Tổ chức lưu thông phân bón vô cơ theo cơ chế thị trường ở Việt Nam

Lời nói đầu 1-/ Tính cấp thiết của đề tài. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự chi phối nghiệt ngã của các quy luật kinh tế (quy luật giá trị, quy luật cung, cầu, quy luật cạnh tranh ...) tất yếu dẫn đến sự phát triển, tăng trưởng của doanh nghiệp này, phá sản của doanh nghiệp khác, “Sức mạnh” của nền kinh tế thị trường là sự tăng trưởng cao, song nó cũng chứa đựng nhiều khuyết tật cố hữu hình thành những mâu thuẫn không tự điều hoà nổi. ở nước ta từ sau Đại

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1330 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tổ chức lưu thông phân bón vô cơ theo cơ chế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hội Đảng VI (1986) Nhà nước chủ trương chuyển nền kinh tế hiện vật theo cơ chế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường. Trong cơ chế đó các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh (hợp pháp) vừa hợp tác phát triển. Sự thay đổi này làm thay đổi mọi mặt hoạt động kinh doanh của ngành thương mại Việt Nam. Sự giao lưu hàng hoá trên thị trường cả nước được thông suốt không ràng buộc nhiều bởi các mệnh lệnh hành chính. Thị trường trong nước từng bước phát triển và ngày càng hoà nhập vào thị trường khu vực và thế giới. Hàng hoá trên thị trường phong phú, nhu cầu tiêu dùng tuỳ theo khả năng thanh toán của mình. Điều đó kích thích các nhà sản xuất tích cực đổi mới công nghệ, mặt hàng, nâng cao chất lượng và hạ giá thành hàng hoá. Sự chuyển đổi nền kinh tế theo hướng thị trường hàng hoá đã khơi dậy nhiều tiềm năng kinh tế, làm cho kinh tế hàng hoá phát triển mạnh, nó xoá dần tính chất tự cung tự cấp trong sản xuất và lưu thông hàng hoá trên nhiều vùng kinh tế xã hội của Việt Nam. Nhà nước thông qua các công cụ quản lý vĩ mô tác động vào thị trường để điều tiết cung cầu. Hàng hoá được tự do lưu thông giữa các vùng trong cả nước thị trường sôi động tạo khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp dẫn đến hiệu quả kinh doanh trong thương mại. Phân bón là một trong những mặt hàng vật tư quan trọng phục vụ chủ yếu cho sản xuất Nhà nước. Tuy nhiên trong tổng khối lượng nhiều triệu tấn phân hoá học tiêu dùng hàng năm, thì sản xuất trong nước mới đáp ứng được khoảng 65% nhu cầu về lân, chưa tới 10% nhu cầu về đạm, còn nhiều loại khác thì trong nước vẫn chưa sản xuất được. Từ nhiều năm nay Nhà nước đã áp dụng nhiều biện pháp quản lý khác nhau: quản lý nhập khẩu bằng hạn ngạch, chỉ định các đơn vị đầu mối kinh doanh nhập khẩu; hỗ trợ giá cước vận chuyển phân bón Bắc - Nam lên miền núi, cho vay vốn sản xuất, dự trữ thời vụ phân bón với lãi suất ưu đãi ... Tuy nhiên, thị trường phân bón hoá học nước ta trong những năm qua có nhiều biến động bất thường, có nhiều cơn sốt nóng, lạnh thất thường. Và điều này đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón ở Việt Nam thời gian qua.Trước tình hình đó việc nghiên cứu tổ chức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón ở Việt Nam, nhằm tìm ra các phương hướng và biện pháp tổ chức hoạt động có hiệu quả của việc điều khiển lưu thông phân bón vô cơ ở Việt Nam trong tương lai là việc hết sức quan trọng và cần thiết. 2-/ Mục đích nghiên cứu của đề tài. -Đánh giá một cách đúng đắn thực trạng hệ thống tổ chức,quản lý lưu thông và tình hình hoạt động kinh doanh phân bón vô cơ của các doanh nghiệp nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ ở Việt nam hiện nay. -Đề xuất phương hướng hoàn thiện hệ thống quản lý và kinh doanh phân bón vô cơ nhằm giải quyết một cách căn bản vấn đề phân bón và oỏn định thị trường phân bón ở việt nam trong thời gian tới. 3-/ Nội dung của đề tài Để đạt đựơc mục tiêu trên, đề tài sẽ tập trung giải quyết những vấn đề sau: -Đánh giá và phân tích hệ thống tổ chức quản lý lưu thông phân bón vô cơ ở Việt nam. -Đánh giá và phân tích hệ thống tổ chức kinh doanh phân bón vô cơ ở Việt nam bao gồm, các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất phân bón vô cơ trong nước và các doanh nghiệp kinh doanh buôn bán phân bón vô cơ khác. -Đề ra các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý và kinh doanh phân bón vô cơ ở Việt nam, từ đó đề xuất một số kiến nghị với Chính phủ và Nhà nước về vấn đề điều hành phân bón trong thời gian tới. phần I Hệ thống tổ chức quản lý lưu thông phân bón vô cơ ở Việt nam 1-/ Nhà nước và vai trò tổ chức, quản lý lưu thông phân bón vô cơ trên thị trường. 1.1-/ Nhà nước và vai trò điều tiết nền kinh tế. Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, ở đó sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai đều được quyết định thông qua thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Thái độ cư xử của các thành viên tham gia thị trưòng là hướng vào tìm kiếm lợi ích của mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường. Kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường, đến lượt nó, cơ chế thị trường tác động dưới sự chi phối của các quy luật thị trường trong môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận. Nhân tố cơ bản của thị trường, cơ chế thị trường là hàng hoá tiền tệ, người bán, người mua, từ đó hình thành mối quan hệ cơ bản của cơ chế thị trường là quan hệ cung cầu. Về bản chất, cơ chế thị trường là cơ chế giá cả tự do. Cơ chế này có một số đặc trưng sau: -Các vấn đề liên quan đến phân bổ, sử dụng các nguồn tài nguyên, lao động, vốn được quyết định một cách khách quan thông qua hoạt động của các quy luật kinh tế. -Hầu như tất cả các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế đều được tiền tệ hoá. -Lợi nhuận là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và lợi ích kinh tế. Cơ chế thị trường dùng lỗ lãi để quyết định các vấn đề kinh tế cơ bản. -Cạnh tranh là môi trường hoạt động của cơ chế thị trường, là yếu tố thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, tăng năng suất lao động và hiệu quả của sản xuất. -Cơ chế thị trường không phải là một mớ hỗn độn mà là một trật tự kinh tế, trật tự này được hình thành bởi sự tác động của hệ thống quy luật của thị trường.Thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế, sự linh hoạt của hệ thống giá cả, nền kinh tế thị trường có khả năng duy trì được sự cân bằng của sức cung và sức cầu về hàng hoá, dịch vụ, ít khi gây ra sự khan hiếm và thiếu thốn hàng hoá. Ưu điểm của cơ chế thị trường: + Cơ chế thị trường có khả năng tự động điều tiết nền sản xuất xã hội, tự động phân bổ các nguồn tài nguyên vào các khu vực,các ngành kinh tế mà không cần bất cứ sự điều khiển từ trung tâm nào. + Cơ chế thị trường, với sự dẫn dắt của động lực lợi nhuận có thể phát huy cao nhất tính năng động, tài năng của mỗi người. Kích thích áp dụng kỹ thuật mới, giảm chi phí sản xuất, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực... thúc đẩy LLSX phát triển, tăng trưởng kinh tế cả theo chiều rộng và chiều sâu. + Cơ chế thị trường có thể đáp ứng nhu cầu đa dạng, phong phú của con người và xã hội. Cơ chế thị trường buộc người sản xuất phải không ngừng cải tiến kỹ thuật, mẫu mã sản phẩm để phù hợp với sở thích và lợi ích của người tiêu dùng, trên cơ sở thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng mà tối đa hoá lợi nhuận, từ đó làm cho chất lượng cuộc sống không ngừng được nâng cao. + Nhờ những ưu thế của mình, cơ chế thị trường có khả năng đảm bảo tốc độ tăng trưởng và phát triển nhanh chóng về kinh tế, thúc đẩy tiền bộ xã hội mà không một cơ chế nào trước đây có thể sánh được. Paul A.samuelson nhận xét rằng:”Một nền kinh tế thị trường là một cơ chế tinh vi để phối hợp một cách không tự giác nhân dân và doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả và thị trường. Nó là một phương tiện để giao tiếp, để tập hợp tri thức của hàng triệu cá nhân khác nhau, không có bộ óc trung tâm, nó vẫn giải được bài toán mà máy tính lớn nhất ngày nay không thể giải được. Không ai thiết kế ra nó, nó tự xuất hiện và cũng như xã hội của loài người nó đang thay đổi.” Những nhược điểm của cơ chế thị trường: + Cơ chế thị trường có thể gây ra những mât ổn định và thường xuyên phá vỡ cân đối trong nền sản xuất xã hội. Thực tế phát triển kinh tế thị trường chỉ rõ những vấn đề lạm phát và thất nghiệp, chu kỳ kinh doanh luôn là những căn bệnh kinh niên không thể khắc phục được nếu không có sự can thiệp của nhà nước. + Cơ chế thị trường bao hàm cả những thất bại thị trường, nó là môi trường đẻ ra các tệ nạn kinh tế như buôn lậu, hàng giả, lừa đảo, cạnh tranh không lành mạnh.... làm giảm hiệu quả của nền kinh tế. + Cơ chế thị trường có xu hướng làm cho sự phân hoá thu nhập ngày càng tăng giữa các tầng lớp dân cư, gây ra những bất bình đẳng về kinh tế trong xã hội. + Trong cơ chế thị trường, vì mục tiêu lợi ích cá nhân, một số hoạt động kinh tế có khả năng là tăng mức ô nhiễm môi trường, tâm lý chạy theo đồng tiền làm xuất hiện lối sống ích kỷ, thực dụng, có thể gây ra những hậu quả xấu về mặt xã hội. + Hơn nữa, các lĩnh vực hoạt động rất cần cho sự ổn định và tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội như có mức sinh lợi thấp, thời gian thu hồi vốn chậm thường không được giới kinh doanh chú ý đầu tư phát triển, Qua sự phân tích trên cho thấy, nền kinh tế thị trường không phải là một hệ thống được tổ chức hài hoà mà bản thân hệ thống đó chứa đựng rất nhiều nhược điểm. Những khuyết tật của cơ chế thị trường cần phải được khắc phục hạn chế. Song bản thân thị trường không thể tự giải quyết những vấn đề đó. Vì vậy, kinh tế thị trường ngày nay không thể thiếu được vai trò quản lý của nhà nước. Kinh tế thị trường không phải là gậy thần, liều thuốc vạn năng. Thành công của mỗi quốc gia khi chuyển sang kinh tế thị trường chủ yếu phụ thuộc vào sự kết hợp giữa khả năng điều tiết của thị trường (bàn tay vô hình) và sự quản lý điều tiết của nhà nước (bàn tay hữu hình). Đến nay vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường đã được khẳng định cả về mặt lý luận và thực tiễn. Vấn đề chỉ còn là sự vận dụng trong từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể như thế nào để đảm bảo có hiệu và thành công. