Tổ chức lưu thông phân bón vô cơ theo cơ chế thị trường ở Việt Nam

Lời mở đầu 1-/ Tính cấp thiết của đề tài: Nước ta là nước nông nghiệp thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa quanh năm nóng ẩm. Diện tích trồng tra ở nước ta chiếm một tỷ trọng lớn trong đất đai, dân số làm nghề nông ở nước ta nhiều. Do điều kiện thuận lợi về tự nhiên và khí hậu thích hợp với cây trồng, Đảng ta đã xác định “Nông nghiệp là mặt trận hàng đầu” trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ 6 đã cụ thể hoá bằng 3 chương trình kinh tế lớn là “lương thực,

doc196 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1172 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Tổ chức lưu thông phân bón vô cơ theo cơ chế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thực phẩm - hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”. Về lương thực, từ chỗ ta phải lo đủ ăn đến phấn đấu có xuất khẩu và đến nay ta đã làm được điều đó, sản lượng lương thực năm 1993 đã ở mức 25 triệu tấn/năm song xu hướng những năm tới không những vừa phải đảm bảo đủ lương thực tiêu dùng cho toàn quốc mà còn phấn đấu xuất khẩu một lượng lớn hơn nhiều. Để làm được điều đó, một trong những vấn đề quan trọng là phải đảm bảo đủ cả về số lượng, chủng loại và chất lượng phân bón vô cơ đúng thời vụ cho sản xuất nông nghiệp. Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ. Vấn đề lưu thông phân bón vô cơ theo cơ chế thị trường ở điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay phải được tổ chức như thế nào để vừa đảm bảo nhiệm vụ đặt ra, vừa đảm bảo cho doanh nghiệp làm công tác lưu thông tồn tại và có lãi. Với tư cách là cán bộ công tác tại Tổng Công ty Vật tư Nông nghiệp tiếp xúc với quá trình kinh doanh phân bón, tác giả xin chọn đề tài “Tổ chức lưu thông phân bón vô cơ theo cơ chế thị trường ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu. 2-/ Mục đích của đề tài: - Làm rõ cơ sở lý luận của lưu thông hàng hoá nói chung và đặc điểm tổ chức lưu thông phân bón vô cơ nói riêng trong nền kinh tế thị trường. - Phân tích thực trạng tổ chức lưu thông phân bón vô cơ ở nước ta hiện nay rút ra những vấn đề mang tính quy luật của quá trình lưu thông phân bón. - Đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện việc tổ chức lưu thông phân bón vô cơ phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta. 3-/ Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu và xây dựng cơ sở lý luận và phương pháp luận về tổ chức lưu thông phân bón vô cơ. Đề tài nghiên cứu việc lưu thông phân bón vô cơ trong phạm vi cả nước. 4-/ Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp vật biện chứng, duy vật lịch sử nghiên cứu tổng thể vấn đề. Các phương pháp toán, thống kê, phân tích cũng được sử dụng để nghiên cứu các vấn đề cụ thể. 5-/ Kết cấu của đề tài. Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo. Đề tài gồm 3 chương: Chương I - Đặc điểm và nội dung cơ bản của tổ chức lưu thông phân bón vô cơ trong nền kinh tế thị trường. Chương II - Nghiên cứu, phân tích tình hình lưu thông phân bón vô cơ ở Việt Nam hiện nay. Chương III - Phương hướng và biện pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quá trình lưu thông phân bón vô cơ ở Việt Nam hiện nay. Chương 1 Đăc điểm và nội dung cơ bản của tổ chức lưu thông phân bón vô cơ trong nền kinh tế thị trường ở việt nam 1-/ Tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị trường. 1.1-/ Lưu thông và vị trí của lưu thông trong nền kinh tế quốc dân Lưu thông là đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng, là cầu nối trung gian một bên là sản xuất và phân phối và một bên là tiêu dùng. Thực tế cho thấy, thích ứng với mỗi cơ chế quản lý kinh tế công tác lưu thông được thực hiện bằng các hình thức khác nhau. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước quản lý kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh, các cơ quan hành chính, kinh tế can thiệp sâu vào nghiệp vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm về các quyết định của mình. Quan hệ giữa các ngành là quan hệ dọc, được kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và lao động sản phẩm. Lưu thông trong thời kỳ này chủ yếu là giao nộp sản phẩm cho các đơn vị theo địa chỉ và giá cả do Nhà nước định sẵn. Tóm lại trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung khi mà ba vấn đề trung tâm của nền kinh tế là: sản xuất cái gì? sản xuất bằng cách nào? sản xuất cho ai? đều do Nhà nước quyết định thì lưu thông hàng hoá chỉ là việc bán sản phẩm hàng hoá sản xuất ra theo kế hoạch và giá cả được ấn định trước. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp đều có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh hay nói khác đi các doanh nghiệp phải tự quyết định ba vấn đề kinh tế trung tâm (sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai?) thì lưu thông hàng hoá không thể đơn thuần là việc bán sản phẩm hàng hoá ra theo kế hoạch và giá cả ấn định trước. Muốn thực hiện được chức năng là cầu nối trung gian giữa sản xuất, phân phối và tiêu dùng thì lưu thông hàng hoá phải được hiểu là một quá trình kinh tế bao gồm nhiều khâu từ việc nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu khách hàng, đặt hàng và tổ chức sản xuất, thực hiện các nghiệp vụ tiêu thụ, xúc tiến bán hàng nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất. Quan niệm lưu thông hàng hoá là quá trình tiêu thụ sản phẩm, Hiệp hội kế toán quốc tế định nghĩa: Tiêu thụ (bán hàng hàng hoá, lao vụ, dịch vụ) là việc chuyển dịch quyền sở hữu sản phẩm, hàng hoá, lao vụ dịch vụ đã thực hiện cho khách hàng đồng thời thu được tiền hàng hoặc được quyền thu tiền bán hàng. Lưu thông hàng hoá nếu xét trên mối quan hệ kinh tế quốc tế thì được chia ra lưu thông hàng hoá trong nước và lưu thông hàng hoá nước ngoài, hay được gọi là nội thương và ngoại thương (xuất nhập khẩu). Căn cứ vào tính chất của hàng hoá lưu thông trên thị trường chia ra: lưu thông tư liệu sản xuất (vật tư thiết bị); lưu thông tiền vốn; sức lao động và cuối cùng là lưu thông vật phẩm tiêu dùng. Quá trình tái sản xuất xã hội bao gồm bốn khâu: sản xuất - phân phối - trao đổi (lưu thông) - tiêu dùng. Sản xuất là khâu mở đầu, là quá trình con người sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm (dưới hai dạng: tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu dùng) cho con người. Phân phối là một khẩu của quá trình tái sản xuất xã hội nói lên cách chia sản phẩm (tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu dùng) như thế nào tuỳ theo việc ai là chủ tư liệu sản xuất đó. Trao đổi là một khẩu trung gian đưa tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu dùng đến nơi tiêu dùng. Trao đổi có thể tiến hành dưới dạng hiện vật hoặc dưới dạng mua bán thông qua đồng tiền. Trong điều kiện kinh tế phát triển sản xuất hàng hoá, thì từ ngữ trao đổi thường được dùng với hàm ý là mua bán, thông qua mua bán để trao đổi hàng hoá với nhau. Lưu thông cũng là một hoạt động kinh tế trung gian gắn sản xuất với tiêu dùng. Tham gia khâu lưu thông này có các hoạt động của các ngành vận tải, thu mua (lưu thông nông sản vật tư) cung ứng vật tư và hoạt động trao đổi mua bán của nội thương và ngoại thương. Như vậy khái niệm lưu thông bao hàm nội dung đầy đủ hơn, rộng hơn khái niệm trao đổi. Mỗi chu kỳ tái sản xuất bắt đầu từ khâu sản xuất và kết thúc ở khâu tiêu dùng. Sản xuất là điểm xuất phát, tiêu dùng là điểm cuối cùng, còn phân phối trao đổi (lưu thông) là khâu trung gian, vì sản phẩm sau khi được sản xuất ra muốn được tiêu dùng phải qua phân phối và trao đổi. Có thể thấy rõ vị trí của lưu thông trong quá trình tái sản xuất xã hội theo sơ đồ dưới đây. Sản xuất Phân phối Lưu thông Tiêu dùng Giữa các khâu của quá trình tái sản xuất có mối quan hệ quyết định và tác động thúc đẩy lẫn nhau. + Xét hình thức bên ngoài, mối quan hệ này thể hiện, trong quá trình sản xuất, các thành viên của xã hội thích nghi (tạo ra, cải biến) các sản phẩm của tự nhiên cho phù hợp với yêu cầu của con người; phân phối xác định tỷ lệ mỗi cá nhân tham gia vào sản phẩm đã sản xuất ra. + Lưu thông đem lại cho cá nhân những sản phẩm nhất định mà anh ta muốn dùng phần nhận được do phân phối để trao đổi (lưu thông); cuối cùng, trong tiêu dùng các sản phẩm trở thành đối tượng tiêu dùng và đối tượng của việc chiếm hữu cá nhân. Sản xuất sáng tạo ra những sản phẩm thích hợp với các nhu cầu, phân phối phân chia các vật đo ra theo những quy luật xã hội; trao đổi (lưu thông) lại phân phối lại cái đã được phân phối theo những nhu cầu cá biệt; cuối cùng trong tiêu dùng, sản phẩm vượt ra khỏi vận động xã hội đó, trực tiếp trở thành đối tượng phục vụ cho một nhu cầu cá biệt và thoả mãn nhu cầu đó trong quá trình tiêu dùng. Như vậy sản xuất thể hiện ra là điểm xuất phát, tiêu dùng là điểm cuối cùng, phân phối trao đổi là điểm trung gian. Điểm trung gian này lại có hai yếu tố và phân phối được coi là yếu tố xuất phát từ xã hội và trao đổi là yếu tố xuất phát từ cá nhân. + Đi sâu phân tích mối quan hệ giữa các khâu của quá trình sản xuất, ta thấy sản xuất luôn là cái quyết định, quy định đối với phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Song phân phối, trao đổi và tiêu dùng không phải chỉ đơn thuần chịu sự quy định một cách thụ động mà nó còn có tác động trở lại trong mối quan hệ biện chứng. * Quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng. Sản xuất cũng trực tiếp là tiêu dùng- Tiêu dùng về hai mặt, chủ quan và khách quan: cá nhân phát triển năng lực của mình trong quá trình sản xuất, đồng thời cũng tiêu phí, tiêu dùng các năng lực đó trong hành vi sản xuất, cũng giống như hành vi sinh con đẻ cái là sự tiêu phí sức sống. Mặt khác sản xuất là tiêu dùng các tư liệu sản xuất mà người ta sử dụng các tư liệu sản xuất đó hao mòn đi một phần phân giải thành những yếu tố cơ bản của sản phẩm. Vì vậy bản thân hành vi sản xuất trong mọi nhân tố của nó cũng đồng thời là hành vi tiêu dùng. Trong trường hợp này, sản xuất được coi là trực tiếp đồng nhất với tiêu dùng và tiêu dùng được coi là trực tiếp ăn khớp với sản xuất. Và được các nhà kinh tế học gọi là tiêu dùng sản xuất. Tiêu dùng đồng thời cũng trực tiếp là sản xuất, cũng như trong tự nhiên, tiêu dùng các nguyên tố hoá chất là sự sản xuất thực vật, hay trong quá trình ăn uống, một trong những hình thức tiêu dùng con người sản xuất ra bản thân cơ thể của mình. Điều đó cũng có giá trị đối với mọi hình thức tiêu dùng khác, những hình thức tiêu dùng này về mặt này hay mặt khác, mỗi hình thức một kiểu đã góp phần vào việc sản xuất ra con người. Đó là sự sản xuất có tính chất tiêu dùng. Sự sản xuất có tính chất tiêu dùng này - mặc dù nó là một sự thống nhất trực tiếp của sản xuất và tiêu dùng - về căn bản khác với sản xuất theo đúng nghĩa của nó. Sự thống nhất trực tiếp, trong đó sản xuất trực tiếp với tiêu dùng, và tiêu dùng đồng nhất với sản xuất, vẫn giữ tính chất hai mặt trực tiếp của chúng. Vậy, sản xuất trực tiếp là tiêu dùng, tiêu dùng trực tiếp là sản xuất. Mỗi cái trực tiếp là cái đối lập của nó. Nhưng đồng thời giữa hai cái đó có vận động môi giới. Sản xuất là môi giới cho tiêu dùng, sản xuất tạo ra những vật liệu cho tiêu dùng, không có vật liệu này thì tiêu dùng sẽ không có đối tượng. Nhưng tiêu dùng cũng là môi giới của sản xuất vì chỉ có tiêu dùng tạo ra các chủ thể cho các sản phẩm, mới làm cho sản phẩm trở thành sản phẩm đối với chủ thể. Sản phẩm chỉ đạt đến sự kết thúc cuối cùng của nó trong tiêu dùng mà thôi. Không có sản xuất thì không có tiêu dùng, nhưng không có tiêu dùng cũng chẳng có sản xuất vì trong trường hợp đó sản xuất sẽ không có mục đích. Tiêu dùng tạo ra sản xuất thể hiện chỉ có trong tiêu dùng thì