Tô Hoài với 2 thể văn : Chân dung và tự truyện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên i ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ----------------------------------- DƢƠNG THỊ THU HIỀN TÔ HOÀI VỚI HAI THỂ VĂN: CHÂN DUNG VÀ TỰ TRUYỆN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Thái Nguyên - Năm 2007 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ii ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ----------------------------------- DƢƠNG THỊ THU HIỀN TÔ HOÀI VỚI HAI THỂ VĂN: CHÂN DUNG VÀ TỰ TRUYỆN Chuyê

pdf128 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1620 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Tô Hoài với 2 thể văn : Chân dung và tự truyện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. PHONG LÊ Thái Nguyên - Năm 2007 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên i MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 2 3. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3 4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 4 5. Phƣơng pháp nghiên cứu .............................................................................. 4 6. Đóng góp mới của luận văn .......................................................................... 8 7. Cấu trúc của luận văn ................................................................................... 8 NỘI DUNG ........................................................................................................ 9 Chương 1: TỔNG QUAN VỀ NHÀ VĂN TÔ HOÀI .................................... 9 1.1. Nhà văn Tô Hoài ....................................................................................... 9 1.1.1 Tiểu sử và quá trình sáng tác................................................................... 9 1.1.2. Quan niệm về nghề văn và người viết văn ........................................... 13 1.2. Về hai thể văn chân dung và tự truyện của Tô Hoài ........................................ 15 1.2.1. Chân dung văn học của Tô Hoài .......................................................... 15 1.2.2. Tự truyện của Tô Hoài ......................................................................... 20 Chương 2: TÔ HOÀI VỚI CÁC CHÂN DUNG VĂN HỌC ....................... 23 2.1. Chung quanh khái niệm về chân dung văn học và chân dung văn học của Tô Hoài ........................................................................................... 23 2.1.1. Khái niệm ............................................................................................. 23 2.1.2. Các đặc trưng cơ bản của thể chân dung văn học ................................ 24 2.1.3. Chân dung văn học của Tô Hoài .......................................................... 28 2.2. Đặc sắc trong chân dung văn học của Tô Hoài ....................................... 35 22.1. Khắc hoạ chân dung trong không khí văn học thời đại ................................ 35 2.2.2. Dựng chân dung theo dòng hồi tưởng .................................................. 49 2.2.4. Dựng chân dung nhà văn trên cái nền phong tục lạ ............................. 54 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ii 2.3. Chân dung một số nhà văn và bức chân dung tự hoạ ............................. 