sinh giáo dục là góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Vì “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai“ nên đầu tư cho giáo dục phải được coi là một trong những nhân tố then chốt cho sự phát triển, nó làm cho sự tiến bộ xã hội không ngừng được nâng cao. An sinh giáo dục là một trong những giải pháp huy động nguồn vốn dài hạn để đầu tư cho giáo dục từ việc tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch của mỗi gia đình. Đây là giải pháp góp phần xây dựng mục tiêu công bằng xã hội. Bảo đảm tương lai cho con em mình, cũng nên được coi là trách nhiệm của mỗi gia đình - tế bào của xã hội với chức năng cơ bản tạo ra thế hệ kế cận ưu tú hơn. - An sinh giáo dục là chưong trình bảo hiểm cho cả người tham gia bảo hiểm và người được bảo hiểm. Đây là một đặc trưng của bảo hiểm trẻ em vì khi ông ba, cha mẹ tham gia bảo hiểm An sinh giáo dục cho con em mình thì đồng thời cũng bảo hiểm cho bản thân bởi lẽ nếu có rủi ro xảy ra đối với chủ hợp đồng thì con em họ vẫn tiếp tục được bảo vệ mà không tiếp tục phải đóng phí, tất nhiên về mặt tình cảm là không thể bù đắp được nhưng trên phương diện tài chính thì có thể yên tâm rằng con em họ vẫn được bảo vệ. Đó là quyền lợi của người tham gia bảo hiểm và người được bảo hiểm. 2. Những nội dung cơ bản về sản phẩm An Sinh Giáo Dục: 2.1. Một số khái niệm về hồ sơ yêu cầu bảo hiểm: Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm: là mẫu đăng ký bảo hiểm do công ty bảo hiểm phát hành, người yêu cầu bảo hiểm phải điền đầy đủ và chính xác những thông tin liệt kê sẵn trên mẫu. Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm được xem là một phần của hợp đồng bảo hiểm. Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm, điều khoản và các phụ lục là những bộ phận cơ bản của hợp đồng bảo hiểm. Nội dung của hồ sơ yêu cầu: hồ sơ yêu cầu là một phần quan trọng của hợp đồng bảo hiểm. Người yêu cầu bảo hiểm phải kê khai trung thực mọi chi tiết về bản thân: tên, tuổi, giới tính, chỗ ở, sở thích; về tình trạng sức khoẻ, về điều kiện bảo hiểm mà mình lựa chọn theo mẫu đã in sẵn. Trên cơ sở giấy yêu cầu bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ đề nghị khám sức khoẻ và đưa ra quyết định có nhận bảo hiểm hay không. Nếu đồng ý chấp nhận bảo hiểm, công ty sẽ đưa ra một mức phí phù hợp. Sau khi nhận được số phí đầu tiên, công ty sẽ phát hành hợp đồng bao gồm điều khoản và các phụ lục. Một bản gửi lại cho khách hàng, một bản giữ lại ở công ty cùng với giấy yêu cầu bảo hiểm. Người chủ hợp đồng: Là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có độ tuổi từ 18 đến 60 vào thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng nhưng không quá 70 tuổi, là người kê khai giấy yêu cầu bảo hiểm, đồng thời là người kí hợp đồng và nộp phí bảo hiểm. Người được bảo hiểm: Là trẻ em không quá 15 tuổi vào thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng và được Bảo Việt Nhân Thọ chấp nhận bảo hiểm theo điều khoản và điều kiện của hợp đồng. Tên người được bảo hiểm được ghi trong giấy yêu cầu bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm. Tai nạn: Là một sự kiện hoặc một chuỗi sự kiện không bị gián đoạn gây ra do sự tác động bất ngờ của một vật chất hoặc một lực từ bên ngoài, không chủ định và ngoài ý muốn của người được bảo hiểm, bên mua bảo hiểm lên cơ thể người