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thể hiện ở những mặt sau đây: - Thứ nhất: Nhà nước tạo môi trường diều kiện cho kinh tế thị trường phát triển. Nhà nước bảo đảm sự ổn định về mặt kinh tế, chính trị xã hội. Nhà nước tập trung xây dựng cơ sở vật chất, tài chính, giáo dục và luật pháp. Đối với những nước mới chuyển sang cơ chế thị trường như nước ta thì phải chú ý nhiều đến kết cấu hạ tầng, luật pháp và giáo dục. -Thứ hai: Nhà nước định hướng sự phát triển nền kinh tế thông qua việc xây dựng và tổ chức thực hện các chiến lược kinh tế xã hội, các chương trình mục tiêu, các kế hoạch ngắn và dài hạn. -Thứ ba: Nhà nước bảo đảm dân chủ, công bằng xã hội. Xây dựng một xã hội văn minh, dân chủ rộng rãi, tôn trọng nhân cách của con người là điều kiện cho sự phát triển của xã hội. Trong kinh tế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo và giai tầng rất lớn. Nhà nước cần phải có các chính sách xã hội hợp lý để bảo đảm cuộc sống của những người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội; bảo đảm cho mọi người được tự do hành nghề, bình đẳng trước pháp luật; bảo đảm môi trường vật chất tinh thần cho mọi công dân. -Thứ tư: Nhà nước trực tiếp quản lý các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp này ra đời do kết quả của quốc hữu hoá các doanh nghiệp tư nhân, xây dựng mới các doanh nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Đây là những doanh nghiệp mà nhà nước dựa vào để điều tiết và điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm cho sự phát triển cân đối cho nền kinh té quốc dân và có thu nhập để trang trải một phần các chi phí hoạt động của bộ máy nhà nước. 1.2-/ Phân bón vô cơ- đối tượng quản lý và điều tiết lưu thông của nhà nước. Phân bón là một trong những yếu tố quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, nó giúp cho nhiều nước đông dân trên thế giới tự túc được lương thực, thoát khỏi đói nghèo. Đồng thời phân bón cũng là mặt hàng kinh doanh có nhiều rủi ro cả cho những nhà sản xuất lẫn doanh nghiệp lưu thông. ở nước ta, có tới 80% dân số làm nông nghiệp, trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới gần đây, nền nông nghiệp nước nhà có những bước phát triển tương đối ổn định, đã góp phần tăng trưởng kinh tế chung của đất nước, sản lượng lương thực mỗi năm một tăng, từ chỗ hàng năm thiếu ăn về lương thực, tới nay chúng ta không những đủ ăn, có dự trữ mà còn xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Có được kết đó là do Chính phủ có những chủ chương, chính sách phù hợp với yêu cầu thực tiễn, phù với bối cảnh sản xuất hàng hoá trong cơ chế thị trường và đã làm tăng đáng kể năng suất cây trồng mỗi năm. Theo tính toán của IFRT năm 1996 thì việc tăng năng suất đóng góp trên 80% tăng sản lượng lương thực và trong tương lai việc tăng sản lượng đó sẽ còn dựa vào việc tăng năng suất.Vì vậy để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia ,thâm canh và giống mới có thể được coi như là giải pháp duy nhất đối với Việt nam. Trong thâm canh và trong việc sử dụng giống mới thì phân bón vô cơ vô cùng quan trọng và ngày càng quan trọng. Nó góp phần tăng năng suất cây trồng qua nhiều cơ chế tác động khác nhau. Song quan trọng là phân bón cung cấp cho cây trồng những dinh dưỡng cần thiết mà đất không đủ khả cung cấp, góp phần duy trì độ phì nhiêu của đất trong quá trình canh tác. Mặt khác cùng với năng suất kinh tế, phân bón góp phần tăng lượng sinh khối và nhờ đó tăng hữu cơ trả lại cho đất-yếu tố cực kỳ quan trọng với đất nhiệt đới. Tuy nhiên, để đưa phân bón vô cơ vào sử dụng trong nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu sử dụng cho người nông dân, nhằm tăng năng suất cây trồng, tăng sản lượng thì không thể không kể đến vai trò của các nhà sản suất-kinh doanh-cung ứng phân bón vô cơ thên thị trường, đó là các nhà doanh nghiệp kinh doanh phân bón chuyên ngành, các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp và đại lý tư nhân. Theo con số thống kê của các nhà chuyên môn thì khả năng đáp ứng bằng sản xuất phân bón công nghiệp trong nước còn thấp, mới khoảng 65--75% về phân lân,8-9% về phân đạm, còn lại đều phải nhập khẩu. Do vậy với nhu cầu phân bón sử dụng hàng năm cho nông nghiệp nước ta, ước tính năm 2000 là 2,95 triệu tấn thì số lượng phân bón các loại cần nhập khẩu hàng năm là rất lớn và phải bỏ hàng trăm triệu USD để nhập phân bón.Vì vậy, làm thế nào để nhập đủ phân bón, cung ứng đúng thời vụ nhưng lại không để tồn kho gây ứ đọng, gây hiệu quả kinh doanh thấp-đó là bài toán thật khó giải đối với mỗi doanh nghiệp kinh doanh phân bón trên thị trường và các cơ quan quản lý vĩ mô của Nhà nước. Nhìn lại, quá trình kinh doanh phân bón vô cơ từ năm 1991 trở về trước, việc nhập khẩu phân bón vô cơ (chủ yếu là URê) nằm trong quỹ đạo của kế hoạch hoá tập trung.Theo phương thức này, mặc nhiên Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước (nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư) và Bộ Tài chính thay mặt Chính phủ nhận nợ và thanh toán với phía nước bạn bằng nông sản và các loại hàng hoá khác.Tổng công tyVTNN tiếp nhận phân nhập khẩu song, tổ chức tiêu thụ được đến đâu thì nộp tiền cho Bộ Tài chính đến đó. Như vậy”Kinh doanh” theo cơ chế này chẳng mấy khó khăn, phức tạp và Tổng công ty VTNN luôn an toàn, bởi vì được bao cấp trong giá nhập khẩu và tỷ giá ngoại tệ, đồng thời được hưởng chiết khấu lưu thông theo tỷ lệ ấn định doanh số. Từ tháng 8-1991, tình trạng bắt đầu biến đổi khác hẳn,Tổng công ty chỉ được tiếp nhận nốt 100.000 tấn URE theo nghị định thư bằng 10% số nhập khẩu theo kế hoặch hàng năm trước đó (do liên xô cắt viện trợ),còn lại chuyển hướng khai thác nguồn hàng này ở khu vực II.Cùng thời gian đó, chúng ta thiếu ngoại tệ, với Tổng công ty VTNN, toàn bộ vốn kinh doanh chỉ có114 tỷ đông, giá ngoại tệ tăng liên tục tới 7000Đ/USD và giá URE quốc tế cũng tăng từ 190-210USD/tấn. Như vậy Tổng công ty chỉ nhập thêm được 184.000 tấn URE từ thị trường mới, nâng tổng khả năng cung ứng lên hơn 284.000 tấn, bằng khoảng 25% nhu cầu phân bón cả nước lúc bấy giờ. Do sự mất cân đối cung-cầu này, lập tức dẫn tới cơn sốt phân bón vô cơ, tỷ giá cánh kéo bất hợp lý đến mức 1kgURE=2,5-2,6 kg thóc. Đến năm 1992&1993, việc kinh doanh nhập khẩu phân bón gần như được thả nổi toàn bộ theo cơ chế thị trường; Năm 1992 có tới trên 100 đầu mối nhập khẩu phân bón, năm 1993 các doanh nghiệp có chức năng hay không có đều đi buôn phân bón (khi đó chưa có hạn ngạch), nhiều doanh nghiệp vốn lưu động tuy ít nhưng do nhà nước có chủ trương cho vay Đôla với điều kiện là phải nhập khẩu hàng hoá (đồng thời có chủ trương cấm nhập khẩu 17 mặt hàng) nên đã cố tình vay Ngân hàng, và vay vốn này dồn đi buôn phân bón về nhiều. Trong thời gian ngắn có tới gần 100 đơn vị đi buôn, phân bón về nhiều, ứ đọng, phát sinh tăng thêm các loại chi phí lưu kho,lưu bãi,hao hụt, hao hụt, lãi suất ngân hàng....Do vậy buộc phải bán giá thấp; giá lúc bấy giờ rẻ hơn nhiều vùng, nhiều nước trong khu vực. Đồng thời lúc này do do chênh lệch mức lãi suất giữa vay tiền đồng và tiền đô la càng khích lệ các doanh nghiệp nhẩy vào lãnh vực nhập khẩu phân bón. Cụ thể vay đô la thì mức lãi suất 0,5% tháng (=6% năm) trong khi tỷ giá ít thay đổi, nếu vay tiền đồng 2,1% tháng (=25,2% năm) như vậy chênh lệch lãi suất giữa vay đô la và tiền đồng trong 6 tháng là 9,6%, bán lỗ phân bón 5%(trong 6 tháng) nẫn còn lãi 4,6%. vì thế nên có nhiều doanh nghiệp làm ngơ chuyện lỗ lãi. Theo ước tính của các nhà kinh tế thì quý IV/1992 và cả năm 1993 cả nước lỗ khoảng 200-300 tỷ đồng, số lỗ này nhà nước gánh chịu chủ yếu vì vốn kinh doanh của các doanh nghiệp quốc doanh phần lớn là vốn ngân sách cấp.Bước sang năm 1994, do năm 1993 phân bón ứ đọng, thua lỗ nên Chính phủ đã cấm nhập khẩu phân bón tràn lan, gom lại chỉ có 17 đầu mối, trong đó có 16 đầu mối nhập khẩu 40% còn 01 đầu mối đảm nhận 60%. Sự thay đổi về nhập khẩu phân bón theo chiều hướng thu gọn lại đầu mối và các đơn vị được giao hạn ngạch nhập chưa đủ điều kiện đảm nhận đã đẩy đến sự hững hụt trong nhập khẩu phân bón, thị trường trong nước bị thiếu trầm trọng, con sốt phân bón thịnh hành. Để duy trì mặt hàng cung cấp liên tục phân bón cho hệ thống đại lý có phân bón phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không có hạn ngạch phải đi kiếm hạn ngạch của các doanh nghiệp quốc doanh để nhập khẩu phân bón. Sang đầu năm 1995 do ảnh hưởng giá phân bón của thị trường thế giới liên tục tăng và tăng cao ở mức Urê khoảng 260-265 USD/T, lúc này cũng là thời điểm chuẩn bị phải sử dụng phân bón, các doanh nghiệp chạy theo lợi nhuận lại lại đua nhau nhập khẩu phân bón và tình trạng mua bán hạn ngạch giữa các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh càng trở nên phức tạp và tiêu cực hơn. Cho đến tháng 4/1995 giá phân bón thế giới đột biến hạ Urê còn 215-220 USD/T và tồn kho vẫn nhiều , lập tức ban vật giá Chính phủ đã có quyết định cho phụ thu phân bón nhập khẩu với mức 7% trên gáa nhập thực tế và sau hơn 1 tháng hạ xuống còn 4%. Khi đó Tạp chí phân bón thị trường quốc tế ngày 8/5/1995 nhận xét: “Việc Chính phủ Việt nam cho ra phụ thu 7% thực tế là thuế nhập khẩu, mức thuế này nhằm mục đích là cứu lấy các doanh nghiệp kinh doanh “cá mập” ”, và kèm theo đó là trợ giá cước phí vận chuyuển phân bón cho nông dân ở các tỉnh miền núi để nông dân ở các vùng này được hưởng giá tương ứng với giá ở các tỉnh miền xuôi. Như vậy, những giải pháp can thiệp của Nhà nước trong thời gian này nhằm bảo vệ lợi cho người đã nhập khaảu phân bón, tuy nhiên vẫn chỉ là các giải pháp tình thế, chắp vá bởi lẽ nó chỉ là các giải pháp cụ thể xảy ra từng năm. Khi đó nhiều ý kiến cho rằng, để doanh nghiệp kinh doanh phân bốn tự xử lý tìm ra sự an toàn về tài chính, lấylãi lúc này bù lỗ lúc khác, tự giữ vốn tiếp tục hoạt động thì các doanh nghiệp phải tự vươn lên trở thành nghề kinh doanh, chấm dứt tình trạng kinh doanh theo kiểu “chụp dật, đánh quả”, có lời thì nhập khó khăn thì bỏ. Nhận thức này đã được dần sáng tỏ nên năm 1996-1997 cơ chế nhập khẩu và cơ chế quản lý giá phân bón đã có chặt chẽ hơn. Chính phủ trực tiếp quy định đầu mối nhập khẩu phân bón và thành lập tổ điều hành để chỉ đaọ, đôn đốc, kiểm tra việc nhập khẩu làm sao khớp với thời điểm mùa vụ, đảm bảo nhu cầu cho sản xuất nông nghiệp; cơ chế vay ngân hàng và bảo lãnh cũng được quy định chặt chẽ hơn, không bảo lãnh nhập trả chậm tràn lan như trước đây, vì thế đã hạn chế được việc mua bán hạn ngạch, hạn chế được phần rủi ro và hạn chế được việc gây rối loạn thị trường. Tuy vậy việc can thiệp của Nhà nước vào việc nhập khẩu phân bón như trên cũng hết sức khó khăn, bởi lẽ giá cả phân bón biến động phức tạp, giá URÊ trên thị trường thế giới có lúc giảm rất nhanh và chỉ còn 98-102 USD /tấn, gần đây giá DAP chỉ trong vòng hai tháng đã giảm tới 50-60 USD / tấn( từ 230USD/tấn còn 175USD/tấn). Thực sự cho tới quyết định 140TTg (7/3/1997) của Thủ tướng chính phủ cho tới nay thì tình hình kinh doanh phân bón mới có nhiều tiến bộ và hiệu quả. Đó là việc lập kế hoạch nhập khẩu phân bón được tính toán khá sát với yêu cầu thực tế, đã có quyết định giao kế hoạch nhập khẩu ngay từ đầu năm, tạo điều kiện chủ động giao dịch, ký kết hợp đồng nhập khẩu và cung ứng kinh doanh trên thị trường. Từ những phân tích trên mục đích chứng minh rằng xây dựng cơ chế thị trường là bước đi tất yếu khách quan, nghĩa là chấp nhận trên thực tế sự tham gia kinh doanh phân bón vô cơ của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác, một khi các doanh nghiệp này có thực lực về kinh tế. Nhưng không có nghĩa là phó mặc cho thị trường tất cả, mà các cơ quan chức năng của Nhà nước cần giám sát chặt chẽ, tổ chức theo dõi thường xuyên việc thực thi nhiệm vụ kinh doanh phân bón, đặc biệt là nhập khẩu, để từng bước ổn định đội ngũ thương nhân chuyên kinh doanh phân bón có thực lực kinh tế, có kinh nghiệm kinh doanh. 