Tình hình Việt Nam trong 10 năm đổi mới

I/ Thực trạng Việt nam trước 15 năm đổi mới Nền kinh tế Việt Nam thời kỳ trước những năm đổi mới trong tình trạng mất cân đối nghiêm trọng. Nhìn lại lịch sử ta thấy rằng, trong thời kỳ 4 năm đầu (1955-1958), ở miền Bắc còn duy trì nền kinh tế nhiều thành phần, sản xuất về cơ bản vẫn theo cơ chế thị trường, 96% hộ nông dân là kinh tế cá thể, công thương nghiệp tư bản tư doanh, kinh tế tiểu thương tiểu chủ chưa đi vào cải tạo, người lao động giảm nhiệt tình trong sản xuất, năng suất lao động hiệu

doc28 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1237 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình Việt Nam trong 10 năm đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quả kinh tế ngày càng giảm sút. Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ tư (12/1976) không xem xét tính đúng đắn của nghị quyết, không tính đến kinh nghiệm thực tiễn những năm 1955-1958 trong lãnh đạo kinh tế miền Bắc, tiếp tục đề ra nhiệm vụ cải tạo XHCN một cách lệch lạc. Kết quả là ở miền Bắc, bộ máy quản lý hợp tác xã phình ra quá lớn, cồng kềnh, ngày càng xa rời thực tiễn sản xuất. Tình trạng mất mát, hư hao tiền vốn và tài sản cố định trong các hợp tác xã, cán bộ lạm dụng chức quyền trong quản lý để tham nhũng, xâm phạm lợi ích tập thể. Mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa xã viên hợp tác xã với cán bộ quản lý hợp tác xã trở thành phổ biến. ở miền Nam , các biểu hiện tiêu cực trong các hợp tác xã như nêu trên cũng bộc lộ sớm. Từ 1976-1980, mặc dù đầu tư cả nước cho Miền Nam không ngừng tăng lên nhưng sản lượng lúa giảm đến mức thấp nhất. Lương thực thiếu, bình quân đầu người năm 1976 đạt được 274 kg, đến năm 1980 chỉ còn 268 kg buộc phải nhập lương thực ngày càng lớn. Việc cải tạo công thương nghiệp tư nhân ở miền Nam do làm ồ ạt nên sản xuất ngày càng sa sút, phân phối lưu thông ngày càng ách tắc, đời sống công nhân lao động ở thành thị ngày càng khó khăn, về xuất nhập khẩu thì xuất khẩu ngày càng ít, nhập khẩu ngày càng nhiều. Nhập khẩu gấp 4,5 lần xuất khẩu (năm 1979 nhập 1.526.000.000 rúp xuất khẩu chỉ có 320.000.000 rúp). Chi ngân sách phát hành tiền ngày càng tăng nhưng thu ngày càng giảm, giá cả năm sau cao hơn năm trước, nước ta là nước nông nghiệp nên khi sản xuất nông nghiệp bị tụt xuống đã ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, lại thêm sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sa sút, lưu thông phân phối ách tắc, thu không đủ chi, xuất không đủ nhập nên nền kinh tế có chiều hướng ngày càng đi xuống, đời sống nhân dân ngày càng gặp nhiều khó khăn. Có thể nói cuối những năm 70, nước ta bước vào cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội, năm sau nghiêm trọng hơn năm trước. Biểu hiện rõ nhất là sản xuất trì trệ, lạm phát tăng nhanh, thiếu công ăn việc làm gay gắt, đời sống gặp nhiều khó khăn, lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của nhà nước giảm sút. II/ Đổi mới là vấn đề sống còn của đất nước- là quy luật phát triển của xã hội Để khắc phục tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội, không thể giản đơn mà phải đổi mới toàn diện, bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế để đi lên một mô hình mới về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời đại mới. Trong đổi mới toàn diện đòi hỏi trước hết phải đổi mới tư duy trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt đổi mới về kinh tế là cơ bản, xây dựng nhà nước pháp quyền, thực hiện dân chủ XHCN phải làm đồng thời nhưng có bước đi vững chắc, đồng thời sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của thế lực thù địch nhằm xuyên tạc phá hoại công cuộc đổi mới. Sau khi đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, còn phải tiếp tục công cuộc đổi mới để khắc phục tình trạng tụt hậu khá xa về kinh tế so với các nước trong khu vực, phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Đổi