sản phẩm mới thực sự trở thành sản phẩm, mới đem đến cho sản phẩm một sự hoàn thiện cuối cùng và tiêu dùng tạo ra nhu cầu về một sản phẩm mới. Sản xuất tạo ra tiêu dùng bằng cách, tạo ra vật liệu cho tiêu dùng xác định phương thức tiêu dùng, làm nảy ra ở người tiêu dùng các nhu cầu của đối tượng là sản phẩm do sản xuất tạo ra, do đó sản xuất sản xuất ra đối tượng tiêu dùng, phương thức tiêu dùng và sự kích thích tiêu dùng. * Quan hệ giữa sản xuất và phân phối: cơ cấu của sự phân phối hoàn toàn do cơ cấu của sản xuất quy định. Bản thân sự phân phối là sản vật của sản xuất, không chỉ về mặt nội dung vì người ta có thể đem phân phối những kết quả của sản xuất thôi mà về cả hình thức, vì phương thức nhất định của việc tham gia vào sản xuất quy định hình thái đặc thù của phân phối, hình thái theo đó người ta tham gia vào sự phân phối. Tuy nhiên phân phối có tính độc lập tương đối đối với sản xuất. Bởi vì phân phối biểu hiện thành phân phối sản phẩm và do đó hình như nó rất cách xa đối với sản xuất và tựa hồ như độc lập với sản xuất. Nhưng trước khi là phân phối sản phẩm thì phân phối là phân phối những công cụ sản xuất và phân phối các thành viên xã hội theo những loại sản xuất khác nhau, cái đó tức là một sự quy định khác của mối quan hệ trên (việc các cá nhân lệ thuộc vào những quan hệ sản xuất nhất định). Rõ ràng phân phối sản phẩm chỉ là kết quả của sự phân phối đó mà thôi, sự phân phối này đã bao hàm trong bản thân quá trình sản xuất và quyết định cơ cấu sản xuất. Như vậy, sản xuất phải xuất phát từ một sự phân phối nhất định về công cụ sản xuất, nên theo ý nghĩa đó thì phân phối ít nhất của phải có trước sản xuất, là tiền đề của sản xuất và do đó quyết định sản xuất. * Quan hệ giữa sản xuất và trao đổi: bản thân lưu thông chỉ là một yếu tố nhất định của trao đổi, hoặc là của trao đổi xét trên toàn bộ của nó. Vì trao đổi chỉ là một yếu tố trung gian, một mặt là giữa sản xuất và phân phối do sản xuất quyết định, và mặt khác là với tiêu dùng, còn bản thân phân phối lại thể hiện ra một yếu tố của sản xuất, nên rõ ràng là trao đổi bao hàm trong sản xuất với tư cách là yếu tố của sản xuất. Trước hết, sự trao đổi hoạt động và năng lực được thể hiện trong bản thân sản xuất là một bộ phận trực tiếp của sản xuất và là mặt căn bản của sản xuất; Thứ hai, đối với trao đổi sản phẩm sự trao đổi là phương tiện để sản xuất ra thành phẩm nhằm phục vụ cho sự tiêu dùng trực tiếp. Trong phạm vi đó, bản thân trao đổi là một hành vi bao gồm ở trong sản xuất; Thứ ba, sự trao đổi giữa các nhà kinh doanh với nhau xét về mặt tổ chức của nó là hoàn toàn do sản xuất quyết định, đồng thời nó lại là hoạt động sản xuất. Trao đổi chỉ độc lập với sản xuất, không dính gì với sản xuất ở trong giai đoạn cuối cùng mà thôi - khi sản phẩm được trao đổi trực tiếp để tiêu dùng. Nhưng không có phân công lao động thì không có trao đổi; trao đổi tư nhân giả định phải có nền sản xuất tư nhân và cường độ của trao đổi, tính chất phổ cập của trao đổi cũng như hình thái trao đổi là do sự phát triển và kết cấu của nền sản xuất quyết định. Do đó trong mọi yếu tố của nó trao đổi hoặc là trực tiếp bao gồm trong sản xuất, hoặc do sản xuất quyết định. * Sự phân tích giữa quan hệ giữa các khâu của quá trình tái sản xuất cho thấy giữa sản xuất - phân phối- lưu thông - tiêu dùng là những bộ phận của tổng thể, là những sự phân biệt trong nội bộ một khối thống nhất. Trong đó sản xuất chi phối bản thân nó với tất cả sự đối lập trong tất cả những tính quy định của nó, cũng như nó chi phối các yếu tố khác chính là bắt đầu từ sản xuất mà quá trình lặp lại không ngừng. Bản thân sản xuất đến lượt nó cũng do các yếu tố khác quyết định. Khi thị trường nghĩa là lĩnh vực trao đổi mở rộng ra thì quy mô sản xuất cũng tăng lên và sự phân công trong sản xuất cũng trở nên sâu sắc hơn; phân phối biến đổi, sản xuất cũng biến đổi theo; cuối cùng thì những yêu cầu của tiêu dùng quyết định sản xuất. 1.2-/ Lưu thông tư liệu sản xuất trong nền kinh tế kế hoạch tập trung Lưu thông tư liệu sản xuất cũng là cầu nối giữa sản xuất với sản xuất, là mắt xích không thể thiếu được giữa các chu kỳ sản xuất trong điều kiện phân công lao động đã phát triển. Lưu thông không chỉ đơn thuần là việc “phân phối ” tư liệu sản xuất trong quá trình tái sản xuất xã hội, nó thực sự là tấm gương phản chiếu khá đầy đủ bộ mặt kinh tế của một đất nước; Mặc dù vậy bản chất của nó đó là một khâu của tái sản xuất có thể xem là bắt đầu của sản xuất và cũng là kết thúc của sản xuất. K- Mác đã tóm tắt lưu thông tư bản bởi công thức: T - H (sx) H-T- H(sx)- H-.... (1) Lưu thông tư liệu sản xuất xảy ra ở (1) tức là nối sản xuất với sản xuất. Mặt khác K.Mác đã chứng minh luận đề: Lưu thông không tạo ra giá trị hàng hoá. Nhưng trong (1) Ta thấy có sức xuất hiện của tiền (T) tức là phải có sự trao đổi thông qua hình thái tiền tệ. Xã hội phát triển hình thành một bộ phận mới đó là những tổ chức và cá nhân chuyên kinh doanh trong lĩnh vực lưu thông. Trong đó có kinh doanh tư liệu sản xuất. Lĩnh vực hoạt động này ngày càng phát triển và trong sự phát triển đa dạng đó nảy sinh những hình thức kinh doanh gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống xã hội, mà trước tiên là nó gây thiệt hại cho chính những người làm lưu thông thực sự và chân chính. Từ sơ đồ sau: TLSX- SLĐ Sản xuất TLTD Pk A Pk+1 TLSX. Trong đó giả sử nền kinh tế sản xuất n loại hàng hoá . Gọi: Pk = (Pjk ) là giá hàng tại chu kỳ sản xuất thứ k của loại hàng hoá J (J = 1,n) A = (aij )nxn - là ma trận chi phí Để đơn giản giả định tiêu dùng SLĐ khi tính chi phí sản xuất như TLTD Như vậy trong điều kiện cân bằng và nếu kinh tế hầu như đóng trên thị trường khu vực thì: Hay P= A.P Nếu tính theo chu kỳ ta sẽ có: Trong đó a là tỷ xuất lợi nhuận bình quân, tức là: Pk+1 = (1+a) A Pk. Do đó, sau t chu kỳ sản xuất: Pt = (1 + a )t At P0. Trong điều kiện bình thường ta có thể chọn a sao cho Pt hội tụ đến P, với một giá gốc nhất định. Và công thức P = A.P chính là cơ sở để giải thích nguồn gốc của lợi nhuận- đó là sức lao động, là chi phí lao động sống. Đương nhiên không phải vì thế mà lao động vật hoá không có vai trò quan trọng, đôi khi là quyết định trong việc tạo ra lợi nhuận. Vì vậy vấn đề đặt ra là: Muốn thực hiện đúng bản chất của lưu thông thì bất kỳ một loại tư liệu sản xuất nào cũng cần xác định một con đường qua lưu thông ngắn nhất, có thể hiểu theo nghĩa chi phí chứ không chỉ có ý nghĩa địa lý. Thường thì lưu thông hàng hoá nói chung hay tư liệu sản xuất nói riêng của các nước phát triển hay chưa phát triển, thì các tổ chức, cá nhân hay các doanh nghiệp thực hiện công tác lưu thông cũng không thể bán rẻ và không chịu mua rẻ. ở Việt Nam trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung các hàng hoá mua bán trên thị trường chưa phải đã vận động theo quy luật Cung- cầu, nhiều yếu tố của sản xuất chưa trở thành hàng hoá, chẳng hạn: đất đai, sức lao động, phân bón, xăng dầu, chất xám, tiền tệ... Nó là nền kinh tế với nhiều hoạt động kinh tế trong xã hội chưa hoàn toàn theo đúng các quy luật của nền kinh tế, trong đó việc mua bán tư liệu sản xuất là một trường hợp điển hình. Trong thời kỳ này lưu thông tư liệu sản xuất ở nước ta được đánh giá là: Lộn xộn, vòng vèo, tính xã hội thấp. Điều đó thể hiện ở chỗ người mua của người làm lưu thông không phải là người sản xuất tức là xảy ra hiện tượng lưu thông -lưu thông ... sản xuất, trong đó mục đích của lưu thông về mặt xã hội hầu như không phải là sản xuất dù người mua là người sản xuất. Từ đó dẫn đến tình trạng lộn xộn kinh doanh theo kiểu “cò mồi, chỉ trỏ”. Mặt khác tạo nên nhu cầu giả tạo hạn chế sức sản xuất, giá cả không phản ánh đúng quy luật giá trị, quy luật cung cầu. Hàng hoá tư liệu sản xuất lưu thông vòng vèo như một “vật ngon” thách thức người sản xuất. Và cuối cùng chi phí sản xuất tăng do phải chấp nhận giá tư liệu sản xuất quá cao (giá hạch toán). Còn lưu thông hầu như chỉ để lưu thông- để kiếm lời, qua quá trình lưu thông nhiều cấp. Vậy các tổ chức, cá nhân hay các doanh nghiệp làm công tác lưu thông trong nền kinh tế kế hoạch hoá thu được lợi nhuận ở đâu ra. Và điều này đựoc khẳng định là chắc chắn do một chủ thể kinh doanh mạnh dạn bỏ vốn ra, do đó phải thu lãi. Nên mỗi lần mua bán lại phải tuân theo quá trình là: Khi người sản xuất bán tư liệu sản xuất cho người chuyên kinh doanh tư liệu sản xuất thì phải trích ra một phần lợi nhuận ròng của mình để “nhờ ”bán hàng. Phần trích đó sẽ không bé hơn công sức người kinh doanh tư liệu sản xuất sẽ bỏ ra để bán hộ hàng cho mình. (K.Mác cũng đã chỉ ra lợi nhuận thương nghiệp hình thành như vậy). Hoặc ở góc độ khác nếu người kinh doanh đầu tiên không chia lợi nhuận đủ cho người kinh doanh tiếp theo và sau nữa thì phần lợi nhuận đó có người ứng trước cho họ- đó chính là người sản xuất hay đúng hơn là chu kỳ sản xuất sau đó. Vì 2 lý do: Thứ nhất có thể họ vẫn còn lãi dù lãi ít ; Thứ hai là họ buộc phải sản xuất nếu không muốn phá sản và cho không toàn bộ phần vốn cố định đã mua sắm. Hệ quả dẫn đến là sự luẩn quẩn trong lưu thông và làm ảnh hưởng đến các tổ chức và cá nhân có liên quan. Trong trường hợp đó chỉ có một cách duy nhất là phá sản một số ngành và giảm lương của bản thân người lao động để có thể làm cho chi phí sản xuất giảm tối thiểu. Điều này dẫn đến thất nghiệp tương đối và sức lao động, kể cả số người được đào tạo ngày càng hao mòn, năng suất lao động giảm. Mặc nhiên do yếu tố tâm lý lưu thông chu kỳ sau sẽ chấp nhận giá cao hơn một chút và chính điều đó làm cho người chuyên kinh doanh tư liệu sản xuất thấy có thể chấp nhận giá mua vào cao hơn, nếu xét một chu kỳ sản xuất, lưu thông thì thấy họ có lãi, nhưng nếu kéo dài, chu kỳ tăng lên thì tỷ lệ lãi giảm dần mà thuế doanh thu tăng dần, quan hệ đó có thể mô tả như sau: PtT Dt L C T T0 t Dt: Doanh thu T: Thuế C: Chi phí (giả định đơn giản) Khi đó nếu ta thấy không có sự can thiệp đủ mạnh thì sau chu kỳ(t), kinh doanh bắt đầu thua lỗ thậm chí phá sản điều đó dẫn đến một nghịch lý đối với người kinh doanh tư liệu sản xuất chuyên nghiệp, chuyên doanh là càng buôn càng lỗ chứ không phải buôn gì cũng lãi. Vậy lãi vào tay ai-đó là những nhà kinh doanh thương mại cấp 2, cấp 3... thậm chí không cần vốn mà chỉ bằng vay ngân hàng hoặc môi giới - đó là những nhà làm lưu thông kiểu “cò mồi, chỉ trỏ” Những người tham gia phá trật tự lưu thông này thu lãi. Về mặt lý thuyết lãi còn được chi vào thuế ngân sách nhà nước, song thực tế không hẳn như vậy. Trong khi đó rõ ràng thị trường khu vực cũng như thị trường thế giới thông thường có tính ổn định theo thời kỳ, như vậy một đất nước quá nhiều tư liệu sản xuất như nước ta thời kỳ này, thì giá tư liệu sản xuất trên thị trường thực chất phụ thuộc vào giá nhập khẩu. Giá các loại tư liệu sản xuất không trực tiếp phụ thuộc vào sức sản xuất trong nước mà phụ thuộc vào giá chuyển đổi đồng ngoại tệ mạnh và các chính sách xuất nhập khẩu. ở đây lại xuất hiện một nguy cơ cho người sản xuất cũng như người chuyên kinh doanh tư liệu sản xuất, là làm cho quá trình thua lỗ vừa kéo dài vừa đột biến không dự báo được. Trên cơ sở những phân tích đối với hoạt động lưu thông TLSX trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, một số kết luận được rút ra là: - Nhà nước không kiểm soát được mạng lưới làm lưu thông TLSX bằng pháp luật, do thị trường chỉ có một giá; mặt khác một số TLSX cần cho sự phát triển của đất nước, các TLSX chủ chốt cần nhập khẩu nhà nước đã độc quyền - độc quyền nhập và độc quyền qua chính sách thuế quan. - Đối với tất cả các cá nhân đơn vị sản xuất, kinh doanh nhà nước chưa thực hiện được chế độ kiểm toán, chưa buộc các cá nhân, đơn vị phải ghi chép hạch toán, theo một hệ thống chứng từ thống nhất nhằm đảm bảo thu quốc doanh, thuế không bị thất thoát. - Nhà nước chưa tổ chức được những cơ quan thông tin kinh tế chuyên ngành nhằm thông báo không chỉ giá cả mà còn có chức năng hướng dẫn, làm cầu nối giữa cung- cầu về thông tin qua việc bán tin, bán những bộ số liệu khởi thảo cũng như đã xử lý. Làm cho Cung- cầu gặp nhau và giảm đáng kể hình thức lưu thông TLSX không trực tiếp đến người sản xuất. Các doanh nghiệp nhờ đó có thể kết hợp các thông tin khác nhau mà quyết định sử dụng TLSX. - Đối với các nhà sản xuất cũng như các tổ chức, cá nhân đăng ký kinh doanh vật tư cần hoàn thiện dần qui trình nghiên cứu thị trường của mình. Sở dĩ trong thòi kỳ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung lưu thông rối loạn một phần cũng do chính người sản xuất không nghiên cứu thị trường cẩn thận, mặt khác, người kinh doanh TLSX cũng không có cách nắm chắc Cung- cầu hàng mình kinh doanh. Điều đó tất yếu dẫn đến việc xuất hiện lớp người làm lưu thông chỉ với mục đích kiếm lời nêu trên. Làm được việc này bản thân các doanh nghiệp phải được trang bị đầy đủ kiến thức về thị trường đặc biệt là thị trường TLSX cộng với kinh nghiệm đặc thù thực tiễn khi kinh doanh mỗi ngành hàng. - Về sở hữu nhà nước chưa có người chủ thực sự của tài sản đó theo nghĩa chủ sở hữu. Đây là vấn đề phức tạp và không dễ giải quyết ngay. Nguyên nhân không thể mua rẻ cũng chính từ vấn đề sở hữu sinh ra, thậm chí sản xuất không cần có lãi (Lãi thực chứ không phải lãi giả) cũng xuất phát từ vấn đề sở hữu. 1.3-/ Kinh tế thị trường và tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất. 1.3.1. Kinh tế thị trường và vai trò của lưu thông. Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, ở đó sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai đều được quyết định thông qua thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Thái độ cư xử của các thành viên tham gia thị trưòng là hướng vào tìm kiếm lợi ích của mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường. Kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường, đến lượt nó, cơ chế thị trường tác động dưới sự chi phối của các quy luật thị trường trong môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận. Nhân tố cơ bản của thị trường, cơ chế thị trường là hàng hoá tiền tệ, người bán, người mua, từ đó hình thành mối quan hệ cơ bản của cơ chế thị trường là quan hệ cung cầu. Về bản chất, cơ chế thị trường là cơ chế giá cả tự do. Cơ chế này có một số đặc trưng sau: -Các vấn đề liên quan đến phân bổ, sử dụng các nguồn tài nguyên, lao động, vốn được quyết định một cách khách quan thông qua hoạt động của các quy luật kinh tế. -Hầu như tất cả các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế đều được tiền tệ hoá. - Lợi nhuận là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và lợi ích kinh tế. Cơ chế thị trường dùng lỗ lãi để quyết định các vấn đề kinh tế cơ bản. - Cạnh tranh là môi trường hoạt động của cơ chế thị trường, là yếu tố thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, tăng năng suất lao động và hiệu quả của sản xuất. - Cơ chế thị trường không phải là một mớ hỗn độn mà là một trật tự kinh tế, trật tự này được hình thành bởi sự tác động của hệ thống quy luật của thị trường.Thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế, sự linh hoạt của hệ thống giá cả, nền kinh tế thị trường có khả năng duy trì được sự cân bằng của sức cung và sức cầu về hàng hoá, dịch vụ, ít khi gây ra sự khan hiếm và thiếu thốn hàng hoá. Quá trình tái sản xuất xã hội có liên quan mật thiết với sự tuần hoàn và chu chuyển của vốn sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, thể hiện ở lao động xã hội trong những hình thức khác nhau của nó. Sự vận động của lao động xã hội tạo thành nội dung các quá trình trao đổi phát sinh từ trong cơ cấu của nền kinh tế quốc dân và nhằm đáp ứng các nhu cầu của thị trường. Do có mối liên hệ lẫn nhau trong quá trình chu chuyển vốn kinh doanh nên đòi hỏi phải có sự trao đổi hoạt động giữa những người lao động, giữa những tập thể sản xuất và các doanh nghiệp ...v.v. Trong nền kinh tế hàng hoá việc trao đổi được thực hiện được thông qua mua bán trên thị trường. Thường thì sự trao đổi các hoạt động trong nội bộ doanh nghiệp mang tính chất trực tiếp kỹ thuật còn sự trao đổi diễn ra giữa các doanh nghiệp mang tính chất lưu thông hàng hoá. Rõ ràng lưu thông chỉ là một giai đoạn trao đổi nhất định bao trùm một lĩnh vực các quan hệ sản xuất rộng lớn hơn. Lưu thông hàng hoá phát sinh trong lĩnh vực lưu thông; Vậy lĩnh vực lưu thông là gì? và thực chất là gì? Trước hết cần khẳng định lĩnh vực lưu thông là lĩnh vực hoạt động mà dựa vào đó sự tuần hoàn và chu chuyển của vốn kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện. Nó cũng đòi hỏi có đối tượng lao động và tư liệu lao động cho việc thực hiện hoạt động đó. Việc hoạt động bình thường của lĩnh vực này, phù hợp với nhiệm vụ và chức năng xã hội của nó đòi hỏi hình thành hệ thống các tổ chức kinh doanh như doanh nghiệp thương mại, vận tải, kho vận, chuẩn bị hàng hoá...v.v. Thông qua hệ thống này một khối lượng hàng hoá khổng lồ, nhất là về tư liệu sản xuất được lưu chuyển. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, khi mà chuyên môn hoá sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển cao độ thì hầu như mọi sản phẩm đều được sản xuất và tiêu dùng dưới hình thức hàng hoá. Vì vậy, sự vận động của một số lượng lớn sản phẩm xã hội từ lĩnh vực sản xuất đến lĩnh tiêu dùng đã hình thành quá trình lưu thông. Trên thực tế, quá trình lưu thông chính là quá trình hàng hoá không ngừng tách rời người sản xuất để tiếp cận với người tiêu dùng, cũng chính là sự tổng hoà các hành vi chuyển nhượng phát sinh giữa các chủ thể của thị trường khác nhau. Vì thế trao đổi là tế bào riêng biệt và yếu tố cấu thành lưu thông. Do mâu thuẫn bên trong của quá trình trao đổi sản sinh ra tiền tệ, cho nên trong lưu thông, một mặt là hiện tượng biểu hiện trong lưu thông của một số lượng lớn hàng hoá, mặt khác là sự vận động của tiền tệ ngược lại với phương hướng lưu thông hàng hoá. Sự tổng hợp các vận động của tiền tệ trên phương hướng khác nhau đã hình thành lưu thông tiền tệ. Vì vậy quá trình lưu thông trên thực tế là sự thống nhất của lưu thông hàng hoá và sự lưu thông tiều tệ. Lưu thông hàng hoá quyết định lưu thông tiền tệ, nhưng lưu thông tiền tệ lại có tác động ngược lại đến lưu thông hàng hoá nó là chất kích thích lưu thông hàng hoá, thậm chí sự vận động của tiền tệ còn có tác dụng hướng hàng hoá chảy về đâu. Như vậy, lưu thông là một quá trình khách quan có liên hệ với sự vận động của giá trị sản phẩm xã hội. Lưu thông là sự thay đổi hình thức giá trị của hàng hoá. Dù là những hàng hoá dùng cho tiêu dùng sản xuất tiêu dùng cá nhân thì cũng như thế. Bản chất của quá trình lưu thông hàng hoá là mua và bán những hàng hoá này hay hàng hoá kia được thực hiện khác nhau. Điều này là do đặc tính về công dụng của những hàng hoá ấy quyết định. Điều cần nhấn mạnh ở đây là lưu thông hàng hoá là một quá trình thống nhất không phụ thuộc vào công dụng của hàng hoá nhưng các hình thức tổ chức để chuyển đưa đến tay người tiêu dùng lại khác nhau. Vai trò của lưu thông trong nền kinh tế thị trường: Dưới góc độ vi mô, lưu thông đóng vai trò quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Khi quá trình lưu thông kết thúc, tức là sản phẩm của doanh nghiệp được tiêu thụ, là nó đã được người tiêu dùng chấp nhận để thoả mãn một nhu cầu nào đó. Sức tiêu thụ sản phẩm của một doanh nghiệp thể hiện ở mức bán ra, uy tín của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm, sự thích ứng với nhu cầu người tiêu dùng và sự hoàn thiện của các hoạt động dịch vụ. Nói cách khác lưu thông hàng hoá phản ánh đầy đủ điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp. Lưu thông hàng hoá gắn giữa người sản xuất với người tiêu dùng, nó giúp cho các nhà sản xuất hiểu thêm về kết quả sản xuất của mình và nhu cầu của khách hàng. Trên giác độ vĩ mô, lưu thông hàng hoá có vai trò quan trọng trong việc cân đối giữa cung và cầu, vì nền kinh tế quốc dâ._.n là một thể thống nhất với những cân bằng, với những tương quan tỉ lệ nhất định. Sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ (lưu thông) tức là sản xuất đang diễn ra một cách bình thường, trôi chảy, tránh được sự mất cân đối, giữ được bình ổn trong xã hội. Đồng thời lưu thông giúp các đơn vị, ngành, xác định phương hướng và bước đi của kế hoạch sản xuất cho giai đoạn tiếp theo. Thông qua lưu thông hàng hoá có thể dự đoán nhu cầu tiêu dùng của xã hội nói chung và từng khu vực nói riêng đối với từng loại sản phẩm. Trên cơ sở đó các doanh nghiệp sẽ xây dựng được các kế hoạch phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao nhất. 1.3.2. Lưu thông tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị trường Lưu thông tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị trường là quá trình hoạt động kinh tế đưa sản phẩm vật tư sản xuất sang lãnh vực tiêu dùng. Nó là tên gọi chung của hoạt động trao đổi vật tư sản xuất dùng cho sản xuất giữa các hình thức kinh tế, các ngành kinh tế và giữa các doanh nghiệp. Vật tư lưu thông là sản vật được xã hội phân công, nó phát triển theo sự phát triển của phân công xã hội và sự phát triển của sản xuất. nó lấy sản xuất làm điểm khởi đầu, lấy ngành sản xuất khác làm điểm kết thúc, đồng thời nó là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng mang tính sản xuất. Sản xuất quyết định lưu thông, lưu thông lại tác động ngược lại sản xuất. quá trình lưu thông thông suốt, thúc đẩy sản xuất phát triển nhanh. Ngược lại, quá trình lưu thông ngưng trệ sẽ ảnh hưởng đến sản xuất. Quá trình đổi mới cơ chế kimh tế đã phá vỡ dần chế độ lưu thông tư liệu sản xuất quá tập trung trước đây, thay đổi cách làm cũ không hợp lý như: quá nhiều khâu lưu thông, cơ cấu tổ chức trùng lặp, kho bãi mọi nơi, vận chuyển vòng vèo... dựa vào các khu vực kinh tế để tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất hợp lý, tức là dựa vào các nhân tố như: phân bố sản xuất, phân bố các xí nghiệp, quan hệ cung cầu, quan hệ sản xuất, quan hệ tiêu dùng, giao thông vận tải phải thực hiện hợp lý hoá, khoa học hoá và tối ưu hoá lưu thông vật tư. Từ đó, thông qua lưu thông tác động đến sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường thì thị trường, gắn liền với sản xuất và lưu thông hàng hoá, thị trường là trung tâm của toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất: Cần sản xuất những hàng hoá gì? với số lượng bao nhiêu? cần có những dịch vụ gì? đều phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường. Qua thị trường nhu cầu của cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng được thoả mãn. Người sản xuất cần bán hàng, chuyển tiền thành những giá trị sử dụng khác nhau. Như vậy, ta có thể thấy rõ thị trường là nơi diễn ra các quá trình trao đổi, mua bán hàng hoá, thị trường có tính không gian và thời gian, theo nghĩa này thị trường có thể là các chợ, các địa danh hoặc các khu vực tiêu thụ phân theo mặt hàng, ngành hàng. Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, lượng sản phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào và phong phú, thị trường được mở rộng. Thị trường hiểu theo nghĩa đầy đủ hơn, nó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm môi giới. Tại đây người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường. Nếu nói đến thị trường, trước hết phải nói tới các nhân tố cơ bản cấu thành thị trường, đó là hàng và tiền, người mua và người bán, từ đó hình thành các quan hệ hàng hoá tiền tệ, mua-bán, cung-cầu và giá cả hàng hoá. Nói tới thị trường là phải nói tới cạnh tranh tự do, ở đây luôn diến ra sự ganh đua, cọ sát lẫn nhau giữa các thành viên tham gia thị trường để giành phần có lợi cho mình, động lực của cạnh tranh là lợi nhuận. Với động lực đó trên thị trường khó tránh khỏi sự lừa gạt và gian lận. Nói tới thị trường là nói tới tự do kinh doanh tự do mua bán, thuận mua vừa bán, tự do giao dịch. Quan hệ giữa các chủ thể trên thị trường là bình đẳng. Theo lý thuyết hiện đại về kinh tế thị trường có thể chia thị trường thành 2 loại: Một là: Thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ, ở thị trường này, người ta mua bán những tư liệu sinh hoạt và dịch vụ như: lương thực, thực phẩm, vải, quần áo, các phương tiện sinh hoạt gia đình, thuốc chữa bệnh...vv. Những hàng hoá tiêu dùng ngày càng nhiều theo đà tăng của sự phát triển kinh tế hàng hoá. Ngoài những hàng hoá vật chất phục vụ tiêu dùng cho cá nhân và gia đình, có những hàng hoá phi vật chất được coi là dịch vụ như: sửa chữa, phương tiện đi lại, sửa chữa Rađio, tủ lạnh, may vá, cắt tóc, làm đầu.... các hoạt động dịch vụ ngày càng phát triển và đưa lại thu nhập ngày càng cao. Hai là: Thị trường các yếu tố sản xuất: trên thị trường này người ta mua, bán các yếu tố cần thiết cho quá trình sản xuất và kinh doanh như các loại nguyên nhiên vật liệu, thiết bị máy móc, phân bón, thuốc trừ sâu, sức lao động... Sự phân chia thành 2 loại thị trường như trên là dựa trên cơ sở chủng loại hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường và dựa vào sự mở rộng, phát triển của chính phạm trù hàng hoá. Hàng hoá mở rộng ra tới đâu thì thị trường cũng mở rộng ra tới đó. Thị trường giữ vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Thị trường là trung tâm, của toàn bộ quá trình tái sản xuất là lực lượng hướng dẫn, đặt nhu cầu cho sản xuất. Sản xuất là sự kết hợp giữa tư liệu sản xuất và sức lao động theo một mối quan hệ nhất định, quan hệ tỷ lệ tuỳ thuộc vào trình độ kỹ thuật của sản xuất, nếu như kỹ thuật tiên tiến thì với một lượng sức lao động nhất định sẽ vận hành được nhiều tư liệu sản xuất hơn. Để sản xuất, cần phải có các yếu tố của sản xuất. Thị trường chính là nơi cung cấp những yếu tố đó, bảo đảm cho quá trình sản xuất của các doanh nghiệp được tiến hành một cách bình thường. Sản xuất hàng hoá là sản xuất để trao đổi, để bán, thị trường là nơi tiêu thụ những hàng hoá cho các doanh nghiệp; thông qua thị trường, giá trị hàng hoá được thực hiện, doanh nghiệp thu hồi được vốn và có lãi. Như vậy doanh nghiệp là người mua các yếu tố của sản xuất và bán các sản phẩm mình làm ra. Qui mô của việc mua vào và bán ra sẽ quyết định qui mô của sản xuất. Nếu coi doanh nghiệp như một cơ thể sống thì thị trường là nơi bảo đảm các yếu tố cho sự sống và cũng là nơi thực hiện sự trao đổi chất để sự sống tồn tại và phát triển. Trên ý nghĩa đó, thị trường chính là điều kiện, là môi trường cho hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp. Thị trường là nơi kiểm tra cuối cùng về chủng loại hàng hoá cũng như chất lượng sản phẩm. Thị trường kiểm nghiệm tính phù hợp của sản xuất đối với tiêu dùng xã hội. Trên ý nghĩa đó có thể nói thị trường điều tiết sản xuất kinh doanh và là động lực của sản xuất kinh doanh. Thông qua thị trường, hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp ngày càng năng động, sáng tạo hơn, hiệu quả của sản xuất kinh doanh ngày càng được nâng cao. Thị trường còn là nơi cuối cùng để chuyển những lao động tư nhân, lao động cá biệt thành lao động xã hội. Cung và cầu là khái quát hoá hai lực lượng cơ bản của thị trường là người bán và người mua, người sản xuất và người tiêu dùng. Quan hệ cung cầu chỉ ra rằng, mặc dù giá trị xã hội hay giá trị thị trường đã được hình thành trong quá trình sản xuất song nó có thể được thực hiện cao hơn, thấp hơn hay ngang bằng tuỳ theo tương quan cung cầu bằng một mức giá cụ thể. Quan hệ cung cầu ảnh hưởng trực tiếp đến từng hành vi trao đổi. Trên thị trường, người sản xuất đứng về phía cung và người tiêu dùng đứng về phía cầu gặp nhau để xác định giá cả và khối lượng hàng hoá như bán ra, mua vào. Vì vậy cung- cầu giữ vai trò quan trọng đối với việc hình giá cả thị trường và xác định lượng mua vào. Cầu là số lượng hàng hoá và người tiêu dùng muốn mua và có khả năng mua tại các mức giá khác nhau trong khoảng thời gian nhất định(Các yếu tố khác không đổi). Có 2 khái niệm liên quan là cầu cá nhân và cầu thị trường. Cầu thị trường là tổng hợp của tất cả các cầu cá nhân lại với nhau theo chiều ngang. Quy luật cầu được biểu hiện số lượng hàng hoá được cầu trong khoảng thời gian đã cho tăng lên khi giá cả của hàng hoá giảm xuống và ngược lại. Quy luật cầu tương ứng với trực giác, khi giá cả giảm xuống, người tiêu dùng đã cho có thể sẵn sàng và có khả năng mua một lượng nhiều hơn và các người tiêu dùng mới cũng sẵn sàng và có khả năng xâm nhập thị trường. Giá cả của chính hàng hoá nào đó là yếu tố quan trọng, song không phải là yếu tố duy nhất quyết định lượng hàng cần mua. Quyết định lượng nhu cầu còn có nhiều yếu tố khác.Trên thực tế giá cả còn phụ thuộc vào các biến số như: Thu nhập của người mua; giá cả của hàng hoá và dịch vụ có liên quan; dự đoán về sự thay đổi của chính hàng hoá đó trong tương lai; thị hiếu của người tiêu thụ. Cung hàng hoá được định nghĩa là những số lượng khác nhau của cùng một loại hàng hoá nhất định mà những người bán sẵn sàng và có khả năng cung ứng ra thị trường ở mức giá khác nhau. Cung thị trường là tổng hợp của tất cả các cung cá nhân.Quy luật về cung được biểu hiện, khi giá cả thị trường tăng lên, người sản xuất thu được lợi nhuận họ sẽ mở rộng thêm sản xuất, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động và đưa ra thị trường nhiều sản phẩm hơn, làm cho cung tăng lên. Ngược lại khi giá cả thị trường giảm xuống, người sản xuất thu được lợi nhuận ít, hoặc không có lợi nhuận, họ sẽ thu hẹp sản xuất, lượng sản phẩm được đưa ra thị trường vì thế sẽ ít hơn, vì thế giá cũng sẽ giảm xuống. Ngoài giá bán hiện tại của sản phẩm lựơng hàng hoá và dịch vụ tung ra thị trường còn phụ thuộc vào các yếu tố: thuế- thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước, thuế có ảnh hưởng đến đường cung của doanh nghiệp vì rằng thuế là chi phí mà doanh nghiệp phải chịu. Khi đánh thuế vào hàng hoá thì đường cung dịch chuyển; trình độ công nghệ có thể áp dụng; giá của các hàng hoá liên quan trong sản xuất; giá của các yếu tố đầu vào; số lượng người sản xuất... Kết hợp qui mô về cung và quy luật về cầu chúng ta sẽ hiểu về quy luật cung cầu. Theo quy luật cung- cầu thì hàng hoá sẽ được bán theo giá cả vừa phù hợp với cung, lại vừa phù hợp với cầu. Giá thị trường có xu hướng vận động xung quanh điểm cân bằng cung cầu. Nếu giá cả lên cao điểm thì cung sẽ tăng lên, cầu sẽ giảm xuống. Điều này làm xuất hiện dư thừa, dư thừa sẽ gây ra áp lực làm giá cả giảm xuống, khi giá cả giảm thấp hơn điểm cân bằng cung cầu thì cung sẽ giảm và cầu lại tăng lên. Điều này,làm xuất hiện tình trạng khan hiếm hàng hoá, khan hiếm là điều kiện để nâng cao giá lên, giá cả có xu hướng vận động trở về điểm cân bằng cung cầu. 1.3.3. Yêu cầu của tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị trường Phân tích ở tên cho thấy lưu thông là cầu nối giữa một bên là sản xuất và phân phối, một bên là trao đổi. Các khâu của quá trình tái sản xuất, có mối quan hệ mật thiết với nhau trong đó, sản xuất là điểm xuất phát, là khâu quyết định quá trình tái sản xuất. Do vậy, tổ chức lưu thông không thể đơn thuần là tổ chức trao đổi hàng hoá mà là một quá trình có liên quan tới tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất. Vì vậy yêu cầu đặt ra là: + Muốn giải quyết đúng đắn các vấn đề của tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất thì phải đặt nó trong tổng thể nền kinh tế, trong mối quan hệ chặt chẽ với sản xuất và đời sống. Tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất phải dựa vào sản xuất, chủ động thúc đẩy sản xuất phát triển. Đặt lưu thông tư liệu sản xuất trong tổng thể nền kinh tế có nghĩa là đặt nó như những bộ phận hữu cơ của quá trình tái sản xuất thống nhất bao gồm các khâu: sản xuất, phân phối-lưu thông, tiêu dùng. Trong quá trình tái sản xuất, sản xuất là cái gốc có tác dụng quyết định nhất vì chỉ có sản xuất mới tạo ra của cải vật chất để phân phối, lưu thông và đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng. Tiêu dùng là mục đích của sản xuất cũng như của phân khối, lưu thông tư liệu sản xuất tiêu dùng bao gồm tiêu dùng cho sản xuất, đời sống, quốc phòng,... nó gắn liền với việc thực hiện ba nhiệm vụ cơ bản, còn phân phối lưu thông tư liệu sản xuất là những khâu trung gian nối liền sản xuất với tiêu dùng cho nên công tác lưu thông tư liệu sản xuất phải lấy trình độ sản xuất, phải lấy khối lượng sản phẩm đã sản xuất ra làm điểm xuất phát; giữa khả năng và nhu cầu, bảo đảm quá trình tái sản xuất thông suốt và không ngừng mở rộng trên cơ sở hoàn thành các nhiệm vụ cách mạng. + Muốn giải quyết đúng vấn đề tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất phải đặt nó trong toàn bộ công tác cải tiến quản lý của Nhà nước: lưu thông tư liệu sản xuất là một khâu cơ bản của quá trình tái sản xuất, một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, cải tiến công tác tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất phải đặt trong toàn bộ công tác cải tiến quản lý kinh tế. Hệ thống quản lý kinh tế ở nước ta phải lấy kế hoạch hoá làm trung tâm, đồng thời sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá tiền tệ, các đòn bẩy kinh tế, thực hiện hạch toán kinh tế. Hoạt động lưu thông tư liệu sản xuất biểu hiện cụ thể chủ yếu dưới hình thức quan hệ hàng hoá - tiền tệ (giá cả tiền lương, tài chính, thương nghiệp, thương mại,...) song trong quá trình quản lý kinh tế đó không phải là những quan hệ hàng hoá tiền tệ hoạt động tự phát mà là hoạt động có tổ chức có kế hoạch. Nhà nước phải sử dụng kế hoạch hoá định hướng làm công cụ chính, đồng thời vận dụng quan hệ hàng hoá tiền tệ để chủ động tổ chức vào quản lý lưu thông tư liệu sản xuất, gắn nó với sản xuất, phục vụ và thúc đẩy sản xuất và đáp ứng tốt các nhu cầu của sản xuất, đời sống và quốc phòng. Mặt khác phạm trù lưu thông tư liệu sản xuất là những đòn bẩy kinh tế có hiệu lực rất nhạy bén do đó phải phát huy được tác dụng đòn bẩy của chính sách lưu thông tư liệu sản xuất phân phối, thúc đẩy sản xuất và lưu thông tư liệu sản xuất theo kế hoạch, thúc đẩy hạch toán kinh tế. Chúng ta khẳng định lấy kế hoạch hoá làm chính để quản lý lưu thông tư liệu sản xuất phân phối, nhưng đó không phải là kế hoạch hoá tập trung quan liêu mà là kế hoạch hoá bảo đảm sự kết hợp lãnh đạo tập trung của Nhà nước với mở rộng quyền chủ động của các ngành, các cấp nhất là cơ sở. Chúng ta khẳng định các chính sách lưu thông tư liệu sản xuất phân phối là những đòn bẩy kinh tế, nhưng là những đòn bẩy thúc đẩy sản xuất, kinh doanh có hiệu quả theo phương hướng của kế hoạch, thực hiện tốt hạch toán kinh tế. Do đó phải khắc phục tính chất hành chính - bao cấp trong các chính sách lưu thông tư liệu sản xuất phân phối. Hoạt động lưu thông tư liệu sản xuất phân phối chủ yếu biểu hiện dưới hình thức quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Do đó trong công tác phân phối lưu thông tư liệu sản xuất, biết vận dụng đúng đắn các phạm trù giá trị và quy luật giá trị, biết mở rộng thị trường có tổ chức và quản lý thị trường không có tổ chức. Cần thấy rằng phạm trù giá trị chỉ là hình thức, là phương tiện để lưu thông tư liệu sản xuất phân phối, để phân chia và đưa sản phẩm từ sản xuất đến tiêu dùng. Cho nên trong công tác lưu thông tư liệu sản xuất phân phối phải coi trọng mặt giá trị, coi trọng quy luật giá trị. Nhưng