Tổ chức thương mại thế giới(WTO),Quá trình Việt Nam gia nhập WTO

Lời Mở Đầu Ngày 17-01-2007 Việt Nam chớnh thức ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO.sau 2 năm gia nhập nền kinh tế Việt Nam đó chịu những tỏc động cả tớch cực cũng như tiờu cực từ cỏc chớnh sỏch của WTO.Việc tham gia các hiệp định, các hiệp ước quốc tế về thương mại, về kinh tế trong WTO sẽ tạo nhiều cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam phát triển. Nhưng việc tham gia và theo đó là thực hiện các cam kết của WTO sẽ là một quá trình đầy gay go, thách thức trên tất cả những lĩnh vực khác nhau của đờ

doc95 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1433 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Tổ chức thương mại thế giới(WTO),Quá trình Việt Nam gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i sống kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp. Việt Nam về cơ bản vẫn là một nước nông nghiệp với 67% lực lượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp. Khoảng 1/4 tổng GDP và khoảng 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu là từ nông nghiệp, do đó ngành nông nghiệp là một ngành quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam. Gia nhập WTO nền nông nghiệp Việt Nam chịu sự tác động trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Tác động tích cực là mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản, phân bổ tốt hơn các nguồn lực quốc gia đến các ngành có lợi thế cạnh tranh cao nhất, tăng cường học hỏi công nghệ mới từ việc trao đổi ngày càng gia tăng với phần còn lại của thế giới, tăng cường tính linh hoạt trong thương mại quốc tế để đối mặt với những cú sốc do thiên tai… Mặt khác, đặt ngành nông nghiệp trước khả năng biến động lớn do ảnh hưởng của thị trường thế giới bởi xu hướng tự do hoá thương mại, đặt các doanh nghiệp trước sức ép cạnh tranh lớn, mặt hàng có sức cạnh tranh yếu thì nguy cơ phá sản là không thể tránh khỏi, điều đó dẫn đến nhiều nông dân bị mất việc làm, làm sâu sắc thêm những bất bình đẳng về thu nhập trong nông nghiệp, nông thôn và giữa thành thị với nông thôn. Chuyờn đề góp phần Đỏnh giỏ những tác động chủ yếu đến nền nông nghiệp Việt Nam sau khi đó gia nhập WTO. Từ đó nêu ra phương hướng và giải pháp thích ứng của nền nông nghiệp Việt Nam nhằm phát huy những tác động tích cực và khắc phục hạn chế của hội nhập WTO đối với nền nông nghiệp Việt Nam. Để thực hiện mục đích trên, Chuyờn đề có nhiệm vụ: + Phân tích khái quát về WTO. Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong việc giải quyết vấn đề nông nghiệp khi gia nhập WTO. + Phân tích những tác động chủ yếu của việc gia nhập WTO đến nền nông nghiệp Việt Nam. + Nêu ra một số giải pháp thích ứng của nền nông nghiệp Việt Nam sau khi gia nhập WTO. Chuyờn đề nghiên cứu những tác động của việc gia nhập WTO đối với nền nông nghiệp Việt Nam trên góc độ những ảnh hưởng của điều chỉnh chính sách và hàng nông sản xuất khẩu. Nghiên cứu đối tượng này dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị, nên chuyờn đề chú trọng đến các vấn đề: xu hướng, các phương hướng và giải pháp thích hợp để phát triển nông nghiệp Việt Nam khi hội nhập vào WTO. Chuyờn đề hy vọng làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về những tác động chủ yếu đối với nền nông nghiệp Việt Nam sau 2 năm gia nhập WTO và đề xuất một số giải pháp thích ứng để phát triển nền nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO. Chương I: Lý Thuyết I- Khái quát về tổ chức thương mại thế giới(WTO),Quá trình Việt Nam gia nhập WTO 1)Khái quát về tổ chức thương mại thế giới(WTO) Tổ chức thương mại thế giới (WTO) được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1995, kế tục và mở rộng phạm vi điều tiết thương mại quốc tế của tổ chức tiền thân của nó là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán chủ yếu về thuế quan. Tuy nhiên từ thập kỷ 70 và đặc biệt từ vòng đàm phán Urugoay (1986-1994) do thương mại quốc tế không ngừng phát triển, nên GATT đã mở rộng diện hoạt động, đàm phán không chỉ về thuế quan mà còn tập trung xây dựng các Hiệp định thành các chuẩn mực, luật chơi điều tiết các vấn đề hàng rào phi quan thuế, về thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại, về thương mại nông sản, hàng dệt may (dỡ bỏ năm 2005) và cơ chế giải quyết tranh chấp. Với diện điều tiết của thương mại đa biên được mở rộng nên Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) với tư cách là một sự thỏa thuận có nhiều nội dung ký kết mang tính chất tùy ý tỏ ra không thích hợp. Do đó, ngày 15/4/1994, tại Marrkesh (Ma-rốc), kết thúc vòng đàm phán Urugoay, các thành viên GATT đã cùng nhau ký Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) nhằm kế tục và phát triển sự nghiệp của GATT. Theo đó WTO chính thức được thành lập độc lập với hệ thống Liên hiệp quốc và đi vào hoạt động từ 1/1/1995. Cho đến nay tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã có 148 thành viên và tính đến tháng 12/2004 với khoảng 97% thương mại toàn thế giới. * Mục tiêu của WTO: Với tư cách là tổ chức thương mại toàn cầu, WTO có những mục tiêu cơ bản như sau: - Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hoá và dịch vụ, nâng cao việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trên thế giới phục vụ cho sự phát triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường, thông qua việc tạo ra một tập hợp các quy tắc và nguyên tắc cho thương mại quốc tế, bảo đảm một môi trường minh bạch, dễ dự báo trong thương mại quốc tế. WTO vẫn đảm đương trách nhiệm của GATT về thúc đẩy đàm phán đa phương nhằm tự do hoá thương mại, đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của các quốc gia thành viên. - Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa phương, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của các Công ước quốc tế: bảo đảm cho các nước đang phát triển và đặc biệt là các nước kém phát triển nhất được thụ hưởng những lợi ích thực sự từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế của các nước này và khuyến khích các nước ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. - Nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm cho người dân các nước thành viên, bảo đảm các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng. * Chức năng chính: WTO thực hiện các chức năng cơ bản sau: - Thống nhất việc quản lý thực hiện các Hiệp định và thỏa thuận thương mại đa phương và nhiều bên; giám sát tạo thuận lợi, kể cả trợ giúp kỹ thuật cho các nước thành viên thực hiện nghĩa vụ thương mại quốc tế của họ. - Là khuôn khổ thể chế để tiến hành các vòng đàm phán thương mại đa phương trong khuôn khổ WTO, theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng WTO. - Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc thực hiện và giải thích Hiệp định WTO và các biện pháp thương mại đa phương và nhiều bên. - Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các nước thành viên, bảo đảm thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hóa thương mại và tuân thủ các quy định của WTO, Hiệp định thành lập WTO đã quy định một cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại áp dụng chung đối với tất cả các thành viên. - Thực hiện hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới trong việc hoạch định những chính sách và dự báo về những xu hướng phát triển tương lai của kinh tế toàn cầu. Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng Thương mại - nhóm họp ít nhất hai năm một lần. Giữa hai nhiệm kỳ Hội nghị, Đại hội đồng (Bao gồm Đại diện có thẩm quyền của tất cả các thành viên) có chức năng thường trực và báo cáo lên Hội nghị Bộ trưởng, đồng thời Đại hội đồng đóng vai trò là một cơ quan giải quyết tranh chấp và cơ quan rà soát chính sách của WTO. Dưới Đại hội đồng là Hội đồng thương mại về hàng hoá, Hội đồng thương mại về dịch vụ và Hội đồng về các khía cạnh liên quan đến thương mại về quyền sở hữu trí tuệ. Các Hội đồng trên chịu trách nhiệm điều hành việc thực thi Hiệp định WTO về từng lĩnh vực thương mại tương ứng. Tham gia các Hội đồng là đại diện của các thành viên. Phần lớn các quyết định của WTO đều được thông qua trên cơ sở đồng thuận. Trong một số trường hợp nhất định, khi không đạt được sự đồng thuận, các thành viên có thể tiến hành bỏ phiếu. WTO chứa đựng một hệ thống các quy định vô cùng phức tạp và cụ thể cho các lĩnh vực như thương mại hàng hoá, dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, tất cả những quy định đó đều dựa trên 5 nguyên tắc cơ bản [1, tr.225]. - Nguyên tắc thương mại không có sự phân biệt đối xử: Nguyên tắc này yêu cầu các nước thành viên phải dành cho nhau Đãi ngộ Tối huệ quốc (MNF) (tức là không phân biệt đối xử giữa hàng hoá và dịch vụ của các nước thành viên khác nhau) và Đãi ngộ Quốc gia (NT) (yêu cầu mỗi nước thành viên không được phân biệt đối xử giữa hàng hoá và dịch vụ trong nước và nhập khẩu). - Nguyên tắc thương mại phải ngày càng được tự do hơn thông qua đàm phán: Các hàng rào cản trở thương mại dần dần được loại bỏ, cho phép các nhà sản xuất hoạch định chiến lược kinh doanh dài hạn có thời gian điều chỉnh, nâng cao sức cạnh tranh hoặc chuyển đổi cơ cấu. Mức độ cắt giảm các hàng rào bảo hộ được thỏa thuận thông qua các cuộc đàm phán song phương và đa phương. - Nguyên tắc dễ dự báo, dự đoán: Các nhà đầu tư cũng như Chính phủ nước ngoài tin chắc rằng hàng rào thuế quan và phi thuế quan khác sẽ không bị thay đổi và tăng một cách tùy tiện. Cam kết về thuế quan và các biện pháp khác bị ràng buộc về mặt pháp lý. - Nguyên tắc tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng: Hạn chế tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp hay dành các đặc quyền cho một số doanh nghiệp nhất định. - Nguyên tắc dành cho các thành viên đang phát triển một số ưu đãi: Các ưu đãi này được thể hiện thông qua việc cho phép các thành viên đang phát triển có một số quyền và không phải thực hiện một số nghĩa vụ hay có thời gian quá độ dài hơn để điều chỉnh chính sách cho phù hợp. Mỗi tổ chức quốc tế đều có mục tiêu, nguyên tắc và nội dung hoạt động của mình. Một nước muốn trở thành thành viên của tổ chức đó phải cam kết tuân thủ các quy định của tổ chức và chứng tỏ khả năng của mình trong việc hoàn thành nghĩa vụ của thành viên trong tổ chức, cũng như hưởng các lợi ích do việc tham gia tổ chức mang lại. Vì thế, trong chương 1 này, cần thiết phải tìm hiểu sơ bộ về tổ chức thương mại thế giới (WTO), các hiệp định chính trong WTO, nhất là các hiệp định của WTO liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp, nhằm tạo cơ sở cho việc phân tích những tác động của việc gia nhập WTO đến nền nông nghiệp Việt Nam ở chương 2. 2) Quá Trình Việt Nam ra nhập WTO. 1-1995:Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO.Ban công tác xem xét việc gia nhập của Việt Nam đươc thành lập với chủ tịch là ông ẻiik Glênn, Đại sứ Na Uy tại WTO 8-1996: Việt Nam “Bị vong lục về chính sách thương mại” 10-1996: Bắt đầu đàm phán Hiệp định Thương mại song phương với Hoa Kỳ(BTA). 1998-2000: Tiến hành 4 phiên họp đa phương với Ban công tác về minh bạch hoá các chính sách thương mại vào tháng 7/1998, 12/1998, 7/1999, và 11/2000.kết thúc 4 phiên họp, ban công tác cua WTO đã công nhận Việt Nam cơ bản kết thúc quá trình minh bạch hoá chính sách và chuyển sang giai đoạn đàm phán mở cửa thị trường. 7-2000:ký kết chính thức BTA với Hoa Kỳ 12-2001:BTA có hiệu lực 4-2002: Tiến hành phiên họp đa phương thứ 5 với ban công tác.Việt Nam đưa ra bản chào đầu tiên về hàng hoá và dịch vụ.Bắt đầu tiến hành đàm phán song phương. 