mới xã hội bắt đầu từ kinh tế, do đó trở thành vấn đề sống còn của cả dân tộc. Đổi mới ở Việt Nam rõ ràng có nguồn gốc từ những yếu tố trong nước, tất nhiên là cũng có quan hệ đến các yếu tố bên ngoài. Đổi mới chính là quá trình rời bỏ mình những gì đang kìm hãm và cản trở sự phát triển, tổ chức lại xã hội, đưa vào cơ chế vận hành của xã hội một hệ thống đồng bộ các yếu tố vật chất và tinh thần, tạo nên động lực cho sự phát triển vượt bậc. Để đổi mới, mỗi nước cần có chiến lược phát triển lực lượng sản xuất, giải phóng sức sản xuất, kết hợp với đường lối mở cửa hướng ra bên ngoài. Khai thác có hiệu quả và thuận lợi bên ngoài để nhân lên sức mạnh bên trong. Đổi mới để phát triển chính là xác định đúng các giải pháp chiến lược để vượt qua cửa ải đói nghèo, lạc hậu tiến tới giàu mạnh và phát triển. Vấn đề đặt ra ở đây là có đặt thực trạng và xu hướng vận động khách quan của xã hội Việt Nam trong xu hướng chung biến đổi và phát triển không ngừng của thế giới ngày nay. Việt nam đặc biệt chú trọng khai thác nhân tố khách quan thuận lợi vào công cuộc đổi mới đất nước. Đánh giá đúng ảnh hưởng và tác dụng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ nhận rõ đặc điểm của thời đại hiện nay và những thời cơ thách thức của nó, Việt Nam có những quyết định sáng suốt, những chính sách đúng đắn. ở trong nước tiến hành đổi mới toàn diện trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần giải phóng mọi năng lực sản xuất, khai thác mọi tiềm năng, làm sống động nền kinh tế hướng vào mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”, dựa trên cơ sở lợi ích người sản xuất, người lao động, coi đó là động lực trực tiếp của sự phát triển xã hội. Việt Nam dám chấp nhận thách thức nắm lấy thời cơ, gấp rút xây dựng đất nước để tiến kịp và rút ngắn khoảng cách giữa mình với cộng đồng thế giới. Nhiệm vụ của chúng ta là phải phấn đấu không mệt mỏi, phát huy đầy đủ cố gắng chủ quan và tìm mọi cách hạn chế, khắc phục những khó khăn khách quan nhằm tạo ra cho mình một môi trường quốc tế thuận lợi để có thể tập chung xây dựng đất nước đuổi kịp và sánh ngang với các nước phát triển. Do vậy đổi mới kinh tế ở Việt Nam là con đường tất yếu khách quan và hợp quy luật. Đó thực sự là một quá trình giải phóng đối với cá nhân và xã hội nhằm phát triển lực lượng sản xuất. Đó còn là quá trình giải phóng tinh thần, phát huy tự do tư tưởng, thực hiện dân chủ hoá mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự nghiệp đổi mới làm nổi bật vai trò của nhân tố con người. Con người là nguồn lực lớn nhất và quan trọng nhất trong các nguồn lực phát triển xã hội. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội thực chất là chiến lược con người. Đổi mới để ổn định và phát triển, đó là cuộc đấu tranh chống bảo thủ, trì trệ, chống quan liêu tham nhũng, thực hiện dân chủ, công bằng, bình đẳng xã hội, bảo đảm lợi ích chính đáng thiết thực hàng ngày của người lao động. Đổi mới đặt con người vào trung tâm của sự phát triển xã hội, xem con người là thước đo tất cả. ổn định xã hội, tranh thủ hoà bình không có nghĩa là thực hiện chủ nghĩa đóng cửa, tự mình làm lại tất cả từ đầu, vấn đề là phải mạnh dạn mở cửa ra bên ngoài, hoà nhập quốc tế, mở rộng quan hệ buôn bán, trao đổi, hợp tác kinh tế, kỹ thuật với các nước và các tổ chức quốc tế, qua con đường đó, tranh thủ vốn, kỹ thuật thông tin, phương pháp quản lý, tạo những điều kiện thuận lợi cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từng bước rút ngắn khoảng cách của tình trạng lạc hậu so với các nước phát triển trên thế giới. Mở cửa hoà nhập quốc tế tất nhiên có nhiều phức tạp, nhiều khi phải trả giá. Nhưng nếu đóng cửa thì cái giá phải trả còn đắt hơn, dẫn đến khoảng cách lạc hậu giữa Việt Nam và các nước càng xa thêm. Việt Nam sẵn sàng chấp nhận giá phải trả và tìm mọi cách khắc phục trong quá trình mở cửa với bên ngoài. Đây là sự dũng cảm chấp nhận