58 Chương 3: TÔ HOÀI VỚI TỰ TRUYỆN ................................................... 68 3.1. Chung quanh khái niệm về tự truyện ...................................................... 68 3.1.1. Khái niệm ............................................................................................. 68 3.1.2. Các đặc trưng cơ bản của tự truyện ..................................................... 72 3.1.3. Tự truyện trong hành trình văn xuôi Tô Hoài ...................................... 76 3.2. Đặc sắc trong nội dung của tự truyện của Tô Hoài ................................. 76 3.2.1. Nhãn quan sinh hoạt, thế sự ................................................................. 85 3.2.2. Tự truyện pha dấu ấn tiểu thuyết ......................................................... 93 3.3. Đặc sắc trong nghệ thuật viết tự truyện của Tô Hoài 3.3.1. Ngôn ngữ .............................................................................................. 93 3.3.2. Nghệ thuật trần thuật luôn mang một sắc thái riêng .......................... 106 KẾT LUẬN .................................................................................................... 119 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 122 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Mười bảy tuổi Tô Hoài đã có một số sáng tác thơ đăng trên Tiểu thuyết thứ Bảy (Tiếng reo, Đan áo...). Những bài thơ non nớt về nghệ thuật đã giúp ông hiểu mình và ông sớm chuyển hướng. Từ giã vườn thơ ông đến với cánh đồng văn xuôi, từ chân trời lãng mạn ông đến với chủ nghĩa hiện thực tỉnh táo tuy vẫn mang chất trữ tình. Cảnh đời thường đã có sức thu hút, hấp dẫn mãnh liệt đối với ngòi bút của nhà văn Tô Hoài. Với hơn sáu mươi năm viết, ông đã để lại cho nền văn học hiện đại một khối lượng tác phẩm đồ sộ, hiếm ai trong các nhà văn hiện đại so sánh được. Hầu như, ở độ tuổi nào ông cũng có tác phẩm. Vương Trí Nhàn đã từng đánh giá về sức sáng tác của nhà văn Tô Hoài: “Vừa vào nghề sớm lại vừa kéo dài tuổi nghề, một sự kéo dài đàng hoàng chứ không phải lê lết trong tẻ nhạt - đời văn Tô Hoài gợi ra hình ảnh một dòng sông miên man chảy mang trong mình cả cuộc sống bất tận” [32,tr .180]... 1.2. Nói đến thành công trong sáng tác của Tô Hoài là nói đến những sáng tác cho thiếu nhi đặc biệt là Dế mèn phiêu lưu ký, và những sáng tác về đề tài miền núi… Nhưng thật là thiếu sót, nếu không nhắc đến hai thể chân dung và tự truyện. Có thể đánh giá đây là mảng viết đặc sắc của Tô Hoài. Cho đến bây giờ, người ta đều nhận ra rằng, cái làm nên giá trị trong văn chương Tô Hoài là hai thể văn này. Với hai thể chân dung và tự truyện đã cho ta thấy một Tô Hoài không lẫn với ai, hóm hỉnh, thông minh, và sống hết mình với nghề văn, nghiệp văn. Và cũng chính với những thể văn này, lần đầu tiên Tô Hoài đã đem lại cho độc giả hình ảnh một số “nhân vật lớn” của văn chương nước nhà ở một cự ly gần, và thấy một sự thật về chân dung của các nhà văn. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, chỉ ra những đặc sắc nổi bật, và khẳng định những đóng góp, những sáng tạo độc đáo của Tô Hoài trong hai thể văn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 này, là những vấn đề cần thiết và rất nên làm. Bởi nó là một phần tạo nên sức sáng tạo bền bỉ của nhà văn Tô Hoài. 1.3. Cỏ dại (1944), qua Tự truyện (1977), Những gương mặt (1988), đến Cát bụi chân ai (1992), và Chiều chiều (1999) là những mảng viết đặc sắc của Tô Hoài về chân dung và tự truyện. Những tác phẩm này đã để lại cho độc giả ấn tượng về sức viết của Tô Hoài thật mênh mông, đồ sộ, với một sức trẻ kéo dài. Nghiên cứu hai thể văn chân dung và tự truyện của Tô Hoài là nghiên cứu những phần đặc sắc, những phần tạo nên cái riêng trong phong cách sáng tạo của nhà văn. Tìm hiểu về nhà văn Tô Hoài ta thấy, lâu nay, các nhà nghiên cứu phê bình văn học đã dành nhiều sức lực, tâm huyết cho những sáng tác có giá trị của Tô Hoài. Nhưng những công trình coi hai thể chân dung và tự truyện là đối tượng nghiên cứu chuyên biệt lại chưa được chú trọng. Cho đến nay, đây vẫn là một khoảng trống. Nhận thấy điều đó, cho nên chúng tôi đã chọn hai thể văn chân dung và tự truyện của Tô Hoài làm đối tượng nghiên cứu cho luận văn. Dẫu không phải là điểm nóng, nhưng luận văn vẫn muốn đóng góp thêm một tiếng nói trong việc nghiên cứu tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tô Hoài nói chung, và hai thể văn chân dung và tự truyện của Tô Hoài nói riêng - những thể loại ghi dấu ấn thành công trong sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài, đồng thời dây còn là những thể văn tạo nên cái riêng trong phong cách sáng tạo của ông. 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Để thực hiện đề tài này, chúng tôi cần phải đọc, tham khảo các tài liệu có liên quan đến hai thể văn: chân dung và tự truyện của Tô Hoài. - Toàn bộ sáng tác về mảng đề tài chân dung và tự truyện của nhà văn Tô Hoài. - Đọc tham khảo những tác phẩm chân dung và tự truyện của một số nhà văn cùng thời. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 - Đọc những bài nghiên cứu, phê bình về những sáng tác của nhà văn Tô Hoài, đặc biệt là những bài viết về mảng đề tài chân dung và tự truyện. - Đọc và nghiên cứu một số tác phẩm lý luận làm cơ sở lý luận có liên quan đến đề tài nghiên cứu. 3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Đương thời, khi xuất hiện, các tác phẩm của Tô Hoài đã được giới nghiên cứu văn học chú ý. Tìm hiểu những công trình nghiên cứu văn chương Tô Hoài, chúng tôi thấy các nhà nghiên cứu đã tập trung và hai hướng tiếp cận chủ yếu: tiếp cận trên góc độ tổng quan và tiếp cận từ các tác phẩm cụ thể. Có nhiều công trình nghiên cứu về Tô Hoài, nhưng nghiên cứu về hai thể văn chân dung và tự truyện của ông thì lại có rất ít, chỉ có một vài ý kiến nằm rải rác trong các công trình nghiên cứu mang tính khái quát, giới thiệu, mà chưa thực sự đi sâu nghiên cứu chuyên biệt. Trong phạm vi luận văn, chúng tôi chỉ điểm duyệt những ý kiến có liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu hai thể chân dung và tự truyện của Tô Hoài. Người đầu tiên nghiên cứu văn chương Tô Hoài là nhà nghiên cứu phê bình Vũ Ngọc Phan. Trong cuốn Nhà văn hiện đại, quyển IV (1944), khi giới thiệu về Tô Hoài, Vũ Ngọc Phan đã đánh giá về phong cách viết tiểu thuyết của Tô Hoài. Sau năm 1945, Tô Hoài đã cho ra đời nhiều tác phẩm. Số lượng công trình nghiên cứu văn chương Tô Hoài cũng tăng không ngừng. Những nhà phê bình có tên tuổi yêu thích văn chương Tô Hoài như : Nguyễn Đăng Mạnh, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Phong Lê, Vân Thanh, Trần Hữu Tá, Nguyễn Văn Long, Vương Trí Nhàn, Đoàn Trọng Huy, … Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét khái quát về thể văn tự truyện của Tô Hoài : "Hồi ký, tự truyện của Tô Hoài là thể văn sở trường nhất của Tô Hoài… Ở thể văn này, nhân vật trung tâm chính là cái tôi của người viết. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 Cho nên sự hấp dẫn của văn phong Tô Hoài xét đến cùng là sự hấp dẫn của cái tôi ấy" [43]. Trong lời nhận định của mình, giáo sư đã chỉ ra cho độc giả thấy một trong những điều làm nên sức hấp dẫn của tự truyện Tô Hoài, đó chính là " nhân vật trung tâm" - "cái tôi" của tác giả - cái tôi ấy được soi rọi, được thể hiện một cách trung thực " một cái tôi khôn ngoan, tinh quái, thóc mách, lọc lõi, rất mực hiểu mình, hiểu người và có đá chút khinh bạc" [43]. Giáo sư Hà Minh Đức trong Lời giới thiệu Tuyển tập Tô Hoài đã chỉ ra những nét đặc sắc trong nghệ thuật viết tự truyện : "… Hồi ký và tự truyện của ông kết hợp được dòng kể tự nhiên, xác thực với ý thức phân tích tỉnh táo các hiện tượng và phần tâm sự của tác giả" [10]. Cùng với hướng phát hiện đó, giáo sư Phong Lê đã khẳng định sức lôi cuốn, hấp dẫn của tự truyện Tô Hoài đối với độc giả : "Đọc tự truyện tôi bỗng ngạc nhiên không hiểu sao người ta có thể viết hay đến thế về mình, để qua mình mà hiểu người, hiểu đời, hơn thế hiểu cả một bầu khí quyển chung cho bao thế hệ" [32]. Vân Thanh với bài Tô Hoài qua Tự truyện đã nói đến sự đổi mới về tư tưởng, và phương pháp nghệ thuật tự truyện của Tô Hoài : "Tự truyện được viết trên cả quá trình 30 năm, có bộ phận nói lên được sự đổi mới của tư tưởng, phương pháp nghệ thuật của Tô Hoài. Nếu Cỏ dại là hồi tưởng về thời thơ ấu được viết vào tuổi hai mươi, trước Cách mạng, thì đến…, Những người thợ cửi, Đi làm, được viết vào tuổi đời năm mươi của nhà văn trong những năm 70. Điều kỳ lạ là các mảng sống và chi tiết trước đây cũng như bây giờ, vẫn cứ gần như tươi rói trong ký ức nhà văn" [32]. Phạm Việt Chương trong Những gương mặt - chân dung văn học Tô Hoài đã từng nhận xét : "Chúng ta gặp lại Tô Hoài, tác giả của những tác phẩm phiêu lưu kì thú, khi anh viết một loạt tác giả Việt Nam mà bạn đọc hằng yêu mến. Một điều dễ nhận, Tô Hoài sống, lăn lóc cùng các bạn văn thơ của mình Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 viết về họ bằng bút pháp tả thực. Hiện thực trần trụi đọng lại thành kỷ niệm. Giọng văn hóm hỉnh mà không khinh bạc, anh điểm những câu kết gây cho người đọc nụ cười cố quên đi nỗi buồn nào do anh vừa kể qua…"[32,tr .404]. Đây là những ý kiến đánh giá mang tính chất khái quát nhất và tiêu biểu nhất về hai thể văn của Tô Hoài : chân dung và tự truyện. Ngoài ra còn rất nhiều bài viết nghiên cứu, bàn luận xoay quanh những sáng tác chân dung và tự truyện Tô Hoài của các nhà nghiên cứu như : Vương Trí Nhàn, Trần Hữu Tá, Võ Xuân Quế, Trần Đình Nam… Ở Cỏ dại, mặc dù không gây được tiếng vang như tập Tự truyện sau này, song cũng được đánh dấu bằng ý kiến của nhà báo, nhà nghiên cứu Võ Xuân Quế : "Mặc dù còn có một vài hạn chế nhất định về tư tưởng, song nó đã vẽ lên được bức tranh chân thực về một vùng quê ở ngoại thành Hà Nội. Đó là cảnh sống nghèo khó, khốn khổ cùng cực, những phong tục tập quán cổ hủ với những tâm tình u uẩn của người thợ thủ công Nghĩa Đô… Tô Hoài đã miêu tả thành công các mối quan hệ gia đình, bạn bè, trai gái, làng xóm ở thôn quê" [45]. Khi nghiên cứu về sáng tác của Tô Hoài, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã đặc biệt chú ý tới mảng hồi kí trong đó có Cỏ dại. Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định : "Nghiên cứu Tô Hoài, không thể không đọc Cỏ dại như một tài liệu cơ bản, vì tác phẩm cho ta biết một cách cụ thể những gì đã tạo nên tâm hồn ấy, cây bút ấy..." [42,tr .53]. Nhận định trên đã chỉ ra cho độc giả thấy vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của tác phẩm Cỏ dại đối với sự hình thành tư tưởng và phong cách của cây bút tài năng Tô Hoài. Đến Tự truyện (1973), nhà nghiên cứu Vân Thanh đã đánh giá cao và cho rằng: “Sau Cỏ dại, Trăng thề, Nhà nghèo… những năm 70, Tô Hoài tiếp tục bổ sung để có Tự truyện như hôm nay. Theo tôi, nói Tô Hoài trong phần Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 đặc sắc của anh là nói về mảng đề tài miền núi như ta đã thấy, nhưng đến hôm nay không thể không nói đến phần ký ức tuổi thơ và tuổi thanh niên của anh… Tôi cho là Tô Hoài đã thực sự đóng góp vào văn học ta mảng sống buồn bã vật lộn của một thế hệ tuổi thơ - hoặc được nhìn qua cách nhìn trẻ thơ đề nói một cái gì bản chất của cuộc đời cũ" [32, tr 399, 403]. Cát bụi chân ai (1990) là tác phẩm tiêu biểu cho thể loại chân dung văn học của Tô Hoài. Cát bụi chân ai ra đời, gây xôn xao trong dư luận công chúng, được bàn cãi nhiều, có khen, chê song điều cốt lõi là không ai không thừa nhận giá trị nội dung và tài năng nghệ thuật của tác giả cuốn sách. Nó vừa là tác phẩm có giá trị văn học vừa là cuốn tư liệu có giá trị lịch sử bởi đã dựng lại đời sống tinh thần của một số cây bút lớn cũng như môi trường mà nhà văn phản ánh trong đó. Nhà văn Xuân Sách từng nhận xét: "Tác phẩm mang dấu ấn đậm nhất phong cách Tô Hoài - từ văn phong đến con người. Thâm hậu mà dung dị, thì thầm và không đơn điệu nhàm chán, lan man tí chút nhưng không kề cà vô vị. Một chút "u mặc" với cái giọng khơi khơi mà nói ai muốn nghe thì nghe, không bắt buộc, nghe rồi hiểu đừng cật vấn… Và vì thế… sức hấp dẫn chủ yếu là sự chân thực"[32,tr.414]. Còn nhà văn Trần Đức Tiến thì cho rằng : "Bằng cuốn sách của mình, lần đầu tiên ông đã cho thế hệ cầm bút chũng tôi nhìn một số "nhân vật lớn" của văn chương nước nhà từ một cự li gần... Bây giờ qua Tô Hoài - chúng tôi được nhìn gần : một khoảng cách khá "tàn nhẫn" nhưng vì thế mà chân thực và sâu sắc"[32, tr .413]. Nhà văn Nguyễn Văn Bổng nhận xét : Hồi ký Cát bụi chân ai "kể chuyện những nhà văn, những người bạn mà tài năng văn học không ai chối bỏ được nhưng đồng thời cũng là những con người bình thường với những tính tốt và tật xấu như mọi người"[4]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 Cát bụi chân ai là tác phẩm được bàn cãi nhiều, có người khen kẻ chê, song cốt lõi không ai không thể không thừa nhận giá tri nội dung và tài năng nghệ thuật của Tô Hoài. Nhìn chung khi viết tác phẩm này nhà văn đã phát huy được mặt mạnh sở trường của mình, trước hết đó là nghệ thuật dẫn truyện. Hà Minh Đức đã nhận xét về mặt ngôn ngữ : "ngôn ngữ người kể chuyện trong tác phẩm của Tô Hoài linh hoạt và nhiều màu vẻ. Ông chủ động trong câu chuyện kể kết hợp kể chuyện và miêu tả tạo nên sự diễn biến uyển