Tổ chức kế toán nguyên Vật liệu tại Công ty Dệt Kim ĐôngXuân-Tổng Công ty dệt may Việt Nam

Lời nói đầu Một trong những nhân tố có tính chất quyết định tới giá bán và chất lượng sản phẩm là tiết kiệm chi phí sản xuất. Tiết kiệm chi phí sản xuất nhưng vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm, đó là cơ sở quan trọng để doanh nghiệp có thể giảm giá bán, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, tăng lợi nhuận thu được. Để đạt được mục đích này, các đơn vị phải quan tâm đến các khâu của quá trình sản xuất kể từ khi bỏ vốn ra đến khi thu vốn về. Nguyên vật liệu là một trong những yếu tố không th

doc63 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1257 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tổ chức kế toán nguyên Vật liệu tại Công ty Dệt Kim ĐôngXuân-Tổng Công ty dệt may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ể thiếu được của quá trình sản xuất, đó là tư liệu lao động chủ yếu cấu thành nên thực thể sản phẩm. Chi phí về nguyên vật liệu chiếm một tỷ trọng lớn trong toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất. Chỉ cần sự biến động nhỏ về chi phí cũng làm ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm và đến lợi nhuận thu được. Do đó nếu tiết kiệm được chi phí nguyên vật liệu thì đây là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để doanh nghiệp có thể đạt được mục đích của mình. Muốn vậy có một chế độ quản lý và sử dụng nguyên vật liệu hợp lý, khoa học, có công tác hạch toán vật liệu phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp là rất cần thiết. Trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của rất nhiều doanh nghiệp dệt may trong và ngoài nước công ty dệt kim Đông Xuân cũng đang phải đứng trước một vấn đề bức xúc trong công tác quản lý và sử dụng nguyên vật liệu. Trong những năm qua được tiếp thu về mặt lý luận của các thầy, các cô giáo trong Học Viện Tài Chính và qua quá trình thực tập tại công ty Dệt kim Đông Xuân, em nhận thấy vai trò quan trọng của kế toán, đặc biệt là kế toán vật liệu đối với công tác quản lý của công ty. Sau thời gian đi sâu tìm hiểu công tác kế toán tại công ty Dệt Kim Đông Xuân, em đã nhận thấy những ưu nhược điểm và những mặt còn hạn chế. Chính vì vậy em đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Tổ chức kế toán nguyên Vật liệu tại công ty Dệt Kim ĐôngXuân-Tổng công ty dệt may Việt Nam” làm chuyên đề thực tập của em. Chuyên đề được chia làm 3 chương : Chương I: Những vấn đề lý lụân cơ bản về tổ chức công tác kế toán vật liệu trong doanh nghiệp sản xuất. Chương II: Tình hình thực tế tổ chức công tác kế toán nguyên vật liệu tại công ty dệt kim Đông Xuân. Chưong III: Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác kế toán nguyên vật liệu tại công ty Dệt kim Đông Xuân. Hà Nội, ngày 20 tháng 4 năm 2003 Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Hải Thu Chương I Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán nguyên vật liệu trong doanh nghiệp sản xuất. Sự cần thiết phải tổ chức công tác kế toán vật liệu trong doanh nghiệp sản xuất . Vị trí và vai trò của nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất. 1.1.1.1. Vị trí của nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất. Khái niệm vật liệu: Vật liệu là đối tượng lao động - một trong 3 yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất và là cơ sở vật chất để hình thành nên sản phẩm. Trong quá trình tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, vật liệu chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất, bị tiêu hao toàn bộ giá trị mộtt lần vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Đặc điểm vị trí vật liệu trong các doanh nghiệp sản xuất : Vật liệu là cơ sở vật chất cấu thành nên thực thể của sản phẩm, vì thế nó là yếu tố không thể thiếu được của mỗi quá trình sản xuất. Trong các doanh nghiệp sản xuất, chi phí vật liệu thường chiếm tỷ trọng lớn trong chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Xét về mặt hiện vật thì nguyên vật liệu chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất nhất định nên khi tham gia vào sản xuất, giá trị của nguyên vật liệu sẽ được tính hết một lần vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Vì vậy có thể nói vật liệu là yếu tố quan trọng quyết định cả về số lượng và chất lượng của sản phẩm. Vật liệu có chất lượng cao đúng quy cách chủng loại, chi phí được hạ thấp, giảm mức tiêu hao vật liệu thì sản phẩm sản xuất ra đạt yêu cầu, với giá thành hạ. Đậy là yếu tố mang tính sống còn đối với một doanh nghiệp. Hơn nữa nguyên vật liệu là tài sản dự trữ thuộc loại tài sản lưu động việc sử dụng nguyên vật liệu một cách hợp lý và tiết kiệm sẽ góp phần làm tăng tốc độ lưu chuyển vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Và trong một chừng mực nào đó sử dụng nguyên vật liệu tiết kiệm còn là cư sở để tăng thêm của cải vật chất cho xã hội. Từ đặc điểm trên cho thấy vật liệu giữ một vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do đó tăng cường công tác quản lý vật liệu là một yêu cầu không thể coi nhẹ trong các doanh nghiệp sản xuất. 1.1.1.2.Vai trò của kế toán đối với việc quản lý và sử dụng nguyên vật liệu Kế toán nguyên vật liệu là việc ghi chép, phản ánh đầy đủ tình hình thu, mua, nhập, xuất, tồn, dự trữ nguyên vật liệu. Việc tổ chức tốt công tác hạch toán vật liệu sẽ thúc đẩy việc cung cấp một cách kịp thời, đồng bộ vật liệu cần thiết cho sản xuất. Đồng thời nó giúp cho công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành các định mức dự trữ, tiêu hao vật liệu, ngăn ngừa các hiện tượng lãng phí, hao hụt, mất mát vật liệu trong quá trình sản xuất. Qua đó các nhà quản lý có những chính sách phù hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu. Mặt khác tính chính xác, kịp thời của công tác hạch toán giá thành. Do vậy đảm bảo hạch toán giá thành chính xác thì khâu đầu tiên cũng phải hạch toán vật liệu chính xác và khoa học ý nghĩa và yêu cầu quản lý vật liệu đối với doanh nghiệp sản xuất Ngày nay trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt một doanh nghiệp muốn tồn tại phải có khối lượng sản phẩm chất lượng cao, mẫu mã đa dạng phong phú. Do vậy vật liệu cung cấp cho sản xuất cũng không ngừng được nâng cao cả chất lượng và chủng loại. Tuy nhiên nguồn vật liệu trong nước chưa đáp ứng đủ cả về mặt số lượng và chất lượng, rất nhiều vật liệu chúng ta phải nhập ngoại. Vấn đềcần dặt ra ở đây là làm sao sử dụng vật liệu tiết kiệm nhưng vẫn đảm bảo đạt hiệu quả kinh tế cao, muốn thế cần phải có hệ thống quản lý vật liệu ở các khâu: Từ thu mua, bảo quản, dự trữ đến sử dụng. - Tại khâu thu mua: vật liệu là tài sản dự trữ sản xuất, thường xuyên biến động, các doanh nghiệp thường phải tiến hành thu mua vật liệu để đáp ứng kịp thời cho quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm và phục vụ cho nhu cầu quản lý khác của doanh nghiệp. Ngay từ khâu thu mua phải quản lý về số lượng, quy cách chủng loại, giá mua, lựa chọn địa điểm mua thích hợp để hạ thấp chi phí thu mua góp phần hạ giá thành sản phẩm. - Tại khâu bảo quản: Tổ chức hệ thống kho tàng hợp lý phù hợp kỹ thuật, tránh lãng phí tổn thất. - Tại khâu dự trữ: Doanh nghiệp phải xác định được mức dự trữ tối đa, tối thiểu cho từng loại vật liệu để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành bình thường không bị ngừng trệ, gián đoạn do cung ứng, mua không kịp thời hoặc gây tình trạng ứ đọng vốn do dự trữ quá nhiều. - Tại khâu sử dụng: Đòi hỏi phải thực hiện việc sử dụng hợp lý tiết kiệm trên cơ sở xác định mức dự toán chi phí nhằm hạ thấp mức tiêu hao vật liệu trong giá thành sản phẩm, tăng thu nhập tích luỹ cho doanh nghiệp. Do vậy trong khâu này cần phải tổ chức tốt việc ghi chép, phản ánh tình hình xuất dùng vật liệu trong quá trình sản xuất kinh doanh. 