đương đầu với những thách thức đặt ra cho cả dân tộc Việt Nam. Chiến lược và chính sách phát triển xã hội đúng đắn phải được xác định để trả lời thách thức này. Ngoài ra không còn câu trả lời nào khác. * * * III/ tình hình Việt Nam trong 10 năm đổi mới (1986-1995) 1) Quá trình đổi mới Trước tình hình kinh tế gặp nhiều khó khăn, đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam họp vào tháng 12/1986 đã quyết định tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế, tức là tìm cách giải quyết các khó khăn kinh tế theo một mô hình mới. Đổi mới là kết quả của trí tuệ Việt Nam và không theo bất kỳ một khuôn mẫu nào có sẵn trên thế giới vào thời điểm đó. Việt Nam đã tiến hành đổi mới kinh tế đồng thời trên 3 lĩnh vực sau đây, có tác động qua lại mật thiết với nhau: Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị truờng có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Chuyển từ nền kinh tế đơn thành phần lấy kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể hoá làm trụ cột sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Chuyển từ nền kinh tế được xây dựng theo hướng có cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh, quan hệ kinh tế đối ngoại - bao gồm ngoại thương và các quan hệ tài chính, tín dụng- được tiến hành chủ yếu với các nước XHCN, sang một nền kinh tế mở ngày càng thông thoáng hơn, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, từng bước hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế thế giới. Đồng thời Việt Nam đã tiến hành những cải cách chính trị và cải cách hành chính trong khuôn khổ duy trì ổn định chính trị, xã hội theo hướng cải cách khung khổ pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường, nâng cao vai trò lập pháp và giám sát của quốc hội, xác định rõ vai trò của lập pháp và tư pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Về phương pháp cải cách phù hợp với tiến trình tìm kiếm một mô hình thích hợp với Việt nam chưa được xác định rõ về chi tiết, phương pháp đã được áp dụng chủ yếu là phương pháp từng bước (Gradualism) trong toàn bộ quá trình. Song, trong năm 1989, Việt nam đã áp dụng thành công liệu pháp sốc (Shock therapy) với quy mô hạn chế về thời gian. Trong một khoảng thời gian rất ngắn, chính phủ đã tiến hành hàng loạt các biện pháp cải cách rất cơ bản và kiên quyết như cải cách giá, tỷ giá, hệ thống ngân hàng, tự do hoá thương mại mở rộng phạm vi kinh doanh đối với đất đai, bất động sản, vàng bạc… Thực tế Việt Nam cho thấy, có thể kết hợp một cách có hiệu quả phương pháp cải cách từng bước với phương pháp cải cách theo liệu pháp sốc đối với những nhiệm vụ cải cách cần tiến hành kiên quyết trong một thời gian ngắn. Đồng thời có những nhiệm vụ không thể tiến hành trong một thời gian ngắn vì tính phức tạp của nó và cũng vì không có được lực lượng tài chính cần thiết để tiến hành như: cải cách tiền lương, chế độ phúc lợi xã hội… Kinh nghiệm Việt nam chứng minh rằng, không có sự đối lập về nguyên tắc giữa hai phương pháp trên. 2) Biện pháp đổi mới: Việt Nam đã tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp cải cách nhiều biện pháp kinh tế xã hội, trong đó hai yếu tố nổi bật là - Tự do hoá nền kinh tế và giải phóng lực lượng sản xuất và ổn định nền kinh tế - Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế a/ Tự do hoá và ổn định nền kinh tế Bằng một tập hợp các biện pháp tự do hoá giá cả, khắc phục những sai lệch nghiêm trọng trong quá trình hình thành giá, tỷ giá, lãi suất tiết kiệm, việc tự do hoá thương mại và bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo pháp luật nhanh chóng huy động những tiềm năng to lớn trong nền kinh tế, cân đối quan hệ cung cầu trên thị trường, giảm và kiểm soát lạm phát. Đồng thời đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, trong đó công nghiệp dịch vụ và nông nghiệp đều đạt tốc độ tăng trưởng cao. Việt Nam thiết lập cơ chế giá thị trường, giá cả