được bảo hiểm, bên mua bảo hiểm và gây ra thương tật hoặc tử vong, loại trừ bất cứ quá trình nào xảy ra do bệnh tật, tuổi tác hay sự thoái hoá. Sự kiện hoặc chuỗi sự kiện nêu trên phải là nguyên nhân trực tiếp và duy nhất gây ra thương tật hoặc tử vong cho người được bảo hiểm, bên mua bảo hiểm. Thương tật toàn bộ vĩnh viễn: Là tình trạng người được bảo hiểm hoặc bên mua bảo hiểm bị mất hoàn toàn hoặc không thể phục hồi được chức năng của: - Hai tay hoặc hai chân hoặc . . . - Một tay, một chân hoặc hai mắt hoặc . . . - Một tay, một mắt hoặc . . . - Một chân, một mắt hoặc . . . Giá trị giải ước (hay giá trị hoàn lại): Là số tiền bên mua bảo hiểm được nhận khi bên mua bảo hiểm yêu cầu huỷ hợp đồng hoặc khi hợp đồng chấm dứt hiệu lực theo các quy định trong điều khoản hợp đồng, trừ những trường hợp được qui định khác trong điều khoản hợp đồng. Số tiền bảo hiểm giảm: Là số tiền bảo hiểm được xác định lại trong trường hợp bên mua bảo hiểm yêu cầu dừng đóng phí bảo hiểm và tiếp tục duy trì hợp đồng. Phạm vi bảo hiểm: Do đây là loại hình BHNT nên phạm vi bảo hiểm phải gắn liền với cuộc sống của con người do vậy ta phải phân ra: -Sự kiện được bảo hiểm + Người được bảo hiểm sống đến đáo hạn hợp đồng bảo hiểm. + Thương tật toàn bộ vĩnh viễn: bị tai nạn và mất 2 trong 6 bộ phận quy định ở phần trên, + Rủi ro tử vong: đây là rủi ro có thể phát sinh do 2 nguyên nhân: chết do tai nạn hoặc chết cho bệnh tật. Bên cạnh những rủi ro được bảo hiểm, trong BHNT còn có quy định về rủi ro loại trừ. Việc đưa ra các rủi ro loại trừ nhằm hạn chế phạm vi trách nhiệm của nhà bảo hiểm, mặt khác gián tiếp giáo dục mọi người về ý thức tổ chức kỉ luật, tôn trọng pháp luật, có ý thức đề phòng và hạn chế rủi ro. - Rủi ro loại trừ xảy ra do một số nguyên nhân sau: + Hành động cố ý của người được bảo hiểm, bên mua bảo hiểm hoặc người được thừa kế + Hành động vi phạm pháp luật của người được bảo hiểm, bên mua bảo hiểm. + Bên mua bảo hiểm bị ảnh hưởng nghiêm trọng của rượu, bia, ma tuý hoặc các chất kích thích tương tự . + Do động đất, núi lửa v .v . . . + Do chiến tranh, bạo động v.v . . . 2.2. Trách nhiệm và quyền lợi bảo hiểm: 2.2.1. Trách nhiệm của các bên: * Trách nhiệm của bên mua bảo hiểm - Kí hợp đồng bảo hiểm: người tham gia trực tiếp kí hợp đồng bảo hiểm, cùng công ty bảo hiểm thoả thuận cam kết thực hiện đầy đủ các điều khoản trong hợp đồng. - Trách nhiệm khai báo rủi ro: Ngay khi kí hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm có trách nhiệm kê khai trung thực những yêu cầu của công ty bảo hiểm (kê khai tình trạng sức khoẻ). - Trách nhiệm đóng phí bảo hiểm: đây là số tiền mà họ phải đóng cho công ty bảo hiểm, theo quy định nộp phí của công ty khoản phí đóng đầu tiên sẽ là cơ sở thời điểm bắt đầu có hiệu lực của hợp đồng. Bên mua bảo hiểm phải đóng đầy đủ phí theo quy định và đúng hạn. - Trách nhiệm khai báo, thông báo tổn thất: khi có sự cố rủi ro xảy ra, người tham gia bảo hiểm phải khai báo cụ thể tình hình xảy ra sự cố tổn thất, tình trạng sức khoẻ của người được bảo hiểm cho công ty bảo hiểm biết. Bên cạnh đó phải cung cấp đầy đủ hồ sơ cho công ty một cách trung thực, chính xác để công ty căn cứ trả tiền bảo hiểm. Tạo điều kiện để công ty giám định tình trạng sức khoẻ. * Trách nhiệm của công ty bảo hiểm: - Kí kết hợp đồng chấp nhận người tham gia để