2-/ Hệ thống cơ quan quản lý và điều tiết lưu thông phân bón vô cơ của nền kinh tế. 2.1-/ Về Tổ chức cơ quan quản lý và điều tiết phân bón vô cơ Như trên đã phân tích, trong tổng khối lượng nhiều triệu tấn phân hoá học tiêu dùng hàng năm thì sản xuất trong nước mới chỉ đáp ứng được khoảng 65% nhu cầu về lân, chưa tới 10% nhu cầu về đạm, còn nhiều loại khác thì trong nước vẫn chưa sản xuất được. Do vậy hàng năm nước ta vẫn phải bỏ ra hàng triệu USD để nhập khẩu phân bón. Từ nhiều năm nay nhà nước đã áp dụng nhiều biện pháp quản lý khác nhau, quản lý nhập khẩu bằng hạn ngạch, chỉ định các đơn vị đầu mối được kinh doanh nhập khẩu; hỗ trợ giá cước vận chuyển phân bón Bắc-Nam lên Miền núi, cho vay vốn sản xuất, dự trữ thời vụ phân bón với lãi suất ưu đãi... .Tuy nhiên, những năm gần đây, hệ thống cung ứng phân bón phải đối mặt với những thử thách to lớn và trải qua mấy nấc thăng trầm tương ứng với những phương sách quản lý khác nhau của nhà nước. Từ giữa năm 1991 trở về trước việc nhập khẩu phân bón hoá học (chủ yếu là ure) nằm trong quy đạo của cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Mỗi năm, Tổng công ty vật tư nông nghiệp thực hiện nhập khẩu từ 800.000-1.000.000 tấn ure theo nghị định thư giữa hai nhà nước Việt Nam và Liên Xô, sau đó tiến hành phân phối theo kế hoạch đã định cho các đơn vị ở các địa phương trong cả nước. Theo phương thức này Uỷ ban kế hoạch Nhà nước và Bộ tài chính thay mặt chính phủ nhận nợ và thanh toán với phía Liên Xô. Tổng công ty vật tư nông nghiệp tiếp nhận phân nhập khẩu xong, tổ chức tiêu thụ sau đó nộp tiền cho Bộ tài chính. -Từ tháng 8/1991, tình huống bắt đầu biến đổi khác hẳn, Tổng công ty Vật tư nông nghiệp được tiếp nhận nốt 100.000 tấn ure theo nghị định thư, bằng 10% số nhập khẩu theo kế hoạch hàng năm trước đó, do Liên Xô cắt viện trợ. -Đến năm 1992- 1993, việc kinh doanh phân bón vô cơ được thả nổi toàn bộ theo cơ chế thị trường. -Bước sang năm 1994 đã đánh dấu một bước đổi mới quan trọng về cơ chế quản lý của nhà nước đối với lĩnh vực lưu thông, nhập khẩu phân bón. Với việc chỉ định các đầu mối nhập khẩu phân bón, tuy nhiên các đầu mối nhập khẩu được sàng lọc, giảm bớt số lượng, coi trọng tiêu chuẩn chất lượng và năng lực thực sự về tài chính, tiếp thị. Từ năm 1995 đến nay: Nhà nước tiếp tục quản lý chặt chẽ nhập khẩu phân bón. Sơ đồ 1 - Các cơ quan quản lý và điều tiết phân bón vô cơ thời kỳ đổi mới cơ chế kinh tế. Nước bán phân bón trên thế giới Các đầu mối nhập khẩu được chỉ định Cửa hàng đại lý bán lẻ Tổ chức trung gian phân bón Nông dân Bộ công nghiệp Bộ Nông nghiệp & PTNT, Bộ Thương mại Bộ Tài chính Ngân hàng Tỉnh TP Hải quan Vật giá Bộ KHĐT Bộ KHCN-MT Như vậy, có thể khẳng định trong cơ chế thị trường, không thể thiếu vai trò quản lý vĩ mô, kế hoạch định hướng của nhà nước và sự phối hợp đồng bộ của các cấp, các ngành với vấn đề quản lý và điều tiết phân bón vô cơ ở nước ta. Công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực nhập khẩu và kinh doanh phân bón vô cơ phải nhằm mục tiêu đưa việc nhập khẩu và kinh doanh phân bón vào nề nếp, nhằm cung ứng đủ và kịp thời phân bón vô cơ trực tiếp đến hộ nông dân phục vụ sản xuất với giá cả hợp lý, gắn việc cung ứng vật tư, dịch vụ (trước hết là phân bón ) với việc thu mua lúa hàng hoá của nông dân thành một hệ thống bảo đảm sự quản lý và điều hành của Nhà nước. Cụ thể là: * Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch cân đối Cung- cầu phân bón trong từng vụ, của từng miền trong cả nước, cùng Bộ thương mại theo dõi và kiểm tra tiến độ hàng về, tình hình Cung ứng và giá cả phân bón trong cả nước, đề xuất ý kiến điều chuyển kịp thời lượng phân bón cần nhập khẩu hàng năm phục vụ sản xuất nông nghiệp trình Chính phủ quyết định. * Bộ Công nghiệp thông báo việc sản xuất phân bón vô cơ trong nước hàng năm và quy hoạch tổng thể chiến lược phát triển ngành sản xuất phân bón đến năm 2000 và 2010 theo hướng tăng nhanh sản xuất trong nước thay thế dần nhập khẩu với hình thức tự vay vốn hoặc liên doanh để sản xuất phân bón. * Bộ Thương mại chịu trách nhiệm, điều hành nhập khẩu phân bón theo kế hoạch chung và cân đối của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, chỉ định doanh nghiệp nhập khẩu phân bón, thông báo chỉ tiêu nhập khẩu cho từng doanh nghiệp. Từ đó Chủ tịch UBND tỉnh thành phố thông báo doanh nghiệp cho Bộ Thương mại, Cục Hải quan, Bộ Tài chính, Bộ kế hoạch đầu tư, các doanh nghiệp được thông báo làm thủ tục nhập khẩu tại cơ quan Hải Quan. * Ngân hàng Nhà nước Việt nam cùng Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định việc quản lý, sử dụng tiền bán hàng của các doanh nghiệp nhập khẩu để đảm bảo thanh toán với nước ngoài khi đến hạn. Khi được Chính phủ phê duyệt hạn ngạch nhập khẩu phân bón, Ngân hàng Nhà nước Việt nam chỉ đạo các ngân hàng Thương mại bảo lãnh cho các doanh nghiệp được chỉ định nhập khẩu phân bón vay trả chậm nước ngoài và được lấy giá trị hàng hoá phân bón nhập khẩu làm bảo đảm và ký quỹ với mức thấp nhất theo quy định của Ngân hàng nhà nước Việt nam. Đối với một số doanh nghiệp được giao nhập khẩu số lượng phân bón lớn để điều hoà cung cầu, bình ổn giá trong nước, ngoài quy định chung, Ngân hàng cho vay và bảo lãnh theo số lượng phân bón nhập cụ thể của từng doanh nghiệp để các doanh nghiệp thực hiện được chỉ tiêu đã giao. Trường hợp có khó khăn về vốn, Bộ kế hoạch đẩu tư, Bộ Tài chính cân đối trình Thủ tướng chính phủ cho phép sử dụng từ nguồn quỹ dự trữ ngoại tập trung của Nhà nước để cho vay nhập phân bón. *Ban vật giá Chính phủ, tuỳ từng trường hợp là cơ quan xác định mức trọ giá cho từng mặt hàng, từng địa phương, xác định mức giá bán tối đa “giá trần” cho từng mặt hàng. *Tổng công ty Vật tư nông nghiệp chịu trách nhiệm: ngoài việc thực hiện đầy đủ trách nhiệm như các doanh nghiệp khác còn phải từng bước tổ chức lại mạng lưới bán buôn, đại lý bán phân bón trực tiếp đến nông dân, quản lý chặt chẽ quỹ dự trữ lưu thông phân bón được nhà nước giao, chịu trách nhiệm đảm bảo dự trữ lưu thông bằng ngoại tệ và bằng hiện vật cho 3 miền Bắc, Trung, Nam, theo quy định; khi xảy ra đột biến giá và mất cân đối quan hệ Cung- cầu phải kịp thời đưa lực lượng dự trữ lưu thông can thiệp thị trường theo chỉ đạo của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn và Bộ Thương mại nhằm ổn định Cung- cầu và giá phân bón trong cả nước. *Đối với các loại phân hoá học là nguyên liệu sản xuất phân bón tổng hợp, Bộ Thương mại thống nhất với Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ công nghiệp, cho phép một số doanh nghiệp bảo đảm nhập đủ nguồn nguyên liệu cung ứng cho các cơ sở sản xuất phân bón trong nước đã được Bộ công nghiệp cấp giấy phép sản xuất và Bộ khoa học công nghệ và môi trường cấp giấy chứng nhận chất lượng hàng hoá. Bộ công nghiệp rà soát, chấn chỉnh lại các doanh nghiệp sản xuất phân bón tổng hợp, nhằm mục đích bảo đảm chất lượng hàng hoá và cân đối Cung- cầu về phân bón tổng hợp. *Ban chỉ đạo để điều hành hoạt động xuất khẩu gạo và nhập khẩu phân bón do một thứ trưởng Bộ Thương mại làm trưởng ban, bao gồm đại diện của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ tài chính, Ngân hàng nhà nước, Tổng cục Hải quan, một số tỉnh có sản lượng lúa hàng hoá lớn và hiệp hội XNK lương thực Việt Nam. 2.1-/ Về cung ứng phân bón vô cơ trong nước: Từ năm 1991 trở về trước: hệ thống cung ứng phân bón do Quốc doanh độc quyền được tổ chức thành 2 cấp: cấp I (Tổng công ty vật tư nông nghiệp Trung Ương,) cung ứng đến kho cấp II (Tỉnh), Cấp II cung ứng cho cấp III (Cấp III thuộc cấp II quản lý); Quốc doanh địa phương thực hiện cung ứng 90% nhu cầu phân bón trên địa bàn. Sơ đồ 2 Mô hình cung ứng phân bón vô cơ thời kỳ kế hoạch hóa tập trung Nước bán phân hoá học trên thế giới Quốc doanh cấp I Nhà nước Việt Nam xây dựng kế hoạch Quốc doanh Việt Nam Cấp II Quốc doanh Vật tư Việt Nam Cấp III Hợp tác xã, tập đoàn sản xuất Nhập khẩu Giao chỉ tiêu nhập khẩu Từ năm 1992 cùng với sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cơ chế kinh doanh phân bón mang tính độc quyền, nhiều tầng nấc, giá cả áp đặt được xoá bỏ. Hệ thống phân phối theo ngành dọc từ cấp I tới cấp III đã mất tác dụng. Thay vào đó là nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia kinh doanh phân bón trên thị trường nội địa để cung ứng cho người sản xuất. Quốc doanh địa phương chỉ cung ứng 20-30%. Có thể nói hệ thống cung ứng được mở rộng, tư nhân tham gia cung ứng phân bón ngày càng nhiều, phân bón không còn “chạy” vòng vèo như trước đây mới tới được tay người sản xuất. Sơ đồ 3 Mô hình cung ứng phân bón hoá học thời kỳ đổi mới Nước bán phân hoá học trên thế giới Các đầu mối nhập khẩu Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Các tổ chức trung gian cung ứng phân Cửa hàng đại lý bán lẻ Nông dân cơ chế kinh tế. Đi đôi với hệ thống cung ứng phân bón theo hướng tự do lưu thông. Nhà nước cũng thực hiện tự do hoá giá cả- có nghĩa là về cơ bản giá phân bón do thị trường quyết định. Tuy vậy, nhưng để nông dân được hưởng mức giá bình ổn nhất là khi thời vụ cần có phân bón chăm sóc cây trồng Nhà nước đang sử dụng quỹ bình ổn giá để hỗ trợ cho kinh doanh phân bón dự trữ lưu thông một số lượng phân ure nhất định để chủ động bán ra ở thời điểm bình thường cũng khi thời vụ hoặc ở thời điểm giá cả tăng cao, bảo đảm để nông dân._. mua được đạm ure xoay quanh định hướng 1 ure tương đương 2 lúa mà nông dân đồng bằng Sông Cửu Long và khoảng 1,5 lúa ở đồng bằng sông Hồng đã chấp nhận. 3-/ Các công cụ quản lý và điều tiết lưu thông phân bón vô cơ của nhà nước ở Việt nam . Quản lý và điều tiết vĩ mô thị trường và lưu thông nói chung và phân bón vô cơ nói riêng là vấn đề phức tạp, khó khăn. Sự quản lý và điều tiết của các cơ quan nhà nước ở tầm vĩ mô phải hết sức mềm dẻo, linh hoạt, phải xuất phát từ mục tiêu định hướng, tôn trọng sự vận động khách quan của thực tiễn.Trong giai đoạn đầu chuyển sang kinh tế thị trường, xây dựng cơ chế quản lý kinh tế với rất nhiều mục tiêu và các giải pháp khác nhau. Các vấn đề kinh tế xã hội cấp bách đang đan xen vào nhau, vừa là tiền đề vừa là kết quả của nhau đòi hỏi phải giải quyết đồng bộ không được biệt lập, riêng rẽ. Những vấn đề cơ bản của nền kinh tế có những mục tiêu và giải pháp khác nhau, có khi mâu thuẫn nhau. Bởi vậy, phải đặt trong tổng thể của nền kinh tế quốc dân để giải quyết vấn đề. Mục tiêu điều tiết thị trường, lưu thông phân bón vô của nhà nước nằm trong hệ thống mục tiêu kinh tế xã hội, đáp ứng mục tiêu cao nhất là ổn định và nâng cao đời sống nhân dân phát triển toàn diện con người, xây dựng xã hội lành mạnh, văn minh trên cơ sở một nền sản xuất hàng hoá phát triển cao. Nhà nước điều tiết lưu thông hàng hoá và phân bón vô cơ nhằm làm cho nó ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, phát huy mặt tích cực, hạn chế những tiêu cực phát sinh. Hướng lưu thông hàng hoá và phân bón vào các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước. Để đạt được hiệu quả cao, nhà nước cần linh hoạt sử dụng hệ thống công cụ điều tiết và quản lý vĩ mô: 3.1-/ Chương trình có mục tiêu phát triển thương mại của nhà nước. Tính cân đối của nền kinh tế quốc dân là yêu cầu khách quan cho sự phát triển của nó. Nền kinh tế quốc dân là một thể thống nhất bao gồm nhiều bộ phận hợp thành có quan hệ hữu cơ với nhau. Trong đó có những khâu, những bộ phận quan trọng có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển của nền kinh tế. Thông qua sự tác động tới các yếu tố then chốt đó sẽ đảm bảo sự phát triển tối ưu của nền kinh tế. Kế hoạch hoá vĩ mô là kế hoạch định hướng, thực hiện những cân đối lớn nhằm đảm bảo tốc độ phát triển hợp lý và hiệu quả cao. Kế hoạch định hướng ở tầm vĩ mô cũng phải được thay đổi linh hoạt phù hợp với sự vận động khách quan của nền kinh tế. Cùng với các chương trình mục tiêu, kế hoạch kinh tế quốc dân được xây dựng đúng đắn sẽ là một công cụ quan trọng. ở các nước Tư bản phát triển, các nước công nghiệp mới đã sử dụng thành công Kế hoạch kinh tế quốc dân như một công cụ trọng tâm, tác động vào nền kinh tế . 