1.1.3. Nhiệm vụ kế toán nguyên vật liệu trong doanh nghiệp sản xuất: Để thực hiện chức năng giám đốc và là công cụ quảnlý kinh tế, xuất phát từ vị trí của vật liệu trong các doanh nghiệp sản xuất và vai trò của kế toán đối với việc quản lý và sử dụng vật liệu thì nhà nước đã xác định nhiệm vụ kế toán vật liệu trong các doanh nghiệp sản xuất như sau : - Thực hiện việc đánh giá phân loại vật liệu phù hợp với các nguyên tắc yêu cầu quản lý thống nhất và yêu cầu quản trị của doanh nghiệp. - Ghi chép phản ánh đầy đủ kịp thời số hiện có và tình hình luân chuyển của vật tư hàng hoá cả về giá trị và hiện vật. Tính toán đúng đắn trị giá vốn (hoặc giá thành) thực tế của vật tư, hàng hoá nhập, xuất kho, trị giá vốn của hàng hoá tiêu thụ, nhằm cung cấp thông tin kịp thời, chính xác phục vụ cho yêu cầu quản lý doanh nghiệp. - Kiểm tra tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch về mua vật tư hàng hoá, kế hoạch sử dụng vật tư cho sản xuất và kế hoạch bán hàng hoá. - Tổ chức kế toán phù hợp với phương pháp kế toán hàng tồn kho, áp dụng đúng đắn các phương pháp về kỹ thuật hạch toán vật liệu. Hướng dẫn kiểm tra các bộ phận, đơn vị trong doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán ban đầu về vật liệu (Lập chứng từ, luân chuyển chứng từ) mở các sổ thẻ kế toán chi tiết thực hiện hạch toán vật liệu đúng chế độ đúng phương pháp quy định nhằm đảm bảo sự thống nhất trong công tác kế toán cung cấp thông tin phục vụ cho việc lập báo cáo tài chính và phân tích hoạt động kinh doanh. 1.2 Nội dung công tác kế toán vật liệu trong doanh nghiệp sản xuất : 1.2.1. Phân loại vật liệu: Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải sử dụng nhiều loại vật liệu khác nhau, mỗi loại vật liệu được sử dụng có nội dung kinh tế và chức năng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, có tính năng lý hoá khác nhau. Bởi vậy để quản lý dược vật liệu đảm bảo có đủ vật liệu phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đòi hỏi phải nhận biết từng loại, từng thứ vật liệu. Mặt khác tổ chức phân loại nguyên vật liệu còn có ý nghĩa rất lớn đối với công tác kế toán nguyên vật liệu trong quá trình vận dụng các tài khoản lựa chọn các phương phương pháp hạch toán nguyên vật liệu hợp lý. Đồng thừi giúp cho người quản lý doanh nghiệp nhận biết được nội dung kinh tế, vai trò chức năng của từng loại nguyên vật liệu tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, từ đó có biện pháp quản lý, thích hợp đối với từng loại nguyên vật liệu. - Căn cứ vào nội dung kinh tế và yêu cầu kế toán quản trị trong doanh nghiệp sản xuất, nguyên vật liệu được chia thành các loại sau: + Nguyên liệu, vật liệu chính (Bao gồm cả nửa thành phẩm mua ngoài) đối với các doanh nghiệp sản xuất nguyên vật liệu chính là đối tượng lao động chủ yếu cấu thành cư bản nên thực thể của sản phẩm như sắt thép trong doanh nghiệp chế tạo máy, cơ khí, xây dựng cơ bản , bông trong doanh nghiệp kéo sợi, vải trong doanh nghiệp may...Đối với nửa thành phẩm mua ngoài trong các doanh nghiệp dệt cũng được coi là nguyên vật liệu chính. Nguyên vật liệu chính dùng vào sản xuất hình thành nên chi phí vật liệu trực tiếp. + Vật liệu phụ: vật liệu phụ chỉ có tác dụng trong quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm, hoàn chỉnh sản phẩm hoặc phục vụ cho công tác quản lý, phục vụ cho việc bảo quản bao gói sản phẩm như: các loại thuốc nhuộm, thuốc tẩy, dầu nhờn, xà phòng ... + Nhiên liệu là loại nhiên liệu phục vụ cho công nghệ sản xuất sản phẩm cho hoạt động của các phương tiện máy móc, thiết bị hoạt động trong quá trình sản xuất kinh doanh như xăng dầu, than củi, khí ga ... + Phụ tùng thay thế: Bao gồm các loại thiết bị phương tiện được sử dụng trong công việc xây dựng cơ bản ( Cả thiết bị cần lắp, không cần lắp ...) + Vật liệu khác: là các loại vật loại ra trong quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm như : gỗ, sắt, thép vụn hoặc phế liệu thu hồi trong quá trình thanh lý tài sản cố định. -Căn cứ vào nguồn gốc vật liệu được chia thành. + Vật liệu do mua ngoài + Vật liệu tự gia công chế biến hoặc thuê ngoài chế biến + Vật liệu nhập do nhận vốn góp liên doanh. Tuỳ thuộc vào đặc điểm của mỗi doanh nghiệp mà có cách phân loại khác nhau phù hợp với nhu cầu quản lý, thực hiện tốt việc sử dụng vật liệu một cách có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. 