hình thành quỹ bảo hiểm. - Đề phòng, hạn chế tổn thất xảy ra trong thời gian hợp đồng còn hiệu lực. - Thu phí và có trách nhiệm nộp cho ngân sách Nhà nước một khoản tiền gọi là thuế như đối với các doanh nghiệp khác. - Bảo toàn đồng vốn và chấp hành đúng pháp luật. - Cung cấp đầy đủ và trung thực tất cả các thông tin có liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng. 2.2.2. Quyền lợi bảo hiểm: 1) Đến năm người được bảo hiểm tròn 18 tuổi, khi hợp đồng bảo hiểm hết hạn, công ty BHNT sẽ trả cho người được bảo hiểm số tiền bảo hiểm đã cam kết và được ghi trong hợp đồng bảo hiểm. 2) Bảo Việt Nhân Thọ hoàn trả 100% số phí bảo hiểm đã đóng sau khi trừ đi các chi phí hợp lý liên quan cho bên mua bảo hiểm trong trường hợp người được bảo hiểm chết khi hợp đồng đang có hiệu lực do một trong những nguyên nhân sau: a) Do tự tử khi hợp đồng có hiệu lực chưa đủ 24 tháng b) Do các nguyên nhân khác (không phải do tại nạn, tự tử) khi hợp đồng có hiệu lực chưa đủ 12 tháng. 3) Bảo Việt Nhân thọ trả quyền lợi bảo hiểm tử vong cho bên mua bảo hiểm trong trường hợp người được bảo hiểm chết trong thời hạn bảo hiểm do một trong những nguyên nhân sau: a) Do tai nạn xảy ra trong thời hạn bảo hiểm b) Do tự tử khi hợp đồng có hiệu lực từ đủ 24 tháng trở lên c) Do các nguyên nhân khác (không phải do tai nạn, tự tử) khi hợp đồng cso hiệu lực đủ 12 tháng trở lên. 4) Trường hợp người tham gia bảo hiểm bị chết 4.1. Bảo việt nhân thọ dừng thu phí kể từ ngày đến hạn đóng phí ngày sau ngày bên mua bảo hiểm chết và hợp đồng vẫn được duy trì với đầy đủ các quyền lợi bảo hiểm trong trường hợp bên mua bảo hiểm chết trong thời hạn bảo hiểm do một trong các nguyên nhân sau: a) Do tại nạn xảy ra trong thời hạn bảo hiểm. b) Do tự tử khi hợp đồng có hiệu lực từ 24 tháng trở lên. c) Do các nguyên nhân khác (không phải do tai nạn, tự tử) khi hợp đồng cso hiệu lực từ 12 tháng trở lên. 4.2. Bảo Việt nhân thọ hoàn lại 100% số phí bảo hiểm đã đóng sau khi trừ đi chi phí hợp lý có liên quan cho người (hoặc những người) thừa kế hợp pháp của bên mua bảo hiểm và hợp đồng chấm dứt hiệu lực ngay sau khi bên mua bảo hiểm chết trong thời hạn bảo hiểm do một trong những nguyên nhân sau: a) Do tự tử khi hợp đồng có hiệu lực chưa đủ 24 tháng. b) Do các nguyên nhân khác (không phải do tai nạn, tự tử) khi hợp đồng có hiệu lực chưa đủ 12 tháng.. 5) Trong trường hợp người được bảo hiểm hoặc bên mua bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn. Trường hợp bên mua bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn, Bảo Việt nhân thọ dừng thu phí kể từ ngày đến hạn đóng phí ngay sau ngày xảy tai nạn và hợp đồng vẫn được duy trì với đầy đủ cho người được bảo hiểm. Trường hợp người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn xảy ra sau khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực, công ty BHNT trả cho người được bảo hiểm số tiền trợ cấp hàng năm bằng 25% số tiền bảo hiểm cam kết cho đến ngày hợp đồng bảo hiểm đáo hạn. 2.2.3. Thủ tục bảo hiểm: 1. Khi yêu cầu bảo hiểm, bên mua bảo hiểm phải điền đầy đủ, trung thực vào giấy yêu cầu bảo hiểm, xuất trình giấy khai sinh của người được bảo hiểm và giấy khai sinh hoặc chứng minh thư hay hộ khẩu của bên mua bảo hiểm cho công ty BHNT. 2. Khi hợp đồng đã có hiệu lực từ 2 năm trở lên, bên mua bảo hiểm không tiếp tục nộp