hình thành theo quan hệ cung - cầu; phản ánh khan hiếm của hàng hoá, dịch vụ. Hệ thống ngân hàng có bước cải cách và hiện đại hoá quan trọng. Hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp đáp ứng nhu cầu gia tăng nhanh chóng về vốn cho nền kinh tế. Hình thành hệ thống thanh toán liên ngân hàng. Chính phủ sử dụng các công cụ tiền tệ một cách có hiệu quả để ổn định nền kinh tế. Chấm dứt việc phát hành tiền mặt để trang trải các khoản thiếu hụt ngân sách, một biện pháp kiên quyết đem lại hiệu quả tích cực kiểm soát lạm phát. Lãi suất thực dương áp dụng lần đầu tiên tháng 3/1989 phát huy tác dụng góp phần giảm bớt khối lượng tiền mặt lưu hành trong xã hội. Hệ thống ngân sách nhà nước được tổ chức lại thành hệ thống thu thuế, hệ thống kho bạc, quản lý tài sản và vốn trong doanh nghiệp nhà nước, hệ thống quản lý tài chính. Luật pháp về thuế được thay đổi nhiều lần, vừa góp phần tăng tỷ lệ huy động tổng sản phẩm quốc nội vào ngân sách, vừa là công cụ điều tiết thu nhập, tiêu dùng và là công cụ ưu đãi, khuyến khích đầu tư trong nước và ngoài nước. Nhiều doanh nghiệp thực hiện hợp doanh với doanh nghiệp nước ngoài, các doanh nghiệp khác đã tự chủ trong kinh doanh, tiến hành tổ chức lại sản xuất và quản lý, thích nghi với cơ chế thị trường. Luật doanh nghiệp nhà nước tạo cơ sở pháp lý cho cơ chế quản lý mới đối với doanh nghiệp nhà nước. Trên cơ sở luật pháp được ban hành, tại thành thị và thị trấn, gần hai triệu hộ tham gia kinh doanh góp phần làm cho nền kinh tế năng động hơn, cải thiện rõ rệt hệ thống bán lẻ và dịch vụ trong xã hội. Thu nhập nhiều tầng lớp nhân dân được cải thiện, hoạt động giáo dục đào tạo được đẩy mạnh đáng kể, đời sống văn hoá tinh thần có điều kiện vật chất để phát triển. Thành tựu nổi bật là đã tăng nhanh được sản lượng lương thực, giải quyết vấn đề an toàn lương thực cho quốc gia, không những đáp ứng nhu cầu trong nước về lương thực tăng nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng, mà còn chuyển Việt nam từ một nước thiếu và thường xuyên phải nhập một khối lượng lớn lương thực trở thành nước xuất khẩu thứ ba trên thế giới về gạo. b/ Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện hội nhập quốc tế Một thành tựu nổi bật khác của công cuộc cải cách ở Việt nam là đã ngay từ đầu có chính sách đúng đắn nhằm phát triển ngoại thương, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, mở rộng thị trường và thu hút vốn, công nghệ để phát triển nền kinh tế. Chính công cuộc cải cách ở trong nước cùng với thế và lực mới đã là điều kiện cơ bản để Việt nam tiến hành chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại. Luật đầu tư nước ngoài được ban hành sớm (12/1987) và sửa đổi bổ sung nhiều lần trong thời gian tiếp theo đã thu hút một tỷ lệ lớn vốn (8% GDP) góp phần đổi mới công nghệ và mở rộng thị trường. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đã trở thành một nhân tố tăng trưởng quan trọng của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình đổi mới. Việt Nam đã nhanh chóng tìm được những thị trường mới cho xuất khẩu và nhập khẩu, không những duy trì được sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế mà còn góp phần thay đổi đáng kể bộ mặt xã hội. Gia nhập hiệp hội các nước Đông Nam á (Asean) 6/1995, cam kết thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với khu vực mậu dịch tự do Asean (AFTA), ký hiệp định khung song phương với cộng đồng Châu Âu (EU), xin gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, ký hiệp định song phương Việt Mỹ (11/2001), và diễn đàn hợp tác kinh tế châu á Thái Bình Dương, Việt Nam đã vượt qua thế bị bao vây, cô lập và trở thành một đối tác kinh tế, xây dựng và ngày càng được chú ý trong cộng đồng kinh tế quốc tế và khu vực. Việt Nam đã có những cố gắng to lớn để thúc đẩy quá trình bình thường hoá kinh tế với Mỹ, vượt qua được chính sách cấm vận, tháng 11 vừa qua đã ký kết được hiệp định