3.1.1.Mô hình kế hoạch hoá định hướng + Mục tiêu của KHHĐH:Là nhằm giữ một số cân đối lớn trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. + Chủ thể của KHHĐH:Trong mô hình kế hoạch hoá cũ (Kế hoạch hoá tập trung), chủ thể của kế hoạch hoá là nhà nước, ở đây kế hoạch là cương lĩnh thứ 2 của Đảng, là pháp lệnh của cơ quan quyền lực nhà nước tối cao (Quốc hội, Hội đồng nhân dân). Chính phủ chỉ giữ vai trò tổ chức thực hiện kế hoạch. Trong mô hình KHHĐH hiện nay, Đảng lãnh đạo làm chiến lược (không làm kế hoạch), Quốc hội làm Hiến pháp (không làm kế hoạch). Chủ thể của KHHĐH là Chính phủ. Chính phủ làm KHHĐH trong khuôn khổ chiến lược do Đảng quyết nghị và tuân thủ hệ thống pháp luật do Quốc hội quyết định. Sự phân định như vậy một mặt, đề cao đúng mức vai trò của Chính phủ, mặt khác không hạ thấp vai trò của Đảng, Quốc hội khi phải quyết định những dự án kế hoạch. Đồng thời làm cho mối quan hệ giữa chiến lược với luật pháp được thể hiện nhất quán trong kế hoạch mà sự nhất quán đó được quy tụ vào một nơi chịu trách nhiệm là Chính phủ. + Đối tượng của KHHĐH: Trong mô hình kế hoạch hoá tập trung trước đây, đối tượng của kế hoạch là các quá trình kinh tế diễn ra trong khu vực sở hữu công cộng, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp quốc doanh do quan niệm rất hẹp về hàng hoá- tiền tệ, nên ngay trong khu vực sở hữu công cộng, nhiều quá trình kinh doanh đã nằm ngoài đối tượng của kế hoạch. Đặc biệt, khu vực kinh tế dịch vụ đã có một bộ phận lớn không nằm trong đối tượng của kế hoạch do có sự phân biệt giữa sản xuất vật chất (hệ thống phân ngành kinh tế MPS). Trong mô hình KHHĐH, đối tượng của kế hoạch là toàn bộ quá trình vận động của nền kinh tế hàng hoá (kể cả những bộ phận chưa phải là hàng hoá trong thời kỳ chuyển đổi hiện nay). Trong đó tiền tệ sắm vai trò vĩ mô cực kỳ quan trọng. + Phương pháp KHHĐH:Trong mô hình kế hoạch hoá tập trung, kế hoạch được tiến hành theo phương pháp của hệ thống sản phẩm vật chất MPS ( Materal Product System). Phương pháp này không tính đến các dịch vụ, được quan niệm là không liên quan trực tiếp tới sản xuất vật chất như các dịch vụ giáo dục, y tế, thể thao, hành chính, ngân hàng. Phương pháp này cũng bỏ qua hạch toán khấu hao trong nền kinh tế (theo UNDP) phương pháp này bỏ qua 20- 30% tổng sản phẩm xã hội. Kế hoạch hoá định hướng đòi hỏi phải thể hiện đầy đủ mọi cục diện của nền kinh tế trong mỗi tác động qua lại giữa các nhân tố cấu thành của nó. Bởi vậy, KHHĐH buộc phải chuyển từ phương pháp cũ (MPS) sang phương pháp mới là phương pháp hạch toán quốc gia theo hệ thống tài khoá quốc gia SNA (System of Natinal Acount). Trong mô hình kế hoạch hoá tập trung, kế hoạch không coi trọng phương pháp giá trị. Một loại chỉ tiêu giá trị quan trọng đã bị bỏ qua trong các kế hoạch như tổng tiêu dùng, tổng tiết kiệm, tổng thu thuế, chỉ số hàng tiêu dùng, tỷ giá, tỷ lệ lạm phát, chỉ số tăng tiền lương danh nghĩa, tổng sản phẩm xã hội tính theo trượt giá.... Trái lại trong mô hình KHHĐH, các chỉ tiêu giá trị trên đây trở thành các chỉ tiêu hệ trọng nhất trong khi đánh giá thực trạng nền kinh tế cũng như khi nêu ra các đinh hướng phát triển và ổn định. Việc chuyển từ phương pháp hiện vật (là chính) sang phương pháp giá trị (là chính) là sự chuyển biến về chất của phương pháp KHHĐH so với phương pháp kế hoạch trước đây. Nó không tuỳ thuộc ở các cơ quan định hướng hoạch định kế hoạch mà chủ yếu tuỳ thuộc ở thước giá trị trong nền kinh tế, ở mức độ phạm vi tiền tệ hoá các quá trình kinh tế. Trong mô hình kế hoạch cũ, các cân đối hiện vật giữ vai trò trọng yếu (lương thực, xăng dầu, phân bón....). nhưng dù mở rộng danh mục đến đâu cũng không thể nào thể hiện nổi tổng cân đối (về hiện vật ) của nền kinh tế. Trái lại phương pháp cân đối của mô hình KHHĐH đòi hỏi phải chuyển sang những cân đối vĩ mô được đo bằng các tiêu chuẩn tài chính, tiền tệ trong đó chủ yếu như: Cân đối tiết kiệm và tiêu dùng, cân đối cán cân thương mại, cân đối cán cân thanh toán quốc tế, cân đối thu chi ngân sách ....những cân đối này phải dựa trên sự vận động thực tế của hệ thống tài chính, tiền tệ, giá cả của nền kinh tế. + Nội dung chủ yếu của KHHĐH: Xác định các chỉ tiêu tổng hợp của nền Kinh tế quốc dân, các chỉ tiêu định hướng cân đối đầu tư và tiêu dùng các chỉ tiêu cân đối ngân sách, các chủ tiêu cân đối tiền tệ, các chỉ tiêu định hướng điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong tác động của định hướng cán cân thương mại và định hướng cán cân thanh toán quốc tế, các chỉ tiêu định hướng cân đối lao động xã hội. 3.1.2.Mô hình kế hoạch hoá định hướng phát triển thương mại trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước + Mục tiêu của KHHĐH phát triển thương mại: ổn định thị trường, phát triển lưu thông thị trường hàng hoá phát triển xuất nhập khẩu và lợi nhuận. + Chủ thể của KHHĐH phát triển thương mại: Là Bộ Thương mại- cơ quan nhà nước Trung ương của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành thương mại trong phạm vi cả nước. Trong đó Bộ trưởng Bộ Thương mại với tư cách vừa là thành viên Chính phủ vừa là Thủ trưởng của Bộ chịu trách nhiệm trình Chính phủ chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành thương mại, phương hướng mục tiêu và các cân đối lớn của kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn, bao gồm tất cả các thành phần kinh tế thuộc ngành Thương mại để định hướng cho toàn ngành, các địa phương (các Sở thương mại) các đơn vị cơ sở thuộc Bộ trong việc xây dựng kế hoạch của mình, trên cơ sở đó Bộ tổng hợp và phân tích hoạt động kinh tế- kỹ thuật toàn ngành thương mại. Bộ trưởng Bộ thương mại có trách nhiệm tổ chức chỉ đạo thực hiện kế hoạch phát triển thương mại trong phạm vi cả nước(Điều 116 hiến pháp năm 1992, luật tổ chức Chính phủ, nghị định 15 CP ngày 3/2/1993 của chính phủ). Luật thương mại (điều 145) cũng quy định: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về Thương mại, Bộ Thương mại chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện việc quản lý nhà nước về thương mại, Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vị nhiệm vụ quyền hạn của mình có trách nhiệm quản lý nhà nước về thương mại đối với lĩnh vực được phân công phụ trách. Như vậy Bộ thương mại là chủ thể của kế hoạch hoá phát triển Thương mại trong phạm vi cả nước, trong quá trình xây dựng kế hoạch, Bộ thương mại vừa phải tổng hợp, phân tích tình hình kinh tế-kỹ thuật của toàn ngành, từ tư liệu của các địa phương trong cả nước, các đơn vị trực thuộc Bộ, ngành hữu quan. Kế hoạch hoá phát triển thương mại phải do Bộ trưởng Bộ thương mại trình Chính phủ phê duyệt mới có hiệu lực quản lý. + Đối tượng của kế hoạch hoá phát triển thương mại: Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nhà nước bao quát toàn bộ các quá trình kinh tế trong ngành Thương mại, các hoạt động thương mại, hàng hoá trong nước và với nước ngoài của tất cả các thành phần kinh tế, mà trọng tâm là các quan hệ thị trường hàng hoá như quan hệ Tổng cung- Tổng cầu, quan hệ tiền- hàng, quan hệ Cung- cầu từng mặt hàng thiết yếu; các cơ cấu thương mại chủ yếu như cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu ngành hàng, mặt hàng lưu thông trên thị trường nội địa và xuất khẩu, nhập khẩu. Cơ cấu thị trường trong nước theo vùng lãnh thổ, cơ cấu các khu vực thị trường ngoài nước (Cơ cấu thị trường xuất khẩu và cơ cấu thị trường nhập khẩu), cơ cấu nguồn nhân lực của ngành thương mại, quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các khu vực nước bạn hàng với các tổ chức thương mại khu vực và thế giới. + Phương pháp kế hoạch hoá phát triển thương mại trong nền kinh tế thị trường: Trong mô hình kế hoạch hoá cũ (kế hoạch Thương nghiệp, kế hoạch hoá cung ứng vật tư, kế hoạch hoá ngoại thương) do sử dụng phương pháp hiện vật là chính, nên đã không coi trọng các chỉ tiêu giá trị, các chỉ tiêu về nhu cầu thị trường mà chỉ chú trọng đến các chỉ tiêu về tổng lượng hàng hoá của khu vực quốc doanh; định lượng nguồn cung ứng của nhà nước; các chỉ tiêu định mức cung ứng và những địa chỉ cấp phát chính thuộc khu vực kinh tế nhà nước. Vì thế một mặt không bao quát được tổng lượng hàng hoá cung ứng của toàn xã hội và tổng nhu cầu hàng hoá của toàn xã hội. Mặt kế hoạch hoặc không tính đến giá trị giá trị thực tế của hàng hoá do sự chi phối của gía trị đồng tiền nội tệ bị trượt giá và các yếu tố lạm phát. Nay chuyển sang sử dụng phương pháp giá trị là chính, nên các chỉ tiêu về nhu cầu thị trường cần được đặc biệt coi trọng như: Tổng quỹ mua, sức mua thực tế của toàn xã hội. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu; giá trị đồng Việt Nam trong quan hệ thanh toán thương mại; nhu cầu của các khu vực nước bạn hàng xuất khẩu; các chỉ tiêu về thuế, đặc biệt là thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu; chỉ giá cả trong nước và giá xuất khẩu; các chỉ tiêu hiệu quả thương mại như tổng doanh số (mua vào và bán ra), lợi nhuận; các chỉ tiêu về ổn định thị trường nội địa, các chỉ tiêu cân đối thị trường các mặt hàng thiết yếu... trong đánh giá thực trạng cũng như nêu ra các định hướng phát triển Thương mại Việt Nam. Theo đó, để xây dựng các phương án kế hoạch Thương mại có chất lượng Bộ Thương mại phải tổ chức điều tra cơ bản (nhất về năng lực sản xuất và điều tra về sức mua), nghiên cứu dự báo về xu hướng và động thái của thị trường đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Trước hết là các khu vực thị trường trọng điểm và thị trường các mặt hàng thiết yếu liên quan đến những cân đối lớn của nền kinh tế + Nội dung chủ yếu của kế hoạch hoá định hướng phát triển thương mại trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà : Nghi quyết số 12 NQ/TW của Bộ Chính trị đã xác định kế hoạch hoá Thương mại trong nền kinh tế thị trường phải thể hiện các nội dung: xây dựng chiến lược thị trường và quy hoạch phát triển thương mại đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế hàng hoá, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển. Xác định các cân đối lớn (Cân đối Tổng cung- Tổng cầu, cân đối tiền- hàng cân đối Cung- cầu từng mặt hàng thiết yếu....). Về mặt phương pháp luận, có thể phác hoạ và xác định một số nội dung chủ yếu của kế hoạch thương mại như sau: - Tạo dựng bức tranh toàn cảnh của nền thương mại( thực trạng và định lượng phát triển ) thông qua các chỉ tiêu tổng hợp như: +Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ xã hội ( theo giá hiện hành và có tính đến yếu tố trượt giá trong tương lai) phân theo thành phần kinh tế và cơ cấu vùng; cơ cấu thị trường trọng điểm; chỉ số trượt giá chung của thị trường.. + Giá trị lưu chuyển các ngành hàng, mặt hàng thiết yếu, chỉ số giá cả thị trường các mặt hàng thiết yếu. +Tổng quỹ mua và tổng sức mua thực tế của toàn xã hội, phân theo cơ cấu khu vực/ vùng, các thị trường trọng điểm các khu vực tập chung sức mua lớn, nhu cầu sản xuất và nhu cầu của dân cư, các khu công nghiệp trung trung và các vùng sản xuất tập trung, sức mua của thị trường nông thôn và thị trường thành thị của miền núi. +Giá trị kim ngạch xuất khẩu, phân theo cơ cấu các khu vực thị trường xuất khẩu các nước bạn hàng chính, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong đó chú ý đến các nhân tố mới như các thị trường mới có sức mua lớn, các mặt hàng nhóm hàng chế biến sau. +Giá trị kim ngạch nhập khẩu, phân theo cơ cấu nhóm hàng(phân loại chuẩn của quốc tế), cơ cấu thị trường nhập khẩu theo khu vực địa lý và theo trình độ phát triển(nhấn mạnh thị trường có công nghệ nguồn),các thị trường nhập khẩu chính. +Giá xuất khẩu và giá nhập khẩu, hiệu số giữa giá xuất và giá nhập khẩu. -Định hướng cân đối Cung- cầu các mặt hàng thiết yếu là một trong những nội dung trọng tâm của kế hoạch hoá thương mại. Danh mục các mặt hàng thiết yếu cần được điều chỉnh trong các kỳ kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn phù hợp với yêu cầu và trình độ phát triển của nền kinh tế trong từng thời kỳ cụ thể. ở đây cần được đặc biệt chú ý đến yếu tố công nghiệp hoá và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ tác động mạnh đến cả hai phía Cung- cầu các mặt hàng thiết yếu. Tóm lại: Kế hoạch hoá thương mại trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước do Bộ Thương mại xác lập. Chính phủ phê duyệt, đó là loại kế hoạch gián tiếp hướng dẫn thị trường và các hoạt động thương mại của các thương nhân, kế hoạch đó có đối tượng là toàn bộ của các quá trình lưu thông hàng hoá các hoạt đông thương mại hàng hoá trong nước và với nước ngoài của tất cả các thành phần kinh tế kế hoạch, từ đó định ra những cân đối chủ yếu nhất của nền thương mại như cân đối Tổng cung- Tổng cầu, cân đối tiền- hàng, cân đối Cung- cầu các mặt hàng thiết yếu ... nhằm mục tiêu giữ một số cân đối của thị trường và thương mại, ổn định, phát triển lưu thông hàng hoá, phát triển xuất nhập khẩu và lợi nhuận. Đồng thời, hướng thị trường và các quá trình thương mại trong nước và với nước ngoài tiến tới một thế cân bằng mới theo yêu cầu của phát triển kinh tế- xã hội trong từng thời kỳ phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của quốc gia. Với tính chất và vai trò đó, kế hoạch hoá thương mại kế hoạch hoá không chỉ là một phương pháp quan trọng để nhà nước thực hiện vai trò hướng dẫn của mình đối với sự phát triển thị trường và thương mại mà còn là một công cụ trong yếu của nhà nước sử dụng để điều tiết các hoạt động thương mại, thị trường trước hết là thị trường các mặt hàng thiết yếu các mặt hàng nhạy cảm. Trong hệ thống các công cụ, biện pháp kinh tế được nhà nước sử dụng để quản lý điều tiết hoạt động thương mại, thị trường thì kế hoạch giữ địa vị trung tâm phát tín hiệu định hướng. 