phí bảo hiểm nhưng vẫn muốn duy trì hợp đồng thì phải thông báo bằng văn bản cho công ty BHNT trước kỳ nộp phí tiếp theo 15 ngày, và công ty BHNT sẽ thông báo bằng văn bản cho bên mua bảo hiểm biết về số tiền bảo hiểm giảm tại thời điểm dừng đóng phí trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của bên mua bảo hiểm. 3. Trong thời gian 14 ngày kể từ ngày phát hành hợp đồng,bên mua bảo hiểm có quyền từ chối không tiếp tục tham gia bảo hiểm. Trong trường hợp này người tham gia bảo hiểm được nhận 100% số phí đã nộp. 4. Huỷ bỏ và thay đổi hợp đồng bảo hiểm: a) Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực công ty BHNT không có quyền huỷ bỏ hay thay đổi các điều khoản, điều kiện của hợp đồng này trừ khi đã có thoả thuận khác nhau giữa công ty BHNT và người tham gia bảo hiểm. b) Trường hợp người tham gia bảo hiểm có yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm - Bên mua bảo hiểm phải thông báo bằng văn bản cho Bảo Việt nhân thọ yêu cầu huỷ hợp đồng chậm nhất 15 ngày đến hạn đóng phí tiếp theo. - Bảo Việt nhân thọ sẽ trả cho bên mua bảo hiểm giá trị giải ước của hợp đồng chính tại thời điểm hợp đồng bị huỷ nếu hợp đồng có hiệu lực từ đủ 24 tháng trở lên. 2.2.4. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm: A. Phí bảo hiểm và nguyên tắc tính phí: Cũng như tất cả các loại hình bảo hiểm, phí bảo hiểm là cơ sở để xây dựng quĩ bảo hiểm để chi trả cho người được bảo hiểm và các khoản phụ phí. Phí bảo hiểm là số tiền cần phải thu của công ty bảo hiểm để công ty bảo hiểm đảm bảo trách nhiệm của mình khi có các sự kiện bảo hiểm được xảy ra đối với người tham gia bảo hiểm như: chết, hết hạn hợp đồng, thương tật và đảm bảo cho việc hoạt động của công ty. Đây cũng là sự thể hiện trách nhiệm của bên mua bảo hiểm với công ty bảo hiểm nhằm nhận được sự bảo đảm trước những rủi ro đã được nhà bảo hiểm nhận bảo hiểm. Phí bảo hiểm có thể nộp một lần ngay sau khi ký hợp đồng hoặc có thể nộp định kỳ trong năm. Phí nộp một lần sẽ phải đóng góp ít hơn so với tổng số chi phí đóng góp hàng kỳ do hiệu quả đầu tư của việc đóng phí một lần cao hơn và chi phí quản lý thấp hơn. Nguyên tắc tính phí được dựa trên biểu thức cân bằng giữa trách nhiệm của công ty bảo hiểm và trách nhiệm của bên mua bảo hiểm tính theo giá trị tại thời điểm ký kết hợp đồng. Trách nhiệm của người được bảo hiểm tại thời điểm ký hợp đồng bằng trách nhiệm của công ty bảo hiểm tại thời điểm ký hợp đồng Phí bảo hiểm gồm hai phần: phí thuần và phụ phí. + Phí thuần là những khoản phí dùng để chi trả cho người được bảo hiểm. + Phụ phí gồm: - Chi phí khai thác chi cho tuyên truyền, quảng cáo, môi giới, chi cho đại lý... - Chi phí quản lý hợp đồng trong thời hạn hợp đồng đang thu phí, kể cả chi phí thu phí BH ... - Chi phí quản lý liên quan đến các khoản chi trả bồi thường. Cách xác định phí: a. Phí thuần: Có rất nhiều yếu tố tác động lên phí nhưng cơ bản vẫn là: - Tuổi thọ của người được bảo hiểm cụ thể là bảng tỉ lệ tử vong. - Lãi suất kỹ thuật: lãi xuất tiền gửi tính trong cơ sở tính phí. Ngoài ra, còn có các nhân tố khác tác động như thời hạn bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, cách thức nộp phí, tỉ lệ huỷ bỏ hợp đồng trước thời hạn. Qua bảng tỉ lệ tử vong ta có thể đưa ra số lượng những người còn sống (lx+n) ở lứa tuổi x sau n năm. Từ đây có thể