2002-20006: Đàm phán song phương với một số thành viên có yêu cầu đàm phán,với 2 mốc quan trọng: 10-2004: kết thúc đàm phán song phương với EU - đối tác lớn nhất 5-2006: kết thúc đàm phán song phương với Hoa Kỳ - đối tác cuối cùng trong 28 đối tác có yêu cầu đàm phán song phương. 26-10-2006: kết thúc phiên đàm phán đa phương cuối cùng, ban công tác chính thức thông qua toàn bộ hồ sơ gia nhập WTO của Việt Nam.Tổng cộng đã có 14 phiên họp đa phương từ tháng 7-1998 đến tháng 10-2006. 7-11-2006: WTO triệu tập phiên họp đặc biệt của đại hội đồng tại Geneva để chính thức kết nạp Việt Nam vào WTO. 17-01-2007: Việt Nam chính thức ra nhập WTO. II- Các hiệp định của WTO liên quan đến nông nghiệp Các hiệp định của WTO điều chỉnh các lĩnh vực như thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Chúng đề ra những nguyên tắc về tự do hoá và những ngoại lệ được phép áp dụng; nêu lại cam kết của từng nước về giảm thuế quan và các rào cản thương mại khác, về mở cửa và duy trì mở cửa thị trường dịch vụ; quy định thủ tục giải quyết tranh chấp; quy định các nước đang phát triển phải được đối xử đặc biệt, buộc các chính phủ phải thông báo cho WTO biết những luật lệ hiện hành và các biện pháp được áp dụng trong nước song song với các báo cáo định kỳ của Ban thư ký về chính sách thương mại của các nước. Các hiệp định này thường được gọi là các luật lệ thương mại của WTO và WTO thường được miêu tả như là một hệ thống hoạt động dựa trên các luật lệ. Để điều chỉnh quan hệ thương mại quốc tế, WTO có 16 hiệp định chính như: Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT 1994); Hiệp định về Hàng rào Kỹ thuật trong thương mại (TBTs); Hiệp định về các Biện pháp vệ sinh kiểm dịch (SPS); Hiệp định về thủ tục cấp phép xuất nhập khẩu (ILP); Hiệp định về Quy tắc xuất xứ (ROO); Hiệp định về Kiểm tra trước khi giao hàng (PSI); Hiệp định Trị giá tính thuế hải quan (ACV); Hiệp định về các Biện pháp tự vệ (ASG); Hiệp định về Trợ cấp (SCM) và Phá giá (ADP), Hiệp định về Nông nghiệp (AOA); Hiệp định về Thương mại hàng dệt may và may mặc (ATC); Hiệp định về các Biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS); Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) và thoả thuận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp (DSU)… [1, tr. 226]. Tất cả các thành viên WTO đều phải tham gia vào các hiệp định nói trên, quy định này gọi là sự chấp thuận cả gói. Bên cạnh đó WTO vẫn duy trì 2 hiệp định nhiều bên, các thành viên WTO có thể tham gia hoặc không tham gia, đó là: Hiệp định về buôn bán máy bay dân dụng; Hiệp định về mua sắm của Chính phủ. Còn 2 Hiệp định nhiều bên khác là Hiệp định quốc tế về các sản phẩm sữa; Hiệp định quốc tế về thịt bò thì cuối năm 1997, WTO đã chấm dứt và đưa những nội dung của chúng vào phạm vi điều chỉnh của các Hiệp định Nông nghiệp và Hiệp định về các Biện pháp vệ sinh kiểm dịch. Trong khuôn khổ của WTO có một số hiệp định cũng như quy định liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp, bao gồm: Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT 1947, GATT 1994), Hiệp định nông nghiệp (AoA), Hiệp định về việc áp dụng các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật (SPS), Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBTs), Hiệp định về thủ tục giấy phép xuất nhập khẩu (ILP), Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIP 1. Hiệp định nông nghiệp (AOA) Hình thành “một hệ thống thương mại nông nghiệp định hướng thị trường bình đẳng và công bằng” thông qua yêu cầu các quốc gia thực hiện các nguyên tắc mới giám sát: - Việc sử dụng các đường biên để kiểm soát nhập khẩu. - Sử dụng trợ cấp xuất khẩu. - Các trợ cấp khác Chính phủ cung cấp để hỗ trợ giá của sản phẩm nông nghiệp hay thu nhập của nhân dân. * Tiếp cận thị trường: Theo điều 4 của Hiệp định này các nước trước đây áp dụng các biện pháp phi thuế quan (ví dụ như hạn chế định lượng, giấy phép không tự động và thuế biến đổi) đều bị yêu cầu bãi bỏ chúng, thay thế bằng thuế nhập khẩu bị ràng buộc ở mức bảo hộ tương đương hoặc thấp hơn. Việc chuyển từ các biện pháp phi thuế sang thuế được gọi là “thuế hóa”. Các quốc gia thành viên đồng ý cắt giảm thuế nhập khẩu theo tỷ lệ cố định. Các nước phát triển và chuyển đổi phải giảm thuế 36% theo bình quân trong thời hạn 6 năm từ 1995 đến 2000, ít nhất là 15% đối với mỗi dòng thuế. Các nghĩa vụ tương tự đối với các nước đang phát triển là 24% trong vòng 10 năm từ 1995 đến 2004 và ít nhất 10% đối với mỗi sản phẩm. Tuy nhiên, các hàng rào phi thuế cũng không bị loại bỏ hoàn toàn. Các thành viên được phép sử dụng một số hạn chế phi thuế như các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật để bảo vệ con người và động vật khỏi các rủi ro từ thực phẩm nảy sinh từ việc sử dụng các chất kích thích, các chất gây ô nhiễm, độc tố hay các sinh vật gây bệnh và để bảo vệ động thực vật khỏi các sâu bệnh hay dịch bệnh có thể tác động đến sản xuất nông nghiệp. Ràng buộc mọi dòng thuế đối với nông sản cũng được tất cả các nước đồng ý (phát triển, đang phát triển, kém phát triển) để không tăng quá mức đã cam kết trong Biểu nhượng bộ của các nước. Các nước đang phát triển và kém phát triển được linh hoạt hơn khi ràng buộc các mức thuế tại thuế trần có thể cao hơn so với mức thuế áp dụng thực tế. * Hỗ trợ trong nước: Các cam kết cắt giảm mức hỗ trợ trong nước làm bóp méo thương mại được thể hiện ở mức Tổng các biện pháp hỗ trợ gộp hay “Các mức cam kết ràng buộc hàng năm và cuối cùng”. Mức tổng các biện pháp hỗ trợ gộp (“Tổng AMS”) là tổng các hỗ trợ trong nước được cung cấp để hỗ trợ các nhà sản xuất nông nghiệp. Mức này được tính toán là tổng hỗ trợ đối với các sản phẩm nông nghiệp, các biện pháp hỗ trợ không cụ thể và tất cả “các biện pháp tương đương” (một cách tính đối với các hỗ trợ gộp đối với các sản phẩm trong trường hợp không thể tính được một cách chi tiết). Hiệp định nông nghiệp cũng đặt ra mức tối đa đối với Tổng AMS mà mỗi quốc gia thành viên tính toán và báo cáo theo một phom sẵn có trong bản ACC/4 và phải cam kết giảm từ mức Tổng đó. - Hộp xanh lá cây: Bao gồm các trợ cấp không hoặc rất ít bóp méo thương mại và sản xuất nông sản và không có “tác động trợ giá đối với người sản xuất” và do đó được miễn trừ khỏi các cam kết cắt giảm. Theo như điều 2 của Hiệp định nông nghiệp, các trợ cấp thuộc hộp xanh có thể cung cấp cho các nhà sản xuất dưới dạng như sau: + Chi tiêu của Chính phủ đối với nghiên cứu nông nghiệp, kiểm soát sâu bệnh, kiểm tra và xếp loại các sản phẩm cụ thể, dịch vụ marketting và xúc tiến. + Sự tham gia tài chính của Chính phủ đối với các chương trình bảo hiểm thu nhập và mạng an sinh thu nhập. + Thanh toán bù trừ thiên tai. + Các trợ cấp điều chỉnh cơ cấu thông qua: . Các chương trình hồi hưu người sản xuất được thiết kế để hỗ trợ các cá nhân tham gia sản xuất nông nghiệp. . Chương trình ngừng sử dụng các nguồn tài nguyên như đất và các tài nguyên khác bao gồm động vật, thôi không tham gia sản xuất nông nghiệp. . Các trợ cấp đầu tư được thiết kế để hỗ trợ tái cơ cấu tài chính hay cơ cấu vật chất của các hoạt động của các nhà sản xuất. . Các thanh toán trong các chương trình môi trường. . Các thanh toán trong các chương trình hỗ trợ khu vực. Một số chương trình ở các nước đang phát triển cũng được miễn trừ khỏi các cam kết cắt giảm như hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ đầu tư cho người nghèo và người có thu nhập thấp hay nông dân ở những vùng khó khăn, hỗ trợ nông dân chuyển đổi từ cây thuốc phiện sang các cây trồng khác. - Hộp xanh lơ: Bao gồm các thanh toán trực tiếp trong các chương trình giới hạn sản xuất dựa trên diện tích hay năng suất cố định hay số đầu gia súc. Hiệp định nông nghiệp cho phép các nước thành viên không phải tính đến các thanh toán thuộc các chương trình “giới hạn sản xuất” khi tính toán tổng mức AMS. - Hộp hổ phách: Đây là dạng trợ cấp được coi là bóp méo thương mại, bao gồm các trợ cấp trong nước mà các thành viên của WTO bị yêu cầu phải cắt giảm trong Hiệp định nông nghiệp trên cơ sở tính toán Tổng AMS. Các trợ cấp thuộc hộp hổ phách có thể dưới nhiều dạng nhưng tất cả đều thuộc dạng cung cấp trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp theo quy định của Chính phủ (nó không nhất thiết là Chính phủ phải trực tiếp chi trả từ nguồn ngân sách của mình). Chúng có thể bao gồm các quy định nhằm giữ vững hay tăng giá đầu ra hay giảm giá đầu vào đối với sản xuất hoặc cố định giá lưu kho hoặc phân phối sản phẩm. Chúng có thể bao gồm bất kỳ một thanh toán trực tiếp đến các nông dân trên cơ sở các quyết định sản xuất của họ (các thanh toán có liên quan đến sản xuất). Trên cơ sở tính toán tổng AMS của biện pháp trợ cấp thuộc Hộp hổ phách, các nước thành viên của WTO có các biện pháp trợ cấp nông nghiệp bóp méo thương mại có nghĩa vụ cắt giảm mức Tổng AMS. Các nước phát triển có nghĩa vụ cắt giảm 20% của Tổng AMS được tính toán trong giai đoạn 6 năm kể từ năm 1995 và các nước đang phát triển phải cắt giảm 13,3% trong vòng 10 năm. Tuy nhiên, có bốn dạng ngoại lệ không phải tính đến khi tính toán Tổng mức AMS. Đó là các trợ cấp thuộc hộp “xanh lá cây” và “xanh lơ”, các mức trợ cấp đối với sản phẩm hay trợ cấp chung dưới mức tối thiểu và các ngoại lệ cụ thể đối với các nước đang phát triển. Mức tối thiểu: Đối với các nước đang phát triển, các chi trả trợ cấp bất kỳ dạng nào chưa đến 5% của giá trị sản xuất nông nghiệp và 5% của giá trị sản xuất của một sản phẩm nông nghiệp cơ bản thì sẽ không phải đưa vào khi tính toán mức AMS. Mức tối thiểu này đối với các nước đang phát triển là cao hơn 10%. Các nước đang phát triển cũng được cho phép, nhằm mục đích khuyến khích phát triển nông nghiệp và nông thôn, không đưa vào khi tính mức AMS và do vậy không phải đưa vào cam kết cắt giảm những trợ cấp dưới đây: + Trợ cấp đầu tư chung trong nông nghiệp. + Trợ cấp đầu vào nói chung đối với những người sản xuất thu nhập thấp hoặc ở những vùng khó khăn. + Trợ cấp để khuyến khích chuyển đổi từ cây thuốc phiện sang cây trồng khác. Trợ cấp xuất khẩu: Đây là dạng hỗ trợ được coi là các biện pháp bóp méo nhất đối với thương mại của các Chính phủ. Các trợ cấp này được sử dụng để hỗ trợ nông dân hay người sản xuất bán các sản phẩm của họ trên thị trường quốc tế. Chúng bao gồm: + Các trợ cấp trực tiếp của Chính phủ liên quan đến hoạt động xuất khẩu. + Việc bán hay thanh lý dự trữ nông sản phi thương mại của Chính phủ hoặc các cơ quan của Chính phủ với giá thấp hơn so với giá của sản phẩm cùng loại trên thị trường. + Các khoản thanh toán xuất khẩu nông sản hoàn toàn do Chính phủ thực hiện, dù có tính vào tài khoản công hay không, kể cả các thanh toán lấy từ khoản thu từ nông sản có liên quan hoặc từ nông sản mà từ đó sản phẩm xuất khẩu được làm ra. + Trợ cấp nhằm giảm chi phí tiếp thị xuất khẩu nông sản (khác với trợ cấp thúc đẩy xuất khẩu và dịch vụ tư vấn có sẵn rộng rãi), kể cả chi phí vận chuyển, nâng phẩm cấp và các chi phí chế biến khác, chi phí vận tải quốc tế và cước phí. + Phí vận tải nội địa và cước phí của các chuyến hàng xuất khẩu do Chính phủ cung cấp hoặc ủy quyền với điều kiện thuận lợi hơn so với các chuyến hàng nội địa. + Trợ cấp cho nông sản với điều kiện tham gia vào sản phẩm xuất khẩu. Tuy nhiên các nước đang phát triển không bị yêu cầu thực hiện các cam kết cắt giảm đối với các loại trợ cấp xuất khẩu như trợ cấp nhằm làm giảm chi phí tiếp thị, chi phí vận chuyển, chi phí chế biến, phí vận tải và cước phí với điều kiện các loại trợ cấp đó không được áp dụng với cách có thể lẩn tránh thực hiện cam kết cắt giảm. Theo Hiệp định nông nghiệp, các thành viên của WTO không được phép áp dụng các biện pháp trợ cấp xuất khẩu mới đối với nông sản và phải cam kết cắt giảm giá trị cũng như số lượng trợ cấp xuất khẩu hiện hành. Các nước phát triển phải cắt giảm 36% về giá trị và 21% về số lượng trong thời hạn 6 năm kể từ năm 1995. Đối với các nước đang phát triển thì nghĩa vụ này là 24% về giá trị và 14% về số lượng trong thời hạn 10 năm [6; tr. 27]. 2. Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBTs) Hiệp định này đặt ra một số quy định và điều lệ liên quan đến các biện pháp phi thuế có ảnh hưởng đến thương mại, bao gồm thương mại nông nghiệp. Hiệp định này nhằm đảm bảo rằng các cuộc đàm phán kỹ thuật và các tiêu chuẩn cũng như việc kiểm tra và thủ tục cấp phép không tạo ra các cản trở không cần thiết đến thương mại. Tuy nhiên, Hiệp định thừa nhận rằng các nước có quyền bảo hộ ở những mức độ mà họ thấy phù hợp. Hiệp định này do đó khuyến khích các nước sử dụng những tiêu chuẩn quốc tế nếu phù hợp nhưng không yêu cầu các nước này phải thay đổi mức độ bảo hộ do kết quả của tiêu chuẩn hóa. Hiệp định cũng bao gồm các tiêu chuẩn được áp dụng trong các phương pháp chế biến và sản xuất liên quan đến đặc tính của bản thân sản phẩm. Hiệp định đưa ra những nghĩa vụ liên quan đến các thủ tục đánh giá sự phù hợp và các điều khoản thông báo áp dụng cả đối với các chính quyền địa phương cũng như cơ quan phi Chính phủ. Một chuẩn thực hiện tốt cho việc chuẩn bị, thông qua và áp dụng các tiêu chuẩn của các cơ quan tiêu chuẩn cũng có thể được chấp nhận bởi các đơn vị tư nhân cũng như trong khu vực công ích, cũng được bao gồm trong phần phụ lục của Hiệp định này. Nhìn chung, Hiệp định TBTs yêu cầu các quốc gia phải đảm bảo rằng các yêu cầu kỹ thuật của họ đối với hàng hoá phải đảm bảo một số điều kiện cơ bản như: không phân biệt đối xử, đối xử quốc gia đối với hàng nhập khẩu, không hạn chế thương mại nhiều hơn mức cần thiết và dựa trên cơ sở khoa học thích hợp. Hiệp định này cũng yêu cầu các cơ quan tiêu chuẩn quốc gia phải tuân thủ một số điều lệ và quy định như: i) sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế làm cơ sở cho các tiêu chuẩn quốc gia; ii) đảm bảo các tiêu chuẩn quốc gia phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Hiệp định về các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật (SPS) áp dụng đối với tất cả các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật mà chúng trực tiếp hay gián tiếp có thể ảnh hưởng đến thương mại quốc tế. Hiệp định SPS yêu cầu các quốc gia thành viên: - Cơ sở các biện pháp SPS của mình dựa vào các tiêu chuẩn, hướng dẫn hay khuyến nghị quốc tế được xây dựng bởi các tổ chức của thế giới (ví dụ như ủy ban An toàn thực phẩm, Cơ quan dịch tễ quốc tế IOE, các cơ quan hoạt động trong khuôn khổ của Công ước Bảo vệ thực vật quốc tế IPPC, hay một tổ chức quốc tế nào được chỉ định bởi ủy ban WTO về SPS) - Tham gia đầy đủ vào các hoạt động để thúc đẩy quá trình hài hòa hóa các biện pháp SPS trên cơ sở quốc tế. - Tạo cơ hội cho các nước quan tâm được đóng góp ý kiến khi xây dựng các tiêu chuẩn. - Chấp nhận các biện pháp SPS của nước xuất khẩu là tương đương nếu chúng cũng đạt được mức độ bảo vệ SPS tương tự và tham gia vào các hiệp định trên cơ sở thừa nhận song phương về tính tương đương của các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật cụ thể. Hiệp định SPS cũng yêu cầu các quốc gia “phải đảm bảo rằng các biện pháp của họ thích ứng với các đặc trưng kểm dịch động thực vật của khu vực xuất xứ của sản phẩm và nơi sản phẩm sẽ được chuyển đến” và không áp dụng chúng để tạo ra các đối xử tùy tiện hay không công bằng giữa các quốc gia và vùng có cùng điều kiện hay để tạo ra hạn chế trá hình đối với thương mại quốc tế. Hiệp định SPS cũng cho phép các quốc gia được quyền áp dụng các biện pháp SPS đối với mức độ bảo hộ cao hơn nếu có sự biện hộ khoa học hay quốc gia đó dựa trên cơ sở đánh giá nguy cơ quyết định rằng mức độ bảo hộ kiểm dịch động thực vật cao hơn là cần thiết. 3. Hiệp định về thủ tục cấp phép xuất nhập khẩu(ILP) Hiệp định yêu cầu các thủ tục cấp phép nhập khẩu không được sử dụng theo cách phân biệt đối xử hay tạo ra các phiền toái. Cấp phép nhập khẩu được định nghĩa là các thủ tục hành chính được sử dụng trong hoạt động của hệ thống cấp phép nhập khẩu yêu cầu nộp đơn hay các tài liệu khác đến một cơ quan hành chính như là một điều kiện tiên quyết cho nhập khẩu trước khi vào địa phận hải quan của nước thành viên nhập khẩu. Các điều lệ của thủ tục cấp phép nhập khẩu phải trung lập khi áp dụng và phải được quản lý một cách công bằng và bình đẳng. Các điều lệ cũng như tất cả các thông tin liên quan đến các thủ tục về việc nộp đơn, kể cả tư cách của thể nhân, công ty hay cơ quan thực hiện việc nộp đơn, đơn vị hành chính nhận đơn và danh sách các sản phẩm chịu yêu cầu cấp phép đều phải được công bố. Hệ thống cấp phép có thể tự động, trong hệ thống tự động các cơ quan có thẩm quyền sẽ cấp phép tự động (trong khoảng thời gian tối đa 10 ngày làm việc kể từ khi nhận đơn xin) mà không sử dụng bất kỳ một quyền tuỳ ý nào. Các hệ thống cấp phép không tự động quản lý thông qua hạn chế hạn ngạch và các biện pháp khác, các cơ quan sẽ sử dụng quyền chủ ý của họ khi cấp giấy phép (trong vòng tối đa 30 ngày kể từ ngày kể từ khi nhận đơn xin). Tuy nhiên, các cơ quan cấp giấy phép quốc gia phải tuân thủ theo các quy định với mục đích cơ bản là bảo vệ quyền lợi của nhà nhập khẩu và các nhà cung cấp nước ngoài. Trên nguyên tắc những thủ tục cấp phép: - Không được gây phiền toái hơn mức cần thiết để điều hành hệ thống. - Minh bạch và dự đoán được - Không có những chậm trễ không cần thiết và các hành động tuỳ ý chủ quan 4. Hiệp định về các khía cạnh thương mại của Quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) Hiệp định này yêu cầu các tiêu chuẩn tối thiểu để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cũng như thủ tục và các phương tiện cưỡng chế thi hành. Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ tập trung vào những điểm sau: - Nguyên tắc cơ bản và các nghĩa vụ chung: Các quốc gia nước ngoài phải được đối xử không kém thuận lợi hơn bởi một quốc gia so với quyền sở hữu trí tuệ trong quốc gia đó và các quốc gia phải đối xử MNF đối với tất cả các nước trên cơ sở không phân biệt đối xử. - Tiêu chuẩn tối thiểu của bảo hộ bao gồm những đối tượng, các quyền, các ngoại lệ được chấp thuận và thời gian bảo hộ tối thiểu (bằng sáng chế, bản quyền, nhãn mác, thiết kế công nghiệp…) - Các hành động phi cạnh tranh khi cấp phép giao kèo. - Các thủ tục và biện pháp phòng chống trong nước để buộc tuân thủ các quyền sở hữu trí tuệ. - Các bố trí quá độ cho việc thực hiện các điều lệ trong phạm vi quốc gia. Đối với phát triển nông nghiệp, nhất là nông sản hàng hoá, yếu tố sáng chế, nhãn mác và điểm xuất xứ ngày càng trở nên quan trọng và trở thành những vấn đề nóng bỏng trong các tranh chấp quốc tế gần đây. Có hai dạng quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến nông nghiệp bao gồm: chỉ dẫn địa lý và quyền tác giả giống. Chỉ dẫn địa lý là xác định xuất xứ của sản phẩm mà nó ám chỉ chất lượng hay các đặc trưng khác liên quan đến khu vực đó. Trong khi quyến tác giả là kiên quan đến việc tạo ra các giống mới, ổn định, đặc biệt, đồng nhất, đây là những quyền có thể được bảo hộ trong Công ước Bảo hộ giống thực vật mới. 5 Những điểm mới trong vòng đàm phán Đô-ha về nông nghiệp Trong khuôn khổ của WTO, hiệp định được đưa ra tại vòng đàm phán Urugoay đã tạo ra một khuôn khổ đầu tiên cho các quy tắc đa phương về trợ cấp nông nghiệp và chính sách thương mại nông sản. Tuy nhiên vòng này chỉ thúc đẩy được tự do hoá thương mại nông sản ở mức độ rất khiêm tốn. Sự phát triển của thương mại thế giới đòi hỏi phải thay thế quy chế thương mại cũ bằng một quy chế mới thích hợp và có hiệu quả hơn. Các cuộc đàm phán nông nghiệp đã bắt đầu từ năm 2000, nhưng hầu như không có tiến bộ gì cho đến khi những cuộc đàm phán toàn diện hơn được bắt đầu tại Vòng Đô-ha. Tại vòng Đô-ha, diễn ra cuộc cải cách ở cả ba trụ cột, bao gồm hỗ trợ trong nước, tiếp cận thị trường, và trợ cấp xuất khẩu [6; tr. 51-54]. * Hỗ trợ trong nước: Tuyên bố Bộ trưởng Đô-ha kêu._. gọi “giảm đáng kể các trợ cấp trong nước bóp méo thương mại”. Các cuộc đàm phán về lĩnh vực này sẽ đảm bảo những điều sau: Mỗi nước thành viên sẽ phải giảm đáng kể tổng mức hỗ trợ trong nước mang tính bóp méo thương mại từ mức đang ràng buộc hiện nay cũng như mức cam kết về tổng thể, mức ràng buộc cuối cùng về tổng thể AMS và mức tối thiểu cho phép cũng là đối tượng bị cắt giảm đáng kể. Trong trường hợp của Hộp xanh lơ cũng sẽ bị giới hạn ở mức 5% của tổng giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân của một nước thành viên trong một giai đoạn cơ sở nhằm đảm bảo các kết quả đạt được sẽ gắn kết chặt chẽ với mục tiêu dài hạn. Bất kỳ sự giải thích nào cũng như việc phát triển các luật lệ và điều kiện để giám sát những hỗ trợ bóp méo thương mại sẽ phải tính đến yếu tố này. Các đối xử đặc biệt và khác biệt sẽ là một phần thống nhất của hỗ trợ trong nước. Phương thức được phát triển sẽ bao gồm các giai đoạn thực hiện dài hơn cũng như các hệ số cắt giảm thấp hơn đối với tất cả các dạng hỗ trợ trong nước mang tính bóp méo thương mại. Cắt giảm chung: một công thức theo tầng- Mức cơ sở chung của mọi hỗ trợ trong nước mang tính bóp méo thương mại được xác định bằng mức ràng buộc Tổng AMS cuối cùng cộng với mức tối thiểu cho phép và mức sẽ chi trả được đồng ý cho hộp xanh lơ sẽ bị cắt giảm theo một công thức theo tầng. Theo công thức này, các thành viên có mức hỗ trong nước mang tính bóp méo thương mại cao hơn sẽ phải thực hiện mức cắt giảm tổng lớn hơn nhằm đạt được kết quả mang tính hài hoà. Ngay tại lần cắt giảm đầu tiên, trong năm đầu tiên và trong toàn bộ giai đoạn thực hiện, tổng của tất cả các hỗ trợ bóp méo thương mại sẽ không được vượt quá 80% của mức ràng buộc Tổng AMS cuối cùng cộng với mức tối thiểu cho phép cộng với Hộp xanh lơ ở mức 5% của tổng giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân của nước thành viên trong giai đoạn cơ sở. Mức ràng buộc tổng AMS cuối cùng sẽ bị giảm đáng kể thông qua phương pháp tiếp cận tầng. Các thành viên có mức tổng AMS cao hơn sẽ phải giảm nhiều hơn. Để ngăn ngừa việc lẩn tránh mục tiêu của thoả thuận này thông qua việc chuyển hỗ trợ không thay đổi giữa các loại hỗ trợ khác nhau, các AMS được tính toán cho các sản phẩm cụ thể sẽ bị giới hạn ở mức bình quân tương ứng của chúng theo một phương pháp được thoả thuận sau này. Giảm mức tối thiểu sẽ được đàm phán có tính đến nguyên tắc đối xử đặc biệt và khác biệt. Các nước đang phát triển áp dụng hầu hết các chương trình thuộc mức tối thiểu để hỗ trợ cho nông dân nghèo về tài nguyên và chỉ đủ sống sẽ được miễn không phải giảm. - Hộp xanh lơ: Các tiêu chuẩn phân loại sẽ được xác định nhằm đảm bảo rằng các thanh toán thuộc hộp xanh lơ là ít bóp méo thương mại hơn so với các biện pháp AMS. Hơn nữa, các hỗ trợ thuộc Hộp xanh lơ cũng sẽ không vượt quá mức của tổng giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân của nước thành viên trong giai đoạn lịch sử (cơ sở). Giai đoạn cơ sở sẽ được thiết lập trong quá trình đàm phán, giới hạn trần này sẽ áp dụng đối với bất kỳ người sử dụng Hộp xanh lơ thực tế hay tiềm năng từ thời điểm ban đầu của giai đoạn thực hiện. -Hộp Xanh Các tiêu chuẩn của Hộp xanh sẽ được rà soát lại và làm rõ ràng với mong muốn đảm bảo các biện pháp thuộc Hộp xanh sẽ không có, hoặc có tác động bóp méo thương mại hay tác động tới sản xuất. Quá trình rà soát và làm rõ ràng này cần phải đảm bảo rằng những khái niệm cơ bản, nguyên tắc và tính hiệu quả của Hộp xanh vẫn được giữ nguyên và có tính đến các quan tâm phi thương mại. - Cạnh tranh xuất khẩu: Tuyên bố Hội nghị Bộ trưởng Đô-ha kêu gọi “giảm và tiến tới bỏ hoàn toàn các dạng trợ cấp xuất khẩu”. Theo đó các dạng trợ cấp sau đây sẽ bị loại bỏ: trợ cấp xuất khẩu như đã liệt kê, tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu hay các chương trình bảo hiểm với các chu kỳ thanh toán vượt quá 180 ngày. Cách thức và điều kiện liên quan đến tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu và các chương trình bảo hiểm với chu kỳ thanh toán 180 ngày và ngắn hơn sẽ không phải tuân thủ các quy tắc sẽ được thoả thuận. Các quy tắc này sẽ bao gồm cả việc thanh toán lãi suất, mức lãi suất tối thiểu, yêu cầu phí tối thiểu và các yếu tố khác có thể chứa đựng sự trợ cấp hay bóp méo thương mại. Các hành động bóp méo thương mại liên quan đến các Doanh nghiệp thương mại Nhà nước xuất khẩu bao gồm trợ cấp xuất khẩu cho các doanh nghiệp này, tài chính của Chính phủ và xoá lỗ sẽ bị yêu cầu bãi bỏ. Các quy định về viện trợ lương thực không tuân thủ với các quy tắc hiệu quả cũng sẽ được thoả thuận. Mục đích của những nguyên tắc như vậy là nhằm ngăn ngừa việc thay thế thương mại. Vai trò của các tổ chức quốc tế liên quan đến việc cung cấp viện trợ lương thực của các nước thành viên cũng sẽ được đề cập đến trong đàm phán. - Các đối xử đặc biệt và khác biệt: Các nước thành viên đang phát triển sẽ được hưởng lợi từ các giai đoạn thực hiện kéo dài hơn cho việc bãi bỏ tất cả các dạng trợ cấp xuất khẩu. Các nước đang phát triển sẽ tiếp tục được hưởng đối xử đặc biệt và khác biệt như tại Điều 9.4 của Hiệp định Nông nghiệp cho một giai đoạn phù hợp sẽ được thoả thuận sau khi đã loại bỏ tất cả các dạng trợ cấp xuất khẩu và hoàn thành việc thực hiện các quy tắc được xác định như trên. Các doanh nghiệp thương mại Nhà nước ở các nước thành viên đang phát triển cũng sẽ được hưởng những ưu tiên đặc biệt nhằm giữ ổn định giá cho người tiêu dùng và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia cũng sẽ được hưởng sự xem xét đặc biệt cho việc tiếp tục giữ độc quyền. * Tiếp cận thị trường: Phương pháp tiếp cận đơn: Nhằm đảm bảo một cách tiếp cận đơn cho cả các nước thành viên phát triển và đang phát triển đạt được tất cả các mục tiêu của vòng đàm phán Đô-ha, việc giảm thuế sẽ được thực hiện theo công thức theo tầng có tính đến các cấu trúc thuế khác nhau của các nước thành viên nhằm đảm bảo công thức này sẽ dẫn đến việc mở rộng thương mại đáng kể và giảm thuế đáng kể có đạt được như là kết quả cuối cùng từ quá trình đàm phán. Tiến bộ trong giảm thuế sẽ đạt được thông qua việc giảm mạnh hơn đối với những dòng thuế cao hơn nhưng có sự linh hoạt hơn đối với các “sản phẩm nhạy cảm”. Các thành viên có thể đề xuất một số lượng thích hợp các dòng thuế được đối xử là nhạy cảm, có tính đến các cam kết hiện hành đối với các sản phẩm này. Các yếu tố khác cho phép sự linh hoạt để đạt được kết quả cân bằng cuối cùng kể cả việc giảm và bãi bỏ các mức hạn ngạch thuế quan và các cải thiện một cách có hiệu quả việc quản lý hạn ngạch thuế quan đối với các hạn ngạch thuế quan hiện hành sao cho các nước thành viên, đặc biệt là các quốc gia thành viên đang phát triển có thể được hưởng lợi từ các cơ hội tiếp cận thị trường trong phạm vi hạn ngạch thuế quan. Đối xử đặc biệt và khác biệt: Liên quan đến phát triển nông thôn, an ninh lương thực hay nhu cầu an ninh về đời sống, các đối xử đăc biệt và khác biệt đối với các nước đang phát triển sẽ là một phần thống nhất của tất cả các yếu tố trong đàm phán, kể cả công thức giảm thuế, số lượng và đối xử sản phẩm nhạy cảm, mở rộng hạn ngạch thuế quan và giai đoạn thực hiện. Một tỷ lệ cân xứng sẽ được thoả thuận liên quan đến yêu cầu cam kết giảm thuế ít hơn hay các cam kết mở rộng hạn ngạch thuế quan dành cho các nước thành viên đang phát triển. Các thành viên đang phát triển cũng sẽ được hưởng sự linh hoạt khi đề xuất một số lượng nhất định các sản phẩm được coi là sản phẩm đặc biệt, dựa trên các tiêu chí về an ninh lương thực, an ninh đời sống và nhu cầu phát triển nông thôn, các sản phẩm này sẽ được hưởng sự đối xử linh hoạt hơn. Các tiêu chí và cách đối xử đối với những sản phẩm này sẽ được tiếp tục cụ thể hoá trong quá trình đàm phán và sẽ thừa nhận tầm quan trọng cơ bản của các sản phẩm đặc biệt đối với các nước đang phát triển. Như vậy kết quả này là có lợi đối với các nước đang phát triển, họ sẽ được cạnh tranh bình đẳng hơn với hàng nông sản của các nước phát triển trên thị trường nội địa và trên thị trường xuất khẩu. Đối với các nước đang phát triển thì họ không có nhiều những hỗ trợ trong nước cho ngành nông nghiệp như các nước phát triển. Do đó, những yêu cầu cắt giảm trợ cấp chung sẽ chủ yếu rơi vào “những hỗ trợ tối thiểu cho phép”. Việc cắt giảm các hỗ trợ này sẽ hạn chế khả năng sử dụng các công cụ hỗ trợ của các nước đang phát triển để phát triển ngành nông nghiệp của mình đối đầu với sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu từ các nước phát triển. Tuy nhiên tác động của việc cắt giảm hỗ trợ trong nước dự đoán sẽ không ảnh hưởng nhiều tới các nước đang phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp. Vấn đề mở cửa thị trường đối với hàng nông sản hiện nay vẫn là vấn đề phức tạp trên bàn đàm phán Đô-ha. Cũng như các mặt hàng phi nông sản, các nước cũng cam kết giảm mạnh thuế quan đối với các mặt hàng nông sản. Các nước phát triển và đang phát triển cũng đều áp dụng chung một phương thức cắt giảm thuế thống nhất: công thức phân cấp có tính tới cơ cấu thuế khác nhau, những mặt hàng nào có thuế quan cao hơn phải cắt giảm nhiều hơn và bắt đầu từ những mức thuế quan đã cam kết. Trừ các nước kém phát triển nhất, các nước đang phát triển tuy vẫn được áp dụng các ứng xử đặc biệt và khác biệt nhưng vẫn phải tuân theo công thức phân cấp này. Các vấn đề đang được đặt ra tại vòng đàm phán Đô-ha là rất phức tạp và tiến triển chậm chạp. Bởi mâu thuẫn về quyền lợi giữa các nhóm nước, đặc biệt là giữa các nước phát triển và đang phát triển và vấn đề công bằng thương mại không dễ gì giải quyết. Song xu hướng tự do hoá thương mại là không thể đảo ngược. Chương trình nghị sự tại vòng đàm phán Đô-ha dù có được chấp nhận hay không cũng phản ánh nhu cầu bức xúc hiện nay là WTO cần có bước tiến mạnh mẽ, đáp ứng được những biến đổi nhanh chóng của nền kinh tế toàn cầu. Và điều quan trọng hơn là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam cần xem xét kỹ lưỡng những cam kết của vòng đàm phán này, cần ý thức được xu thế chung để có thể có những chuyển đổi thể chế và những biện pháp cải cách kinh tế cần thiết vì mục tiêu phát triển kinh tế nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng. Trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, nhất là tại phiên họp thứ 8, tháng 6/2004, Việt Nam đã trình cho Ban công tác Bản chào lần thứ 4, với những sửa đổi mang tính bước ngoặt cho đàm phán, trong đó có nhiều cam kết của Việt Nam liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt là Hiệp định Nông nghiệp khi gia nhập WTO mà tại phiên họp thứ 9 (tháng 12-2000) nhiều thành viên WTO đánh giá cao sự nỗ lực của Việt Nam. Chương II: Tác động chủ yếu của WTO đến nền nông nghiệp Việt Nam Gia nhập WTO Việt Nam chịu tác động chủ yếu đến 2 lĩnh vực:Chính sách của chính phủ đối với ngành nông nghiệp và hàng hoá nông sản xuất khẩu. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều động thái tích cực nhằm ban hành các chính sách thương mại và đầu tư thông thoáng phù hợp với các quy định quốc tế. Tuy vậy, nhiều cơ chế, chính sách vẫn còn những bất cập.Do đó, việc thực hiện Hiệp định nông nghiệp WTO sẽ buộc Việt Nam phải điều chỉnh những chính sách trong nông nghiệp gây các méo mó đối với việc nhập khẩu, sản xuất trong nước và xuất khẩu.Để đo lường được tác động của WTO đến chính sách của chính phủ ta co thể so sánh chính sách của chính phủ đối với ngành nông nghiệp trước và sau khi gia nhập WTO từ đó chúng ta sẽ thấy được sự thay đổi trong các chính sách đó và đánh giá được tác động của WTO đến lĩnh vực này. Những năm đổi mới cơ chế quản lý và phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hoá vừa qua đã đưa nền nông nghiệp Việt Nam mỗi ngày một mở rộng quan hệ thương mại với nhiều nước và nhiều thị trường trên khắp thế giới, sản phẩm tham gia thị trường cũng ngày một đa dạng, phong phú do các lợi thế tương đối về đất đai, khí hậu của đất nước tạo ra. Nhiều sản phẩm đã chứng tỏ khả năng cạnh tranh, giữ vị trí ngày một vững chắc trên thị trường thế giới như gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, hàng thuỷ sản, rau quả tươi… Bên cạnh đó, qua tiếp cận thị trường thế giới, nhiều sản phẩm đã và đang thể hiện khả năng cạnh tranh thấp như: mía đường, ngô, đậu tương, thịt, sữa…Các sản phẩm này muốn tiếp tục phát triển và tham gia thị trường thì phải được nâng cao khả năng cạnh tranh trong thời gian tới. Đặc biệt khi đã gia nhập WTO. Điều đó sẽ tác động tới ngành hàng nông sản xuất khẩu theo cả hai chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực theo nghĩa những ngành cạnh tranh yếu sẽ bị đình trệ hoặc bị “bóp chết” do không có thị trường tiêu thụ.Để đánh giá được tác động trong lĩnh vực này chúng ta có thể so sánh tỉ trọng xuất khẩủ hàng nông sản Việt Nam trước và sau khi gia nhập WTO qua đó chúng ta có thể thấy được việc gia nhập WTO có tác động tích cực hay tiêu cực tới hàng hoá nông sản xuất khẩu của Việt Nam. I. Những tác động của các hiệp ước kinh tế đến nông nghiệp Việt Nam Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng phát triển tất yếu gắn liền với xu thế toàn cầu hoá kinh tế.Trong quá trình gia nhập WTO Việt Nam đã phải ký kết nhiều hiệp định thưong mại với chủ trương “mở rộng, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi”, “gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới”, và “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.Những hiệp định đó cũng góp phần tác động đên nền nông nghiệp Việt Nam.Vì vậy đánh giá tác động của WTO đến nền nông nghiệp Việt Nam thì chúng ta nên xét đến những tác động của các hiệp định này đến nền nông nghiệp Việt Nam mà hiệp định có tác động lớn chính là hiệp định thương mại Việt-Mỹ và việc thực hiện CEPT/AFTA đối với hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam. Thực hiện các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt-Mỹ và chương trình CEPT/AFTA là bước thử nghiệm, tập dượt cho nền kinh tế nói chung, nền nông nghiệp nước ta nói riêng hội nhập khu vực trước khi gia nhập WTO. Như đã nói, các tổ chức khu vực: ASEAN, APEC.. đều lấy WTO làm cơ bản, tuân thủ những nguyên tắc, luật lệ điều tiết thương mại và đầu tư của WTO và các định chế kinh tế đa phương nhất là đa phương toàn cầu, có giá trị hướng dẫn, tạo khuôn khổ khống chế các quan hệ song phương, nên cần thiết phải phân tích những tác động chủ yếu của Hiệp định thương mại Việt-Mỹ và việc thực hiện CEPT/AFTA đối với hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam để có những dữ liệu thực tế góp phần dự báo những tác động của việc gia nhập WTO đối với nền nông nghiệp Việt Nam. 1) Những tác động chủ yếu của việc thực hiện Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ Hiệp định thương mại ký kết năm 2000 và thực thi năm 2001 đã tác động đến ngành nông nghiệp Việt Nam theo các hướng chính sau đây: a) Việc giảm hàng rào thuế quan và tiến tới loại bỏ các hàng rào phi thuế quan của cả Mỹ và Việt Nam sẽ tạo điều kiện cho hàng hoá tiếp cận thị trường dễ dàng hơn và do đó sẽ thúc đẩy thương mại nông sản hai chiều. Những ngành hàng nông sản trước đây gặp khó khăn trong việc thâm nhập thị trường Mỹ do thuế quan cao hay các rào cản phi thuế quan nay sẽ có cơ hội để phát triển. Sau khi Hiệp định song phương được ký kết, phía Mỹ dành cho Việt Nam quy chế quan hệ thương mại bình thường, cốt lõi là mức thuế quan đánh vào hàng hoá Việt Nam khi nhập vào thị trường Mỹ khi chưa có quy chế này là 40% hoặc cao hơn. Khi quy chế này được áp dụng mức thuế chỉ còn 3%. Với mức thuế