3.2-/ Một số công cụ, biện pháp chủ yếu được nhà nước sử dụng để quản lý và điều tiết lưu thông hàng hoá và phân bón vô cơ. 3.2.1 Thuế quan: Thuế quan hay thuế xuất nhập khẩu là loại thuế gián thu đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu khi qua lĩnh vực thuế quan của một nước. Nhà nước sử dụng công cụ thuế quan nhằm 2 mục tiêu: Một là,Quản lý xuất nhập khẩu nâng cao hiệu quả hoạt động ngoại thương, góp phần bảo vệ sản xuất trong nước và hướng dẫn tiêu dùng. Hai là,Tăng thu cho ngân sách nhà nước 3.2.1.1. Thuế nhập khẩu : Hình thức hạn chế thương mại- là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng nhập khẩu. Theo đó người nhập khẩu hàng hoá phải trả tỷ lệ % cụ thể theo giá cả quốc tế cho nhà nước, còn người mua trong nước phải trả cho những hàng hoá nhập khẩu một khoản lớn hơn mức mà người xuất khẩu ngoại quốc nhận được. Việc thực hiện thuế nhập khẩu dẫn đến xu hướng tăng giá hàng nhập khẩu, giảm số lượng tiêu thụ, số lượng hàng nhập khẩu và tăng sản lượng sản xuất trong nước. Kết quả thực tế đánh thuế nhập khẩu là: các nhà sản xuất trong nước nhờ có thuế nhập khẩu mà có thể mở rộng sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, người tiêu dùng giảm số lượng tiêu dùng hàng nhập khẩu bởi giá lên cao. Nhà nước thu được thuế nhập khẩu, các nhà sản xuất trong nước thu được lợi nhuận cao; gánh nặng thuế quan do người tiêu dùng chịu. Xu hướng chung của thế giới là thường sửa đổi biểu thức nhập khẩu theo hướng hạ thấp mức thuế, đơn giản hoá cơ cấu thuế quan, ít thuế suất và các thuế suất chênh lệch nhau không lớn . Thực hiện cam kết giữa Chính phủ Việt Nam với IMF trong chương trình SAP về việc giảm thuế nhập khẩu, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá IX đã thông qua biểu thuế nhập khẩu áp dụng từ 1/1/1996 với 6 thuế suất, thuế suất tối đa chỉ còn 60%. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam đang nghiên cứu áp dụng kinh nghiệm thành công của một số nước trên thế giới về sửa đổi biểu thuế nhập khẩu theo phương án khác nhằm nâng cao tính linh hoạt- mềm dẻo của công cụ này, phục vụ kịp thời và hiệu quả mục tiêu điều tiết vĩ mô hoạt động của nền kinh tế thị trường. Đó là biểu thuế nhập khẩu có 3 loại thuế suất: Thuế suất tiêu chuẩn, thuế suất tạm thời và thuế suất ưu đãi trong đó: + Thuế suất tiêu chuẩn là mức thuế phổ thông để áp dụng đối với hàng nhập khẩu của các nước thoả thuận song phương hoặc đa phương về thuế quan với Việt Nam. + Thuế suất tạm thời là thuế suất do Chính phủ quy định để áp dụng trong một thời gian nhất định nhằm bảo vệ sản xuất trong nước trong những trường hợp sản xuất trong nước bị thiệt hại do tác động của hàng nhập khẩu. Đó là các trường hợp hàng của nước ngoài cố tình bán phá giá để đẩy vào thị trường Việt Nam; nhằm phá giá thị trường Việt Nam; hàng nước ngoài áp dụng chính sách trợ giá nhập khẩu vào Việt Nam; hàng mà nước ngoài đang hạn chế sản xuất nhưng Việt Nam lại đang rất cần nhập khẩu; những hàng hoá đang tăng giá trên thị trường thế giới, còn thị trường nội địa đang mất cân đối với quan hệ Cung- cầu, giá cả đang tăng lên (sốt). Thuế suất tạm thời có thể cao hơn hoặc thấp hơn thuế suất tiêu chuẩn của từng loại hàng hoá và từng thời điểm. + Thuế suất ưu đãi là loại thuế suất thấp để áp dụng đối với từng nước mà Việt Nam cần ưu đãi trong quan hệ thương mại theo nguyên tắc thoả thuận chung (đối với đa phương ) hoặc trên cơ sở bình đẳng (đối với song phương ). 3.2.1.2. Thuế xuất khẩu Là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá xuất khẩu. Thuế xuất khẩu làm cho giá cả quốc tế của hàng hoá bị đánh thuế vượt quá giá cả trong nước; nó làm hạ thấp tương đối mức giá cả trong nước của hàng hoá có thể xuất khẩu xuống so với mức giá cả quốc tế. Thuế quan xuất khẩu cũng làm tăng nguồn thu cho ngân sách, nhưng nó lại làm cho giá cả quốc tế của hàng hoá bị đánh giá cao hơn mức giá cả trong nước. Tuy nhiên tác động của thuế quan xuất khẩu nhiều khi lại trực tiếp đưa đến bất lợi cho khả năng xuất khẩu. Do qui mô xuất khẩu của một nước thường là nhỏ so với dung lượng thị trường thế giới nên thuế xuất khẩu sẽ làm hạ thấp tương đối mức giá trong nước của hàng có thể xuất khẩu xuống so với mức giá cả quốc tế; điều đó làm cho sản lượng trong nước của mặt hàng có thể xuất khẩu sẽ giảm đi và sản xuất trong nước sẽ thay đổi bất lợi cho những mặt hàng này. Một mức thuế xuất khẩu cao và duy trì quá lâu có thể làm lợi cho các địch thủ cạnh tranh, vì vậy mà các nước công nghiệp phát triển hiện nay hầu như không áp dụng thuế xuất khẩu. Đối với Việt Nam mặc dù biểu thuế xuất khẩu đã được điều chỉnh nhiều lần nhưng đến nay diện thu thuế xuất khẩu vẫn còn rộng với 58 nhóm mặt hàng và với 10 mức thuế suất từ 1%- 45% được áp dụng chủ yếu cho các sản phẩm sơ cấp và các mặt hàng chiến lược như gạo, phân bón vô cơ, cà phê, hạt điều phế liệu thép và sản phẩm gỗ. Hiện nay Việt Nam đang nghiên cứu lập phương án điều chỉnh biểu thuế xuất khẩu với 3 loại thuế suất : Thuế suất bằng 0 (đối với những mặt hàng khuyến khích xuất khẩu; thuế suất thấp dưới 10% đối với hàng Nông- Lâm- Hải sản và hàng công nghiệp tiêu dùng.... thuế suất trên 10% đối với khoáng sản, nguyên liệu ...) đồng thời biểu thuế xuất khẩu đang được điều chỉnh đối với các loại hàng hoá xuất sang các nước ASEAN theo mục tiêu tiến độ chương trình căt giảm thuế quan (CEPT) của AFTA. 3.2.2. Hạn ngạch (Quota) Hạn ngạch là một công cụ phổ biến của hàng rào phi thuế quan, phục vụ cho công tác quản lý, điều tiết của nhà nước về xuất nhập khẩu vừa nhằm bảo hộ sản xuất trong nước bảo vệ tài nguyên , vừa cải thiện cán cân thanh toán. Tính chất chung của hạn ngạch là qui định số lượng hoặc giá trị nhập khẩu hay xuất khẩu đối với từng nước bạn hàng và cho từng mặt hàng. Vì thế, hạn ngạch được hiểu là qui định của nhà nước về số lượng (hoặc giá trị) cao nhất một mặt hàng hay một nhóm hàng được phép xuất hoặc nhập khẩu từ một thị trường trong một thời gian nhất định, thông qua hình thức cấp giấy phép (Quota xuất nhập khẩu ). Quota nhập khẩu là hình thức phổ biến hơn còn Quota xuất khẩu được sử dụng vào nó cũng tương đương với biện pháp “hạn chế xuất khẩu tự nguyện”, Hạn ngạch nhập khẩu đưa tới hạn chế số lượng nhập khẩu đồng thời gây ảnh hưởng đến giá cả nội địa. Do mức cung thấp giá cân bằng sẽ cao hơn so với giá trong điều kiện thương mại tự do. Như vậy hạn ngạch nhập khẩu tác động tương đối giống với thuế nhập khẩu. Do hạn ngạch nhập nên giá hàng địa sẽ tăng lên và nó cho phép các nhà sản xuất trong nước thực hiện một quy mô sản xuất với hiệu quả thấp hơn so với điều kiện thương mại tự do. Như thế, hạn ngạch nhập khẩu cũng dẫn tới lãng phí nguồn lực của xã hội giống như đối với thuế nhập khẩu và là công cụ quan trọng để thực hiện chiến lược sản xuất thay thế nhập khẩu, bảo tiêu sản xuất nội địa. Đối với Chính phủ và các nhà doanh nghiệp, hạn ngạch cho biết trước số lượng hàng nhập khẩu (điều này khác với thuế quan nhập khẩu vì nó phụ thuộc vào quan hệ Cung- cầu). Do tính chắc chắn hơn thuế nhập khẩu nên các hàng hoá sản xuất nội địa nó hơn, nhưng người tiêu dùng lại bị thiệp thòi nhiều hơn mà người được hưởng lợi nhiều nhất là nhà nhập khẩu. Hạn ngạch có thể đưa lại sự độc quyền đối với những doanh nghiệp được sử dụng hạn ngạch, họ có thể đạt mức giá bán cao để thu lợi nhuận tối đa. Do đó, làm nảy sinh hiện tượng tiêu cực chạy xin hạn ngạch và mua bán vòng vèo hạn ngạch. Với đặc tính nêu trên của công cụ hạn ngạch mà trên thế giới hiện nay, các nước ít sử dụng công cụ hạn ngạch, đồng thời thường áp dụng cơ chế “đấu giá ” hạn ngạch thay cho cơ chế, phân bổ hạn ngạch dễ gây hiện tượng tiêu cực chạy xin hạn ngạch và mua bán hạn ngạch vòng vèo. ở Việt Nam trong quá trình tự do hội thương mại từ năm 1990 đến nay. Nhà nước đã từng bước giảm tối đa các mặt hàng xuất nhập khẩu được quản lý bằng hạn ngạch đơn giản hoá sử dụng công cụ này thông qua thực hiện chế độ hạn ngạch theo định hướng và chuyền sang chế độ quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu theo kế hoạch định hướng (nhà nước chỉ định một số doanh nghiệp làm đầu mối kinh doanh 50-70% tổng mức hàng hoá xuất khẩu hoặc nhập khẩu những mặt hàng xuất nhập khẩu quan trọng có liên quan đến những cân đối lớn của nền kinh tế như dầu thô, gạo, xăng dầu, phân bón , sắt thép, vật liệu mỏ); tỷ lệ còn lại từ 30% đến 60% cho các doanh nghiệp khác được phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu các mặt hàng đó; những tỷ lệ này được hiểu là “kế hoạch định hướng ”, không coi là hạn ngạch hoặc chỉ tiêu cố định mà được điều chỉnh tuỳ thuộc vào khả năng của doanh nghiệp (Thông tư 04/ TM-XNK ngày 04/4/1994 của Bộ Thương mại). Theo phương hướng trên danh mục mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu bằng hạn ngạch liên tục giảm từ năm 1990 đến nay. Hiện nay không có mặt hàng nhập khẩu nào có quản lý bằng hạn ngạch hàng xuất khẩu chỉ còn mặt hàng may mặc suất sang EU và mặt hàng gạo được quản lý bằng hạn ngạch. Biểu số 1: Số lượng mặt hàng xuất nhập khẩu quản lý bằng hạn ngạch từ năm 1990 đến nay của Việt Nam. Số mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch 1990 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1. Mặt hàng xuất khẩu 7 4 3 2 1 2 2 2 2.Mặt hàng nhập khẩu 12 4 1 0 0 0 0 0 (Dựa vào các văn bản điều hành xuất nhập khẩu hàng năm của nhà nước của Bộ Thương mại ). Để khắc phục những khả năng phát sinh tiêu cực và những bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, bất bình đẳng giữ các doanh nghiệp được cấp hạn ngạch với các doanh nghiệp không được cấp hạn ngạch. Nghị quyết hội nghị lần thứ IV BCH TW Đảng khoá VIII đã đề ra chủ trương biện pháp khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu, trong đó khẳng định thu hẹp diện mặt hàng quy định hạn ngạch “Quota xuất khẩu, nhập khẩu thay bằng chính sách thuế áp dụng phương thức đấu thầu công khai đối với mặt hàng chưa bỏ được hạn ngạch” (Văn kiện hội nghị lần thứ IV BCH TW Đảng khoá VIII của Đảng cộng sản Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 1998 trang 58). 3.2.3. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện . Đây là một hình thức của hàng rào mậu dịch phi quan thuế. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (Voluntary Export Restraids- VER) là một biện pháp hạn chế xuất khẩu mà theo đó một quốc gia nhập khẩu đòi hỏi quốc gia xuất khẩu phải hạn chế bớt lượng hàng xuất khẩu sang nước mình một cách tự nguyện, nếu không họ sẽ áp dụng biện pháp trả đũa kiên quyết, thực chất đây là những cuộc thương lượng mậu dịch (ví dụ thương lượng Mỹ- Nhật về hạn chế xuất khẩu ô tô của Nhật sang thị trường Mỹ ) giữa các bên để hạn chế bớt sự xâm nhập của hàng ngoại, tạo công ăn việc làm và nâng cao sản xuất trong nước. Nếu hạn ngạch xuất khẩu mang tính chủ động thì hạn chế xuất khẩu lại mang tính miễn cưỡng và gắn với những điêù kiện nhất định. 3.2.4. Trợ cấp xuất khẩu và các biện pháp khuyến khích xuất khẩu khác . Trợ cấp xuất khẩu là những biện pháp của Nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nhằm tăng nhanh số lượng hàng và giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Như vậy ngoài các công cụ nhằm hạn chế nhập khẩu còn có những công cụ dùng để nâng đỡ các hoạt động xuất khẩu. Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp trợ cấp trực tiếp hoặc cho vay với lãi suất thấp đối với các nhà xuất khẩu trong nước. Bên cạnh đó Chính phủ có thể thực hiện một khoản cho vay ưu đãi đối với các bạn hàng nước ngoài để họ có điều kiện mua các sản phẩm do nước mình sản xuất ra (các khoản tín dụng, viện trợ này thường kèm theo những điều kiện). Để nâng đỡ một ngành sản xuất nào đo, Chính phủ sẽ trợ cấp trực tiếp một khoản tiền nhất định cho bộ phận sản xuất được đem vào xuất khẩu. Khi ấy, các nhà sản xuất trong nước sẽ thu về chính khoản tiền trợ cấp đó. Những tác động của việc trợ cấp sẽ lan truyền sang các khâu khác. Một là,mức cung thị trường nội điạ bị giảm đã mở rộng qui mô xuất khẩu, giá cả thị trường nội địa tăng lên người tiêu dùng trong nước sẽ bị thiệt một khoản tiền nhất định. Hai là,chi phí của xã hội phải bỏ ra để bảo hộ việc khuyến khích xuất khẩu gây thiệt hại cho xã hội, gồm có chi phí nội địa tăng lên do sản xuất thêm nhiều sản phẩm của xuất khẩu (chi phí cận biên nội địa tăng lên), đồng thời gồm cả chi phí do giảm mức tiêu dùng trong nước. Như thế, lợi ích mà nhà xuất khẩu thu được nhỏ hơn chi phí mà xã hội phải bỏ thêm. Do đó, trợ cấp xuất khẩu đưa đến cái hại nhiều hơn là cái lợi nhưng thực tế nhiều nước vẫn sử dụng để phục vụ cho mục đích cụ thể nào đó. Có thể nhận dạng cái lợi và cái hại do áp dụng biện pháp trợ cấp xuất khẩu qua ví dụ mô hình sau. Giả sử giá quốc tế sản phẩm B là 500USD. Trong điều kiện Thương mại tự do nhưng người tiêu dùng trong nước có thể mua một QD tại điển G trên. Để nâng đỡ ngành sản xuất B Chính phủ sẽ trợ cấp xuất khẩu 20% áp dụng cho số sản phẩm B xuất khẩu. Như vậy bây giờ các nhà sản xuất trong nước sẽ thu được trên mỗi sản phẩm đã được trợ cấp là 100USD, bởi vì cũng sản phẩm đó bán ra nước ngoài là 600USD. Mức cầu thị trường bị cắt giảm chỉ còn Q’D để bán với giá 600 USD. Mức sản xuất nội địa tổng cộng tăng lên đến Q’s và phần xuất khẩu bây giờ là đoạn AB. P A B 600 500 H G E K QĐ QĐ Qs Q’s Q Lợi ích và chi phí do áp dụng biện pháp trợ cấp xuất khẩu. Như vậy, trợ cấp xuất khẩu sẽ làm tăng số lượng hàng hoá xuất khẩu nhưng nó gây ra chi phí xã hội rộng, được biểu thị bằng tam giác HAG. Tam giác HAG do chi phí xã hội rộng, do việc giảm mức tiêu dùng trong nước từ QD đến Q’ D tam giác KEB do chi phí xã hội do việc tăng sản lượng từ QS đến Q;s làm cho chi phí cận biên nội địa trong việc sử dụng các nguồn lực thêm này vượt quá giá cả nhận được từ những người nước ngoài mua bán sản phẩm B. Đối với Việt Nam, thời gian qua các biện pháp trợ cấp xuất khẩu chưa được chú trọng nghiên cứu sáp dụng. Hiện nay vấn đề sử dụng biện pháp trợ cấp xuất khẩu và các biện pháp khuyến khích xuất khẩu đang được Đảng, Chính phủ và Bộ Thương mại quan tâm nghiên cứu thực hiện. Nghị quyết hội nghị lần thứ IV BCH TW Đảng khoá VIII đã xác định chủ trương về “Ban hành qui chế thành lập và hoạt động của các quĩ hỗ trợ xuất khẩu từ nguồn ngân sách và nguồn đóng góp của các doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp có kim ngạch lớn”. Báo cáo phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 1996- 2000 ._.t luận: Trong những năm qua, công nghiệp sản xuất phân bón nước ta đang đi dần vào ổn định. Các cơ sở sản xuất phân bón đã chú trọng đến việc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất giảm tiêu hao vật tư, hạ giá thành sản phẩm, cải tiến mẫu mã bao bì để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường. Tổng Công ty Hoá chất Việt Nam là doanh nghiệp lớn sản xuất các loại phân bón phục vụ nông nghiệp trong cả nước. Hiện nay, Tổng Công ty có 4 cơ sở sản xuất phân lân chế biến với Tổng công suất 820.000 tấn/năm, một cơ sở sản xuất phân đạm urê công suất 110.000 tấn/năm và 12 cơ sở sản xuất phân tổng hợp NPK. Biểu số 6 : Dự kiến sản lượng phân bón sản xuất tới năm 2000. Đơn vị tính: tấn TT 1996 1997 1998 1999 2000 1 Phân urê 1.500.000 1.510.000 1.580.000 1.580.000 1.610.000 - SX trong nước 100.000 110.000 130.000 130.000 1.010.000 - Nhập khẩu 1.400.000 140.000 1.450.000 1.450.000 600.000 2 Phân NPK 515.900 570.000 765.000 765.000 1.200.000 - SX trong nước 195.900 220.000 345.000 345.000 600.000 - Nhập khẩu 320.000 350.000 420.000 420.000 600.000 3 Phân DAP 320.000 320.000 350.000 350.000 600.000 4 Phân Ka li (Nhập khẩu) 110.000 120.000 120.000 150.000 150.000 5 Phân lân (chủ yếu SX trong nước) 820.000 840.000 880.000 990.000 1.000.000 Nguồn: Theo Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Danh sách một số nhà máy sản xuất phân bón vô cơ ỏ Việt Nam. + Su pe lân :Lâm Thao; Long Thành. + Lân Nung chảy : Văn Điển Ninh Bình. + Phân đạm U rê : Hà Bắc Bà rịa - Vũng Tàu. + Phân NPK: Công ty phân bón Miền Nam Su pe Lâm Thao Đạm Hà Bắc Cần thơ Vinh Vĩnh Thịnh (LS) Quảng Ngãi Văn Điển Đà Nẵng Thanh Hoá Hải Dương +Các Liên Doanh. Phân DAP : Quảng Ninh. 3-/ Hệ thống các tổ chức kinh doanh buôn bán phân bón vô cơ ở Việt nam. 3.1-/ Hệ thống các tổ chức nhập khẩu và kinh doanh buôn bán lưu thông phân bón từ năm 1985 đến năm 1989: Thời kỳ thực hiện cơ chế kế hoạch tập trung ở Việt Nam có thể tính từ năm 1988 trở về trước. Thời kỳ này, sản xuất nông nghiệp được tổ chức dưới hai hình thức: Hợp tác xã sản xất nông nghiệp (thuộc sở hữu tập thể của nông dân); Nông trường quốc doanh (thuộc sở hữu Nhà nước). Tuy có hai hình thức sở hữu và hai hình thức tổ chức khác nhau song cả hai đều phải chịu sự quản lý và chỉ đạo chặt chẽ, thống nhất của Nhà nước thông qua hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh và chỉ tiêu hướng dẫn. Các cơ sở sản xuất nông nghiệp muốn sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, sản xuất như thế nào, phân phối các sản phẩm làm ra theo tỷ lệ thế nào, các sản phẩm thừa tiêu thụ ở đâu, với giá bao nhiêu, tất cả đều phải theo sự chỉ đạo của Nhà nước. Trong thời kỳ này kinh tế hộ nông dân dường như không được quan tâm, người nông dân làm việc hoàn toàn thụ động theo sự chỉ đạo của ban quản lý hợp tác xã. Với chủ trương từng huyện phải phấn đấu tự trang trải lấy nhu cầu lương thực trên địa bàn của huyện mình và kiểm soát hết sức chặt chẽ việc giao lưu các loại nông sản phẩm từ vùng này sang vùng khác, nên sản xuất nông nghiệp của Việt Nam trong thời kỳ này chủ yếu là sản xuất lương thực và mang nặng tính tự cấp, tự túc. Vì có chế như vậy, nên gần như nông dân không gắn bó với đồng ruộng, không quan tâm đến công việc sản xuất nông nghiệp - các ban quản trị hợp tác xã thì phần lớn trình độ chuyên môn và quản lý đều yếu kém, tham ô, lãng phí của tập thể, ít quan tâm đến sản xuất. Nhu cầu phân hoá học trong thời kỳ này (chủ yếu là phân Urê và phân lân) theo sự tính toán của các cơ quan có trách nhiệm của Nhà nước là khoảng 1 triệu tấn một năm (trong đó phân ure khoảng 800.000 tấn, phân lân khoảng 200.000 tấn). Trong thời kỳ này Chính phủ Việt Nam cũng đã nhờ Chính phủ Liên xô xây cho nhà máy Supe phốt phát Lâm thao - Phú Thọ chuyên sản xuất phân lân (100.000 tấn/năm) và Chính phủ Trung quốc xây cho nhà máy phân đạm Hà Bắc (60.000 tấn/năm), chuyên sản xuất ure và nhà máy phân lân Văn điển. Để có phân hoá học cung cấp cho sản xuất nông nghiệp, buộc Nhà nước Việt Nam phải tiến hành nhập phân của nước ngoài. Việc nhập khẩu phân bón trong thời kỳ này là từ Liên Xô cũ và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông âu, thông qua các nghị định thư giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ các nước. Theo phương thức này, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước (nay là Bộ kế hoạch và Đầu tư ) và Bộ tài chính, thay mặt Chính phủ Việt Nam nhận nợ và thanh toán nợ với nước bạn, sau mỗi kỳ kế hoạch mà hai bên đã thoả thuận. Việc nhập phân bón theo nghị định thư có điểm tốt là rất chắc chắn, song lại có nhược điểm rất lớn là phía bạn hàng lúc nào họ giao lúc đó. Buộc phía Việt Nam cứ phải nhận vì thế thường diễn ra hiện tượng; lúc sản xuất nông nghiệp cần phân thì không có phân, lúc không cần thì phân lại về. Phân bón ở Việt Nam được nhập theo Nghị định thư và chủ yếu là của Liên Xô, với giá thấp hơn giá thị trường Quốc tế. Trong khi đó, nền kinh tế Việt Nam ở thời kỳ này đang gặp khủng hoảng nặng, kinh tế không phát triển, giá trị đồng tiền Việt Nam liên tục giảm. Trước tình hình này. Chính phủ chỉ đạo không bán phân bón bình thường mà áp dụng cơ chế bán đối lưu, gọi là bán theo hợp đồng kinh tế hai chiều. Điều này có nghĩa là, Nhà nước bán phân bón cho nông dân theo số lượng tương ứng với số lượng hàng nông sản mà nông dân bán cho Nhà nước (về mặt giá trị), ở đây lấy tỷ lệ giữa urê và lúa làm tiêu chuẩn. Cơ chế bán phân bón theo hợp đồng kinh tế hai chiều được chấp nhận là cơ chế có hiệu quả phù hợp với giai đoạn kế hoạch tập trung bao cấp, vì để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng cho các đối tượng. Nhà nước cần thiết phải nắm được hàng hoá nông sản trong tay nhằm kìm hãm bớt sự mất giá đồng tiền trong nước. Nhà nước đã tổ chức ra một bộ máy thống nhất từ Trung ương đến tận các huyện về quản lý và cung ứng các loại vật tư nông nghiệp nói chung, phân bón nói riêng cho các hợp tác sản xuất và nông trường quốc doanh - đó là hệ thống các Công ty vật tư nông nghiệp. Tất nhiên, cũng có một số Công ty như Công ty chè, cà phê, cao su được phép nhận phân bón trực tiếp từ Trung ương, không phải thông qua hệ thống Công ty vật tư nông nghiệp các cấp (số này không nhiều, chỉ chiếm khoảng 10% trong tổng số phân bón được nhập về).Số 90% phân bón còn lại Nhà nước trực tiếp giao cho Tổng Công ty vật tư nông nghiệp Việt Nam tiếp nhận và phân phối cho các địa phương (tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) qua các Công ty vật tư nông nghiệp tỉnh, thành phố, theo chỉ tiêu (từng tỉnh) đã được Bộ nông nghiệp thoả thuận với Uỷ ban kế hoạch nhà nước và đã được ghi vào chỉ tiêu kế hoạch của Chính phủ để giao cho các Bộ, các tỉnh và thành phố. Sau khi nhận được phân bón do Tổng Công ty vật tư nông nghiệp theo chỉ tiêu kế hoạch - Công ty vật tư nông nghiệp các tỉnh tiến hành phân phối cho các Công ty vật tư nông nghiệp theo chỉ tiêu Uỷ ban nhân dân tỉnh đã duyệt và uỷ ban kế hoạch tỉnh đã giao xuống từng huyện trọng tỉnh. Công ty vật tư nông nghiệp huyện (nơi nào không có Công ty thì phòng nông nghiệp huyện đảm nhận), thực hiện việc phân phối phân bón xuống cho các xã và các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp theo chỉ tiêu mà Uỷ ban nhân dân huyện đã duyệt. Sơ đồ 4: Hệ thống tổ chức lưu thông phân bón vô