1.2.2. Đánh giá nguyên vật liêụ: Đánh giá vật liệu là dùng thước đo tiền tệ để biểu hiện giá trị của vật liệu theo những nguyên tắc nhất định đảm bảo yêu cầu thực thống nhất. Tại sao phải đánh giá vật liệu ? Trong nền kinh tế thị trường, giá cả hàng hoá luôn biến động theo quan hệ cung cầu và nhiều yếu tố khác. Nguyên liệu, vật liệu cũng không nằm ngoài quy luật đó, chúng cũng luôn có sự biến động. Vì thế việc xác định chính xác giá trị của nguyên vật liệu xuất dùng vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ đồng thời là căn cứ để tính chính xác giá thành sản phẩm có ý nghĩa vô cùng quan trọn. Và công tác quản lý phải thực hiện nghiêm túc việc đánh giá nguyên liệu, vật liệu. Nguyên tắc đánh giá vật liệu. Theo quy định hiện hành vật tư hàng hoá hiện ở doanh nghiệp được phản ánh trong sổ kế toán và báo cáo kế toán theo trị giá vốn thực tế tức là toàn bộ số tiền doanh nghiệp bỏ ra để có số vật tư hàng hoá đó. Song đối với những doanh nghiệp thường xuyên có sự biến động về giá cả, khối lượng, chủng loại vật liệu thì có thể sử dụng giá hạch toán để tính trị giá vốn thực tế của vật liệu xuất kho.ty nhiên dù đánh giá theo giá hạch toán thì kế toán vẫn phải đảm bảo việc phản ánh tình hình nhập xuất vật liệu trên các tài khoản, sổ kế toán tổng hợp theo giá thực tế. 1.2.2.1 Đánh giá vật liệu theo giá thực tế: Giá thực tế nhập kho: Trong các doanh nghiệp sản xuất vật liệu được nhập từ nhiều nguồn khác nhau nên giá của chúng trong từng trường hợp được xác định cụ thể như sau: + Đối với vật liệu mua ngoài: Trị giá vốn thực tế của hàng mua nhập kho. = Trị giá mua thực tế của hàng mua nhập kho. + Các khoản chi phí thu mua( Chi phí vận chuyển, thuế nhập khẩu nếu có ...) * Tại doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu trừ thuế GTGT thì giá trị mua thực tế là số tiền ghi trên hoá đơn không kể thuế GTGT trừ đi các khoản chiết khấu, giảm giá, hàng trả lại (nếu có). * Tại doanh nghiệp áp dụng phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp thì giá mua thực tế là trị giá thanh toán (gồm cả thuế GTGT) trừ đi các khoản giảm giá triết khấu và hàng trả lại. + Đối với doanh nghiệp tự gia công chế biến: Trị giá vốn thực tế vật liệu nhập kho = Giá thực tế của vật liệu xuất gia công chế biến + Các chi phí gia công chế biến + Đối với vật liệu nhập kho do thuê ngoài gia công chế biến Giá vốn thực tế vật liệu nhập kho = Giá vốn thực tế vật liệu xuất cho gia công chế biến + Số tiền phải trả cho đơn vị nhận gia công chế biến (không có thuế GTGT + Chi phí v/c vật liệu + Đối với vật liệu đơn vị khác góp vốn liên doanh thì giá vốn thực tế vật liệu nhập kho là giá do hội đồng Liên doanh quyết định. + Đối với vật liệu được ngân sách, cấp trên cấp, giá vốn thực tế bằng giá thoả thuận cấp (lấy trong biên bản cấp) cộng chi phí khác nếu có. + Đối với phế liệu nhập kho Giá vốn thực tế = Giá ước tính (nếu giá trị nhỏ) Giá vốn thực tế = Giá thực tế tương đương trên thị trường ( nếu giá trị lớn). + Vật liệu khác được đánh giá theo ước tính. -Giá thực tế xuất kho: Vật liệu được nhập kho thường xuyên từ nhiều nguồn khác nhau, có giá mua khác nhau nên khi xuất kho kế toán phải tính trị giá mua thực tế của hàng xuất kho theo phương pháp tính đã đăng ký áp dụng, phải đảm bảo tính nhất quán trong niên độ kế toán. Để tính trị giá nguyên vật liệu xuất kho mỗi doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong các phương pháp dưới đây cho phù hợp với đặc điểm riêng, yêu cầu trình độ quản lý. + Tính theo đơn giá thực tế tồn đầu kỳ: Theo phương pháp này trị giá mua thực tế của hàng xuất kho được tính bằng công thức: Trị giá thực tế vật liệu xuất kho = Số lượng vật liệu xuất kho x Đơn giá thực tế vật liệu tồn đầu kỳ Trong đó: Đơn giá thực tế thực tế vật liệu tồn đầu kỳ = Trị giá vốn thực tế của vật liệu tồn đầu kỳ Số lượng vật liệu tồn đầu kỳ + Tính theo đơn giá bình quân gia quyền: Giá thực tế vật liệu xuất kho được căn cứ vào số lượng vật liệu xuất kho trong kỳ và đơn giá bình quân để tính. Trị giá thực tế vật liệu xuất kho = Số lượng vật liệu xuất kho x Đơn giá bình quân Trong đó: Đơn giá bình quân = Trị giá mua thực tế còn đầu kỳ + Trị giá mua thực tế nhập trong kỳ Số lượng còn đầu kỳ + Số lượng nhập trong kỳ + Tính theo phương pháp nhập trước, xuất trước: Theo phương pháp này giả thiết số vật liệu nào nhập kho trước thì xuất kho trước và lấy trị giá mua thực tế của vật đó để ước tính. + Tính theo phương pháp nhập sau xuất trước: Theo phương pháp này cũng phải xác định được đơn giá thực tế của từng lần nhập kho và cũng giả thiết rằng hàng nào nhập kho sau thì xuất trước sau đó căn cứ vào số lượng xuất kho tính ra giá trị vật liệu thực tế xuất kho theo nguyên tắc: Tính theo đơn giá thực tế của các lần nhập trước đó. Như vậy giá trị thực tế vật liệu tồn kho cuối kỳ lại là giá trị thực tế vật liệu thuộc các lần nhập đầu kỳ. + Tính theo giá thực tế đích danh: Theo phương pháp này đòi hỏi doanh nghiệp phải quản lý theo dõi vật liệu từng lô. Khi xuất kho vật liệu thuộc lô nào thì căn cứ vào số lượng xuất kho và đơn giá nhập kho thực tế của lô hàng đó để tính ra giá trị thực tế vật liệu xuất kho. Đánh giá vật liệu theo giá hạch toán: Đối với các doanh nghiệp mua vật tư thường xuyên có sự biến động về giá cả, khối lượng và chủng loại, tình hình nhập xuất diễn ra nhiều thì việc xác định giá thực tế của mỗi loại vật liệu sau mỗi nghiệp vụ nhập xuất kho là rất phức tạp. Ngay cả trong trường hợp ta có thể xác định được đối với từng lần, từng đợt nhập thì chi phí quá tốn kém mà công tác kế toán lại không hiệu quả.Vì thế doanh nghiệp có thể sử dụng giá hạch toán để tính trị giá vốn thực tế của vật liệu xuất kho. Giá hạch toán là giá ổn định do doanh nghiệp tự xây dựng, giá này không có tác dụng giao dịch với bên ngoài. Doanh nghiệp có thể lấy giá kế hoạch hoặc bất kỳ giá mua nào tại một thời điểm nào đó. Giá hạch toán phải được quy định thống nhất trong một thời gian dài ít nhất là một kỳ kế toán. Việc nhập xuất vật liệu hàng ngày được thực hiện theo giá hạch toán. Cuối kỳ kế toán phải tính giá thực tế để ghi sổ kế toán tổng hợp. Để tính được giá trị thực tế của vật liệu xuất kho, trước hết phải tính hệ số giữa giá thực tế và giá hạch toán của vật liệu trong kỳ(H). Sau đó tính giá trị thực tế của vật liệu xuất trong kỳ H = Trị giá vốn thực tế của vật liệu tồn đầu kỳ + Trị giá vốn thực tế của vật liệu nhập trong kỳ Trị giá hạch toán của vật liệu tồn đầu kỳ + Trị giá hạch toán của vật liệu nhập trong kỳ Trị giá thực tế của vật liệu xuất trong kỳ = Trị giá hạch toán của vật liệu xuất trong kỳ x Hệ số giữa giá thực tế và giá hạch toán Việc sử dụng giá hạch toán của vật liệu trong công tác kế toán vật liệu hàng ngày sẽ giảm nhẹ công việc tính toán giá vật liệu nhập xuất tồn kho hàng ngày, tạo thuận lợi cho công tác kiểm tra của kế toán. Mỗi phương pháp tính giá thực tế vật liệu xuất kho đều có ưu nhược điểm riêng vì thế doanh nghiệp phải căn cứ vào đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng trình độ nghiệp vụ kế toán, yêu cầu quản lý cũng như điều kiện trang bị phương tiện kỹ thuật tính toán, xử lý thông tin mà có thể đăng ký lựa chọn phương pháp thích hợp. 1.2.3 Kế toán chi tiết vật liệu: 1.2.3.1 Chứng từ sử dụng: Để đáp ứng yêu cầu quản lý kế toán chi tiết vật liệu được thực hiện ở cả kho và phòng kế toán dựa trên các chứng từ về hàng tồn kho trong hệ thống chứng từ kế toán do Bộ tài chính ban hành. Các chứng từ về vật liệu bao gồm: Phiếu nhập kho (mẫu 01-Vt) Phiếu xuất kho (mẫu 02-VT) Hoá đơn kiêm phiếu xuất kho(mẫu 02- BH) Hoá đơn cước