như vậy, rất nhiều hàng hoá Việt Nam sẽ có khả năng thâm nhập vào thị trường Mỹ. Do hàng rào thuế quan giảm đáng kể nên một số ngành hàng của Việt Nam có khả năng tăng kim ngạch xuất khẩu. Các ngành hàng này gồm có gạo qua chế biến (thuế nhập khẩu từ 24% xuống còn 5,8%), các sản phẩm từ gỗ (thuế nhập khẩu từ 29,4% xuống còn 2,1%), các sản phẩm từ thịt đặc biệt là thịt ướp lạnh (thuế nhập khẩu từ 23,1% xuống còn 4,7%). Ngành hàng rau quả có triển vọng tăng mạnh xuất khẩu sang thị trường Mỹ vì thuế nhập khẩu giảm từ 21% xuống còn 5,4%, ngoài ra dự báo nhu cầu nhập khẩu rau quả trong tương lai của Mỹ tăng mạnh [3, tr. 18]. Đối với một số mặt hàng khác như cà phê, cao su, điều, chè, thuỷ sản do thuế nhập khẩu vào thị trường Mỹ trước đây vốn đã gần bằng mức thuế ở quy chế quan hệ bình thường (MNF) nên ảnh hưởng của Hiệp định khó làm tăng khả năng xuất khẩu, trừ khi công tác xúc tiến thương mại và tìm kiếm bạn hàng được đẩy mạnh. Một số phân tích định lượng cụ thể: - Về xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Mỹ: Mỹ đang là một thị trường nhiều triển vọng mà Việt Nam mới bắt đầu khai thác kể từ khi Mỹ bỏ chính sách cấm vận kinh tế đối với Việt Nam. Thị trường này có sức mua lớn và giá cả tương đối ổn định. Tuy vậy, thời gian qua, hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này vẫn ở mức khiêm tốn so với nhu cầu nhập khẩu to lớn của thị trường Mỹ. Với GDP bình quân hàng năm 30.000 USD, mức tăng trưởng trung bình của nền kinh tế là 4%/năm, Mỹ là một thị trường có sức tiêu dùng cao, đặc biệt là thuỷ sản, trung bình mỗi năm người Mỹ tiêu thụ hết khoảng 4,09 pounds (tương đương 8,4 kg). Trong tương lai, mức thiêu thụ thuỷ sản sẽ ngày càng tăng mạnh do xu hướng ngày càng có nhiều người Mỹ chuyển sang sử dụng sản phẩm thuỷ sản cho bữa ăn chính trong gia định. Do đó, Mỹ trở thành thị trường xuất khẩu thuỷ sản hấp dẫn đối với nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, ngay từ năm 1994, Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ với kim ngạch khoảng 6 triệu USD. Con số này không ngừng tăng lên qua các năm, cụ thể: năm 1999 đạt 125,9 triệu USD, năm 2000: 304,359 triệu USD, năm 2001 (năm đầu tiên thực hiện Hiệp định BTA) đạt 500 triệu USD và năm 2003 kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Mỹ đạt 600 triệu USD. Như vậy, xu hướng xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ tăng, nếu năm 1998 mức tăng là 11,6% thì đến năm 2001 mức tăng là 27,8% [32, tr.123]. - Về xuất khẩu cà phê Việt Nam vào thị trường Mỹ: Trong những năm 90 của thế kỷ XX, cà phê đã trở thành một trong 10 mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn ở nước ta. Năm 1994, Việt Nam đã bắt đầu khai thác thị trường tiềm năng về tiêu thụ cà phê là Mỹ và Hy Lạp. Sau 10 tháng kể từ khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam (2/1994), tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam vào thị trường Mỹ đã đạt 23 triệu USD và chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam. Đồng thời việc thực hiện Hiệp định BTA xuất khẩu cà phê của Việt Nam liên tục gia tăng. Tính đến tháng 6 năm 2006, xuất khẩu cà phê của Việt Nam vào thị trường Mỹ đã đạt 51.809 tấn với giá trị 59.487.639 USD, thị phần xuất khẩu cà phê cao thứ hai sau Cộng hoà liên bang Đức [51]. - Tổng hợp về xuất khẩu nông sản vào thị trường Mỹ. Xuất khẩu nông sản hiện đóng góp 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Trong đó thị trường Mỹ là một trong những thị trường tiêu thụ nông sản lớn nhất thế giới, nhập khẩu nông nghiệp hàng năm của Mỹ lên tới 38 tỷ USD. So với các thị trường có mức thu nhập và tiêu dùng bình quân đầu người tương đương Mỹ như EU hay Nhật Bản thì xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ do thuế nhập khẩu trung bình đối với sản phẩm nông nghiệp của các thị trường này cao hơn rất nhiều so với Mỹ, ví dụ đối với EU là 45% trong khi đó Mỹ là 13%. Vì thế khi Hiệp định thương mại được thi hành thì xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ sẽ có cơ hội tăng lên đáng kể. Với giá trị xuất khẩu nông nghiệp trên đầu người của Việt Nam vẫn còn rất thấp, chỉ đạt 23 USD/đầu người so với Thái Lan là 150 USD/đầu người và khả năng sản xuất nông sản nhiệt đới khá tốt, nên tiềm năng xuất khẩu nông sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ còn rất lớn. Bức tranh chung về xuất khẩu của Việt Nam (trong đó có xuất khẩu một số nông sản) được cải thiện nhiều trong những năm qua. + Hàng hoá của Việt Nam đã và đang thâm nhập vào các thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật Bản. + Thị trường Mỹ là một trong 10 thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ đạt 5 tỷ USD, tăng 26,9% so với năm 2003. + Xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ tăng trưởng nhanh. Nhờ đó, vị thế của Việt Nam trên thị trường này tăng từ thứ 56 (năm 2001) lên thứ 40 năm 2003 và thứ 37 năm 2004. Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ chiếm gần 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, tăng hơn 7 lần so với năm 2000. Trong đó, nhiều sản phẩm nông sản đã đạt kim ngạch xuất khẩu cao như thuỷ sản: 600 triệu USD, rau quả: 150 triệu USD và năm 2005, sản phẩm nhân điều đã chiếm 41% thị trường Mỹ [16, tr. 60-61]. Mặc dù thị trường Mỹ là một thị trường tiềm năng nhưng các doanh nghiệp của Việt Nam tiếp cận chưa được nhiều bởi sau khi lệnh cấm vận được dỡ bỏ năm 1994, các doanh nghiệp Việt Nam mới tiếp cận, tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại để triển khai hoạt động xuất khẩu nông sản và việc khai thác mạnh thị trường này chỉ sau khi thực hiện Hiệp định BTA, do đó nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam chưa tạo được chỗ đứng vững chắc trên thị trường Mỹ. Điều này có thể thấy được phần nào qua việc so sánh kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ so với xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản và EU. Bảng 2.1: Một số mặt hàng nông sản của Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường EU,Nhật Bản và Mỹ năm 2002 [5, tr. 19] Đơn vị: Triệu USD Mặt hàng Châu Âu Nhật Bản Mỹ Gạo 43,9 1,0 5,7 Cao su 50,7 10,4 10,1 Cà phê 194,8 15,6 39,5 Chè các loại 11,1 3,0 1,7 Hạt điều 46,3 5,1 71,5 Hạt tiêu 38,5 0,6 16,8 Rau quả 22,7 14,5 5,9 Thủ công mỹ nghệ 157,8 43,2 33,8 Quế 0,3 1,5 0,7 Lạc nhân 0,0 0,4 0,0 (Nguồn: tổng cục thống kê 2002) So với các nước phát triển hàng rào thuế quan của Mỹ thuộc diện thấp, thuế nhập khẩu nông sản trung bình của Mỹ chỉ là 16% so với mức 62% trung bình cả thế giới. Mặt khác, đặc điểm nổi bật của nền kinh tế này so với các nước khác là dải phân loại thị trường rộng vì thế thu hút và tiêu thụ chủng loại hàng hoá khác với số lượng lớn thuộc đủ mọi chất lượng từ trung bình đến cao. Do đó, Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ sẽ tạo điều kiện cho hàng nông sản của Việt Nam xâm nhập vào thị trường Mỹ do thuế MNF (theo quy chế tối huệ quốc) thấp hơn nhiều. Tuy nhiên bên cạnh những cơ hội lớn mở ra cho hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam thì cũng có không ít thách thức. Thị trường Mỹ là thị trường cạnh tranh rất lớn, bên cạnh yếu tố chất lượng, giá cả là một trong những tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá liệu các sản phẩm của Việt Nam có thể cạnh tranh và đứng trên thị trường Mỹ hay không. Cũng theo cam kết của Hiệp định, Việt Nam sẽ mở cửa cho hàng hoá của Mỹ tiếp cận thị trường nội địa. Một số ngành hàng và doanh nghiệp trước đây được ưu đãi và độc quyền trên thị trường nội địa nhờ sự bảo hộ của các rào cản thuế quan và phi thuế quan sẽ phải đối mặt với sức ép cạnh tranh lớn hơn của hàng hoá nhập khẩu từ Mỹ. Bảng 2.2: Thuế nhập khẩu các mặt hàng nông sản của Mỹ vào Việt Nam trước và sau khi Hiệp định Thương mại được thực thi (%) [31, tr. 22] Nguồn: Đặng Kim Sơn - Phạm Quang Diệu (2001) Sau khi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam năm 1994, hàng hoá nông sản của Mỹ cũng từng bước tìm được chỗ đứng trên thị trường Việt Nam. Các mặt hàng nông sản chủ yếu của Mỹ nhập khẩu vào Việt Nam gồm có phân bón, giấy, đậu tương, bông, sữa, đường, ngô và bột mỳ. Tuy nhiên, trong giai đoạn 1994-1999, kim ngạch nhập khẩu các sản phẩm nông sản của Mỹ vào thị trường Việt Nam tăng lên không đáng kể do hai nước chưa tiến tới bình thường hoá quan hệ thương mại. Đồng thời theo những cam kết trong Hiệp định thương mại, đến năm 2005, mức thuế trung bình của hàng hoá từ Mỹ nhập khẩu vào Việt Nam sẽ giảm xuống từ 30-40% xuống còn 10-20%, trong đó riêng hàng nông sản đã cam kết giảm thuế đối với 195 dòng thuế, chủ yếu là nông sản chế biến, mức thuế giảm từ 35,5% xuống còn 25,7% do đó nhập khẩu hàng nông sản của Việt Nam từ Mỹ sẽ có xu hướng tăng do thuế nhập khẩu giảm [18, tr.17]. b). Khả năng tiếp cận thị trường Mỹ dễ dàng hơn cùng với những ưu đãi về đầu tư vào ngành nông nghiệp sẽ làm tăng đầu tư của Mỹ vào các ngành nông sản của Việt Nam để xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Hiện nay Mỹ có 15 dự án đầu tư vào nông nghiệp Việt Nam với tổng số vốn đầu tư là 142,3 triệu USD. Những ngành hàng phục vụ xuất khẩu sang thị trường Mỹ có thể được tăng tiếp nhận đầu tư, đặc biệt là ngành nông nghiệp chế biến rau quả, lâm sản, chế biến thức ăn gia súc, sản phẩm cây công nghiệp và hải sản. Đầu tư nước ngoài vào ngành nông nghiệp tăng kéo theo những hiệu ứng dây chuyền tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập của một bộ phận dân cư ở khu vực nông thôn. c) Hiệp định thương mại tạo điều kiện cho ngành nông nghiệp Việt Nam phát triển hơn theo hướng tăng khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam, hình thành nền sản xuất hàng hoá mạnh, giúp cho ngành nông nghiệp Việt Nam thay đổi cơ cấu theo hướng phát huy lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế (trước hết là đối với Mỹ), tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia rộng rãi hơn vào các hoạt động sản xuất kinh doanh và phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, các nguồn lực trong khu vực nông nghiệp và nông thôn được phân bổ hợp lý và hiệu quả hơn. Như vậy, việc thực hiện Hiệp định thương mại Việt -Mỹ tác động hai chiều tới hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Một mặt nó tạo ra một thị trường rộng lớn cho những ngành hàng có khả năng cạnh tranh của Việt Nam. Nhưng mặt khác, khi hàng rào thuế quan được cắt giảm và tiến tới xoá bỏ sẽ là nguy cơ đối với những mặt hàng Việt Nam có khả năng cạnh tranh trung bình và yếu như rau quả, đường, sữa. 2. Quá trình thực hiện Hiệp định khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) Thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam đã có những biện pháp tích cực để thực hiện các Quy định trong Hiệp định về Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT để thực hiện khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Tháng 12/1995 tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN ở Băngkok, Việt Nam đã đệ trình danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) gồm 165 mặt hàng, danh mục loại trừ tạm thời (TEL) 1189 mặt hàng, danh mục nhạy cảm (SL) 26 mặt hàng, danh mục cắt giảm ngay (IL) 1633 mặt hàng. Tính đến 31 tháng 12 năm 2000, tổng số mặt hàng nông sản có trong danh mục biểu thuế ưu đãi hiện hành của Việt Nam là 840 dòng thuế, trong đó có 51 dòng thuế thuộc danh mục SL, 17 dòng thuộc Danh mục GEL, 569 dòng thuế đã đưa vào thực hiện cắt giảm IL và 203 dòng thuế thuộc danh mục TEL. Riêng mặt hàng đường nằm trong Danh mục hàng nông sản chế biến nhạy cảm nên không cam kết giảm thuế quan trong những năm tới. Bảng 2.3: Lịch trình giảm thuế suất theo CEPT/AFTA của Việt Nam đối với các sản phẩm nông, lâm nghiệp chính [4, tr.15] Ngành hàng 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Gạo 20% 20% 20% 15% 10% 5% Cà phê: Sơ chế Thành phẩm 15% 35% 10% 25% 10% 20% 10% 15% 5% 15% 10% 10% 5% Chè Sơ chế Thành phẩm 15% 40% 15% 30% 10% 20% 10% 15% 5% 15% 10% 10% 5% Cao su 3% 3% 3% 3% 3% 3% 3% Rau quả Rau, củ Quả 20% 20% 15% 20% 15% 20% 10% 15% 5% 15% 15% 10% 5% Hạt điều 20% 15% 15% 15% 10% 10% 10% 5% Cây có dầu 10% 10% 10% 10% 10% 5% Đường 35% 40% Gỗ 5% 5% 5% 5% 5% 5% 5% 5% Thịt lợn 15% 15% 15% 15% 15% 10% 10% 5% Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương) (10/2002), Sau 3 năm thực hiện các cam kết của AFTA về giảm thuế quan, về mặt lý thuyết quan hệ thương mại giữa Việt Nam và ASEAN diễn ra theo chiều hướng có lợi. Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang các nước ASEAN năm 1999 tăng 52% so với năm 1997 (trong khi mức xuất khẩu hàng nông sản là 15%); nhập khẩu giảm 4% (trong khi nhập khẩu hàng nông sản chung tăng 20%). Điều đó chứng tỏ hàng nông sản Việt Nam ngày càng thâm nhập sâu hơn vào thị trường ASEAN. Đánh giá khả năng xuất khẩu của hàng nông sản Việt Nam khi tham gia AFTA có thể phân làm 3 nhóm hàng theo mức độ thâm nhập như sau: Thứ nhất, đối với những sản phẩm có khả năng thâm nhập thị trường ASEAN: gạo, cà phê,hạt tiêu, điều. Đây là nhóm mặt hàng nông sản Việt Nam có lợi thế cạnh tranh không chỉ trong khối mà đã xác định được vị thế trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, đây là hàng nông sản thô hoặc sơ chế và cũng là lợi thế cạnh tranh của một số nước ASEAN do điều kiện tự nhiên tương tự như nhau hoặc do nhu cầu tiêu dùng, do thuế suất nhập khẩu các mặt hàng này đã giảm xuống từ 0-5%, hoặc do chất lượng sản phẩm, giá cả và khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường, do đó, mức độ thâm nhập thị trường của các loại sản phẩm không giống nhau giữa các nước đối tác nhập khẩu trong khối ASEAN. * Đối với gạo: Trong những năm qua gạo của Việt Nam đã được xuất khẩu với khối lượng tăng đáng kể vào thị trường ASEAN. Thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam trong khối ASEAN gồm các nước: Indonesia, Philippin, Malaysia, Singapore và Lào. Nếu như năm đầu thực hiện CEPT/AFTA, xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường ASEAN chỉ đạt 964.010 tấn, chiếm 32% kim ngạch xuất nhập khẩu, thì năm 2001, xuất khẩu gạo của Việt Nam sang các nước ASEAN đạt 1.331.300 tấn với giá trị 569.600 USD, chiếm 43% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam. Trong 6 tháng đầu năm 2006, Việt Nam đã xuất khẩu gạo sang 20 thị trường chính, trong đó Philippin là nước nhập khẩu gạo Việt Nam nhiều nhất với 1.090.690 tấn, trị giá 308.029.650 USD (chiếm 38,8% về lượng và 39,98% về kim ngạch của cả nước), tiếp sau đó là các thị trường Malaysia, Nhật, Indonesia…[51]. Tính đến nay, thị trường ASEAN vẫn là thị trường nhập khẩu lớn mặt hàng gạo của Việt Nam. Mặc dù vậy, lúa gạo lại thuộc danh mục nhạy cảm của các nước này (trừ Singgapore) nên lợi ích của việc giảm thuế theo CEPT-AFTA của mặt hàng này chỉ phát huy tác dụng mạnh sau năm 2010 khi danh mục nhạy cảm được đưa vào cắt giảm. Mặt khác, gạo của Việt Nam phải cạnh tranh mạnh với gạo của Thái Lan và Myanmar trên thị trường ASEAN, trong khi đó các nước nhập khẩu gạo khối lượng lớn cũng đang có xu hướng khuyến khích sản xuất trong nước vì mục tiêu an ninh lương thực, vì thế khi CEPT-AFTA hoàn thành thì thị trường dành cho gạo của Việt Nam mở ra cũng không nhiều. * Đối với cà phê: Các nước ASEAN nhập khẩu cà phê của Việt Nam có Singapore, Thái Lan và Indonesia, nhập khẩu dưới dạng thô, sơ chế. Nhưng từ năm 1996 trở lại đây t._.ọp tháng 7 vừa qua, Việt Nam đã cam kết bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu nông nghiệp kể từ thời điểm gia nhập WTO. Do đó, khi gia nhập WTO không còn duy trì bảo hộ đối với những ngành này rõ ràng tác động của việc gia nhập WTO theo chiều hướng tiêu cực. Mặt khác, khi gia nhập WTO hàng rào thuế quan sẽ giảm và tiến tới xoá bỏ, đồng thời những biện pháp phi thuế như việc hạn chế định lượng hay sử dụng giấy phép xuất nhập khẩu đều tiến tới được thay thế bằng biện pháp thuế quan. Như vậy, điều này đồng nghĩa với việc những hàng hoá nhập khẩu từ các nước thành viên của WTO sẽ có điều kiện thâm nhập vào thị trường Việt Nam và do đó khả năng hàng nhập khẩu thay thế cho những mặt hàng có sức cạnh tranh kém và không có sức cạnh tranh là không thể tránh khỏi. Như vậy, trong nhóm hàng nông sản được phân định theo khả năng cạnh tranh, bên cạnh những mặt hàng được đánh giá là có khả năng gia tăng được khối lượng xuất khẩu, cũng có những mặt hàng sẽ không gia tăng được khối lượng xuất khẩu và đồng thời có những mặt hàng sẽ được thay thế bởi hàng nhập khẩu.Tuy nhiên, ngay cả những mặt hàng được đánh giá là tác động theo chiều hướng tích cực khi gia nhập WTO cũng có thể bị thu hẹp sản xuất và bị đánh bại ngay trên thị trường nội địa nếu không có những giải pháp thích ứng kịp thời. Tổng hợp kết quả nghiên cứu của Trung tâm Thương mại quốc tế và Cục Xúc tiến Thương mại Việt Nam về tiềm năng xuất khẩu của ngành hàng nông sản như sau: Bảng 2.10: Tổng quan về tiềm năng xuất khẩu của ngành [47] Ngành hàng (xếp hạng trong từng nhóm theo kim ngạch xuất khẩu năm 2007) Đánh giá bởi ITC (chỉ số) Đánh giá bởi các chuyên gia tư vấn trong nước Chú thích Cà phê Cao Cao Việt Nam là nước sản xuất cà phê khá cạnh tranh với sản lượng cao và chi phí sản xuất thấp. Công nghệ sau thu hoạch, vấn đề lưu kho và chế biến còn lạc hậu Gạo Thấp Cao Ngành hàng quan trọng đối với vấn đề an ninh lương thực và tuyển dụng lao động. Tuy nhiên các khu vực sản xuất có quy mô nhỏ, tính chất phân đoạn cao nên ảnh hưởng tiêu cực đến năng suất, chi phí sản xuất và khả năng thu lợi. Thuế suất cao và phân biệt đối xử Hạt điều và các loại hạt khác Cao Cao Việt Nam là một trong số những nước xuất khẩu lớn nhất thế giới, nhưng nguồn cung hạt điều thô trong nước chưa đủ do lượng chế biến lớn Rau quả Thấp Trung bình Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu dưới hình thức chế biến, đặc biệt là sản phẩm đóng hộp có giá thấp. Nhưng nói chung số lượng nhỏ, sản lượng thấp Hạt tiêu và các loại gia vị khác Cao Cao Ngành hàng hướng chủ yếu vào xuất khẩu. Việt Nam là nước xuất khẩu hạt tiêu đen lớn nhất thế giới. Nhưng công nghệ chế biến còn lạc hậu và chất lượng sản phẩm vẫn thấp Chè Trung bình Trung bình Mức tăng trưởng xuất khẩu cao nhưng sản lượng và chất lượng vẫn thấp Nguồn: Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương(2007) Việc gia nhập WTO thúc đẩy xuất khẩu nông sản hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: sự thay đổi các rào cản thương mại của các nước nhập khẩu, các nhà xuất khẩu hoặc là không nhận thấy hoặc là không có khả năng khai thác được lợi thế tiếp cận thị trường tốt hơn ở nước ngoài. Vì thế, chiều hướng tác động có thể của việc gia nhập WTO đến từng nhóm hàng nông sản xuất khẩu hay sự thay đổi khối lượng sản phẩm xuất khẩu dưới tác động của việc giảm thuế quan và tự do hoá thương mại đối với các ngành là không giống nhau. Những nhận định về tác động của việc gia nhập WTO đối với nhóm hàng nông sản là những dự báo mang tính chất xu hướng. Trên thực tế, kinh nghiệm của các nước thành viên mới gia nhập WTO cho thấy trong ngắn hạn tác động của việc gia nhập WTO tới ngành nông nghiệp không nhanh và mạnh như dự đoán của nhiều chuyên gia kinh tế và mức độ tác động đối với từng ngành kinh tế nhiều hay ít còn phụ thuộc lớn vào sự điều chỉnh chính sách thương mại của Nhà nước khi gia nhập và mức độ thuế quan cam kết thực hiện. Chương III: Những Giải pháp để nền nông nghiệp Việt Nam thích ứng khi gia nhập WTO Như ở trên đã nói, Việt Nam gia nhập WTO, nền nông nghiệp chịu sự tác động nhiều mặt bởi những quy định, những Hiệp định của WTO. Để thích ứng, nền nông nghiệp Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp như sau: I. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng phát triển có trọng điểm những ngành nông nghiệp có lợi thế cạnh tranh trên thị trường Gia nhập WTO đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ phải tham gia vào một cuộc cạnh tranh mà thực chất là cuộc cạnh tranh giữa nông nghiệp nhỏ và nông nghiệp lớn, giữa nông nghiệp truyền thống với nông nghiệp hiện đại, giữa nông nghiệp tập trung nhiều lao động với nông nghiệp có hàm lượng vốn và kỹ thuật cao. Đứng trước thực tế khi những công cụ thương mại góp phần bảo hộ sản xuất cho một nông sản nào đó không còn, cách tồn tại và phát triển tốt nhất là đối với những ngành sản xuất nhỏ lẻ, không có khả năng cạnh tranh nên thực hiện chuyển đổi cơ cấu sản xuất, chỉ tập trung phát triển những ngành, mặt hàng thực sự có lợi thế so sánh để tồn tại và phát triển. Sự chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp thành công hay thất bại phụ thuộc nhiều vào chủ trương chuyển đổi và tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đã xác định. ở đây, Nhà nước có vai trò quyết định trong việc hoạch định các chủ trương và chính sách. Để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, Đảng và Nhà nước ta cần có những định hướng về cơ cấu, quy mô và chủng loại sản phẩm của ngành nông nghiệp nhằm khai thác được lợi thế của cả nước và từng vùng, từng ngành, từng mặt hàng theo nhu cầu của thị trường trong nước và thế giới. Theo đó Nhà nước tiến hành quy hoạch và công khai hoá rộng rãi các vùng nuôi trồng, sản xuất tập trung trên địa bàn cả nước. Đối với những vùng, những mặt hàng hiện đang có thế mạnh trong cạnh tranh và vẫn có khả năng cạnh tranh được khi gia nhập WTO như thuỷ sản, lúa gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, điều… Nhà nước tập trung hỗ trợ về mọi mặt cho phát triển sản xuất không trái với các quy định của WTO như các chính sách khuyến nông, chính sách đất đai, chính sách đầu tư… Đối với những vùng, mặt hàng cạnh tranh không hiệu quả và không cần mở rộng thêm diện tích, Chính phủ có thể uỷ quyền cho ủy ban Nhân dân các tỉnh công bố rộng rãi để có thể sớm chuyển đổi sang các loại cây trồng khác. II. Điều chỉnh một số chính sách kinh tế liên quan * Chính sách thương mại: Gia nhập WTO cũng như thực hiện các cam kết hiệp định thương mại khu vực khác trong những năm qua cho thấy vẫn còn nhiều lĩnh vực mà Việt Nam phải hành động để tối đa hoá lợi ích từ việc tự do hoá thương mại mà WTO đem lại. Trong xu thế chung về tự do hoá thương mại nông sản của WTO, Việt Nam cần chuyển mạnh sang các biện pháp thuế quan đối với các mặt hàng nhập khẩu, áp dụng các biện pháp thuế quan thay cho các biện pháp phi thuế quan hiện đang được sử dụng như hạn chế định lượng, biện pháp sử dụng giấp phép nhập khẩu tự động… Mặt khác, đi đôi với thực hiện thuế hoá các mặt hàng nhập khẩu thì cũng cần tận dụng các công cụ, biện pháp phù hợp với WTO: - Các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS): Hiệp định cho phép các nước được sử dụng các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật, các biện pháp vệ sinh kiểm dịch mà nước đó cho là thích hợp hoặc cần thiết để bảo vệ sức khoẻ, đời sống của con người, động thực vật và bảo vệ môi trường và quyền lợi của người tiêu dùng với điều kiện là các biện pháp đó không được áp dụng theo cách thức tạo ra sự phân biệt đối xử tuỳ tiện hay hạn chế vô lý đối với thương mại quốc tế. Trên thực tế, các quốc gia thành viên của WTO đã sử dụng khá phổ biến phương pháp này. Trong đó từ năm 1995 đến năm 2003 các thành viên của WTO đã sử dụng 3700 biện pháp SPS để ngăn chặn hàng nhập khẩu, trong đó các nước OECD áp dụng 68% còn các nước đang phát triển Châu á-Thái bình dương chỉ chiếm 9%. Như vậy, xu hướng các nước phát triển sử dụng phổ biến các biện pháp này. Do đó, nếu khéo léo vận dụng dựa trên căn cứ thích hợp hoặc cần thiết thì Việt Nam có thể tận dụng biện pháp này để hạn chế xuất khẩu của nước ngoài vào Việt Nam trong khi vẫn biện minh được là không trái với quy định của WTO và trong chừng mực nhất định làm tăng lợi ích người tiêu dùng. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra đối với Việt Nam khi gia nhập WTO để có thể sử dụng được các biện pháp trên cũng cần phải cải thiện cả về tổ chức, khả năng giám sát và phổ biến kỹ thuật, công nghệ nhằm đáp ứng những yêu cầu về kỹ thuật và dịch tễ ngày càng cao từ phía các nước phát triển. Nếu không hàng nông sản của Việt Nam vẫn khó có chỗ đứng vững chắc trên thị trường của các nước phát triển. - Sử dụng công cụ “tự vệ đặc biệt”: Theo quy định của Điều V của Hiệp định nông nghiệp, nếu một sản phẩm của một nước đã được thuế hoá và bảo lưu được điều khoản tự vệ đặc biệt (SSG) trong biểu cam kết quốc gia thì khi lượng nhập khẩu vượt quá số lượng giới hạn hoặc giá nhập khẩu giảm xuống dưới mức giá giới hạn nước nhập khẩu có quyền sử dụng quyền tự vệ đặc biệt. Trên thực tế, Việt Nam đã và đang áp dụng biện pháp tự vệ để bảo vệ một số ngành sản xuất trong nước, giúp các ngành này đỡ bị tổn thương do hàng nhập khẩu gia tăng số lượng quá lớn. Tuy nhiên Việt Nam chưa có văn bản pháp luật làm cơ sở làm cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các biện pháp này. Trong khi đó, biện pháp tự vệ là một công cụ được WTO thừa nhận để hạn chế định lượng hàng nhập khẩu trong một thời gian nhất định nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại hay có nguy cơ bị thiệt hại nghiêm trọng. Nhưng đòi hỏi phải nâng cao năng lực thể chế pháp lý và năng lực con người thì mới có thể tự bảo vệ các ngành sản xuất trong nước một cách có hiệu quả và kịp thời. - Trợ cấp và các biện pháp đối kháng: WTO cho phép các nước thành viên duy trì các hình thức trợ cấp không gây bóp méo thương mại hoặc gây tổn hại tới lợi ích của các nước thành viên khác. Đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, WTO cũng thừa nhận trợ cấp là một công cụ phát triển hợp pháp và quan trọng của các thành viên đang phát triển. Do đó, xét về khía cạnh pháp lý nếu Việt Nam trở thành thành viên của WTO thì có thể được hưởng những đãi ngộ đặc biệt và khác biệt liên quan đến vấn đề trợ cấp dành cho các nước đang phát triển. Việc trợ cấp có thể thực hiện trực tiếp cho ngành sản xuất nội địa hoặc gián tiếp thông qua hỗ trợ cung cấp đầu vào cho ngành đó để nâng cao lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm nội địa so với sản phẩm nhập khẩu. Mặc dù các quy định về trợ cấp tại Hiệp định nông nghiệp của WTO khá chi tiết nhưng một số hình thức trợ cấp liên quan tới tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, bảo hiểm xuất khẩu đến nay vẫn chưa được điều chỉnh cụ thể bởi bất kỳ quy tắc quốc tế thống nhất nào, do đó vẫn được các nước vận dụng để né tránh các cam kết về cắt giảm trợ cấp xuất khẩu. Như vậy, xét từ những khía cạnh trên Việt Nam có thể nghiên cứu kinh nghiệm của các nước để sử dụng hiệu quả biện pháp trợ cấp này nhằm bảo hộ cho các doanh nghiệp trong nước hoặc cải thiện khả năng cạnh tranh của hàng hóa nông sản xuất khẩu. - Sử dụng các biện pháp liên quan tới môi trường: Ngoài những biện pháp bảo hộ mới như trên, vấn đề bảo vệ môi trường đang trở thành chủ đề nổi bật liên quan tới nhiều lĩnh vực của quan hệ quốc tế, trong đó có thương mại. Mỗi quốc gia đều có chính sách riêng liên quan tới bảo vệ môi trường phù hợp với đặc thù riêng. Nghiên cứu “hàng rào xanh” của Trung Quốc là một ví dụ điển hình. Như vậy, khi gia nhập WTO Việt Nam có thể nghiên cứu để khai thác tốt biện pháp này khi cần bảo hộ sản xuất trong nước, đồng thời cũng là căn cứ để buộc các đối tác loại bỏ những biện pháp nhất định viện lý do bảo vệ môi trường để hạn chế nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam. * Chính sách trợ cấp xuất khẩu: Trong những năm qua, chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu của Nhà nước đã phát huy tác dụng tích cực. Tuy vậy, theo đánh giá của các cơ quan liên quan cũng như các doanh nghiệp, chính sách này còn nhiều điều hạn chế, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang thực hiện hội nhập sâu rộng với kinh tế quốc tế và đang phấn đấu gia nhập WTO trong năm 2006 này. Nhiều chính sách trợ cấp xuất khẩu của Việt Nam như thưởng xuất khẩu, trợ cấp thay thế nhập khẩu, hay chính sách tín dụng ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu do Quỹ hỗ trợ xuất khẩu thực hiện từ năm 2001 dưới hình thức cho vay với lói suất ưu đãi sẽ không thể thực hiện được do vi phạm các quy định của WTO. Việc đánh giá hiệu quả chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, xem xét lại những khó khăn vướng mắc và đưa ra những đề xuất hoàn thiện chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu nhằm hỗ trợ tốt hơn cho doanh nghiệp và đáp ứng yêu cầu hội nhập là rất cần thiết. Theo đó, Nhà nước: Thứ nhất, thực hiện đa dạng hoá các hình thức hỗ trợ, bao gồm: mở rộng hoạt động cho vay đối với người bán với những phương thức cho vay linh hoạt hơn, hình thức cho vay đa dạng hơn, bổ sung hoạt động cho vay đối với người mua để hỗ trợ việc bán hàng của doanh nghiệp trong nước. Đây là hình thức cho vay đối với nhà nhập khẩu để thanh toán cho nhà xuất khẩu của Việt Nam, trong đó nguồn vốn cho vay đối với nhà nhập khẩu nước ngoài được trả trực tiếp cho doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam. Thứ hai, là chủ động áp dụng các thông lệ quốc tế trong lĩnh vực tín dụng xuất khẩu để tránh vi phạm các nguyên tắc cơ bản của WTO. Hiện nay, hoạt động cung cấp dịch vụ tín dụng xuất khẩu chịu sự điều chỉnh của 2 hiệp định quốc tế bao gồm hiệp định của OECD về tín dụng xuất khẩu chính thức và Hiệp định của WTO về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM). Thứ ba, ổn định danh mục các mặt hàng thuộc đối tượng được hưởng chính sách. Việc ban hành danh mục thường chậm hơn so với yêu cầu hàng năm. Chính vì vậy đã tạo nên sự bất ổn về tâm lý đối với người vay vốn tại quỹ hỗ trợ phát triển. III. Đổi mới phương thức quản lý nông nghiệp của Nhà nước * Đổi mới quản lý, ổn định thị trường sản xuất và xuất khẩu nông sản: Đổi mới và nâng cao vai trò quản lý của nhà nước trong việc ổn định thị trường, hỗ trợ cho sản xuất và xuất khẩu nông sản hàng hoá là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng hiện nay. Theo đó: + Nhà nước định hướng thị trường xuất khẩu thông qua các hiệp định song phương và đa phương với các nước. Đồng thời nhà nước có sự trợ giúp nhất định về các thông tin cập nhật liên quan đến thị trường các nước, các khu vực trên thế giới. + Tạo điều kiện cho các nhà sản xuất, các nhà kinh doanh trực tiếp tiếp cận với thị trường. + Đẩy mạnh xúc tiến thương mại nông sản hàng hoá thông qua triển lãm, hội trợ, các trung tâm giới thiệu sản phẩm nông sản hàng hoá trong và ngoài nước. * Đầu tư nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ mới vào sản xuất nông sản hàng hoá: Để khoa học công nghệ góp phần tích cực vào phát triển nền nông nghiệp hàng hoá, trong những năm trước mắt cần chú trọng tập trung nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ vào việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, khai thác lợi thế của từng vùng sinh thái vừa đảm bảo phát triển bền vững, vừa nâng cao năng suất, chất lượng, giảm giá thành, nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản, tăng giá trị kinh tế trên một đơn vị diện tích. Với từng vùng, từng loại cây trồng, vật nuôi cần chú ý đổi mới công nghệ đồng bộ ở các khâu trước, trong và sau sản xuất theo hướng hiện đai. Đẩy mạnh phát triển công nghệ sinh học trong nông nghiệp bằng việc thay thế các giống cây trồng và vật nuôi có năng suất, chất lượng thấp, không phù hợp với yêu cầu của thị trường bằng các loại giống mới có năng suất, chất lượng cao, bảo đảm được những tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm nghiêm ngặt nhất theo tiêu chuẩn trong nước và tiêu chuẩn của WTO. Cùng với việc ứng dụng kỹ thuật canh tác và những giống cây trồng, vật nuôi mới cần chú trọng nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào khâu sau thu hoạch - khâu có vai trò đặc biệt quan trọng để giảm tổn thất, nâng cao hiệu quả sản xuất và đảm bảo đáp ứng tốt nhu cầu của người tiêu dùng. Ngoài việc hiện đại hoá kỹ thuật phơi sấy, cần chú trọng nghiên cứu các phương pháp bảo quản nông sản để đảm bảo tính hấp dẫn không chỉ ở màu sắc mà còn đảm bảo tuyệt đối khâu vệ sinh an toàn thực phẩm. * Phát triển công nghiệp chế biến nông sản: Hiện nay, mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt với nông sản nhập khẩu chế biến cũng như chưa chế biến với chất lượng cao và giá tương đối rẻ sẽ khiến cho các nhà sản xuất trong nước mất dần thị phần với ngay cả những nông sản truyền thống và có thị trường tương đối ổn định. Phát triển công nghiệp chế biến là cách thức nâng cao giá trị, vừa tạo đầu ra ổn định hơn cho ngành nông sản xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá. Việc chế biến nông sản đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng đang thay đổi của thế giới sẽ giúp ta giành được thị phần lớn cho hàng hoá nông sản trên thị trường quốc tế. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi thị trường thế giới có những biến động về giá cả và sản lượng. Thực hiện điều này, Việt Nam cần làm tốt một số vấn đề sau: + Quy hoạch xây dựng các vùng sản xuất nông sản quy mô lớn theo định hướng chiến lược xuất khẩu. Từ đó tập trung thâm canh và ứng dụng công nghệ tiên tiến trong chế biến + Gắn chế biến với sản xuất nông sản hàng hoá theo hướng: xây dựng các cơ sở chế biến gắn liền với nơi sản xuất nông sản, từng khu vực xây dựng các nhà máy chế biến với kỹ thuật tiên tiến trên cơ sở quy hoạch các vùng nguyên liệu là vệ tinh cho các nhà máy. + Về mặt tổ chức quản lý, cần thiết lập quan hệ chặt chẽ và lâu bền giữa các cơ sở công nghiệp chế biến với các cơ sở sản xuất nông sản. Đồng thời cũng cần có chế định pháp lý để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho nông dân cũng như các nhà máy chế biến. IV. Chú trọng xây dựng thương hiệu cho các mặt hàng nông sản xuất khẩu Trong bối cảnh hiện nay khi giá cả các mặt hàng nông sản thô, chưa qua chế biến trên thị trường quốc tế giá cả thường xuyên biến động, khó dự đoán thì giá cả của hàng nông sản đã qua chế biến lại ổn định. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống của người nông dân, trong khi đó những người kinh doanh lại không bị ảnh hưởng. Theo dự đoán, trên 90% sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam xuất khẩu ra thị trường nước ngoài không có thương hiệu do các doanh nghiệp thiếu thông tin về thị trường xuất khẩu, không nhận thức được tầm quan trọng của thương hiệu và không quen với thủ tục và chi phí đăng ký thương hiệu, tên thương mại và nhãn hiệu thương mại. Thực tế đó đặt ra phải cần thiết xây dựng thương hiệu cho từng mặt hàng. Tuy nhiên, từ trước đến nay Việt Nam mới chỉ tập trung vào phát triển các sản phẩm thô mà ít chú ý đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm chế biến và xây dựng thương hiệu riêng cho sản phẩm nông nghiệp của mình. Chính vì vậy, mặc dù có nhiều tiềm năng trong việc phát triển các sản phẩm nông nghiệp nhưng khả năng cạnh tranh của nhiều sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam không cao. Do vậy, cùng với việc hỗ trợ hoạt động phát triển thương hiệu của các công ty, doanh nghiệp, cũng cần tận dụng uy tín của các khu vực vốn có các sản phẩm nông nghiệp đặc sản để dùng làm các chỉ dẫn địa lý, tăng thêm sức thu hút của sản phẩm nông nghiệp. Đồng thời, Nhà nước cần khuyến khích các doanh nghiệp đăng ký thương hiệu ở thị trường trong và ngoài nước, điều đó cho phép nhà nước can thiệp được trong việc bảo vệ thương hiệu cho các doanh nghiệp. Trong giai đoạn đầu khi mức tích luỹ trong nông nghiệp chưa đủ lớn để xây dựng thương hiệu riêng, Nhà nước cần có các biện pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp dưới dạng chi phí quảng cáo, xúc tiến thương mại. Kết luận chương 2 Quá trình hội nhập kinh tế, trong đó có việc thực hiện Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ và CEPT/AFTA là bước thử nghiệm quan trọng cho ngành nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO. - Việc thực hiện Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ tác động hai chiều đến ngành nông nghiệp Việt Nam. Một mặt nó tạo ra một thị trường rộng lớn cho những ngành hàng có khả năng cạnh tranh. Nhưng mặt khác, khi hàng rào thuế quan được cắt giảm và tiến tới loại bỏ sẽ là nguy cơ đối với những mặt hàng Việt Nam có khả năng cạnh tranh trung bình và yếu. - Thực hiện CEPT/AFTA cũng tác động hai chiều tới ngành nông nghiệp Việt Nam. Đối với những ngành được đánh giá là thế mạnh trong cạnh tranh của Việt Nam sẽ sớm tận dụng được những ưu đãi về thuế quan mà các nước trong khu vực dành cho. Nhưng mặt khác ngành nông nghiệp Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với thách thức khi hàng rào thuế quan giảm xuống bởi Việt Nam có nhiều điểm tương đồng trong sản xuất hàng nông sản xuất khẩu của ASEAN. - Gia nhập WTO tác động đến ngành nông nghiệp Việt Nam trên cả hai khía cạnh chính sách thương mại nông nghiệp và hàng nông sản xuất khẩu. + Đối với chính sách nông nghiệp còn một số điểm chưa hoàn toàn phù hợp với các quy định của WTO cần phải điều chỉnh. Tuy nhiên khoảng cách phải điều chỉnh không phải là nhiều, tập trung chủ yếu vào những hỗ trợ của Nhà nước đối với ngành mía đường. + Đối với nhóm hàng nông sản xuất khẩu, phân tích theo tiêu chí khả năng cạnh tranh, một số mặt hàng được đánh giá có khả năng cạnh tranh cao, một số mặt hàng có khả năng cạnh tranh trung bình và yếu và tác động của việc gia nhập WTO theo những chiều hướng khác nhau. Để giảm thiểu những tác động tiêu cực khi gia nhập WTO, đồng thời tận dụng được những lợi thế của việc gia nhập tổ chức này mang lại, ngành nông nghiệp Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp thích ứng. Kết Luận Những nghiên cứu của chuyên đề đã phân tích bức tranh khái quát về tổ chức Thương mại thế giới (WTO) về mục tiêu, chức năng, nguyên tắc hoạt động, cũng như kinh nghiệm của một số nước trong giải quyết vấn đề nông nghiệp khi gia nhập WTO. Trên cơ sở về những vấn đề cơ bản của WTO, các hiệp định của WTO trong lĩnh vực nông nghiệp.Chuyên đề phân tích những tác động có thể của việc gia nhập WTO trên hai khía cạnh chính sách và một số hàng hoá nông sản xuất khẩu. Nền nông nghiệp Việt Nam đã chuyển biến hết sức tích cực trong 2 năm đầu gia nhập WTO do thị trường xuất khẩu được mở rộng,kim ngạch xuất khẩu tăng cao,tiếp xúc với nhưng tư duy sản xuất và kinh doanh tiên bộ điều nay đã thể hiện khá rõ trên tăng trưởng GDP trong nông nghiệp tăng 6,54%,xuất khẩu hàng hoá nông sản tăng 10,7%.Nền nông nghiệp Việt Nam đang bứt phá mạnh mẽ. Tuy nhiên,Việt Nam cũng đang phảI đối măt với những vấn đề hết sức khó khăn khi gia nhập WTO như một số ngành gặp khó khăn trong việc điều chỉnh theo áp lực cạnh tranh ngày càng tăng phát sinh từ những cam kết khi gia nhập WTO.Cụ thể đã có những thời kì sản lượng nông sản xuất khẩu Việt Nam sụt giảm so với trươc khi gia nhập WTO (mặc dù có sự tác động lớn của thiên tai). Từ kinh nghiệm thực tiễn sau 2 năm gia nhập WTO chuyên đề cũng đã đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao những tác động tích cực đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực đến nên nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO để nền nông nghiệp Việt Nam có thể vững bước tiến trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế. Nhận thức được phạm vi nghiên cứu của chuyên đề là rộng,với kiến thức của một sinh viên và những nghiên cứu về tác động của gia nhập WTO là vấn đề còn mới mẻ. Do vậy,e rất cảm ơn và mong nhận được sự góp ý khách quan và khoa học của giáo viên hướng dẫn để tiếp tục hoàn thiện chuyên đề của mình. Em xin chân thành cám ơn TS: Vũ Thị Tuyết Mai đã giúp đỡ em thực hiện chuyên đề này! Danh mục từ viết tắt -WTO: Tổ chức thương mại thế giới - GATT: Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 -AOA: Hiệp định về nông nghiệp -AMS: Mức tổng các biện pháp hỗ trợ gộp -TBTs: Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại -TRIPS: Hiệp định về các khía cạnh thương mại của Quyền sở hữu trí tuệ -ILP: Hiệp định về thủ tục cấp phép xuất nhập khẩu - AFTA: Hiệp định khu vực mậu dịch tự do ASEAN Danh mục bảng biểu Bảng 2.1: Một số mặt hàng nông sản của Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường EU,Nhật Bản và Mỹ năm 2002 Bảng 2.2: Thuế nhập khẩu các mặt hàng nông sản của Mỹ vào Việt Nam trước và sau khi Hiệp định Thương mại được thực thi Bảng 2.3: Lịch trình giảm thuế suất theo CEPT/AFTA của Việt Nam đối với các sản phẩm nông, lâm nghiệp chính Bảng 2.4: Một số mặt hàng nông sản chính được nhập khẩu thường xuyên hiện nay từ các nước ASEAN Bảng 2.5: Đánh giá tổng hợp khả năng cạnh tranh của một số hàng hoá nông sản chính của Việt Nam khi thực hiện CEPT- AFTA Bảng 2.6: Mô hình hoá tác động của việc gia nhập WTO đến ngành nông nghiệp Bảng 2.7: Bảng Kết quả xu hướng tăng sản lượng theo ngành Bảng 2.8: Thuế suất theo lịch trình đã được cam kết Bảng 2.9: Xuất khẩu cà phê của Việt Nam Bảng 2.10: Tổng quan về tiềm năng xuất khẩu của ngành Danh mục Tài liệu tham khảo 1. Đỗ Đức Bình (2004), Quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam, Kinh tế và phát triển (12), tr 10-13 2. Bộ Kế hoạch Đầu tư (Viện Quản lý kinh tế Trung ương)(2004), Đề tài khoa học cấp Bộ: “Phân tích định lượng về ảnh hưởng của quá trình gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) tới sản xuất nông nghiệp của Việt Nam, sử dụng mô hình cân bằng tổng thể”, Hà Nội. 3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương) (10/2002), Đề tài khoa học cấp Bộ: “Cơ sở khoa học của điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong quá trình hội nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN-AFTA”, Hà Nội. 4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Trung tâm Tin học) (3/2003), Đề tài “Nghiên cứu khả năng thâm nhập hàng nông sản Việt Nam vào thị trường Mỹ: các mặt hàng hồ tiêu, cà phê, dứa”, Hà Nội. 5. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2004), Tăng cường năng lực hội nhập quốc tế cho ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn - Lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế của ngành nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội. 6. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2004), Tăng cường năng lực hội nhập quốc tế cho ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn-Tác động của tự do hóa thương mại đến ngành chăn nuôi Việt Nam, Hà Nội. 7. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2004), Tăng cường năng lực hội nhập quốc tế cho ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn - nghiên cứu điều kiện hình thành sàn giao dịch nông sản tại Việt Nam, Hà Nội. 8. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2005), WTO và ngành nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội. 9. Bộ Thương mại (2/2006), Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006-2010, Hà Nội. 10. Phạm Quang Diệu (2002), “Nông nghiệp, nông thôn Trung Quốc với việc gia nhập WTO”, Những vấn đề kinh tế thế giới (2), tr 41-50 11. Bình Dương (2003), “Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO”, Thương nghiệp - Thị trường Việt Nam (10), tr 19,27. 12. Gia nhập WTO Việt Nam kiên định con đường đã chọn (2004), Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà nội. 13. Phạm Lan Hương (2005), “Đánh giá tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến Việt Nam, sử dụng mô hình cân bằng tổng thể”, Tạp chí Quản lý Kinh tế (3), tr18-27. 14. Học viện CTQG Hồ Chí Minh (2006) - Tổng quan khoa học, đề tài khoa học cấp Bộ: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay”, Tr 60-61. 15. Nguyễn Hữu Khải (2004), “Nâng cao khả năng xuất khẩu chè Việt Nam”, Lao động và Xã hội (247), tr16-19. 16. Hoàng Thị Ngọc Loan (2006), “Xuất khẩu nông lâm sản Việt Nam năm 2005 và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Khoa học chính trị (1) tr 15-21. 17.Bùi Xuân Lưu (2004), Bảo hộ hợp lý nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Thống kê, Hà nội. 18. Lý Hoàng Mai (2005), “Lộ trình quan hệ thương mại Việt-Mỹ”, Nghiên cứu Kinh tế (327), tr34-40. 19. Nguyễn Thượng Minh(2004), “Việt Nam: Đường vào WTO”, Phát triển kinh tế (134), tr40. 20. Trần Hồng Minh (2005), “WTO và việc đem lại lợi ích cho các nước đang phát triển”, Tạp chí Tài chính (12), tr 48-49. 21. Nguyễn Duy Nghĩa (2004), “Cây chè: từ sản xuất đến xuất khẩu”, (42). tr16-17. 22. Nông nghiệp Việt Nam trong những năm đổi mới (2003), Tư liệu chuyên đề -Viện Thông tin khoa học số 3. 23. Nông nghiệp và đàm phán thương mại (2001), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội. 24. Phạm Gia Sơn (2004), “Việt Nam gia nhập WTO cơ hội và thách thức”, Lao động và Công đoàn (309), tr8-9,26 25. Chu Ngọc Sơn (2005), “Chính sách thương mại nông nghiệp trong quá trình Việt Nam gia nhập WTO”, Tạp chí Lý luận chính trị (6), Tr 40-44 26. Đặng Kim Sơn - Phạm Quang Diệu (2001), “Tác động của Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ đến ngành nông nghiệp Việt Nam”, Nghiên cứu kinh tế (277), tr15-24. 27. Hoàng Đức Thân (2003), Tổ chức và kinh doanh trên thị trường hàng hoá và dịch vụ ở Việt Nam, Nxb Thống Kê, Hà Nội. 28. Đinh Trọng Thịnh (2004), “Hội nhập tổ chức thương mại thế giới của Việt Nam: Vấn đề và giải pháp”, Ngân hàng (2), tr7-10 29. Đinh Trọng Thịnh (2004), “WTO và các nền kinh tế yếu”, Nghiên cứu kinh tế (3), tr57-61 30. Thời báo Kinh tế Việt Nam, Kinh tế 2005-2006 Việt Nam và Thế giới. 31. Đặng Quốc Tuấn (2004), “Tác động khi tham gia WTO tới nền kinh tế Việt Nam”, Tạp chí Thương mại (39), tr4-5 32. Nguyễn Kế Tuấn (2004), “Nông sản xuất khẩu Việt Nam và một số giải pháp phát triển”, Tạp chí Lao động và Xã hội (247), tr 10-14. 33. Vũ Trí Tuệ (2005), “Giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu cà phê”, Tạp chí Thương mại (30), tr4-5, 10. 34. Lương Văn Tự (2004), “Tiến trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và những thuận lợi, khó khăn khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO”, Tạp chí Cộng Sản (24), tr22-26 35. Từ diễn đàn Siatơn toàn cầu hóa và tổ chức thương mại thế giới (WTO) (2000), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội. 36. Viện Quản lý Kinh tế Trung ương (2003), Đánh giá tác động kinh tế của Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 37. Ngân hàng Thế giới (2004), Sổ tay về: Phát triển thương mại và WTO, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 38. Trung tâm Thương mại quốc tế UNCTAD/WTO (ITC) và Cục Xúc tiến Thương mại Việt Nam (VIETRADE) (tháng 8/2005), Đánh giá tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam. 39. Viện Quản lý Kinh tế Trung ương (11/2001), Đề tài khoa học cấp Nhà nước, Chuyên đề: Chính sách và giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá nông sản ở nước ta, Hà Nội. 40. Viện Quản lý Kinh tế Trung ương (2005), Kinh tế Việt Nam 2008, Nxb Khoa học và Kỹ thuật. Mục lục XÁC NHẬN ĐƠN VỊ THỰC TẬP Tờn SV: Hà Sơn Lõm Lớp: KTPT A-K47-QN Chuyờn đề : “Tỏc động của việc gia nhập WTO đến nền nụng nghiệp Việt Nam” ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTH2607.doc