tính được xác suất sống và xác suất tử vong của một người ở độ tuổi x sau n năm. Tuổi (x) Số người sống (lx) Số người chết (dx) Tỷ lệ chết (1000.qx) Lãi suất kỹ thuật: nhà bảo hiểm phải có trách nhiệm đầu tư các khoản phí để đưa ra một phần lãi làm giảm mức phí đóng của người tham gia. Mức lãi này càng cao thì càng phải kích thích được số lượng người tham gia. Do vậy nhà bảo hiểm phải đưa vào lãi suất tiền gửi để tính phí. Trước khi tính phí ta cần hiểu một số khái niệm sau: x: tuổi của người được bảo hiểm khi bắt đầu được nhận bảo hiểm. lx: số người sống l(x+n): số ngưòi được bảo hiểm sống sau n năm hợp đồng. d(x+k): số người được bảo hiểm chết trong năm hợp đồng k. n: thời hạn hợp đồng. v: thừa số chiết khấu v=1/1+i. T(x+k): số người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn trong năm hợp đồng k. C: số tiền bảo hiểm. p: phí thuần. p”: phí toàn phần. Do BHNT gồm nhiều trường hợp được trả số tiền bảo hiểm. Do vậy phải xác định phí bảo hiểm cho từng trường hợp. + Phí thuần cho trách nhiệm bảo hiểm khi hết hợp đồng: + Phí thuần cho trách nhiệm bảo hiểm khi người được bảo hiểm chết trước khi hết hạn hợp đồng: + Phí thuần cho trách nhiệm bảo hiểm khi người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn: ( Theo điều qui định của nghiệp vụ thì khi người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn sẽ được công ty bảo hiểm trả định kỳ 1/4 số tiền bảo hiểm trong những năm còn lại của hợp đồng). Phí BHNT được xây dựng trên cơ sở P1 ,P2 ,P3. P = P1 + P2 + P3. b. Phí toàn phần: Trên cơ sở phí thuần, nhà bảo hiểm căn cứ vào các khoản phụ phí để tính ra khoản phí mà người tham gia bảo hiểm phải nộp cho công ty bảo hiểm. Phí toàn phần = Phí thuần + Phụ phí Thông thường thu phí chiếm khoảng 5% phụ phí, trong đó: + 3% chi phí quản lí + 2% chi phí khai thác hợp đồng Mức phí không thay đổi trong suốt thời hạn hợp đồng bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm có thể nộp theo tháng, quý, năm hoặc theo 2 kì trong năm. công thức tính phí nộp mỗi kì (F) theo phí tháng như sau: Nếu nộp phí theo quý thì số phí nộp mỗi kỳ được tính bằng Fquí = Ftháng * 3*0,98 (so với tổng số phí nộp theo tháng thì tổng số phí nộp theo quý giảm 2 %) Nếu nộp phí hai kỳ trong năm thì số phí nộp mỗi kỳ được tính bằng F2 kì = Ftháng * 6 * 0,96 ( so với tổng số phí nộp theo tháng thì tổng số phí nộp theo hai kỳ trong năm giảm 4 %) Nếu nộp phí theo năm thì số phí nộp mỗi kỳ được tính bằng Fnăm = Ftháng * 12 * 0,92 ( so với tổng số phí nộp theo tháng thì tổng số phí nộp theo năm giảm 8 %) Phí bảo hiểm cho các mức số trên bảo hiểm được tính theo tỉ lệ sau: + Với các mức số tiền bảo hiểm từ 5 triệu đến 30 triệuVNĐ- tính bằng 100% tỉ lệ phí của một đơn vị số trên bảo hiểm. + Với các mức số tiền bảo hiểm từ 31 triệu đến 40 triệuVNĐ- tính bằng 98% tỉ lệ phí của một đơn vị số trên bảo hiểm. + Với các mức số tiền bảo hiểm từ 41 triệu đến 50 triệuVNĐ- tính bằng 97% tỉ lệ phí của một đơn vị số trên bảo hiểm. B. Số tiền bảo hiểm: Đây là hạn mức trách nhiệm của nhà bảo hiểm đối với người bảo hiểm . Trong BHNT (cụ thể là bảo hiểm trẻ em) nhà bảo hiểm sẽ đưa ra nhiều mức số tiền khác nhau và bên mua bảo hiểm sẽ dựa trên khả năng tài chính của mình để lựa chọn số tiền thích hợp nhất. Đây cũng là số tiền người tham gia đăng kí với công ty BHNT. Người tham gia BHNT