song phương Việt Mỹ, được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN) cũng như các quy chế khác của Mỹ tương đương với các nước Asean khác. c/ Cải cách hành chính, xây dựng thể chế kinh tế mới: Việt Nam đã có nỗ lực to lớn trong cải cách bộ máy hành chính, xây dựng khung khổ pháp luật mới phù hợp với cơ chế thị trường và tiến tới xây dựng một nhà nước dân chủ, thực sự của dân, do dân và vì dân. Hệ thống toà án được cải tổ và tăng cường, Toà hành chính và toà kinh tế đi vào hoạt động. Bộ máy chính phủ tổ chức lại theo hướng gọn nhẹ hơn, chương trình cải cách hành chính được ban đầu ở các cấp trung ương và địa phương nhằm giảm bớt phiền hà cho dân. Việc bồi dưỡng đào tạo công chức được chú ý hơn. Chính phủ chú ý đến các hoạt động bổ sung cho cơ chế thị trường, hạn chế tiêu cực của cơ chế đó. Chính phủ đã có cố gắng to lớn trong việc quy hoạch quá trình phát triển kinh tế về lãnh thổ, về kết cấu hạ tầng, phát triển y tế, giáo dục, xoá đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường .3) Thành tựu đổi mới của Việt Nam Mười năm là một khoảng thời gian không dài đối với lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc, nhưng 10 năm đổi mới đã là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử hiện đại Việt Nam. Nhờ có đổi mới, Việt Nam đã vượt qua khủng hoảng kinh tế, kiềm chế được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đạt được tốc độ tăng trưởng cao và lâu bền từ năm 1975 đến nay. Cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển dịch đáng kể theo hướng tăng tỷ trong công nghiệp và dịch vụ, cơ sở vật chất của nền kinh tế được tăng cường, đời sống đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt. Mười năm đổi mới đã tạo cho Việt Nam thế và lực mới, đã thay đổi sâu sắc xã hội và con người. Nền kinh tế từ tình trạng hàng hoá khan hiếm nghiêm trọng nay sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế; từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhờ có những tiến bộ trong đổi mới, Việt Nam đã vượt qua được cơn chấn động chính trị và sự hẫng hụt về thị trường do những biến động ở Liên Xô và Đông Âu gây ra; vượt qua sự bao vây cấm vận về kinh tế, đã thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế; không để bị cuốn sâu vào cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế ở một số nước Châu á và trở thành một đối tác kinh tế ngày càng được coi trọng trong khu vực và trên thế giới. Chính thức gia nhập Asean, cam kết thực hiện các quy định của AFTA, chuẩn bị để ra nhập WTO, APEC, đa dạng hoá các quan hệ tài chính và thương mại với các nước và các tổ chức trên thế giới, đã thương lượng ký hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, đạt quy chế tối huệ quốc, Việt Nam đang cố gắng huy động những nguồn lực quốc tế để phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước. Thành tựu lớn nhất của đổi mới là đã khơi dậy sức sáng tạo, tinh thần lao động cần cù, tinh thần kinh doanh và ý thức ham học hỏi cái mới của người lao động. Người dân đã khắc phục thói quen ỷ lại vào bao cấp của nhà nước. Chính động lực đó đã làm tăng thêm sự năng động của toàn bộ hoạt động nền kinh tế, huy động thêm vốn, kinh nghiệm của toàn xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội ở Việt Nam. Việt Nam cũng là một trong số không nhiều nước trên thế giới đã tự lực tiến hành cải cách kinh tế bằng những nguồn lực trí tuệ và vật chất trong nước, không những không có sự hỗ trợ đáng kể nào của nước ngoài mà còn vượt qua được sự mất đi đột ngột nguồn viện trợ và vay nợ cũng như thị trường xuất nhập khẩu truyền thống từ Liên Xô (cũ) và các nước XHCN Đông Âu trước đây, nhanh chóng ổn định nền kinh tế, đạt nhịp độ tăng trưởng cao, không phải trải qua một giai đoạn suy thoái gây không ít hy sinh cho người lao động. Xây dựng được bộ máy và cơ chế ở tầm vĩ mô và vi mô, cho phép thường xuyên tự phát hiện ra những yếu kém, tiến hành cải cách và hoàn thiện kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả của nền kinh tế quốc dân, đáp ứng yêu cầu của một thế giới chuyển biến nhanh chóng, đó là mục tiêu cần đạt tới. . 4/ Tiếp tục đổi mới - Cần xác định hệ thống mục tiêu của Việt nam và các phương pháp để thực hiện mục tiêu đó trong bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh với một nhà nước của dân, do dân vì dân do Đảng lãnh đạo với tốc độ tăng trưởng cao và lâu bền, giữ gìn độc lập, tự do đó là mục tiêu cao nhất. - Việt Nam cần tiếp tục cụ thể hoá mô hình phát triển kinh tế cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, phù hợp với thực tế ở Việt Nam và những đặc điểm của thời đại. Việt Nam cần hoàn tất việc thành lập những thể chế, khung khổ pháp luật và các chính sách của cơ chế thị trường để đạt tốc độ tăng trưởng cao và lâu bền. Ví dụ: Xây dựng thị trường vốn dài hạn, thị trường lao động, thị trường chứng khoán, bất động sản, thị trường sở hữu trí tuệ. Để tiếp tục phát triển cần huy động một số lượng rất lớn vốn ở trong nước và ngoài nước, và đầu tư, vận hành một cách có hiệu quả. Điều đáng chú ý là ta phải đạt được tăng trưởng kinh tế trong khi phải bảo vệ môi trường và sinh thái vì môi trường ở Việt Nam đang trong tình trạng bị tổn hại đáng kể. Về mặt quan điểm, cần cụ thể hoá quan điểm về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và vai trò của các doanh nghiệp quốc doanh. Chính sách đối với hợp tác quốc tế cần cụ thể hoá cho từng đối tượng, trên từng lĩnh vực theo tình hình diễn biến rất năng động hiện nay. - Những quan điểm về tăng trưởng cần được cụ thể hoá cho từng giai đoạn khác nhau: + Quan hệ giữa tập trung vào những ngành và vùng trọng điểm, yêu cầu đồng thời phát triển các vùng trong cả nước, nhất là vùng miền núi và dân tộc ít người trong giai đoạn trước mắt nhằm đạt hiệu quả đầu tư cao và thu tiền vốn nhanh. + Quan hệ giữa phát triển công nghệ tiên tiến và các công nghệ trung gian đòi hỏi có những tiếp cận mới về lý luận. + Quan hệ giữa vốn bên trong và vốn bên ngoài, các yếu tố trong nước và yếu tố ngoài nước. - Vấn đề nâng cao kỹ năng, trình độ đào tạo và huấn luyện người lao động, nâng cao kỷ luật người lao động kèm chính sách tạo động lực phát huy cao độ trí sáng tạo, sự cần cù của người lao động nói chung và của tầng lớp ưu tú trong xã hội nói riêng. Xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, thực hiện những chức năng, nhiệm vụ phù hợp với nền kinh tế thị trường, diệt trừ tham nhũng buôn lậu, khắc phục tệ quan liêu trì trệ, bộ máy quá cồng kềnh, kém hiệu năng. Xây dựng cơ chế dân chủ tuyển lựa đội ngũ ưu tú quản lý nhà nước. Chúng ta tin rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc Việt Nam sẽ tìm được lời giải đúng đắn cho vấn đề đó. IV/ Giai đoạn phát triển mới đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá Những thành tựu của 10 năm đổi mới, đặc biệt là kết quả thực hiện vượt mức những mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1991-1995 đã đưa nền kinh tế nước ta ra khỏi khủng hoảng và tạo được những tiền đề cho phép chuyển sang giai đoạn mới của sự phát triển đất nước. Chặng đường phía trước còn phải vượt qua thách thức và khó khăn gay gắt: - Nền kinh tế còn nhiều mặt yếu kém: Đất nước chưa ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, cơ sở vật chất, kỹ thuật thấp kém, trình độ công nghệ lạc hậu. - Nền kinh tê tăng trưởng khá nhưng chưa bảo đảm. Kinh tế thị trường đang ở trình độ sơ khai, chưa phát triển đồng bộ, thiếu kỷ cương. - Tình hình xã hội còn nhiều vấn đề gay gắt, nhiều tệ nạn xã hội, số người không có và thiếu việc làm còn đông. - Tình trạng quan liêu tham nhũng cùng sự lỏng lẻo về kỷ luật trong bộ máy nhà nước là trở lực lớn đối với công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo đường lối đổi mới là con đường tất yếu để đưa đất nước vượt qua khó khăn và thách thức. Muốn thoát khỏi nguy cơ bị tụt hậu xa hơn về kinh tế và công nghệ kéo theo nhiều nguy cơ khác, đất nước ta phải phát huy được khả năng và cơ hội mới để phát triển với nhịp độ cao hơn, bền vững và có hiệu quả hơn. Điều đó chỉ thực hiện thông qua quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đó chính là quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm cải biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, cơ cấu hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. 1) Vị trí mục tiêu và định hướng công nghiệp hoá không thay đổi Đường lối công nghiệp hoá trước đây và hiện nay về cơ bản là nhất quán trong việc xác định vị trí, mục tiêu và định hướng. Chúng ta luôn khẳng định vị trí trung tâm của công nghiệp hoá trong suốt một thời kỳ lịch sử, nhằm tạo ra một nền tảng kinh tế cho CNXH phát triển trên cơ sở đích thực của nó. Mục tiêu của công nghiệp hoá là cải biến nước ta từ tình trạng nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp có lực lượng sản xuất phát triển với năng suất lao động cao, theo kịp trình độ tương đối hiện đại, có quan hệ sản xuất phù hợp, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh quốc gia. Đường lối công nghiệp hoá trước đây cũng như hiện nay đều kiên trì định hướng xây dựng CNXH. 2) Nhưng khác về phương hướng chiến lược Công nghiệp hoá theo kiểu cũ hướng vào mục tiêu chính là nâng cao khả năng tự đáp ứng các nhu cầu của sản xuất và đời sống trong nước theo xu hướng kinh tế đóng, khép kín, tự cấp tự túc. Công nghiệp hoá theo đường lối đổi mới hướng vào xây dựng hệ thống kinh tế mở trên cơ sở giao lưu thông suốt trên thị trường trong nước và hội nhập với kinh tế thế giới. Hướng mạnh về xuất khẩu là chiến lược đưa tới thành công của những nước công nghiệp mới. Hướng mạnh về xuất khẩu, về thực chất là đặt sản phẩm trong nước (kể cả hàng hoá và dịch vụ) trong quan hệ so sánh với sản phẩm của nước ngoài, buộc sản phẩm trong nước phải có sức cạnh tranh không chỉ trên thị trường quốc tế mà cả trên thị trường trong nước. Hướng về xuất khẩu không có nghĩa là coi nhẹ thị trường nội địa. Hướng về xuất khẩu không loại trừ việc thay thế nhập khẩu: lựa chọn những mặt hàng sản xuất trong nước có hiệu quả, có sức cạnh tranh với hàng nước ngoài. Chiến lược kinh tế đóng hay mở thể hiện trực tiếp ở chính sách bảo hộ sản xuất nội địa một mặt áp dụng chính sách bảo hộ có chọn lọc, có mức độ giảm dần nhằm giảm nhẹ sức ép cạnh tranh của hàng ngoại trong thời gian cần thiết, mặt khác thúc đẩy sản xuất trong nước không ngừng vươn lên, nâng cao sức cạnh tranh cả trên thị ngoài nước và trong nước. Nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trong nước là vấn đề sống còn và là cách bảo hộ tích cực và có hiệu quả nhất. 3) Khác về yêu cầu công nghệ Trong nội dung công nghiệp hoá được đại hội lần thứ III của Đảng năm 1960 đề ra, “vấn đề quan trọng có tính chất quyết định là thực hiện việc thiết bị kỹ thuật và cải tạo kỹ thuật cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thực hiện cơ giới hoá các ngành sản xuất, xây dựng và vận tải”. Đại hội lần IV của Đảng năm 1976 tiếp tục khẳng định cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt: “Trong cách mạng khoa học kỹ thuật, cần nắm vững khâu trung tâm là cơ khí hoá, kết hợp tốt cơ khí, nửa cơ khí với thủ công”. Chúng ta là nước đi sau, không nhất phải tuần tự theo các bước mà các nước công nghiệp đã trải qua. Con đường của chúng ta là kết hợp đồng thời nhiều trình độ công nghệ, vừa có quá trình đi từ thủ công nghệ hiện đại và có những mũi nhọn đi tắt đón đầu theo điều kiện cho phép. Công nghệ hiện đại ngoài phần thiết bị kỹ thuật còn có những giải pháp ứng dụng khoa học không gắn với cơ giới như một số giải pháp của công nghệ sinh học. Trước đây chỉ nói tới công nghệ trong lĩnh vực sản xuất, xây dựng, vận tải; ngày naycần phải chú ý cả công nghệ quản lý ở tầm vĩ mô và vi mô, coi đây là một nhân tố rất quan trọng, nhiều khi có ý nghĩa quyết