phải luôn luôn coi giá trị sử dụng là quan trọng nhất vì chỉ có giá trị sử dụng mới đáp ứng được nhu cầu của xã hội về sản xuất. + Muốn giải quyết đúng đắn vấn đề lưu thông tư liệu sản xuất bảo đảm thúc đẩy sản xuất, ổn định cải thiện đời sống thì các chính sách lưu thông tư liệu sản xuất, kết hợp tốt ba lợi ích xã hội, tập thể, cá nhân. Kết hợp ba lợi ích phải căn cứ vào tình hình và nhiệm vụ của từng thời kỳ. Trong điều kiện hiện nay phải chú ý hơn nữa đến nhu cầu về đời sống của người lao động, người sản xuất, vì từ lao động và sản xuất mà tạo ra mọi của cải và thu nhập quốc dân để phân phối cho ba lợi ích. Xét về bản chất ba lợi ích là thống nhất, song cũng có những mặt mâu thuẫn, lưu thông tư liệu sản xuất, khắc phục những mặt mâu thuẫn đấy, bảo đảm cho ba lợi ích đó kết hợp hài hoà với nhau tạo ra động lực thúc đẩy người lao động, các đơn vị cơ sở, các ngành và địa phương chăm lo đẩy mạnh sản xuất, tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. + Lưu thông tư liệu sản xuất phải bảo đảm tốt mối quan hệ giữa công nghiệp với nông nghiệp, củng cố liên minh công - nông. Kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, xây dựng cơ cấu kinh tế là một nội dung cơ bản của chúng ta hiện nay. Để giải quyết đúng đắn các mối quan hệ đó, trong lĩnh vực lưu thông tư liệu sản xuất phải có các chính sách và phương thức đúng đắn để tổ chức và trao đổi sản phẩm giữa Nhà nước và nông dân, thực hiện sự viện trợ tài chính và kỹ thuật cho nông nghiệp. Huy động nguồn tích luỹ từ nông nghiệp cho công nghiệp, cải thiện đời sống nhân dân. Chính sách lưu thông tư liệu sản xuất phải thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, tăng nhanh sản phẩm hàng hoá phục vụ đời sống, và tạo nguyên liệu cho công nghiệp, tăng xuất khẩu. 1.3.4. Nhà nước và tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị trường Ưu điểm của cơ chế thị trường: + Cơ chế thị trường có khả năng tự động điều tiết nền sản xuất xã hội, tự động phân bổ các nguồn tài nguyên vào các khu vực, các ngành kinh tế mà không cần bất cứ sự điều khiển từ trung tâm nào. + Cơ chế thị trường, với sự dẫn dắt của động lực lợi nhuận có thể phát huy cao nhất tính năng động, tài năng của mỗi người. Kích thích áp dụng kỹ thuật mới, giảm chi phí sản xuất, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực... thúc đẩy LLSX phát triển, tăng trưởng kinh tế cả theo chiều rộng và chiều sâu. + Cơ chế thị trường có thể đáp ứng nhu cầu đa dạng, phong phú của con người và xã hội. Cơ chế thị trường buộc người sản xuất phải không ngừng cải tiến kỹ thuật, mẫu mã sản phẩm để phù hợp với sở thích và lợi ích của người tiêu dùng, trên cơ sở thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng mà tối đa hoá lợi nhuận, từ đó làm cho chất lượng cuộc sống không ngừng được nâng cao. + Nhờ những ưu thế của mình, cơ chế thị trường có khả năng đảm bảo tốc độ tăng trưởng và phát triển nhanh chóng về kinh tế, thúc đẩy tiền bộ xã hội mà không một cơ chế nào trước đây có thể sánh được. Paul A.samuelson nhận xét rằng:”Một nền kinh tế thị trường là một cơ chế tinh vi để phối hợp một cách không tự giác nhân dân và doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả và thị trường. Nó là một phương tiện để giao tiếp, để tập hợp tri thức của hàng triệu cá nhân khác nhau, không có bộ óc trung tâm, nó vẫn giải được bài toán mà máy tính lớn nhất ngày nay không thể giải được. Không ai thiết kế ra nó, nó tự xuất hiện và cũng như xã hội của loài người nó đang thay đổi.” Những nhược điểm của cơ chế thị trường: + Cơ chế thị trường có thể gây ra những mât ổn định và thường xuyên phá vỡ cân đối trong nền sản xuất xã hội. Thực tế phát triển kinh tế thị trường chỉ rõ những vấn đề lạm phát và thất nghiệp, chu kỳ kinh doanh luôn là những căn bệnh kinh niên không thể khắc phục được nếu không có sự can thiệp của nhà nước. + Cơ chế thị trường bao hàm cả những thất bại thị trường, nó là môi trường đẻ ra các tệ nạn kinh tế như buôn lậu, hàng giả, lừa đảo, cạnh tranh không lành mạnh.... làm giảm hiệu quả của nền kinh tế. + Cơ chế thị trường có xu hướng làm cho sự phân hoá thu nhập ngày càng tăng giữa các tầng lớp dân cư, gây ra những bất bình đẳng về kinh tế trong xã hội. + Trong cơ chế thị trường, vì mục tiêu lợi ích cá nhân, một số hoạt động kinh tế có khả năng là tăng mức ô nhiễm môi trường, tâm lý chạy theo đồng tiền làm xuất hiện lối sống ích kỷ, thực dụng, có thể gây ra những hậu quả xấu về mặt xã hội. + Hơn nữa, các lĩnh vực hoạt động rất cần cho sự ổn định và tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội như có mức sinh lợi thấp, thời gian thu hồi vốn chậm thường không được giới kinh doanh chú ý đầu tư phát triển, Qua sự phân tích trên cho thấy, nền kinh tế thị trường không phải là một hệ thống được tổ chức hài hoà mà bản thân hệ thống đó chứa đựng rất nhiều nhược điểm. Những khuyết tật của cơ chế thị trường cần phải được khắc phục hạn chế. Song bản thân thị trường không thể tự giải quyết những vấn đề đó. Vì vậy, kinh tế thị trường ngày nay không thể thiếu được vai trò quản lý của nhà nước. Kinh tế thị trường không phải là gậy thần, liều thuốc vạn năng. Thành công của mỗi quốc gia khi chuyển sang kinh tế thị trường chủ yếu phụ thuộc vào sự kết hợp giữa khả năng điều tiết của thị trường (bàn tay vô hình) và sự quản lý điều tiết của nhà nước (bàn tay hữu hình). Đến nay vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường đã được khẳng định cả về mặt lý luận và thực tiễn. Vấn đề chỉ còn là sự vận dụng trong từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể như thế nào để đảm bảo có hiệu và thành công. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thể hiện ở những mặt sau đây: - Thứ nhất: Nhà nước tạo môi trường diều kiện cho kinh tế thị trường phát triển. Nhà nước bảo đảm sự ổn định về mặt kinh tế, chính trị xã hội. Nhà nước tập trung xây dựng cơ sở vật chất, tài chính, giáo dục và luật pháp. Đối với những nước mới chuyển sang cơ chế thị trường như nước ta thì phải chú ý nhiều đến kết cấu hạ tầng, luật pháp và giáo dục. -Thứ hai: Nhà nước định hướng sự phát triển nền kinh tế thông qua việc xây dựng và tổ chức thực hện các chiến lược kinh tế xã hội, các chương trình mục tiêu, các kế hoạch ngắn và dài hạn. -Thứ ba: Nhà nước bảo đảm dân chủ, công bằng xã hội. Xây dựng một xã hội văn minh, dân chủ rộng rãi, tôn trọng nhân cách của con người là điều kiện cho sự phát triển của xã hội. Trong kinh tế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo và giai tầng rất lớn. Nhà nước cần phải có các chính sách xã hội hợp lý để bảo đảm cuộc sống của những người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội; bảo đảm cho mọi người được tự do hành nghề, bình đẳng trước pháp luật; bảo đảm môi trường vật chất tinh thần cho mọi công dân. -Thứ tư: Nhà nước trực tiếp quản lý các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp này ra đời do kết quả của quốc hữu hoá các doanh nghiệp tư nhân, xây dựng mới các doanh nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Đây là những doanh nghiệp mà nhà nước dựa vào để điều tiết và điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm cho sự phát triển cân đối cho nền kinh té quốc dân và có thu nhập để trang trải một phần các chi phí hoạt động của bộ máy nhà nước. Đối với tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị trường nhà nước, vai trò của Nhà nước thể hiện trên các mặt sau đây: + Phải khẩn trương chấn chỉnh lại tổ chức sản xuất và điều chỉnh kế hoạch trong tất cả các ngành, các địa phương, các đơn vị kinh tế trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng tiềm tàng và hiện thực các điều kiện vật chất thực tế hiện nay như năng lượng, nguyên liệu lao động thiết bị, phân bón,... tập trung điều kiện vật chất cho các doanh nghiệp chủ yếu. Ra sức khai thác nguồn vật tư có thể khai thác, nhất là vật tư tồn kho tận dung lao động để duy trì và đẩy mạnh sản xuất. Nếu điều kiện vật chất không bảo đảm phải chuyển hướng sản xuất. + Đẩy mạnh xuất khẩu, nhập khẩu đề phát triển sản xuất. Các cấp các ngành, các doanh nghiệp phải chủ động tích cực khai thác mọi tiềm năng để sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn, có năng suất cao hơn với những điều kiện vật chất Nhà nước cung cấp bằng hoặc ít hơn trước. Thi hành nghiêm ngặt chế độ tiết kiệm, nhất là tiết kiệm năng lượng, nhiên liệu, nguyên liệu,... + Trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất, phải đảm bảo tập trung nguồn hàng vào tay Nhà nước, trước hết là những mặt hàng quan trọng đối với sản xuất như phân bón, xăng dầu, sắt thép,...vv. + ổn định tài chính tiền tệ vừa là mục tiêu vừa là điều kiện quan trọng để cải tiến công tác lưu thông tư liệu sản xuất, góp phần khắc phục mất cân đối cung cầu ổn định kinh tế. Biện pháp cơ bản để ổn định tài chính tiền tệ là dựa trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất, tập trung nguồn hàng vào tay Nhà nước, cải tiến toàn bộ công tác lưu thông phân phối, thực hiện bằng được việc cân đối ngân sách một cách vững chắc bằng các biện pháp tăng thu, tiết kiệm chi. 2-/ Những vấn đề cơ bản của tổ chức lưu thông phân bón vô cơ trên thị trường Việt Nam 2.1-/ Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp ở việt nam và vai trò của phân bón vô cơ Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp ở Việt nam Trước năm 1950, trong sản xuất nông nghiệp người nông dân Việt Nam dường như chỉ dùng các loại phân hữu cơ (phân chuồng, phân xanh, phân bùn, phân bắc....) để bón cho các loại cây trồng. Phân hữu cơ có những ưu điểm là: làm cho đất tơi xốp, từng bước được cải tạo, nâng cao dần độ màu mỡ của đất, song nhược điểm là phân huỷ lâu, cây trồng sử dụng được ít. Vì thế năng suất cây trồng tăng chậm. Từ những năm 1960 trở lại đây, các loại phân bón vô cơ như ure, kali, lân.... được đưa vào sử dụng ngày một tăng ở Việt Nam. Ngày nay, để vừa cải tạo đất, vừa nâng cao năng suất cây trồng người nông dân Việt Nam thường dùng kết hợp giữa phân hữu cơ và phân vô cơ. Tuy nhiên phân hữu cơ chủ yếu được dùng từ miềnTrung trở ra và thường là các hộ nông dân, ai có bao nhiêu dùng bấy nhiêu, nó không phải là hàng hoá mua bán trên thị trường như phân vô cơ. ở đồng bằng Sông Cửu Long do đồng ruộng hàng năm luôn được phù xa bồi đắp nên người nông dân không có tập quán dùng phân hưũ cơ để bón ruộng. Nói tới Cung- cầu về phân vô cơ là nói tới nhu cầu của người dân về loại phân này và khả năng cung ứng của các loại doanh nghiệp (thuộc mọi thành phần kinh tế ) cho họ. Tuy nhiên phân bón là một mặt hàng khá đặc biệt về cầu và cung. Mặt hàng này ở Việt Nam có những nét đặc trưng riêng hơi khác so với thị trường phân bón bình thường ở các nước có nền kinh tế phát triển hoàn hảo. Thứ nhất, nông nghiệp là ngành có lịch sử phát triển lâu đời. Nó mang tính kế thừa sâu sắc về các kỹ thuật gieo trồng từ đời nọ sang đời kia qua hàng nghìn năm với tính bảo thủ cao và khó thay đổi. Thứ hai, lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số lực lượng lao động nhất là ở những nước nông nghiệp như nước ta, những giá trị sản xuất nông nghiệp lại thấp hơn. Tuy nhiên, xu hướng biến đổi tỷ trọng nông nghiệp giảm dần về mặt số lao động và giá trị sản lượng. Theo quy luật tiêu thụ sản phẩm, sản phẩm nông nghiệp là sản phẩm thiết yếu, con người chỉ có thể tiêu dùng ở một mức độ nhất định mà không thể tăng mức tiêu dùng lên cao mãi được. Ngày nay, năng suất lao động ngày càng tăng, nên lao động cần cho sản xuất giảm. Như các ngành khác, nông nghiệp sẽ dần dần được cơ giới hoá sử dụng nhiều máy móc và chỉ cần ít người làm. Thứ ba, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan như đất đai, thời tiết, nguồn nước....Trong đó đất đai giữ vai trò quyết định, đây là tư liệu sản xuất cơ bản của sản xuất nông nghiệp. Gắn liền vơí vai trò chủ đạo của đất đai là ảnh hưởng của thời tiết- yếu tố quan trọng quyết định sản lượng của nông nghiệp cao hay thấp. Trong nông nghiệp sự khác nhau về chất lượng đất trồng, khí hậu và nguồn nước sẵn dẫn đến việc sản xuất lương thực khác nhau và các biện pháp để nâng cao năng suất của mùa vụ cũng khác nhau. Tuy khối lượng chất dinh dưỡng trong đất rất lớn nhưng trên thực tế cây trồng không thể huy động hết được. Mặt khác, tỷ lệ chất dinh dưỡng trong đất không giống nhau. Có loại đất chứa nhiều đạm nhưng ít lân, Ka li và ngược lại. Ngoài ra, chất dinh dưỡng còn bị các loại cây trên mặt đất sử dụng hoặc đất bị rửa trôi. Do đó mà việc sử dụng phân bón cho đất, cho cây là rất cần thiết. Phân bón vô cơ và vai trò phân bón vô cơ trong nông nghiệp Phân bón đã từng là một trong những nhân tố quan trọng (cùng với giống và thuỷ lợi) của cách mạng xanh, giúp cho nhiều nước đông dân tự túc được lương thực thoát khỏi đói nghèo. Trước đây sản lượng ngũ cốc chủ yếu đưa vào 2 yếu tố: Diện tích và năng suất. Trong thời gian gần đây khi diện tích đất canh tác ngày càng tới gần giới hạn tối đa thì vai trò năng suất ngày càng quan trọng.Theo tính toán của IFPRI năm 1996, hiện nay tăng năng suất đóng góp trên 80% tăng sản lượng ngũ cốc và trong tương lai, việc tăng sản lượng sẽ cũng dựa vào tăng năng suất. Để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, thâm canh gần như là giải pháp duy nhất đối với Việt Nam. Mà trong thâm canh, vai trò của phân bón lại càng quan trọng, phân bón có thể góp phần tăng năng suất cây trồng qua nhiều cơ chế tác động khác nhau. Song quan trọng hơn cả là phân bón cung cấp cho cây trồng những dinh dưỡng cần thiết mà đất không đủ khả năng cung cấp, góp phần duy trì độ phì nhiêu của đất trong canh tác. Thêm nữa, cùng với năng suất kinh tế, phân bón góp phần tăng lượng sinh khối và nhờ đó tăng hữu cơ trở lại cho đất- yếu tố cực kỳ quan trọng với đất nhiệt đới. Cùng với gieo cấy các giống mới, việc nâng cao hệ số sử dụng đất thông qua tăng vụ cũng là nguyên nhân làm cho nhu cầu dinh dưỡng phải bổ sung tăng lên. Như vậy, ngoài những nguyên nhân gây thoái hoá đất như sói mòn, rửa trôi.... thì việc không đảm bảo cân bằng giữa lượng dinh dưỡng được bón vào đất cũng là một yếu tố làm đất thoái hoá (dạng thoái hoá này có xu hướng tăng lên). ở những vùng đồi núi nơi mà nông dân có tập quán du canh thì trước đây thông thường chu kỳ bỏ hoá là 10- 15 năm. Hiện nay do áp lực về dân số nên chu kỳ bỏ hoá chỉ còn 5 năm, thậm chí 3 năm. Như vậy về mặt thời gian không đủ cho đất phục hồi phì nhiêu một cách tự nhiên. Việc xoá bỏ du canh, thiết lập một nền tảng thâm canh, trong đó cân bằng dinh dưỡng thông qua phân bón giữ một vị trí quyết định. Ngoài ra, việc bón phân không những chỉ là cung cấp dinh dưỡng mà còn có ý nghĩa cải tạo đất, hoặc loại trừ các yếu tố hạn chế năng suất trong đất. Trong một số trường hợp, phân bón (nhất là Lân, Kali và một vài nguyên tố vi lượng khác) còn thúc đẩy quá trình cố định đạm của cây Bộ đậu, và tăng cường dinh dưỡng cho đất. Đồng thời việc kết hợp hài hoà các nguồn dinh dưỡng như hữu cơ, phân khoáng, phân sinh học... sẽ đảm bảo cho một nền thâm canh ổn định. Khuyến nông phân bón. (Chương trình thực hiện ở 15 tỉnh với 3726 ha ) Phương pháp bón Quy mô Số HTX Số hộ Sản lượng tham gia tăng (Tấn) - Bón phân cân đối cho lúa vàng thâm canh 1.000 29 10610 800 - Bón phân cân đối cho vùng nghèo dinh dưỡng 448 22 4.272 535 - Bón phân cân đối cho vùng trũng 300 16 3.185 150 - Bón phân cân đối cho vùng mặn 350 10 2.281 277 - Sử dụng các chế phẩm vi sinh 538 27 5.686 215 - Bón phân phun lá 490 23 5.200 190 - Bón phân cân đối cho Ngô 300 17 3.110 - - Bón phân cân đối cho đậu tương 250 26 3.036 - - Bón phân cân đối cho lạc 50 2 698 58 Cộng 3.726 172 38.120 2.225 Mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong sử dụng phân bón vô cơ, song hệ số sử dụng phân đạm ở Việt Nam cũng chỉ mới đạt 30- 40%, phân lân và kali khoảng 50- 60%. Một lượng lớn phân vô c._.à sản phẩm nông sản có vị trí trên thị trường thế giới, thì có rất nhiều nước muốn có mối quan hệ vơí các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, và muốn cung cấp phân bón cho thị trường Việt Nam. Nhưng phân bón vô cơ có những đặc tính riêng của nó nên hiện tại các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, mới có quan hệ với các nước ở khu vực Châu á. Đó là các nước có trình độ khoa học kỹ thuật cao nên phân bón vô cơ của họ có chất lượng cao. Họ có thể cung cấp cho ta một khối lượng đa dạng hoá về chủng loại. Vấn đề củng cố mối quan hệ với các bạn hàng đã có và xây dựng mối quan hệ mới có ý nghĩa chiến lược. Từ đó các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, sẽ quyết định một trong số các nguồn cung cấp có khả năng nhất sẽ là nguồn cung hàng cho doanh nghiệp. Việc quyết định này dựa theo các tiêu thức giá bán, các điều kiện cơ sở giao hàng... mà người bán chào hàng. Khi càng có nhiều người cung ứng chào hàng chúng ta càng có nhiều mức giá và điều kiện bán đa dạng để lựa chọn. Mở rộng thị trường phải theo hướng mới là có tiềm năng. Điều này có nghĩa là nguồn hàng phải có khả năng cung cấp hàng theo các yêu cầu của chúng ta, các điều kiện chào hàng chấp nhận được. 4.6-/ Hoàn thiện nghiệp vụ nhập khẩu. Bên cạnh công tác tạo nguồn hàng, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần nhanh chóng hoàn thiện và nâng cao trình độ nghiệp vụ nhập khẩu để từ đó đạt được mục tiêu hạ giá thành nhập khẩu tăng lợi nhuận. Trong nhập khẩu thì giao dịch đàm phán là rất quan trọng, nó đóng vai trò quyết định trong công tác nhập khẩu vì vậy nâng cao hiệu quả giao dịch đàm phán sẽ đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ. Giá cả các điều kiện khác của hợp đồng tuy đã được hai bên quy định phần nào trước song thông thường đều có sự giảm giá tuỳ thuộc vào tài thương lượng, khối lượng mua, và các điều kiện khác. Người thương lượng phải có đủ trình độ và nắm được các tình huống có lợi cho việc thương lượng, có khả năng quyết định khi thấy rằng thời cơ đã đến. Với vai trò quan trọng trong việc ký kết hợp đồng, muốn giao dịch đàm phán thành công thì cần phải biết che giấu bối cảnh của mình và tìm hiểu bối cảnh của đối tác, triển khai điều tra sớm nhằm mục đích nắm quyền chủ động trong quá trình đàm phán. Một cuộc đàm phán chỉ có thể kết thúc khi một trong hai bên đối tác tiến tới điểm chết của mình. Vì vậy các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần phải biết che dấu điểm chết của mình và tìm hiểu kỹ điểm chết của đối tác. Điểm chết đó có thể là về giá cả, chất lượng (Quy cách, chủng loại) và thời gian thực hiện. Các doanh nghiệp cần phải biết phát huy quyền lực tiềm tàng để tung ra trong trường hợp cần thiết. Hợp đồng nhập khẩu khi ký kết cần phải được xem xét chặt chẽ, chính xác các điều khoản để tránh rắc rối về sau. Các điều khoản phải rõ ràng, ghi rõ trách nhiệm từng bên, thời gian chuyển giao hàng, trách nhiệm của mỗi bên khi xảy ra rủi ro. Hợp đồng nhập khẩu phải có đầy đủ giá trị pháp lý theo quy định của pháp luật. Để hạ giá thành trong nhập khẩu thì trong đàm phán phải tuân theo nguyên lý sau một cách hợp lý, đó là ai thách giá cao sẽ bán được giá cao, ai đặt giá thấp sẽ phải bán giá thấp, ai nhượng bộ quá lớn về giá cả sẽ bị thua thiệt, ai trả giá thấp và nhượng bộ từ từ thì chắc chắn sẽ thắng lợi. Vì vậy cần phải nhanh chóng quan sát môi trường và đối tác để có cách ứng xử phù hợp và kịp thời, nếu có nguy cơ bế tắc thì phải chuyển hướng ngay. Để hạ giá được giá thành nhập khẩu, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, phải cố gắng hạ thấp chi phí lưu thông mà ở đây là hạ cước phí vận tải. Để thực hiện chuyên chở giao nhận hàng hoá, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, phải nghiên cứu thị trường chuyên chở nhằm tiến hành giao dịch với điều kiện có lợi nhất để ký hợp đồng chuyên chở sao cho cước phí thấp nhất mà vẫn đảm bảo an toàn cho khối lượng phân bón chuyên chở. Các doanh nghiệp khi nhập khẩu phân bón thì vận chuyển chủ yếu bằng đường biển, trong đó có 3 phương thức thuê tàu: Thứ nhất là phương thức lưu cước tàu chợ thì thường áp đặt những điều kiện có sẵn, vì vậy mà các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, không có quyền lựa chọn. Còn phương thức thuê tàu chuyến và tàu định hạn thì các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, và chủ tài có thể thoả thuận những điều khoản trong hợp đồng thuê tàu. Do vậy cần thông qua người môi giới để đạt được những điều khoản có lợi và chặt chẽ và có lợi trong chuyên chở. Đó phải là người am hiểu thị trường, các hãng tàu, các tàu biển, sự vận động giá cước, luật pháp quốc tế, phong tục tập quán. . .Do đó, hoạt động các doanh nghiệp, có hiệu quả hơn và môi giới ký các hợp đồng vận chuyển chặt chẽ, bảo đảm an toàn khi có khiếu nại vận chuyển xảy ra. Cơ cấu giá thành của phân bón nhập khẩu thường bao gồm : Giá gốc (cost) + chi phí vận chuyển, bốc dỡ (freight) + Chi phí khác. Thông thường chi phí vận chuyển gồm 10% giá FOB hoặc 9% giá CIF của hàng hoá. Như vậy nếu giảm chi phí vận chuyển sẽ giảm chi phí lưu thông góp phần duy trì hoạt động kinh doanh đồng thời tăng lợi nhuận trước sự cạnh tranh trên thị trường. Vì đây là hàng nhập khẩu nên phải vận chuyển đường dài thông qua nhiều phương tiện vận chuyển khác nhau chủ yếu vận chuyển bằng đường biển do vậy mà thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất do những nguyên nhân khách quan và chủ quan như bão biển, sóng ngầm, đá ngầm, mắc cạn, cháy nổ, cướp biển.... vì thế các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần nghiên cứu thị trường sao cho tránh được những rủi ro và mang lại lợi nhuận cao nhất. Để cho hoạt động nhập khẩu được thực hiện tốt thì sau khi ký kết hợp đồng các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần làm tốt thực hiện hợp đồng nhập khẩu, trong đó tiếp nhận và kiểm tra là một khâu nắm giữ vị trí quan trọng. Khi hàng về các cán bộ tiếp nhận cần quản lý chặt chẽ để hạn chế mất mát vì hiện nay phân bón dạng rời nhập khẩu về quá nhiều nên dễ tổn thất khó quản lý. Trong thời gian qua, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, đã thực hiện khá tốt khâu này, thu được lượng lớn tiền thưởng do giải phóng tàu nhanh. Trường hợp chưa biết được chính xác những mất mát thì khi hàng được đưa lên bờ cần có chứng nhận về trọng lượng một cách đầy đủ. Về phía doanh nghiệp có cơ sở nếu xảy ra tranh chấp, khiếu nại nhất là với phân bón, trọng lượng sẽ thay đổi tuỳ thuộc vào bảo quản và độ ẩm. Về thanh toán, sau khi tiếp nhận hàng, trong thời hạn cho phép cần kiểm tra vật tư hàng hoá đã nhận, kịp thời phát hiện mất mát hư hỏng để báo cho bên cung cấp. Các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần xem xét đầy đủ mọi giấy tờ và bộ chứng từ mà bên xuất khẩu gửi tới. Nếu đúng là phù hợp thì mới trả tiền (nếu thanh toán bằng thư tín dụng). Thông thường phải trả tiền ngay khi hết thời hạn ghi trong hợp đồng nhưng nếu trả chậm thì doanh nghiệp có thể sử dụng nguồn vốn đó. 4.7-/ Hoàn thiện mạng lưới tiêu thụ hàng hoá: Mạng lưới cơ sở tiêu thụ của doanh nghiệp vật tư nông nghiệp hiện nay so với các doanh nghiệp khác là khá hoàn chỉnh. Tuy nhiên mạng lưới này còn cồng kềnh, phức tạp qua nhiều khâu trung gian nên làm tăng chi phí lưu thông, chi phí quản lý. Bên cạnh đó, do các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, kinh doanh mặt hàng phân bón có đặc điểm riêng biệt so với các hàng hoá khá: dễ bị hao hụt, kém phẩm chất và cung ứng theo mùa vụ. Nên các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần phải