vận chuyển (mẫu 03-BH) Hoá đơn giá trị gia tăng (mẫu 01- GTGT) nếu doanh nghiệp nộp VAT theo phương pháp trực tiếp. Hoá đơn bán hàng (mẫu 02- GTGT) nếu doanh nghiệp nộp VAT theo phương pháp trực tiếp. Biên bản kiểm kê vật tư sản phẩm hàng hóa (mẫu 08-VT) Ngoài các chứng từ bắt buộc sử dụng thống nhất theo quy định của nhà nước các doanh nghiệp có thể sử dụng thêm các chứng từ kế toán hướng dẫn như: Phiếu xuất vật tư theo hạn mức (mẫu 04- VT) Biên bản kiểm nghiệm vật tư (mẫu 05-VT) Phiếu báo vật tư còn lại cuối kỳ (mẫu 07-VT) Đối với chứng từ kế toán thống nhất bắt buộc phải lập kịp thời, đầy đủ theo đúng quy định về mẫu biểu, nội dung, phương pháp lập. Mọi chứng từ kế toán về vật liệu phải tổ chức luân chuyển theo trình tự thời gian hợp lý do kế toán trưởng quy đinh phục vụ cho việc phản ánh ghi chép và tổng hợp số liệukịp thời của các bộ phận cá nhân có liên quan. 1.2.3.2 Sổ chi tiết vật liệu: Tuỳ theo phương pháp kế toán chi tiết áp dụng trong doanh nghiệp mà kế toán sử dụng các sổ (thẻ) kế toán chi tiết như sau: Sổ (thẻ) kho Sổ (thẻ) kế toán chi tiết vật liệu Sổ đối chiếu luân chuyển Sổ số dư Ngoài ra sổ kế toán chi tiết nêu trên còn có thể mở thêm các bảng kê nhập, xuất tồn kho vật liệu, phục vụ cho việc ghi sổ kế toán chi tiết được đơn giản, nhanh chóng kịp thời. 1.2.3.3. Nội dung các phương pháp kế toán chi tiết vật liệu: Trách nhiệm quản lý vật tư trong doanh nghiệp liên quan đến nhiều bộ phận nhưng việc trực tiếp nhập, xuất, tồn vật tư do thủ kho và bộ phận kế toán hàng tồn kho đảm nhận. Vì vậy giữa thủ kho và kế toán phải có sự liên hệ, phối hợp trong việc sử dụng các chứng từ nhằm đảm bảo sự phù hợp số liệu trên thẻ kho và sổ kế toán. Mặt khác tránh sự ghi chép trùng lặp. Kế toán có thể áp dụng một trong 3 hình thức kế toán chi tiết vật liệu Phương pháp ghi thẻ song song Phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển Phương pháp sổ số dư *Kế toán chi tiết tại kho: Dù theo phương pháp nào thì việc hạch toán chi tiết tại kho đều thực hiện trên thẻ kho. Thẻ kho mở ra cho từng loại vật liệu và xắp xếp theo từng kho vật liệu tương ứng phù hợp với kết quả phân loại vật liệu Căn cứ vào các chứng từ nhập, xuất vật liệu thủ kho kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp của chứng từ rồi tiến hành ghi chép số thực nhập, xuất vào chứng từ và thẻ kho. Cuối ngày tính ra số tồn kho ghi thẻ kho. Riêng đôí với phương pháp sổ số dư thì kế toán cuối tháng phải ghi số tồn kho đã tính trên thẻ kho sang sổ số dư vào cột số lượng. *Kế toán chi tiết tại phòng kế toán : Tuỳ thuộc vào phương pháp kế toán chi tiết áp dụng mà việc hạch toán chi tiết vật liệu có thể thực hiện trên các cơ sở. - Sổ chi tiết vật liệu (nếu là phương pháp thẻ song song) - Sổ đối chiếu luân chuyển (nếu là phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển) - Sổ số dư, bảng kê nhập, bảng kê xuất, bảng tổng hợp nhập, xuất, tồn kho (nếu là phương pháp sổ số dư) Căn cứ hạch toán là các chứng từ kế toán. Việc hạch toán chủ yếu tiến hành theo chỉ tiêu giá trị trừ phương pháp ghi thẻ song song hạch toán cả chỉ tiêu số lượng. + Phương pháp ghi thẻ song song Căn cứ vào phiếu nhập, xuất vật liệu và các chứng từ liên quan, kế toán kiểm tra tính hợp pháp, hợp lý của chứng từ rồi tiến hành ghi sổ theo phương pháp đã chọn theo chỉ tiêu giá trị (hoặc cả số lượng).Cuối tháng tiến hành kiểm tra đối chiếu số liệu giữa sổ đã ghi với thẻ kho và số liệu kế toán tổng hợp. Công ty dệt kim Đông Xuân áp dụng hình thức kế toán chi tiết vật liệu theo phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển. Sơ đồ hạch toán chi tiết theo phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển: Thẻ kho Chứng từ nhập Chứng từ nhập Bảng kê xuất Bảng kê nhập Sổ đối chiếu luân chuyển 1.2.4. Kế toán tổng hợp vật liệu: Trong công tác kế toán kế toán chi tiết không phản ánh một cách đầy đủ số hiện có tình hình biến động của toàn bộ tài sản trong doanh nghiệp theo chỉ tiêu giá trị nên kế toán tổng hợp vật liệu được sử dụng nhằm đáp ứng được yêu cầu này. Vật liệu là tài sản lưu động thuộc nhóm hàng tồn kho của doanh nghiệp cho nên việc mở các tài khoản tổng hợp ghi chép sổ kế toán và xác định giá trị hàng tồn kho, giá trị hàng bán ra hoặc xuất dùng tùy thuộc vào việc doanh nghiệp áp dụng phương pháp kế toán hàng tồn kho là: Kê khai thường xuyên hay kiểm kê định kỳ. 1.2.4.1. Kế toán tổng hợp vật liệu theo phương pháp kê khai thường xuyên: Phương pháp kê khai thường xuyên hàng tồn kho là phương pháp ghi chép phản ánh thường xuyên, liên tục có hệ thống tình hình nhập, xuất, tồn kho vật liệu trên các tài khoản kế toán, sổ kế toán tổng hợp trên cơ sở chứng từ nhập, xuất. Như vậy việc xác định trị giá vật liệu xuất kho theo phương pháp này căn cứ vào chứng từ xuất kho sau khi đã tập hợp phân loại theo các đối tượng sử dụng để ghi vào các tài khoản và sổ kế toán. Tài khoản kế toán sử dụng: + Tài khoản 152 nguyên liệu và vật liệu: Tài khoản này phản ánh số hiện có và tình hình tăng giảm nguyên vật liệu theo trị giá vốn thực tế (hay giá thành thực tế).Tài khoản này có thể mở thành các tài khoản cấp 2 để kế toán chi tiết vật liệu theo từng loại phù hợp với cách phân loại theo nội dung kinh tế và yêu cầu kế toán quản trị của doanh nghiệp. Trong từng tài khoản cấp hai lại có thể chi tiết thành tài khoản cấp ba, cấp bốn tới từng thứ, nhóm vật liệu tùy thuộc vào yêu cầu quản lý tài sản của doanh nghiệp. Ngoài ra kế toán còn sử dụng các tài khoản liên quan khác như: TK111, TK112, TK141,TK151,TK333, TK154, TK621, TK641, TK 331. . . . 1.2.4.2 Kế toán tổng hợp vật liệu theo phương pháp kiểm kê định kỳ: Phương pháp kiểm kê định kỳ là phương pháp không theo dõi, phản ánh thường xuyên, liên tục tình hình nhập, xuất vật liệu trên các tài khỏan kế toán hàng tồn kho tương ứng. Việc xác định trị giá vật liệu xuất dùng trên tài khoản kế toán tổng hợp không căn cứ vào chứng từ xuất kho mà căn cứ vào trị giá thực tế vật liệu tồn kho đầu kỳ, nhập trong kỳ và kiểm kê cuối kỳ để xác định. Trị giá vật liệu xuất dùng = Trị giá vật liệu tồn đầu kỳ + Trị giá vật liệu nhập trong kỳ _ Trị giá vật liệu tồn cuối kỳ Tài khoản kế toán sử dụng: Theo phương pháp này kế toán sử dụng tài khoản 611 “ Mua hàng” để phản ánh giá trị của vật tư mua vào và nhập trong kỳ. Còn tài khoản 152 chỉ dùng để phản ánh giá trị hàng tồn kho lúc đầu và cuối kỳ. Ngoài ra kế toán cũng sử dụng các tài khoản liên quan khác tương tự như phương pháp kê khai thường xuyên. Trình tự hạch toán tổng hợp vật liệu theo phương pháp kê khai thường xuyên hạch toán theo sơ đồ sau: TK151 TK152 TK621 Nhập kho hàng đang xuất dùng trực tiếp đi đường kỳ trước cho sản xuất TK111,141,331 TK627,641,642 N.kho vật liệu mua ngoài xuất dùng cho Q.lý TK133 bán hàng, sản xuất VAT TK 411 TK632,157 Nhận vốn góp liên doanh xuất bán, gửi bán TK154 TK154 N.kho vật liệu tự chế, Xuất tự chế hoặc thuê ngoài thuê ngoài TK333(3333) Thuế nhập (nếu có) TK 138 phát hiện thiếu khi TK338 kiểm kê chờ xử lý Phát hiện thừa khi kiểm kê chờ xử lý TK412 TK412 chênh lệch giảm Chênh lệch tăng do đánh giá lại do đánh giá lại Sơ đồ kế toán tổng hợp vật liệu theo phương pháp kiểm kê định kỳ TK151,152 TK611 TK151,152 Kết chuyển trị giá vật liệu kết chuyển giá trị vật liệu tồn kho đầu kỳ tồn kho cuối kỳ TK111,112 TK111,128,138 Mua vật liệu nhập kho chiết khấu hàng mua Hàng mua trả lại T133 TK621 cuối kỳ kết chuyển số vật liệu dùng cho SXKD TK333(3333) TK632 Thuế nhập khẩu (nếu có) xuất bán TK411 TK111,138,334 Nhận vốn góp cổ phần vật tư thiếu hụt mất mát TK412 TK412 Chênh lệch do đánh giá tăng Chênh lệch đánh giá giảm Hệ thống sổ kế toán sử dụng trong phương pháp kế toán tổng hợp vật liệu. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh đều được phản ánh vào các chứng từ kế toán. Tuy nhiên thông tin phản ánh trên chứng từ chỉ là những thông tin rời rạc, chưa có tác dụng đối với công tác quản lý tổng hợp. Vì vậy để quản lý có hiệu quả các hoạt động kinh tế, tài chính những thông tin này cần phải được phân loại và phản ánh một cách có hệ thống vào các tài khoản kế toán trong các sổ kế toán phù hợp. Các doanh nghiệp có thể sử dụng các loại sổ kế toán khác nhau hình thành nên các loại sổ kế toán khác nhau. - Hình thức kế toán nhật ký sổ cái: Hình thức này sử dụng nhật ký sổ cái làm sổ kế toán tổng hợp duy nhất để ghi chép tất cả các hoạt động kinh tế-tài chính theo thứ tự thời gian và theo hệ thống. Căn cứ vào các chứng từ kế toán về thu mua, nhập vật liệu, kế toán lập bảng chứng từ gốc. Sau đó lấy số liệu ghi vào sổ nhật ký sổ cái các TK 152 hoặc TK 611. Căn cứ vào các chứng từ xuất kho vật tư hoặc bảng tổng hợp, chứng từ gốc, trị giá vốn thực tế vật liệu xuất kho được ghi vào sổ nhật ký sổ cái, sau đó ghi vào sổ chi tiết. - Hình thức kế toán chứng từ ghi sổ: Các hoạt động kinh tế-tài chính được phản ánh ở chứng từ gốc đều được phân loại, tổng hợp, lập chứng từ về nhập nguyên vật liệu để lập chứng từ ghi sổ. Sau đó dựa vào số liệu chứng từ ghi sổ vào sổ đăng ký chứng từ ghi sổ và ghi sổ cái các tài khoản TK152 hoặc TK611. Trị giá nguyên vật liệu xuất kho theo trị giá vốn thực tế phản ánh trên bảng phân bổ nguyên vật liệu được dùng làm căn cứ ghi sổ. - Hình thức kế toán nhật ký chung: Đặc điểm của hình thức này là sổ nhật ký chung dùng để ghi chép tất cả các hoạt động kinh tế tài chính theo thứ tự thời gian và theo quan hệ dối ứng tài khoản, sau đó sử dụng số liệu ở sổ nhật ký chung để ghi sổ cái các tài khoản liên quan. Kế toán vật liệu căn cứ vào chứng từ nhập vật liệu ghi vào sổ nhật ký chuyên dùng hàng ngày hoặc định kỳ. Sau đó thông qua số liệu tổng hợp từ sổ nhật ký chuyên dùng và nhật ký chung để ghi vào sổ cái TK152. Trị giá vốn thực tế nguyên vật liệu xuất kho được phản ánh trên bảng phân bổ nguyên vật liệu và được dùng làm căn cứ để ghi vào nhật ký chung. Dựa vào số liệu tổng hợp trên sổ nhật ký chung ghi vào sổ cái TK452, 611. - Hình thức kế toán nhật ký chứng từ: Đặc điểm hình thức này là các hoạt động kinh tế được phản ánh ở chứng từ gốc đều được phân loại để ghi vào sổ nhật ký chứng từ, cuối tháng tổng hợp số liệu từ các sổ nhật ký chứng từ ghi vào sổ cái các tài khoản. Trong hình thức nhật ký chứng từ kế toán các nghiệp vụ thu, mua, nhập vật liệu và thanh toán với người bán được thực hiện trên bảng kê số 3, sổ chi tiết thanh với người bán, nhật ký chứng từ số 5, bảng phân bổ nguyên vật liệu. + Bảng kê số 3 dùng để tính giá thành thực tế nguyên vật liệu. Bảng này lấy số liệu từ NKCT số 1,2,5. . . . bảng kê tổng hợp giá trị vật liệu nhập kho và phần chênh lệch giữa giá thực tế và giá hạch toán. Trên cơ sở đó tính ra hệ số giá vật liệu rồi tính ra giá vật liệu xuất dùng hoặc tồn kho. + Sổ chi tiết TK331 gồm hai phần Phần ghi có TK331, nợ TK152. . . . Phần theo dõi thanh toán ghi nợ TK331, có TK. . . . Nguyên tắc ghi trên sổ kế toán chi tiết TK331 là mỗi nhà cung cấp ghi trên một sổ hoặc một trang sổ. Mỗi hóa đơn ghi trên một dòng theo thứ tự thời gian và được theo dõi đến luc thanh toán. Phần theo dõi thanh toán ghi nợ TK331, có TK. . . . + Nhật ký chứng từ số 5: Là sổ tổng hựop thanh toán với người bán về các khoản mua nguyên vật liệu, hàng hóa và các lao vụ dịch vụ khác. Căn cứ để ghi NKCT số 5 là các sổ chi tiết phải trả người bán. Cuối tháng phải căn cứ vào số tổng cộng của từng sổ chi tiết TK331 để ghi NKCT số 5. Mỗi nhà cung cấp ghi một dòng. Chương II thực tế tổ chức công tác kế toán nguyên vật liệu công ty dệt kim đông xuân 2.1 Đặc điểm chung của công ty dệt kim đông xuân: 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của công ty dệt kim Đông Xuân: Công ty dệt kim Đông Xuân với tên giao dịch DOXIMEX được thành lập từ năm 1959, là doanh nghiệp nhà nước đầu tiên của ngành dệt kim Viêt Nam. Trụ sở chính của công ty đặt tại t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33621.doc
Tài liệu liên quan