định đối với hiệu quả các đơn vị sản xuất, kinh doanh và toàn bộ nền kinh tế. Đối với nước ta chính sách công nghệ như thế nào là thích hợp và có hiệu quả nhất? Lời giải cho giai đoạn trước mắt là phải kết hợp nhiều trình độ công nghệ khác nhau, chú trọng loại công nghệ tạo nhiều việc làm, tốn ít vốn. Trong nền kinh tế hình thành cơ cấu công nghệ nhiều tầng, vừa có công nghệ thủ công với tay nghề tinh xảo, vừa từng bước mở rộng việc sử dụng máy móc thay sức lao động cơ bắp, vừa đi vào công nghệ tiến tiến hiện đại trong những lĩnh vực có điều kiện, nhất là trong những ngành nghề mới. Sự đan xen nhiều trình độ công nghệ cũng mang tính phổ biến. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta thì làm thế nào để có được công nghệ tiên tiến, hiện đại, tạo được nhiều việc làm lại tốn ít vốn? Điều quan trọng là cần tăng nhanh năng lực khoa học và công nghệ quốc gia, phát huy trí sáng tạo của nhân dân trên cơ sở nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, vừa phát triển trong nước và phát huy tiềm năng trí tuệ của người Việt Nam ở nước ngoài. Ngoài ra, một hướng quan trọng để tranh thủ công nghệ hiện đại là thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài dưới nhiều hình thức, đặc biệt là hình thức liên doanh vì các doanh nghiệp do nước ngoài đầu tư là nơi chuyển giao kỹ thuật mới và bí quyết công nghệ. Việc vay vốn nước ngoài để tự đầu tư đổi mới công nghệ cũng là một biện pháp tiếp nhận công nghệ mới song phải cân nhắc kỹ việc lựa chọn công nghệ, tính toán chặt chẽ hiệu quả và khả năng hoàn vốn, xác định rõ trách nhiệm trả nợ. 4) Khác về nguồn lực đầu tư phát triển: Công nghiệp hoá trước đây hầu như hoàn toàn dựa vào nguồn vốn bên ngoài và do nhà nước đầu tư Công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo yêu cầu của giai đoạn mới cần có nguồn vốn nhiều gấp bội trước. Chúng ta cần tận dụng mọi khả năng và cơ hội tranh thủ nguồn vốn từ bên ngoài, coi đó là một nguồn quan trọng, nhất là trong giai đoạn đầu phát triển, song phải khẳng định nguồn vốn trong nước là quyết định và đang còn nhiều tiềm năng chưa được phát huy. - Vốn bên ngoài: trước đây hầu hết là từ Liên Xô cũ và đều thông qua hiệp định Chính phủ, tập trung toàn bộ vào ngân sách. Nay việc thu hút nguồn vốn nước ngoài vừa đa phương hoá, vừa đa dạng hoá. - Nguồn tài trợ chính thức qua kênh chính phủ (ODA) có phần song phương (với từng nước), phần đa phương (với các tổ chức tài chính quốc tế). Đây là nguồn vốn rất quan trọng đối với việc xây dựng kết cấu hạ tầng của nước ta, nhưng thời gian tranh thủ không thể kéo dài vì chủ yếu là vốn dành cho nước nghèo kém phát triển. Những năm trước mắt là thời gian thuận lợi nhất để khai thác nguồn vốn này. Nguồn vốn lớn hơn từ bên ngoài được thu hút qua hình thức đầu tư trực tiếp của các công ty nước ngoài (FDI), dưới các dạng hợp tác kinh doanh nước ngoài đầu tư 100% vốn và phổ biến nhất là hình thức liên doanh. Nguồn vốn này với sự chuyển dịch hai chiều (từ nước ngoài vào nước ta, chủ yếu từ nước ta ra nước ngoài) có ý nghĩa quan trọng lâu dài, phù hợp với xu thế tự do, đầu tư gắn với tự do hoá thương mại. Từ khi có luật đầu tư nước ngoài (cuối năm 1987) đến hết năm 1995, số dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép đạt xấp xỉ 19 tỷ USD vốn đăng ký. Dự tính trong 5 năm 1996-2000, đưa vào thực hiện khoảng 13-15 tỷ USD vốn FDI, chiếm khoảng 31% tổng số vốn đầu tư trong nền kinh tế. Chúng ta phải tích cực cải thiện môi trường đầu tư, trước hết là hoàn chỉnh luật pháp, đơn giản hoá thủ tục và bảo đảm thực hiện nghiêm minh, thống nhất, khắc phục tệ cửa quyền, sách liêu làm nản lòng các nhà đầu tư. Ngoài hình thức đầu tư trực tiếp đã xuất hiện một số trường hợp công ty tài chính nước ngoài đầu tư vào các doanh nghiệp dưới hình thức góp cổ phần, cùng chịu rủi ro nhưng không tham gia quản._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0319.doc
Tài liệu liên quan