cơ trước đây nhập khẩu Nhà máy phân bón Tổng Công ty vật tư Nông nghiệp Công ty vật tư Nông nghiệp tỉnh Công ty vật tư Nông nghiệp huyện Hợp tác xã Nông nghiệp Nông dân 3.2-/ Hệ thống các tổ chức nhập khẩu và kinh doanh buôn bán lưu thông phân bón từ 1990 đến nay: Do cuối năm 1988 đầu năm 1989 cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý các lĩnh vực: Tài chính, tiền tệ, phân phối lưu thông, chính sách quản lý giá..., phân bón cũng được đổi mới theo hướng: Chính phủ giao quyền tự chủ cho các đơn vị sản xuất, kinh doanh; tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sản xuất và đã giao quyền định giá các đơn vị cơ sở.Tình hình kinh tế và chính trị ở Liên Xô và các nước Đông âu có biến động, bạn giao phân bón cho ta chỉ đạt khoảng 50 % số lượng ký trong Nghị định thư. Trước tình hình này Chính phủ cho phép các DN Trung ương và địa phương nhập khẩu phân bón từ khu vực II và bán theo giá thị trường với nguyên tắc giá bán phải đảm bảo tái tạo được ngoại tệ để nhập phân bón cho chu kỳ sau cộng phí lưu thông trong nước, Nhà nước không bù lỗ. Chính phủ cho phép các DN nhập phân bón bán thu ngoại tệ, cụ thể : Trong năm 1992 - 1993 , có trên 80 đầu mối nhập khẩu (cả Nhà nước và tư nhân). Năm 1994, Nhà nước thu hẹp đầu mối nhập khẩu, có 17 doanh nghiệp được phép nhập khẩu, trong đó Tổng Công ty vật tư nông nghiệp được cấp 60% lượng hàng nhập khẩu. Năm 1995, Nhà nước có kế hoạch định hướng 25 trong số 26 đầu mối nhập khẩu, phân bón là DN Nhà nước, trong đó 7 DN trung ương chiếm 70% khối lượng (Tổng Công ty vật tư nông nghiệp chiếm 60% khối lượng), 18 DN địa phương chiếm 28,5% và 1 DN tư nhân chiếm 1,5%. Năm 1996 có 67 DN được phép làm đầu mối nhập khẩu, ngoài Tổng Công ty vật tư nông nghiệp, các DN khác được phân bổ theo các miền như sau: + Miền Bắc : 18 Doanh nghiệp. + Miền Trung : 10 Doanh nghiệp. + Miền Nam : 38 Doanh nghiệp. Trong đó, Tổng Công ty vật tư nông nghiệp được cấp hạn ngạch là 600.000 tấn (40%) số lượng urê nhập khẩu), còn các DN khác được cấp khoảng 10.000 - 20.000 tấn một đơn vị, khối lượng quá ít, không đủ để kinh doanh quanh năm và làm giảm giá nhập khẩu. Năm 1997: Có 31 DN đầu mối nhập khẩu phân bón (trong đó có một DN ngoài quốc doanh) thuộc 18 tỉnh thành phố và 8 DN TW (theo quyết định 140/TTg ngày 7/3/1997 và 141/TTg ngày 8/3/1997 của Thủ tướng Chính phủ). Năm 1998: việc nhập khẩu và cung ứng phân bón được thực hiện theo quyết định số 12/198/QĐ-TTg ngày 23/1/98 của Thủ tướng chính phủ với nội dung chủ yếu: - Giữ nguyên các DN đầu mối nhập khẩu trong năm 1997 và bổ sung thêm một số đưa tổng số đầu mối tính đến ngày 25/7/1998 là 43 đầu mối. Trong đó có 34 DN thuộc 23 tỉnh thành phố (riêng đồng bằng Sông Cửu Long có 15 DN thuộc 9 tỉnh) và 9 DN là các Tổng Công ty, Công ty TW. Có 3 DN ngoài quốc doanh. - Năm 1999 : Việc nhập khẩu và cung ứng phân bón được thực hiện theo quyết định số 250/1998/QĐ-TTg ngày 24/12/1998 của Thủ tướng Chính phủ. Cả nước có 33 đầu mối bao gồm : + Miền Nam : 17 đầu mối. + Miền Bắc : 8 đầu mối. + Miền Trung : 8 đầu mối. Tuy nhiên lưu thông bán lẻ phân bón hiện nay trên thị trường chủ yếu tư nhân chi phối do vốn của các DN. Nhà nước quá ít. Hầu hết các DN Nhà nước không có mạng lưới bán lẻ. Vì vậy mặc dù lượng phân bón nhập khẩu chủ yếu là các DN Nhà nước nhưng khi hàng về hầu hết đều phải bán thẳng hay bán non cho các DN tư nhân, nhất là ở Miền Nam. Các Công ty tư nhân kiểm soát 80 - 90% việc lưu thông phân bón trên thị trường, bao gồm cả bán buôn, bán lẻ, vận chuyển trong nước Sơ đồ 5: Hệ thống nhập khẩu chính phủ Công ty vật tư nông nghiệp Hải Phòng Công ty vật tư nông nghiệp Đà Nẵng Công ty vật tư nông nghiệp TP HCM Công ty vật tư nông nghiệp Hà Nội Công ty vật tư nông nghiệp Hà Bắc Công ty vật tư nông nghiệp Vĩnh Phú Ba công ty vật tư nông nghiệp khác Công ty vật tư nông nghiệp các tỉnh Tổ chức Thương mại Nhà nước và tư nhân Các công ty vật tư nông nghiệp tỉnh Người tiêu dùng Sơ đồ 6: Hệ thống tổ chức kinh doanh buôn bán phân bón hiện nay người nhập khẩu và nhà sản xuất Công ty vật tư Nông nghiệp tỉnh, huyện Tư nhân bán buôn Đại lý lớn Đại lý lớn Đại lý lớn Đại lý lớn Đại lý nhỏ Đại lý nhỏ Đại lý nhỏ Đại lý nhỏ Đại lý nhỏ Đại lý nhỏ Nông dân Nông dân Nông dân Nông dân Nông dân Nông dân Phần III Phương hướng hoàn thiện hệ thống quản lý và kinh doanh phân bón vô cơ ở Việt nam 1-/ Nhu cầu phân bón của Việt Nam trong những năm tới. Từ nay đến năm 2000 và 2010 nhu cầu phân bón của Việt Nam cũng vẫn sẽ tiếp tục tăng lên hàng năm, bởi hai lý do: -Một là, Việt Nam trong quỹ đất của mình vẫn còn khoảng 3 triệu ha có thể khai thác đưa vào sản xuất nông nghiệp, nhất là ở vùng Tây Nguyên và một số nơi ở miền núi phía bắc.ở đồng bằng Sông Cửu Long, Chính Phủ Việt Nam dự định cố gắng đến năm 2010 sẽ đưa phần lớn số đất này vào sử dụng. Mặt khác, khả năng tăng vụ của Việt Nam vẫn còn khá lớn ở tất cả các vùng nhất là đồng bằng Sông Cửu Long. Nếu làm tốt công tác thuỷ lợi, bảo đảm việc tưới tiêu chủ động, đồng thời có các giống cây trồng phù hợp, có sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng tốt, thì vụ tăng vụ sản xuất sẽ tăng nhanh. Dự tính đến năm 2000, nhờ tăng vụ Việt Nam có thể tăng diện tích gieo trồng lên từ 300- 500 ngàn ha. Diện tích gieo trồng tăng là nhân tố quan trọng góp phần làm cho nhu cầu về phân bón tăng lên hàng năm. -Hai là, cùng với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá sản xuất nông nghiệp, trình độ thâm canh của sản xuất cũng không ngừng nâng cao, nhu cầu phân bón vì thế cũng từng bước được tăng lên. sự tăng lên ở đây cũng thể hiện hai phương diện: một mặt là những nơi nông dân đã dùng phân hoá học rồi, sẽ tăng thêm số lượng sử dụng trên 1 ha mỗi vụ, mặt khác nông dân ở những nơi chưa sử dụng và chưa biết sử dụng, sẽ dần dần làm quen với việc sử dụng- chính điều này sẽ làm cho nhu cầu phân bón tăng đáng kể trong những năm tới. Thực ra so với quy trình kỹ thuật hiện nay trong sản xuất nông nghiệp do Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đề ra. Thì lượng phân bón đã sử dụng tính bình quân trên mỗi ha của Việt Nam mới đạt khoảng 60-70% yêu cầu. So với các nước trong khu vực và các nước có nông nghiệp tiên tiến trên thế giới, thì lượng phân hoá học Việt Nam đã sử dụng tính bình quân trên 1 ha còn thua rất xa. Hà Lan 788kg /ha Nhật Bản 571 kg/ha Cộng hoà Liên Bang Đức 487kg /ha Nam Triều Tiên 450kg /ha Trung Quốc 332kg/ha Bắc Triều Tiên 300 kg/ha Lượng phân Việt Nam sử dụng bình quân trên 1 ha chỉ mới bằng khoảng 31% của Trung Quốc và khoảng 29% của Nhật Bản. Bởi vậy, Nhu cầu phân bón của Việt Nam trong những năm tới sẽ tiếp tục tăng, đó là điều tất yếu. Căn cứ nhịp độ phát triển của nền nông nghiệp Việt Nam hiện nay, cũng như nhịp độ phát triển cần phải đạt trong những năm tới, các cơ quan có chức năng của Việt Nam- trước hết là Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Thương mại , Ban vật giá chính phủ đã dự đoán nhu cầu phân bón của Việt Nam đến năm 2000 như sau. Biểu 7: Dự đoán nhu cầu phân bón các loại ở Việt Nam đến năm 2000 Chỉ tiêu 1998 1999 2000 Cả nước Phân ure 1.811.000 1.958.000 2.000.000 2.200.000 Phân lân 850.000 860.000 950.000 1.000.000 Phân DAP 300.000 300.000 300.000 Phân NPK 750.000 800.000 900.000 Phân ure phân theo vùng Đông bắc 75.000 80.000 85.000 Tây bắc 32.000 35.000 40.000 ĐB Sông Hồng 597.000 653.000 740.000 Khu 4 cũ 66.000 72.000 90.000 Duyên Hải Miền Trung 147.000 152.000 160.000 Tây Nguyên 83.000 86.000 90.000 Đông nam bộ 155.000 60.000 165.000 Đồng bằng Sông Cửu Long 656.000 720.000 830.000 Như vậy, ta thấy riêng phân ure, bình quân nhu cầu mỗi năm tăng thêm khoảng 150.000 tấn. 2-/ Những giải pháp để ổn định tổ chức quản lý và kinh doanh phân bón vô cơ ở Việt nam 2.1-/ Vấn đề tổ chức sản xuất phân bón trong nước. 2.1.1. Về phân Lân: Với nhu cầu phân lân như đã dự đoán, với năng lực sản xuất hiện tại của các doanh nghiệp sản xuất phân lân trong nước, chúng tôi cho rằng như vậy là đáp ứng được- thậm chí cần đầu tư kỹ thuật và công nghệ để nâng cao hơn nữa chất lượng của phân lân, làm cho nó không những đáp ứng được nhu cầu của sản xuất nông nghiệp trong nước mà còn tiến tới xuất khẩu nữa. 2.1.2 Phân NPK: Hiện nay các xí nghiệp thuộc Tổng Công ty Hoá chất Việt Nam mỗi năm sản xuất được từ 450.000- 500.000 tấn. Đồng thời ở các ngành, các địa phương cũng có một số cơ sở sản xuất được từ 70.000- 100.000 tấn- Như vậy tổng lượng phân NPK sản xuất được trong nước trong hai năm 1998 và 1999 khoảng 500- 600 ngàn tấn. Như thế mỗi năm chỉ cần nhập thêm khoảng 150- 200 ngàn tấn là đủ. Song song với các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư xây dựng, hiện tại đang có 4 doanh nghiệp sản xuất phân NPK do các doanh nghiệp nước ngoài liên doanh với các doanh nghiệp Việt Nam xây dựng, có công suất tổng cộng là 1.250.000 tấn/năm, với chất lượng tương đương với phân NPK Việt Nam đang nhập hiện nay- Vì thế đến năm 2000 Việt Nam sẽ sản xuất được khoảng 1.800.000 tấn phân NPK- Nhu cầu trong nước chỉ sử dụng hết một nửa số phân, còn một nửa xuất ra nước ngoài. 2.1.3 Phân DAP: Đây là loại phân Việt Nam chưa sản xuất, nên phải nhập để đáp ứng nhu cầu của nông dân các tỉnh phía nam. 2.1.4 Phân ure Từ nay đến năm 2000 Việt Nam mỗi năm cũng chỉ sản xuất được khoảng 130.000 tấn- đáp ứng được khoảng 6-7% nhu cầu phân ure trên cả nước. Nhà máy phân đạm Hà Bắc đang đầu tư để rộng sản xuất, nâng công suất lên khoảng 270.000tấn/ năm, song phải sau năm 2000 thì công việc này mới hoàn thành- nếu lúc đó nhu cầu phân ure của Việt Nam khoảng 2.400.000- 2.500.000tấn/ năm, thì nhà máy phân đạm Hà Bắc mới đáp ứng được từ 10-11% nhu cầu. Hiện nay Việt Nam đang liên doanh với nước ngoài để xây dựng nhà máy phân đạm Phú Mỹ, với công suất 750.000tấn/ năm, cũng dự định đi vào sản xuất sau năm 2000. Như vậy, nếu có nhà máy Phú Mỹ đi nữa, sau năm 2000 vn cũng mới thỏ mãn được khoảng 40% nhu cầu phân bón- còn 60% vẫn phải nhập từ nước ngoài. Vấn đề hiện nay là Việt Nam có nên sản xuất ure trong nước để thay thế nhập khẩu hay không? đó là vấn đề cần được nghiên cứu, tính toán thật kỹ lưỡng để tránh xảy ra những hậu quả đáng tiếc sau này. Hiện tại, trên thế giới những nước sau đây là những nước mạnh về sản xuất phân bón: Biểu số 8: Danh mục 15 nước sản xuất phân bón trên thế giới trong năm 1995. Đơn vị tính: tấn Tên nước sản xuất Năng lực sản xuất Khối lượng sản xuất Xuất khẩu Nhập khẩu 1.Trung Quốc 18.037 16.400 4.500 2 ấn Độ 16.224 14.200 3.200 3.Liên Xô cũ 11.840 8.200 6.000 Trong đó- Nga 5.293 3.900 3.200 Ukraina 3.460 3.000 2.300 Berarus 1.098 650 150 4.Mỹ 6.954 7.250 800 3.000 5. Inđonexia 6.303 5.400 1.700 6. Pakistan 3.255 3.200 100 7.Canađa 3.102 3.150 1.800 250 8.Bănglađét 2.787 2.300 450 9.Rumani 2.404 1.150 950 10.arâp Saoudite 1.892 2.150 1.800 11.Bắc Triều Tiên 1.845 1.200 30 12.IRak 1.716 425 50 13.