có quyền lựa chọn một trong các mức số tiền bảo hiểm sau: 5 triệu, 10 triệu, 15 triệu, 20 triệu, 30 triệu, 40 triệu, 50 triệu. Phí bảo hiểm Số tiền bảo hiểm = Tỷ lệ phí 2.2.5. Chi trả bảo hiểm A. Trường hợp sống đến hết hạn hợp đồng Với : Hợp đồng bảo hiểm gốc, công ty sẽ trả toàn bộ số tiền bảo hiểm đã ký kết trong hợp đồng. B. Trường hợp bên mua bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm bị chết Với : - Giấy yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm - Hợp đồng bảo hiểm gốc - Giấy chứng từ Công ty bảo hiểm xem xét các giấy trên và sẽ thực hiện mọi quyền lợi đã cam kết trong hợp đồng. C. Trường hợp bên mua bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn. Với : - Giấy yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm - Hợp đồng bảo hiểm gốc - Biên bản tai nạn có xác nhận của công an hoặc cơ quan của người tham gia bảo hiểm làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi xảy ra tai nạn. - Giấy xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền về tình trạng thương tật của người được bảo hiểm hoặc bên mua bảo hiểm. Công ty bảo hiểm xem xét các giấy tờ trên và sẽ thực hiện mọi quyền lợi đã cam kết trong hợp đồng. D. Trường hợp huỷ bỏ hợp đồng đã có giá trị hoàn lại Với: - Giấy đề nghị huỷ bỏ hợp đồng - Hợp đồng bảo hiểm gốc. Trường hợp bên mua bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm không trung thực, hoặc không chấp hành đúng các điều quy định trong hợp đồng, công ty bảo hiểm có quyền từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền bảo hiểm tuỳ theo mức độ vi phạm. Công ty bảo hiểm có trách nhiệm giải quyết và trả tiền bảo hiểm hoặc thanh toán giá trị hoàn lại, hoặc số phí đã nộp trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ và hợp lệ. Nếu quá thời hạn trên thì khi thanh toán công ty bảo hiểm phải trả thêm lãi của số tiền này theo lãi suất tiền gửi tiết kiệm thời hạn 3 tháng do Ngân hàng Nhà nước quy định trong hợp đồng. III. So sánh An Sinh giáo dục của Bảo Việt với sản phẩm tương tự của công ty khác: Một sản phẩm bảo hiểm dành riêng cho đối tượng trẻ em là sản phẩm mà mọi công ty đều phải có, bởi lẽ trẻ em luôn là đối tượng được gia đình và xã hội quan tâm ưu ái nhất, chính vì thế khi một công ty BHNT triển khai sản phẩm bảo hiểm của mình thì không thể bỏ qua một đối tượng bảo hiểm lớn như vậy được. Hơn nữa ở Việt Nam lại có cơ cấu dân số trẻ cho nên lượng khách hàng có nhu cầu bảo hiểm là trẻ em rất đông cho nên khi triển khai BHNT ở Việt Nam thì mọi công ty bảo hiểm đều đưa ra sản phẩm bảo hiểm dành riêng cho trẻ em. Tuy cùng là sản phẩm bảo hiểm dành riêng cho trẻ em nhưng mỗi công ty khác nhau thì lại có những đặc thù riêng trong sản phẩm của mình: về cách thức tính phí, về phí bảo hiểm cho sản phẩm chính và sản phẩm phụ, về lãi chia, về giá trị giải ước, về quyền lợi bảo hiểm... mỗi công ty đều có ưu điểm riêng và cánh thức tính khác nhau để có thể đưa ra nhiều quyền lợi cho khách hàng nhất để đảm bảo công việc cạnh tranh trên thị trường. Do cách thức tính phí, lãi, giá trị giải ước là bí mật riêng của mỗi công ty bảo hiểm, và để tính được các vấn đề trên họ có những đội ngũ chuyên gia tính phí được đào tạo rất công phu.Vì vậy, ở đây em chỉ xin đề cập đến một số vấn đề khác nhau cơ bản giữa các công ty bảo hiểm về sản phẩm An sinh giáo dục nói chung. 