mở rộng mạng lưới bán buôn và bán lẻ tại các địa bàn tỉnh, huyện, xã để cung ứng kịp thời cho nông dân khi nhu cầu cần thiết, vừa đảm bảo cho doanh nghiệp tiêu thụ nhanh số lượng hàng của mình, vừa đảm bảo cho sản xuất của nông dân đạt kết quả cao. Do việc tiêu thụ phân bón được tiến hành theo mùa vụ nên các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, có thể mở rộng các đại lý bán phân bón theo hai hướng sau: -Chọn vị trí thích hợp với sự chuyển giao phân bón đến tay người nông dân, tiến hành xây dựng các đại lý phục vụ cho việc tiêu thụ của doanh nghiệp, khi thời vụ đến doanh nghiệp tổ chức đại lý tiêu thụ để bán hàng. Sau thời vụ đại lý không dùng cho việc bán phân bón, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, có thể cho thuê đại lý bán trong một thời gian nhất định. -Hoặc khi thời vụ đến, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, có thể đi thuê các đại lý đã có sẵn tại các địa bàn thuận lợi cho việc cung cấp phân bón với chi phí hợp lý. Trên thực tế các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, có thể đề cập đến hai hướng để phục vụ tốt việc tiêu thụ. Tuy nhiên cần phải tính toán mọi chi phí cho việc làm và thuê đại lý để tránh hiện tượng giá bị tăng lên cao ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ. Hiện nay có nhiều thị trường ở vùng núi, vùng xa còn bị bỏ trống, hơn nữa hệ thống dịch vụ bán hàng chưa tốt cụ thể là do bán hàng chỉ theo giờ hành chính nên những lúc người dân cần mua phân bón, đến cửa hàng thì đã đóng cửa. Vì vậy để mở rộng thị trường, tạo niềm tin cho người tiêu dùng và để tạo uy tín cho mình, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần bổ xung thêm những điểm bán hàng mới, nhất là ở vùng xa, các tỉnh miền núi , vùng cao như: Lạng Sơn, Lào Cai... Những thị trường này hiện nay còn bị bỏ ngỏ do chi phí vận chuyển lớn nên các doanh nghiệp khác không kinh doanh. Ngoài ra để có tăng lượng bán, chiếm lĩnh được thị trường và thu hút khách hàng các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần bám sát nhu cầu người tiêu dùng, đổi mới phong cách bán hàng, phân công trực bán, phục vụ khách hàng từ 5 đến 21 giờ. Tiêu thụ phân bón có thể có nhiều phương thức. Cửa hàng sẽ vừa là nơi bán lẻ, vừa là kho chứa hàng để có thể cung cấp khối lượng phân bón lớn cho các đại lý và cửa hàng kinh doanh khác. Cửa hàng là nơi khách đến mua phân bón, người bán và người nông dân giao tiếp với nhau. Đây là yếu tố đảm bảo vật chất cơ bản cho kinh doanh và sự thành bại của kinh doanh. Vì vậy, cần lựa chọn vị trí cửa hàng sao cho thuận tiện cho người nông dân và an toàn cho doanh nghiệp.Khu vực kinh doanh của cửa hàng càng lớn thì càng thu hút được nhiều người tiêu dùng, nó phụ thuộc vào phạm vi người nông dân ở gần cửa hàng và phạm vị có thể thu hút được. Cửa hàng kinh doanh phân bón không thể đặt giữa trung tâm thành phố bởi vì ở đó không phải là khu vực nông nghiệp và không thuận lợi cho người nông dân khi đi mua, ở các cửa hàng phân bón phải được chuẩn bị trước khi đem ra bán. Làm được điều này sẽ giúp nâng cao trình độ bán hàng và uy tín đối với người mua, giảm bớt những động tác không cần thiết đối với người bán, trong nhiều trường hợp có thể giảm hao hụt trong quá trình bán hàng. Chuẩn bị phân bón có thể là kiểm tra phẩm chất các loại phân bón sẽ đưa ra hoặc bao gói sẵn, chuẩn bị dụng cụ cân chính xác. 4.8-/ Hoàn thiện hoạt động dự trữ của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ. Chuyển sang cơ chế thị trường, vốn là yếu tố quan trọng thực hiện dự trữ theo mức đã xác định. Do vốn dự trữ phân bón của doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn lưu động, nên cần khai thác mọi nguồn vốn do dự trữ để khỏi mất thời cơ kinh doanh. Các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, có thể huy động các nguồn vốn như: Vốn từ nhà nước, vốn vay ngân hàng, Vốn liên doanh liên kết.... để đảm bảo đủ vốn lưu động cho công tác dự trữ ở doanh nghiệp. Mặt khác, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần có các phương án dự trữ tại các điểm kinh doanh của các đơn vị thành viên để làm căn cứ định lượng và bổ sung hàng hoá cho các cửa hàng. Các doanh nghiệp cần giới hạn ở mức dự trữ cao nhất và thấp nhất của các điểm bán hàng, không nên để khối lượng phân xuống dưới mức dự trữ thấp nhất hoặc vượt quá mức dự trữ cao nhất. Số lượng cố định cho mỗi loại phân bón tại điểm kinh doanh không được thấp hơn một ngày bán hàng nhiều nhất nhằm mục đích tránh ngừng bán và bổ xung hàng nhiều lần trong một ngày. ở các cửa hàng việc bán hết phân bón dự trữ nếu có người đến mua mà cửa hàng không có thì họ sẽ mua cuả doanh nghiệp khác làm cho doanh nghiệp đó mất khách hàng, vì vậy luôn luôn phải kiểm tra đều đặn bổ sung phân bón cho cửa hàng. Tóm lại, Nếu tổ chức tốt công tác dự trữ sẽ mang lại kết quả cao cho tổ chức kinh doanh và xã hội. Vì như vậy các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, sẽ điều tiết được sự căng thẳng về cung và cầu phân bón trên thị trường, tránh những cơn sốt giả tạo về phân bón, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 4.9-/ Giải pháp nhằm tự tạo một phần vốn ngoại tệ: Nhu cầu ngoại tệ của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, là rất lớn. Do vậy giải pháp tự tạo một phần vốn ngoại tệ là cần thiết. Việc kinh doanh các mặt hàng phân bón có liên quan trực tiếp đến việc sử dụng ngoại tệ vì cung ứng chủ yếu có được là do nhập khẩu. Trong điều kiện hiện nay khi mà lượng vốn của doanh nghiệp thiếu thì một mặt xin nhà nước cấp thêm, một mặt doanh nghiệp có thể sử dụng các biện pháp về công tác tài chính nhằm mục đích tăng nhanh vòng quay của vốn, huy động nguồn vốn ngoại tệ tại các doanh nghiệp xuất khẩu. Các doanh nghiệp có thể áp dụng hình thức hàng đổi hàng hoặc là hình thức tổ chức toàn bộ quá trình từ xuất khẩu thu ngoại tệ để nhập khẩu phân bón. Giải pháp tự tạo một phần vốn do của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, sẽ là các biện pháp có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong điều kiện nhà nước chưa có ngay một lượng lớn vốn cho doanh nghiệp, nhất là vốn bằng ngoại tệ. 4.10-/ Xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu kinh doanh: Đội ngũ cán bộ của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần phải giỏi về chuyên môn và nghiệp vụ. Không chỉ có vậy để đáp ứng nhu cầu của cơ chế thị trường thì các cán bộ cần phải có trình độ ngoại ngữ và tin học cao. Đối với một doanh nghiệp kinh doanh với đối tác nước ngoài thì trình độ ngoại ngữ cao sẽ giúp cho cán bộ doanh nghiệp đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng có hiệu quả.Trình độ tin học của cán bộ cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc tin học hoá công tác quản lý của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ. Việc trẻ hoá đội ngũ cán bộ cũng là yêu cầu thiết yếu nhằm giúp cho doanh nghiệp kinh doanh trong cơ chế thị trường. Đội ngũ cán bộ trẻ được đào tạo tốt, có trình độ chính là cơ sở cho doanh nghiệp phát triển trong tương lai. Đó cũng là đội ngũ cán bộ kế cận sau này. Để thu hút được đội ngũ cán bộ có trình độ, có đủ khả năng làm công tác kinh doanh xuất nhập khẩu các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần có các biện pháp, chính sách thích hợp. Các biện pháp đối với công tác cán bộ trong thời gian này gồm có: - Cán bộ tuyển thêm phải thông qua tổ chức thi tuyển cán bộ theo yêu cầu có trình độ, giỏi về nghiệp vụ kinh doanh thương mại. Việc tuyển dụng cần có sự ưu tiên cho các cán bộ có trình độ sẽ đảm bảo một thế hệ cán bộ mới cho Các doanh nghiệp bước vào thế kỷ 21. - Thời gian thử việc phải đủ từ 3 tháng trở lên đối với các cán bộ mới được tuyển dụng trước khi mới được nhận được chính thức. Trong thời gian thử thách này họ có thể học được các kinh nghiệm cần thiết trong công tác. - Từng bước tinh giản hoá đội ngũ cán bộ. Nên giải quyết chế độ đối với những cán bộ đã đến tuổi về nghỉ và những cán bộ nào làm việc không có hỉệu quả. Giảm số cán bộ trong công tác quản lý hành chính, song doanh nghiệp vẫn phải đảm bảo kinh doanh bình thường. Thực hiện tốt công tác cán bộ sẽ góp phần đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu nói riêng và kinh doanh phân bón nói chung. + Nâng cao hiệu quả công tác quản lý: Để đáp ứng được nhiệm vụ to lớn nhà nước giao thì các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần phải nâng cao hiệu quả công tác quản lý. 4.11-/ Hoàn thiện hệ thống thông tin và điều hành kinh doanh. Do hệ thống thông tin của các doanh nghiệp vật tư nông nghiệp hiện nay chưa đảm bảo được nguồn thông tin có chất lượng cần thiết đối với thị trường phân bón. Chính vì vậy, xây dựng được hệ thống thông tin và cần thiết về thị trường phân bón thế giới và trong nước là yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ. Trong hoạt động kinh doanh của bất kỳ một đơn vị nào, mạng lưới thông tin đóng một vai trò rất quan trọng vì trong đời sống kinh tế. Thế giới ngày nay đang diến ra sự bùng nổ thông tin và thông tin được coi là yếu tố cấu thành lực lượng xã hội. Thông tin kinh tế không chỉ có vai trò hỗ trợ mà nó còn đóng vai trò quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Tuy nhiên ở những điều kiện khác nhau thì vai trò của thông tin kinh tế đối với các doanh nghiệp cũng khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường phát triển tthông tin trở thành tất yếu khách quan cho sự tồn tại và buộc các chủ doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh. Muốn đứng vững trong cạnh tranh có nhiều việc phải làm nhưng trước hết phải thu nhận được một lượng thông tin kinh tế đủ lớn để ra các quýêt định cần thiết cho quá trình kinh doanh tiến hành một cách thuận lợi. Có đủ thông tin sẽ đảm bảo lợi thế cạnh tranh. Người có đủ thông tin về những vấn đề có liên quan đến việc kinh doanh của mình sẽ là người chiến thắng. Chỉ có thể trên những cơ sở thông tin như vậy, các đơn vị mới có thể tổ chức và hoàn thiện phương thức kinh doanh và hệ thống tiêu thụ hàng hoá phù hợp với đặc điểm riêng của mình để đem lại hiệu quả tối đa có thể thực hiện được. Trong nền kinh tế thị trường thì đầu ra do thị trường quyết định nhưng đầu vào phụ thuộc vào khả năng của mối doanh nghiệp, cùng kinh doanh một mặt hàng nhưng các doanh nghiệp khác nhau có thể khai thác từ các nguồn hàng. Hiện nay các đơn vị kinh doanh có thể khai thác trên phạm vi toàn cầu, nếu có những thông tin đầy đủ về thị trường thế giới thì có thể khai thác nguồn hàng với chi phí thấp nhất và tạo khả năng đem lại lợi nhuận tối đa. Do vậy bản thân các doanh nghiệp phải có trong tay mình những thông tin về giá cả sức lao động, giá cả mặt hàng kinh doanh. Từ đó có nhiều nơi khác nhau để đưa đến quyết định nơi mua, nơi bán có lợi nhất. Để thúc đẩy hoạt động kinh doanh phân bón vô cơ, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần phải xây dựng được hệ thống thông tin như: - Thông tin về môi trường kinh doanh, chính trị, văn hoá, xã hội và thông tin về môi trường kinh tế, đối thủ cạnh tranh trên thị trường để doanh nghiệp có phương hướng kinh doanh thích hợp. - Thông tin về tình hình sử dụng mặt hàng kinh doanh của mình. - Thông tin về hệ thống phân phối. - Thông tin về tình hình và viễn cảnh của thị trường, nó sẽ giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cân nhắc khả năng thâm nhập vào thị trường đó. - Thông tin về thống giao thông vận tải - Thông tin về giá cả phân bón hiện hành. Để có được hệ thống thông tin trên đòi hỏi hệ thống thông tin của doanh nghiệp ngày càng được hoàn thiện và có chất lượng cao. Các biện pháp sau đây có thể phần nào đóng góp cho việc xây dựng hệ thống thông tin này. + Xây dựng các chi nhánh trên thị