Đức 1.678 1.100 700 420 14.Mexico 1.643 1.200 500 150 15.Balan 1.600 1.300 300 20 Với lượng ure các nước này sản xuất ra và xuất khẩu trên thị trường thế giới trong 20 năm qua, từ năm 1976- 1996 thì giá cả diễn biến như sau: Biểu số 9: Giá ure trên thị trường thế giới giai đoạn 1976-1996 Đơn vị tính: USD/ Tấn Năm Giá ure Năm Giá ure 1976 112 1987 117 1977 127 1998 155 1978 145 1989 132 1979 146 1990 157 1980 222 1991 172 1981 216 1992 140 1982 158 1993 107 1983 135 1994 148 1984 171 1995 212 1985 136 1996 206 1986 107 Tính trung bình là 153 USD /tấn- Tất nhiên đây là giá “FOB”, Tức là giá tại cảng xuất khẩu. Còn các xí nghiệp sản xuất ure phục vụ cho tiêu dùng trong nước phải cạnh tranh với giá “CIF” tức là giá tại cảng nhập (Thường tăng thêm 10% nữa do chi phí vận chuyển), Xấp xỉ 165 USD, năm 2000 là 174 USD và năm 2000 sẽ là 187 USD. Mặt khác, kinh nghiệm sản xuất phân ure của các nước đang phát triển thời gian qua cho thấy rằng, ít có nước nào sản xuất được ure với giá dưới 200USD/ tấn. Chính vì thế, trong điều kiện hiện nay khi mà xu thề hoà nhập và hợp tác kinh tế ngày càng tăng trong lĩnh vực cũng như trên thế giới, thì chúng ta cần phải tính kỹ việc xây dựng nhà máy phân ure Phú Mỹ- Nếu tính toán, thấy giá thành sản xuất dưới 170-180USD/tấn thì nên xây dựng còn trên 180USD/tấn phân ure thì theo chúng tôi là không nên xây dựng bây giờ- Nên dành tiền đó vào việc đầu tư cái khác có lợi hơn- Khi nào nền kinh tế của ta có đủ sức về mọi mặt ta sẽ xây dựng. 2.2-/ Vấn đề nhập khẩu phân bón: Như phần trên chúng tôi đã trình bày, để có đủ phân bón phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, trong nhiều năm tới Việt Nam còn phải tiếp tục nhập khẩu và nhập khẩu với số lượng lớn, cứ cho rằng có nhà máy phân ure Phú Mỹ đi nữa, mỗi năm Việt Nam vẫn cần phải nhập khoảng 1.800.000 tấn phân (1.500.000 tấn phân ure và 300.000 tấn phân DAP). Chính vì vậy, có một cơ chế và chính sách hợp lý để tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập phân bón (Nhập nhanh, đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, giá cả hợp lý), trên cơ sở đó ổn định thị trường phân bón, đảm bảo cho nông nghiệp phát triển nhanh và bền vững là đòi hỏi hết sức bức súc hiện nay. Để thực hiện được việc này, chúng tôi đề xuất giải pháp là: Hiện nay việc nhập khẩu phân bón Nhà nước giao cho một số doanh nghiệp Trung ương đảm nhận một phần, một phần khác giao cho chủ tịch uỷ ban nhân dân một số tỉnh (19 tỉnh) chịu trách nhiệm chọn một số doanh nghiệp trong tỉnh và giao cho họ chịu trách nhiệm nhập số phân mà tỉnh được giao chỉ tiêu. Nhưng tất cả các doanh nghiệp được giao nhập phân (Kể cả Trung ương và địa phương) đều là các doanh nghiệp quốc doanh (Trừ Công ty Long Vũ của Long An). Thực tế trong số các công ty này, có không ít công ty không có khả năng(về vốn, về bạn hàng, về thị trường, về kinh nghiệm trong việc nhập khẩu phân bón. Vì thế họ bán quota cho các công ty tư nhân dưới hình thức này hoặc hình thức khác để kiếm lời làm cho việc nhập phân bón và tiếp sau đó là thị trường phân bón hết sức lộ xộn và rối ren, ảnh hưởng xấu về nhiều mặt và sau đó họ bỏ cuộc. Chính vì thế, chúng tôi đề nghị việc nhập khẩu phân bón nên để cho mọi thành phần kinh tế được tham gia một cách bình đẳng. Việc cho mọi thành phần kinh tế tham gia nhập khẩu phân bón một mặt cho phép chúng ta có thể huy động được mọi nguồn vốn, mọi mối quan hệ bạn hàng, mọi khả năng tổ chức để nhập phân, tạo ra một nguồn phân bón dối dào cho đất nước. Mặt khác chống được sự độc quyền, cũng như những tiêu cực khác trong việc nhập và tiêu thụ phân bón- tránh được những thiệt hại không đáng cho người nông dân . Khi còn độc quyền về việc nhập phân bón, thì các doanh nghiệp còn tìm cách kiếm trác trên các sự độc quyền đó, chứ khi phân bón trở thành một mặt hàng xuất nhập khẩu bình thường, thì các doanh nghiệp buộc phải tính toán cân nhắc kỹ. Chỉ có các doanh nghiệp nào thực sự có khả năng (có vốn hiểu biết sâu sản xuất nông nghiệp hiểu biết thị trường phân bón trong nước và quốc tế có bạn hàng chắc chắn) thì mới giám tham gia vào nhập khẩu phân bón, các doanh nghiệp khác qua quá trình cạnh tranh hoặc sẽ lớn lên đứng vững hoặc là tự rút lui. Khi việc nhập khẩu phân bón đã trở nên bình thường thì thị trường phân bón trong nước sẽ dần đi vào ổn định. Trong một số năm đầu để đề phòng các doanh nghiệp tham gia ồ ạt vào nhập khẩu phân bón, làm cho thị trường phân bón rối loạn, có thể áp dụng giải pháp quá độ. Đó là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được tham gia nhập khẩu phân bón. Nếu họ đảm bảo được một số điều kiện do nhà nước đề ra. Các điều kiện đó chẳng hạn như: Doanh nghiệp phải chứng minh được họ có đủ vốn để nhập khẩu; Có hệ thống kho tàng có thể cất trữ, bảo quản được phân bón; Có hệ thống phân phối phân bón thích hợp;Có bạn hàng rõ ràng, chắc chắn .... Để xóa bỏ sự độc quyền trong nhập phân bón, cũng như những lộn xộn, tiêu cực trong vấn đề này đề nghị nên nhanh chóng bỏ việc cấp quota nhập khẩu phân bón vô cơ hàng năm. Doanh nghiệp nào có khả năng nhập bao nhiêu cứ để họ nhập, thị trường và giá cả phân trên thị trường sẽ làm cho các nhà doanh nghiệp tự điều chỉnh khối lượng nhập của mình. Một vài năm đầu, thị trường chưa thật hoàn hảo sự việc làm này có thể gây ra việc lộn xộn. Sự mất cân bằng nhất định nào đó trong việc Cung- cầu phân bón cho nông dân, làm ảnh hưởng không tốt đến sản xuất nông nghiệp chúng tôi đề nghị có thể thực hiện giải pháp quá độ. Giải pháp đó là : Thực hiện việc đấu thầu quota hàng năm trên cơ sở yêu cầu của sự phát triển nông nghiệp, các cơ quan có trách nhiệm của nhà nước tính toán nhu câù phân bón các loại cần nhập để báo cáo Chính phủ. Căn cứ vào đó Chính phủ quyết định hạn ngạch nhập khẩu- sau đó giao cho Bộ Thương mại và Bộ nông nghiệp & phát triển nông thôn tổ chức đấu thầu chọn ra các doanh nghiệp được quyền cấp quota nhập khẩu. Số tiền có được do việc đấu thầu mang lại là thành lập quỹ trợ cấp cho các nhà xuất khẩu phân bón, khi họ gặp rủi ro sự biến động của giá cả thị trường phân bón quốc tế. 2.3-/ Vấn đề tổ chức thị trường phân bón trong nước. Việc sản xuất phân bón trong nước, nhập khẩu phân bón từ nước ngoài đã tạo ra khả năng cung phù hợp với cầu của người nông dân, song nếu dừng ở đó thì chưa đủ, vấn đề đặt ra là phải làm sao phân bón các loại được đưa đến tận tay người nông dân với giá cả hợp lý và với thời gian thích hợp. Muốn thế thị trường phân bón trong nước cần được tổ chức lại theo hướng: +Khuyến khích mọi doanh nghiệp, mọi cá nhân thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, có điều kiện, tham gia vào việc kinh doanh phân bón nhằm tạo ra một mạng lưới cung ứng phân đông đảo và rộng khắp ở mọi miền của đất nước, sẵn sàng cung ứng đủ, kịp thời với giá cả phù hợp các loại phân bón cho nông dân. Trong việc kinh doanh phân bón tất cả các doanh nghiệp và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng. +Khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước hình thành các đại lý cung ứng phân ở các vùng, các địa phương để cung ứng phân bón cho mạng lưới dịch vụ bán lẻ ở các vùng, các địa phương tạo điều kiện cho hệ thống bán lẻ đưa phân đến các hộ nông dân kịp thời với giá cả hợp lý. +Các doanh nghiệp nhập khẩu phân bón, nếu họ có điều kiện cũng khuyến khích họ hình thành các đại lý tiêu thụ phân bón ở các địa phương để bán phân bón cho mạng lưới bán lẻ, hoặc bán trực tiếp cho nông dân. Nếu ta làm tốt các mặt trên, sẽ tạo ra sự gắn bó giữa nông dân và các doanh nghiệp sản xuất. Nhập khẩu và kinh doanh phân bón làm cho Cung- cầu không tách rời nhau một cách giả tạo. Đó là cơ sở để từng bước xây dựng một thị trường phân bón ổn định ở Việt Nam. 2.4-/ Về quản lý nhà nước Để giữ vững hoạt động bình thường và ổn định của việc xuất nhập khẩu phân bón và thị trường phân bón, đề nghị chính phủ thực hiện một số việc sau đây: Một là: Nhà nước nên cho hình thành quỹ bảo hiểm và nhập khẩu phân bón- quỹ hoạt động theo cơ chế có thu, có chi và được hình thành từ sự đóng góp của các doanh nghiệp nhập khẩu. Quỹ sẽ thu vào một phần khi giá nhập phân thấp hơn giá nhập bình thường và chi ra khi giá nhập lên cao. Như vậy quỹ bảo hiểm là tự các doanh nghiệp lo cho mình, đồng thời có tác động ổn định giá cho nông dân, ưu việt hơn cơ chế thu chi quỹ bình ổn giá hiện nay, xoá bỏ cơ chế “xin, cho”, mặt khác làm cho các doanh nghiệp nhập khẩu biết rõ hiệu quả kinh doanh của mình . Hai là: Để hỗ trợ cho nông dân các vùng miền núi, vùng cao, vùng sâu và vùng xa dùng các loại phân hoá học vào sản xuất nông nghiệp, nhằm nâng cao nhanh năng suất cây trồng- trên cơ sở đó từng bước cải thiện đời sống cho họ cũng như khuyến khích các doanh nghiệp tích cực đưa phân lên các vùng này, đề nghị Chính phủ nên tiếp tục duy trì chính sách hỗ trợ cước phí vận tải cho các doanh nghiệp như cơ chế hiện nay đang thực hiện. Ba là: Trong một số năm đầu, để ổn định thị trường phân bón trong nước, Nhà nước có thể sủ dụng một vài doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh phân bón thực sự có sức mạnh (mạnh về vốn, mạnh về tổ chức quản lý kinh doanh, về đội ngũ cán bộ, về bạn hàng và khả năng tiếp thị), các doanh nghiệp này có khả năng nhập được khoảng 20-30% lượng phân bón cho đất nước một cách bình thường như các doanh nghiệp khác thuộc mọi thành phần kinh tế. Đồng thời họ được nhà nước giao một lượng dự trữ nhất định, khi thị trường có biến động bất lợi, thông qua các doanh nghiệp này, nhà nước thực hiện việc điều tiết cung cầu giá cả và các thị trường phân bón ở trong nước Bốn là: Nhà nước nên nghiên cứu và tạo điều kiện giúp cho các doanh nghiệp nhập khẩu phân bón hình thành hiệp hội của những người kinh doanh phân bón. Mục đích của hiệp hội là: Bảo vệ quyền lợi của những người kinh doanh phân bón; Cung cấp các thông tin cập nhật cần thiết về thị trường phân bón trong nước và ngoài nước cho các thành viên nam để kịp thời ứng phó; Đấu tranh với các nhà thầu quốc tế, nhằm chống lại sự ép giá của các công ty, ép giá của các công ty nước ngoài trong việc mua bán phân bón.... Năm là: Khó khăn nhất của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nói chung, các doanh nghiệp kinh tế phân bón nói riêng. Chính là hệ thống luật pháp rất không rõ ràng. Dường như các cơ quan nào của nhà nước cũng có quyền kiểm tra các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Người giám đốc doanh nghiệp làm việc nhưng không hiểu được mình có công hay có tội. Với một môi trường pháp lý như vậy làm sao các doanh nghiệp làm ăn tử tế được. Họ phải luôn tìm mọi cách đối phó, mà đối phó với các hiện tượng tiêu cực là chính. Bởi vậy, nhà nước phải nhanh chóng tạo ra môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ, chặt chẽ, để các doanh nghiệp yên tâm hoạt động-cụ thể như: Tổ chức nào được kiểm tra, khi nào mới được kiểm tra... 3-/ Kết luận và kiến nghị Từ thực tiễn nghiên cứu vần đề phân bón và thị trường phân bón ở Việt Nam, chúng tôi thấy rằng: Việt Nam là nước có nhu cầu phân bón tương đối lớn, đặc biệt là phân ure. Phần lớn lượng phân ure dùng trong nông nghiệp Việt Nam được nhập từ nước ngoài, kể cả hiện nay và một số năm tới nữa. Việc tổ chức nhập khẩu phân bón đã được chính phủ Việt Nam quan tâm, Chính phủ đã thương xuyên có những đổi mới trong cơ chế chính sách đối với việc nhập khẩu phân bón. Tuy nhiên việc nhập khẩu phân bón ở Việt Nam vẫn còn mang tính chất độc quyền, giá cả trên thị trường vẫn thường xuyên biến động, còn nhiều tiêu cực xảy ra trong việc nhập khẩu và mua bán phân bón. Để nhanh chóng khắc phục những hạn chế nêu trên, sớm đưa thị trường phân bón hoạt động bình thường, chúng tôi xin kiến nghị. Nên tính toán kỹ lại việc việc xây dựng nhà máy sản xuất phân bón trong nước. Nên thực hiện tự do hoá việc nhập khẩu và buôn bán phân bón. Nhà nước cần đổi mới quy chế và chính sách vĩ mô, bảo đảm cho việc xuất nhập khẩu và tiêu thụ phân bón thuận lợi hơn. Tổ chức nhập khẩu phân bón gắn với tổ chức lượng kinh doanh trong nước, tránh qua nhiều cầu, cấp trung gian đương giá lên cao. Các cơ quan chức năng phải xem xét, chỉ ra các loại chi phí không đúng để khuyến cáo các doanh nghiệp tăng cường quản lý, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh./. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0260.doc
Tài liệu liên quan