1. So sánh với công ty BHNT AIA: Đầu tiên, về mục đích sản phẩm đều là giành cho đối tượng trẻ em nhưng mỗi công ty khác nhau thì quy định lại có một số vấn đề khác biệt nhau: Về độ tuổi tham gia của người được bảo hiểm: Bảo Việt: Trẻ em không quá 15 tuổi AIA: Trẻ em từ 30 ngày đến 13 tuổi Về người chủ hợp đồng: Bảo Việt: Là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có độ tuổi từ đủ 18 đến 60 vào thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng AIA: Chủ hợp đồng phải đủ 18 tuổi trở lên tại thời điểm nộp hồ sơ yêu cầu bảo hiểm và phải đủ điều kiện được mua bảo hiểm cho đứa trẻ như ở trên (Bảo Việt) Về thời hạn tham gia bảo hiểm: Giống nhau là thời hạn bảo hiểm từ 5 đến 18 năm Về phạm vi bảo hiểm: Bảo Việt: hoàn 100% phí trong trường hợp trẻ em bị tử vong trong thời hạn được bảo hiểm, nếu bị TTTBVV do tai nạn thì trả trợ cấp mỗi năm 25 % số tiền bảo hiểm cho đến khi đáo hạn hợp đồng. Trong trường hợp trẻ bị tử vong Bảo Việt chỉ hoàn phí là nhằm lý do tránh trục lợi bảo hiểm vì đối với trẻ em thì khả năng tự bảo vệ cho bản thân là rất ít. Ngoài ra khi người chủ hợp đồng bị tử vong hay TTTBVV thì hợp đồng được duy trì miễn phí với đầy đủ quyền lợi. Ở Bảo Việt trong sản phẩm An sinh giáo dục khi mua thì đã có quyền lợi từ bỏ thu phí giành cho người chủ hợp đồng còn trong sản phẩm của AIA thì khi muốn có quyền lợi này giành cho người chủ hợp đồng thì phải mua sản phẩm bổ xung gọi là Quyền Lợi Người Thanh Toán. AIA: Chỉ bảo hiểm trong trường hợp trẻ bị tử vong do tai nạn, và để tránh trục lợi bảo hiểm thì công ty AIA áp dụng bồi thường theo tỷ lệ sau: Tuổi của người được bảo hiểm lúc tử vong (Tính đến lần sinh nhật cuối cùng) 0 tuổi 1 tuổi 2 tuổi 3 tuổi 4 tuổi trở lên Tỷ lệ % của số tiền bảo hiểm năm hiện tại của hợp đồng 20% 40% 60% 80% 100% Ngoài ra trong sản phẩm An Sinh giáo dục còn có một đặc điểm khác biệt so với sản phẩm An sinh của Bảo Việt là: số tiền bảo hiểm gốc sẽ được tăng lên 5% mỗi năm kể từ năm thứ hai trở đi. 2. So sánh với sản phẩm Phú Tích Luỹ Giáo Dục của Prudential: Về độ tuổi người tham gia bảo hiểm: Bảo Việt: Trẻ em không quá 15 tuổi Prudential: Trẻ em từ 0 - 20 tuổi Như vậy là về độ tuổi tham gia có sự khác nhau giữa hai công ty, của Prudential thì có độ tuổi tham gia rộng hơn là sản phẩm An sinh giáo dục của Bảo Việt. Về người chủ hợp đồng: Bảo Việt: Là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có độ tuổi từ đủ 18 đến 60 vào thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng. Prudential: Là người từ 18 tuổi trở lên, là cha mẹ hay người giám hộ hợp pháp. Nói chung quy định về chủ hợp đồng thì các công ty đều có quy định tương tự như nhau vì đó là những quy định cơ bản để đảm bảo cho hợp đồng được duy trì một cách an toàn. Về thời hạn tham gia bảo hiểm: Do có quy định về độ tuổi tham gia khác nhau cho nên thời hạn tham gia bảo hiểm của hai công ty là khác nhau Bảo Việt: từ 5 - 18 năm Prudential: từ 5 - 25 năm Về phạm vi bảo hiểm: Bảo Việt: hoàn 100% phí trong trường hợp trẻ em bị tử vong trong thời hạn được bảo hiểm, nếu bị TTTBVV do tai nạn thì trả trợ cấp mỗi năm 25 % số tiền bảo hiểm cho đến khi đáo hạn hợp đồng. Trong trường hợp trẻ bị tử vong Bảo Việt chỉ hoàn phí là nhằm lý do tránh trục lợi bảo hiểm vì đối với trẻ em thì khả năng tự bảo vệ cho bản thân là rất ít. Ngoài ra