trường nhập khẩu nhằm thu được thông tin chính xác, kịp thời về giá cả, chất lượng, điều kiện giao hàng . Nếu có đủ khả năng thì đây là một biện pháp tốt nhất có thể có. Đặt trực tiếp các bộ phận tại các thị trường nhập khẩu trong điểm sẽ đảm bảo thu được các thông tin có chất lượng cao nhất. + Liên kết với các bạn hàng truyền thống nhằm để họ có thể giúp đỡ chúng ta về vấn đề thông tin. Một trong nhiều hình thức liên kết là Các doanh nghiệp có thể nhận làm đại lý cho các hãng buôn phân bón lớn. Các hãng này có thể cung cấp cho chúng ta một phần thông tin cần thiết. + Xây dựng một đội ngũ cán bộ chuyên trách nhằm nghiên cứu đầy đủ, cung cấp thông tin về thị trường có thể dự báo về các biến động có thể của thị trường. Công tác nghiên cứu thị trường khi có thông tin có chất lượng sẽ trở nên có kết quả và giúp ích cho quá trình kinh doanh. Cán bộ của bộ phận này phải thật sự có trình độ, phải có khả năng dự báo biến động của thị trường trong nước và thế giới. + áp dụng biện pháp tin học hoá vào hoạt động kinh doanh. Thông qua việc hoà mạng với hệ thống thông tin đã có trên thế giới. Hiện nay trên thế giới có xu hướng xây dựng một hệ thống thu thập thông tin toàn cầu và hoàn chỉnh, thể hiện là mạng Internet. Các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần phải xây dựng một mạng tin học trọng các đơn vị thành viên, mạng thông tin này có thể nối mạng với Internet nhằm thu thập thông tin ở thị trường thế giới. Thông tin giữa các đơn vị nhờ có mạng lưới thông tin có thể sẽ được thống nhất, kịp thời và chính xác hơn. 5-/ Hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý và các chính sách điều tiết của nhà nước với lưu thông phân bón vô cơ ở Việt nam Về quản lý nhà nước Để giữ vững hoạt động bình thường và ổn định của việc xuất nhập khẩu phân bón và thị trường phân bón, đề nghị chính phủ thực hiện một số việc sau đây: Một là: Nhà nước nên cho hình thành quỹ bảo hiểm và nhập khẩu phân bón- quỹ hoạt động theo cơ chế có thu, có chi và được hình thành từ sự đóng góp của các doanh nghiệp nhập khẩu. Quỹ sẽ thu vào một phần khi giá nhập phân thấp hơn giá nhập bình thường và chi ra khi giá nhập lên cao. Như vậy quỹ bảo hiểm là tự các doanh nghiệp lo cho mình, đồng thời có tác động ổn định giá cho nông dân, ưu việt hơn cơ chế thu chi quỹ bình ổn giá hiện nay, xoá bỏ cơ chế “xin, cho”, mặt khác làm cho các doanh nghiệp nhập khẩu biết rõ hiệu quả kinh doanh của mình . Hai là: Để hỗ trợ cho nông dân các vùng miền núi, vùng cao, vùng sâu và vùng xa dùng các loại phân hoá học vào sản xuất nông nghiệp, nhằm nâng cao nhanh năng suất cây trồng- trên cơ sở đó từng bước cải thiện đời sống cho họ cũng như khuyến khích các doanh nghiệp tích cực đưa phân lên các vùng này, đề nghị Chính phủ nên tiếp tục duy trì chính sách hỗ trợ cước phí vận tải cho các doanh nghiệp như cơ chế hiện nay đang thực hiện. Ba là: Trong một số năm đầu, để ổn định thị trường phân bón trong nước, Nhà nước có thể sủ dụng một vài doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh phân bón thực sự có sức mạnh (mạnh về vốn, mạnh về tổ chức quản lý kinh doanh, về đội ngũ cán bộ, về bạn hàng và khả năng tiếp thị), các doanh nghiệp này có khả năng nhập được khoảng 20-30% lượng phân bón cho đất nước một cách bình thường như các doanh nghiệp khác thuộc mọi thành phần kinh tế. Đồng thời họ được nhà nước giao một lượng dự trữ nhất định, khi thị trường có biến động bất lợi, thông qua các doanh nghiệp này, nhà nước thực hiện việc điều tiết cung cầu giá cả và các thị trường phân bón ở trong nước Bốn là: Nhà nước nên nghiên cứu và tạo điều kiện giúp cho các doanh nghiệp nhập khẩu phân bón hình thành hiệp hội của những người kinh doanh phân bón. Mục đích của hiệp hội là: Bảo vệ quyền lợi của những người kinh doanh phân bón; Cung cấp các thông tin cập nhật cần thiết về thị trường phân bón trong nước và ngoài nước cho các thành viên nam để kịp thời ứng phó; Đấu tranh với các nhà thầu quốc tế, nhằm chống lại sự ép giá của các công ty, ép giá của các công ty nước ngoài trong việc mua bán phân bón.... Năm là: Khó khăn nhất của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nói chung, các doanh nghiệp kinh tế phân bón nói riêng. Chính là hệ thống luật pháp rất không rõ ràng. Dường như các cơ quan nào của nhà nước cũng có quyền kiểm tra các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Người giám đốc doanh nghiệp làm việc nhưng không hiểu được mình có công hay có tội. Với một môi trường pháp lý như vậy làm sao các doanh nghiệp làm ăn tử tế được. Họ phải luôn tìm mọi cách đối phó, mà đối phó với các hiện tượng tiêu cực là chính. Bởi vậy, nhà nước phải nhanh chóng tạo ra môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ, chặt chẽ, để các doanh nghiệp yên tâm hoạt động-cụ thể như: Tổ chức nào được kiểm tra, khi nào mới được kiểm tra... Nhà nước cần tăng cường quản lý đối với hoạt động kinh doanh phân bón. Sự quản lý của nhà nước đối với thị trường phân bón trong thời gian qua cũng có lúc còn lỏng lẻo. Xin kiến nghị với nhà nước tăng cường khâu quản lý, đặc biệt là việc điều hành nhập khẩu phân bón, không thể xảy ra tình trạng điều hành như những năm 1992, 1995,1996 về cấp giấy phép và hạn ngạch nhập khẩu. Tuy phân bón vô cơ là mặt hàng chiến lược, chống độc quyền nhưng nhà nước vẫn phải có sự điều tiết, chi phối. Cho nên đề nghị Nhà nước tiếp tục chỉ định các đầu mối nhập khẩu chính và phần còn lại để tự do thương mại hoá phần thị trường phân bón này. Các đầu mối này phải được lựa chọn và quyết định dựa trên các điều kiện về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật và đặc biệt là kết quả kinh doanh của những năm trước. Thực hiện tăng cường quản lý các doanh nghiệp nhập khẩu nhằm tránh tình trạng lúc thừa, lúc thiếu trên thị trường khiến cho giá cả cũng thay đổi đến chóng mặt. Các cơ quan quản lý việc nhập khẩu phân bón cần được thống nhất về một mối, tránh tình trạng hiện nay trên thị trường có tới hai Bộ cùng quản lý về nhập khẩu phân bón (Bộ Thương mại và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Thống nhất sự quản lý chung sẽ tạo ra được môi trường tốt hơn. Khâu quản lý và cấp giấy phép còn rườm rà, cần được cải tiến. Hiện nay việc cấp giấy phép còn phức tạp, khó kiểm soát, nhiều khi làm lỡ thời cơ của doanh nghiệp. Kiện toàn công tác này sẽ giúp cho việc kinh doanh đạt hiệu quả hơn. Nhà nước cần tăng cường sự quản lý thông qua các công cụ kinh tế như là thuế nhập khẩu, quỹ bình ổn giá cả, quỹ hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh ... những công cụ kinh tế này nếu có sự kết hợp sẽ đưa lại hiệu quả cao cho toàn nền kinh tế tạo sự ổn định cho thị trường phân bón, thúc đẩy hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả hơn. Tăng cường quản lý ngoại tệ. Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, rất cần ngoại tệ để thanh toán tiền hàng nhập khẩu.Hoạt động trao đổi mua bán ngoại tệ để thanh toán tiền hàng nhập khẩu. Hoạt động trao đổi mua bán ngoại tệ ở nước ta hiện nay do ngân hàng nhà nước quản lý thì việc tăng cường quản lý nguồn ngoại tệ có thể góp phần đẩy mạnh hoạt động kinh doanh. Nhà nước tăng cường quản lý ngoại tệ để từ đó có thể giảm được tình hình nhập khẩu phân bón hỗn loạn, giúp cho hoạt động kimh doanh phân bón của các doanh nghiệp được dễ dàng hơn. Nhà nước cần tạo ra môi trường hành lang pháp lý đầy đủ công bằng và hiệu quả. Để đạt được yêu cầu đó cần thực hiện tốt trên các mặt: - Giảm bớt các cơ quan quản lý xuất, nhập khẩu: theo thống kê chưa đầy đủ các cơ quan quản lý hoạt động xuất nhập khẩu lên tới16 cơ quan từ Trung ương tới địa phương(ví dụ: ngành thuế đã có tới 4 cơ quan) tạo thành mạng lưới chằng chịt buộc các doanh nghiệp phải tuân theo các quy định của cơ quan quản lý. Nhiều khi các quy định chồng chéo, các cơ quan hoạt động lấn sang phạm vi của nhau. Đồng thời để tránh cho tình trạng chạy hết cơ quan này sang cơ quan khác để xin chỉ thị, chỉ đạo về pháp luật. - Giảm dần các thủ tục khi nhập hàng hoá, đặc biệt hoàn thiện công tác tổ chức kiểm tra hồ sơ Hải quan. - Phòng thông tinThương mại cần cải cách lại phương thức hoạt động của mình. - Bên cạnh đó, Nhà nước còn phải xem xét lại về chính sách giá nông sản, chính sách khuyến khích sản xuất phân bón vô cơ trong nước. Đặc biệt là chính sách khuyến khích dùng hàng nội, để đưa sự phát triển của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ nói riêng, của nền kinh tế Việt nam nói chung tiến cùng sự phát triển của kinh tế thế giới. Kết luận Từ thực tiễn nghiên cứu vần đề phân bón và tổ chức lưu thông phân bón vô cơ ở Việt Nam, chúng tôi thấy rằng: Việt Nam là nước có nhu cầu phân bón tương đối lớn, đặc biệt là phân ure. Phần lớn lượng phân ure dùng trong nông nghiệp Việt Nam được nhập từ nước ngoài, kể cả hiện nay và một số năm tới nữa. Việc tổ chức nhập khẩu phân bón đã được chính phủ Việt Nam quan tâm, Chính phủ đã thương xuyên có những đổi mới trong cơ chế chính sách đối với việc nhập khẩu phân bón. Tuy nhiên việc nhập khẩu phân bón ở Việt Nam vẫn còn mang tính chất độc quyền, giá cả trên thị trường vẫn thường xuyên biến động, còn nhiều tiêu cực xảy ra trong việc nhập khẩu và mua bán phân bón. Để nhanh chóng khắc phục những hạn chế nêu trên, sớm đưa thị trường phân bón hoạt động bình thường, chúng tôi xin kiến nghị. Nên tính toán kỹ lại việc việc xây dựng nhà máy sản xuất phân bón trong nước. Nên thực hiện tự do hoá việc nhập khẩu và buôn bán phân bón. Nhà nước cần đổi mới quy chế và chính sách vĩ mô, bảo đảm cho việc xuất nhập khẩu và tiêu thụ phân bón thuận lợi hơn. Tổ chức nhập khẩu phân bón gắn với tổ chức lượng kinh doanh trong nước, tránh qua nhiều cầu, cấp trung gian đương giá lên cao. Các cơ quan chức năng phải xem xét, chỉ ra các loại chi phí không đúng để khuyến cáo các doanh nghiệp tăng cường quản lý, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh./. Mục lục danh mục tài liệu tham khảo 1-/ Ban cán sự Đảng Bộ Nông nghiệp & Công nghiệp thực phẩm: Tình hình biến động hợp tác xã nông nghiệp từ khi thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và kiến nghị những giải pháp trong thời gian tới, tháng 5/1995. 2-/ Bộ Nông nghiệp & Công nghiệp thực phẩm - FAO: - Hội thảo quốc gia về Dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp Việt Nam. - Các thông tin sẵn có về thuốc bảo vệ thực vật, 1995. 3-/ Các Mác tư bản tập I - trang 84. 4-/ Hội phân bón Việt Nam: Những cơ hội phát triển, sản xuất cung ứng phân bón ở Việt Nam - NXB Nông nghiệp 1994. 5-/ Nguyễn Đình Chiến: Doanh nghiệp phân bón góp phần bình ổn giá cả phân bón trong nước. 6-/ Võ Minh Khai: ảnh hưởng của phân hoá học đến nông nghiệp Việt Nam. 7-/ Nguyễn Hạc Thuý: Tình hình phân bón và chiến lược đến năm 2000. 8-/ Lê Quốc Khánh: Định hướng chiến lược sản xuất các loại phân bón 9-/ Đỗ ánh: Sử dụng phân hoá học phục vụ thâm canh, trang 82, 85. 10-/ Trần Tiến Di: Sản xuất phân bón hoá học của Tổng Công ty phân bón hoá chất cơ bản thời kỳ 1996 - 2010. 11-/ Bùi Đình Dinh: Tổng quan về sử dụng phân bón ở Việt Nam, trang 18. 12-/ Trần Khải, Nguyễn Tử Siêm: Những đặc điểm Việt Nam trong mối quan hệ phân bón, trang 8. 13-/ Ngô Nhật Tiến: Về sử dụng phân bón trong ngành lâm nghiệp Việt Nam tới năm 2000. 14-/ Đỗ Đình Thuận, Đặng Cương Lăng: Cung ứng dịch vụ phân bón ở Việt Nam. 15-/ Thị trường phân bón hiện nay: Suy nghĩ về cơ chế điều hành, Tạp chí kinh tế kế hoạch, tháng 11/1994. 16-/ Những yếu tố ảnh hưởng đến ổn định giá vật tư nông nghiệp. Tạp chí công nghiệp nhẹ 293/1994. 17-/ Thị trường phân bón Việt Nam, thực trạng và giải pháp, Tài liệu hội thảo về Đổi mới cơ chế kinh doanh phân bón, tháng 10/1995. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0219.doc