khi người chủ hợp đồng bị tử vong hay TTTBVV thì hợp đồng được duy trì miễn phí với đầy đủ quyền lợi. Ở Bảo Việt trong sản phẩm An sinh giáo dục khi mua thì đã có quyền lợi từ bỏ thu phí giành cho người chủ hợp đồng còn trong sản phẩm của Prudential thì khi muốn có quyền lợi này giành cho người chủ hợp đồng thì phải mua sản phẩm bổ xung gọi là Bảo Hiểm Từ Bỏ Thu Phí hay có thể mua sản phẩm gói gọi là Phú Tương Lai thì sẽ bao gồm luôn cả sản phẩm từ bỏ thu phí. Prudential: Cũng bảo hiểm trong trường hợp bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn và tử vong do tai nạn tuy nhiên có quy định khác với Bảo Việt đó là: Khi gây TTTBVV thì người chủ hợp đồng sẽ được chi trả làm 10 lần bằng nhau trong 10 năm, khoản thanh toán mỗi lần bằng 1/10 của tổng số tiền bảo hiểm và bảo tức tích luỹ tính đến thời điểm xảy ra rủi ro. Còn khi bị tử vong thì Prudential sẽ chi trả số tiền bảo hiểm. Tuy nhiên những quy định trên là đối với trường hợp trẻ đã trên 4 tuổi còn nhỏ hơn 4 tuổi để tránh trục lợi bảo hiểm thì Prudential đã áp dụng bồi thường theo bảng tỷ lệ sau: Độ tuổi người được bảo hiểm chết hay TTTBVV Dưới 1 tuổi 1 đến dưới 2 tuổi 2 đến dưới 3 tuổi 3 đến dưới 4 tuổi 4 tuổi trở lên Tỷ lệ % của tổng cộng STBH và Bảo tức tích luỹ 0% (hoàn phí) 25% 50% 75% 100% Ngoài ra Prudential còn giới hạn số tiền bảo hiểm cho trẻ em khi mua để tránh trục lợi bảo hiểm là 750 triệu đồng đối với trẻ em dưới 15 tuổi. Phần III: Tình hình triển khai sản phẩm An Sinh Giáo Dục của tổng công ty Bảo Việt nhân thọ: I. Những thuận lợi khó khăn khi triển khai sản phẩm sản phẩm An Sinh Giáo Dục của Tổng Công Ty Bảo Việt Nhân Thọ: Kể từ ngày thành lập công ty đến nay , trong suốt quá trình triển khai sản phẩm bảo hiểm nhân thọ công ty chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố thuận lợi cũng như khó khăn tác động trực tiếp và gián tiếp đến tình hình hoạt động và khả năng phát triển sản phẩm của công ty. Cụ thể là một số thuận lợi và khó khăn cơ bản sau: 1. Những thuận lợi : Thứ nhất: Theo xu hướng phát triển chung của nền kinh tế nước ta những năm gần đây, thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế trong nước bắt đầu ổn định và phát triển, tốc độ tăng trưởng GDP năm 2008 đạt 6,2%.Đời sống nhân dân được nâng lên. Tương ứng với mức thu nhập tăng lên thì nhu cầu tiết kiệm để giành cho tương lai cũng tăng lên .Nhưng do đặc thù của khoản tiết kiệm nhỏ này của người dân mà các hình thức huy động gửi tiền tiết kiệm khác không phù hợp. Cho nên với những ưu điểm của các sản phẩm của Tổng Công Ty Bảo Việt Nhân Thọ chắc chắn sẽ phát triển ở Việt Nam. Thứ hai: Để điều chỉnh và tạo môi trường hành lang pháp luật thuận lợi cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm, Bộ tài chính đã ban hành các văn bản pháp quy quan trọng đó là thông số 26/1998/TT-BTC về hướng dẫn thủ tục cấp giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện để hoạt động kinh doanh bảo hiểm, thông tư số 27/1998/TT-BTC về việc hướng dẫn hoạt động khai thác và quản lý bảo hiểm và thông tư số 28/1998 TT-BTC về việc hoạt động đại lý, cộng tác viên bảo hiểm . Thứ ba: Tổng Công Ty Bảo Việt Nhân Thọ là công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên tại Việt Nam, là thành viên của T._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22307.doc
Tài liệu liên quan