chuyển và linh hoạt của mạch truyện"[10] Những bài viết trên đã trở thành những ý kiến tham khảo rất hữu ích cho chúng tôi trong quá trình thực hiện luận văn này. Với đề tài Tô Hoài với hai thể văn : chân dung và tự truyện, người viết mong muốn có cái nhìn sâu sắc và toàn diện về chân dung và tự truyện - hai thể văn đặc sắc của Tô Hoài, đồng thời có dịp hiểu rõ hơn cuộc đời cũng như phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn Tô Hoài. 4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU Luận văn nhằm giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau: - Chỉ ra những đặc sắc của thể văn chân dung và tự truyện của Tô Hoài. - Khẳng định những đóng góp của Tô Hoài về mảng chân dung và tự truyện trong quá trình phát triển của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. 5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng tổng hợp các phương pháp sau: - Phương pháp khảo sát, thống kê. - Phương pháp so sánh, đối chiếu. - Phương pháp phân tích, tổng hợp. - Phương pháp hệ thống, và một số phương pháp khác. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN Nghiên cứu một cách có hệ thống về những đóng góp của hai thể văn chân dung và tự truyện của Tô Hoài, qua đó, góp phần tìm hiểu phong cách văn xuôi Tô Hoài và những đóng góp đặc sắc của ông cho nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. 7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN Toàn bộ luận văn của chúng tôi ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo được trình bày trong 3 chương: CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NHÀ VĂN TÔ HOÀI CHƢƠNG 2: TÔ HOÀI VỚI CÁC CHÂN DUNG VĂN HỌC CHƢƠNG 3: TÔ HOÀI VỚI TỰ TRUYỆN Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 NỘI DUNG Chương 1 TỔNG QUAN VỀ NHÀ VĂN TÔ HOÀI 1.1. NHÀ VĂN TÔ HOÀI 1.1.1 Tiểu sử và quá trình sáng tác Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh năm 1920 tại quê ngoại làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông cũ - nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy - Hà Nội. Ông sinh ra, lớn lên gắn bó mật thiết lâu dài với nơi đây. Là con một gia đình nghèo làm nghề dệt lụa thủ công. Tô Hoài chỉ học hết bậc tiểu học, sau đó phải làm nhiều nghề để kiếm sống: dạy học tư, thợ thủ công, bán hàng, kế toán tiệm buôn… Tô Hoài đã tự học để trở thành nhà văn. Ông là một nhà văn có nghề nghiệp vững vàng với sức sáng tạo công phu dẻo dai, bền bỉ. Cũng giống như Xuân Diệu, Tô Hoài nêu gương sáng về tinh thần “tay siêng làm lụng mắt hay kiếm tìm”. Bằng sức lao động cần cù hiếm thấy, với hơn 60 năm viết trong một đời người, cây bút này có những đóng góp đặc sắc trước và cả sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong thời kỳ Mặt trận dân chủ, Tô Hoài tham gia phong trào thanh niên phản đế. Năm 1943, gia nhập nhóm Văn hóa cứu quốc đầu tiên ở Hà Nội. Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài tham gia phong trào Nam tiến rồi lên Việt Bắc làm báo Cứu quốc. Từ năm 1951 về công tác ở Hội văn nghệ Việt Nam, nhưng vẫn thường xuyên đi với bộ đội, tham gia chiến dịch Biên giới, theo bộ đội chủ lực tiến vào giải phóng Tây Bắc… Sau hòa bình lặp lại, trong Đại hội nhà văn lần thứ nhất, năm 1957, ông được bầu làm Tổng thư ký của Hội. Từ năm 1958-1980 ông tiếp tục tham gia Ban chấp hành, rồi Phó Tổng thư ký của Hội nhà văn Việt Nam. Từ năm 1966-1996 Chủ tịch Hội văn nghệ Hà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 Nội. Tô Hoài còn tham gia nhiều công tác xã hội khác, đại biểu Quốc hội, Phó chủ tịch ủy ban đoàn kết Á - Phi, Phó chủ tịch Hội hữu nghị Việt Ấn, ủy viên Ban chấp hành Hội nghị Việt Xô. Năm 1996 Tô Hoài được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh. Phần thưởng cao quý này đã khẳng định một tài năng, một sức sáng tạo dồi dào phong phú, mang bản sắc dân tộc đậm đà, phong cách riêng rõ nét của Tô Hoài. Có thể thấy hiếm có nhà văn nào lại có tuổi đời và tuổi nghề gắn bó với công việc sáng tạo nghệ thuật - một “công việc bình dị mà cao đẹp” chung thủy như Tô Hoài. Tính đến nay, Tô Hoài đã có hơn 60 năm cầm bút với số lượng tác phẩm gấp đôi tuổi đời. Ông là một trong số những những nhà văn có những thành tựu và đóng góp hết sức to lớn cho sự trưởng thành và phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với sức viết bền bỉ và số lượng tác phẩm đồ sộ, ta thấy hiếm ai trong các nhà văn hiện đại so sánh được. Trước Cách mạng tháng Tám, những sáng tác của ông thể hiện một cây bút sung sức, một sức viết mạnh mẽ, in đậm cảm quan nghệ thuật và giọng điệu riêng, không lẫn với ai. Những sáng tác trong thời gian này cũng đóng góp làm nên dấu ấn đặc trưng cho trào lưu văn học hiện thực Việt Nam. Từ giã vườn thơ lãng mạn đến với cách đồng văn xuôi hiện thực, Tô Hoài đã dành hết sức và quyết tâm đi vào con đường của chủ nghĩa hiện thực. Với một thời gian ngắn, “ trong ngoài ba năm viết như chạy thi”[32,tr.19], Tô Hoài đã để lại một khối lượng lớn các tác phẩm, làm nên một Tô Hoài mang dấu ấn riêng. Đến với nghề văn thật tự nhiên. Ông được nhận xét là “một nhà văn xuôi bẩm sinh” (Trần Đình Nam). Truyện Con dế mèn ra đời, đã có sức chiếm lĩnh đối tượng độc giả rộng lớn, không chỉ có trẻ con mà ngay cả người lớn cũng rất thích thú khi đọc nó. Với tuổi đời 20, sáng tạo “nhân vật” dế mèn trong thế giới các sinh vật nhỏ bé, Tô Hoài đã sớm bộ lộ tài năng đột xuất về nhiều mặt. Đọc Dế mèn, ta thấy, ở Tô Hoài khả năng hóa thân vào sự sống Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 của vật và đồng thời đưa đến cho thế giới loài vật sự sống của con người. Sự chung sống, sự hòa trộn, sự chuyển hóa của hai thế giới đã giúp cho bạn đọc cảm giác mở rộng, nhân đôi các giới hạn sống. Tuổi đời còn rất trẻ nhưng ngòi bút của Tô Hoài đã xiết bao linh hoạt. Quan sát kỹ lưỡng và tinh tế. Ngôn ngữ tự nhiên mà giàu có, có sắc thái giọng điệu riêng, tất cả đều rất sắc nét. Sau Dế mèn…, Tô Hoài tiếp tục khẳng định tài năng truyện ngắn của mình trong miêu tả thế giới loài vật, trong tập truyện O chuột (gồm 8 truyện) (1942). Xuất thân trong một gia đình nghèo, chất nhân văn trở thành yếu tố tự nhiên căn bản trong văn chương Tô Hoài. Làng Nghĩa Đô - quê ngoại Tô Hoài đã trở thành mảng đề tài lớn trong những sáng tác của ông. Những truyện như Nhà nghèo (1942); Giăng thề (1941); Quê người (1942), Xóm Giếng ngày xưa (1944), Cỏ dại (1944) đều miêu tả vùng quê thân yêu của nhà văn. Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, trước 1945, ngòi bút Tô Hoài đã hướng tới hai mối quan tâm, hai đối tượng quan sát. Trong “mảnh vườn” hiện thực ấy, ông đã dệt lên bức tranh muôn màu của cuộc sống chung quanh mình, nơi một miền quê gần thành thị đã không còn mấy sự yên lành, thơ mộng và bên cạnh đó ông còn khao khát cháy bỏng về một cuộc sống tốt đẹp khi vẽ lên bức tranh về thế giới loài vật với những ước mơ, tưởng tượng cao đẹp. Hai đối tượng tưởng như tách nhau, nhưng thực ra chúng lại hội vào nhau tạo nên một bức tranh hoàn thiện về một thế giới nghệ thuật chung, mang cảm quan nghệ thuật đặc sắc của nhà văn Tô Hoài. Chính vì vậy, khi nói đến Tô Hoài, người ta nói đến sự thống nhất của thế giới nghệ thuật ấy. Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài là một trong số ít cây bút không phải trăn trở, ngập ngừng nhiều lắm trước trang giấy. Tác phẩm Vỡ tỉnh là tác phẩm đầu tiên trong thời gian này. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 Mảng đề tài thu hút tâm lực Tô Hoài nhiều hơn và ông cũng đạt được thành công lớn hơn trong giai đoạn này là cuộc sống con người miền núi. Ông là người đầu tiên đặt viên gạch xây nền cho văn học viết về các dân tộc ít người. Ông viết về sự chuyển mình, thay da của vùng đất này trong cách mạng dân tộc dân chủ (Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc…) và trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội (Lên Sùng Đô, Nhật ký vùng cao, Miền Tây…). Viết về miền núi, tác phẩm thành công nhất của Tô Hoài là Truyện Tây Bắc. Tập truyện được nhận Giải thưởng của Hội văn nghệ Việt Nam năm 1954-1955. Truyện Tây Bắc gồm 3 tác phẩm: truyện Mường Giơn và hai truyện ngắn Cứu đất cứu mường, Vợ chồng A phủ. Tập truyện miêu tả cuộc đời thống khổ của những người dân miền núi đưới ách thực dân Pháp và bọn thổ ti lang đạo. Nỗi khổ ấy tập trung vào người phụ nữ. Nhờ có nhà văn Tô Hoài, người đọc có được kinh nghiệm sống, biết được cảnh đau khổ của nhân dân miền núi, làm nảy sinh những cảm xúc thương yêu đối với con người và vùng đất này. Nếu như Truyện Tây Bắc ghi nhận bước đổi đời quyết định của đồng bào Tây Bắc trong Cách mạng dân tộc dân chủ thì Miền Tây là một sự đóng góp tích cực của Tô Hoài trong việc miêu tả những bước đi đầu tiên đầy gian khổ của vùng đất này lên xã hội chủ nghĩa. Miền Tây được Giải thưởng Hội nhà văn Á - Phi năm 1972. Sau Miền Tây, đề tài về vùng cao vẫn còn được Tô Hoài tiếp tục viết: Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ (1971); Họ Giàng ở Phìn Sa (1984); Nhớ Mai Châu (1988). Rõ ràng Tô Hoài vẫn mệt mài theo đuổi nó với một kiên nhẫn không nản mỏi… Trở về với những miền thân thuộc qua mảng đề tài chân dung và tự truyện, mảng đề tài Hà Nội - ngoại ô, quê ông vẫn là đề tài chủ yếu trong những sáng tác của ông. Dẫu đi bất cứ đâu, Hà Nội vẫn cứ đi theo ông, để làm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 thành hành trang, làm nên một vóc dáng Tô Hoài, với hình ảnh “Người Hà Nội - Văn Hà Nội” [32]. Từ Cỏ dại đến Tự truyện (1978) rồi Những gương mặt (1988), đến Cát bụi chân ai (1992) và Chiều chiều (1999) là sự tiếp nối liền mạch hồi ức và sự trở về trọn vẹn của Tô Hoài với những miền thân thuộc, quê hương yêu dấu của ông. Tóm lại, toàn bộ sáng tác của Tô Hoài đã có những đóng góp to lớn và hết sức quan trọng cho sự phát triển của nền văn học hiện đại Việt Nam. Các tác phẩm của Tô Hoài đưa đến người đọc những hiểu biết thêm về đời sống, về ngôn ngữ và cũng chính những sáng tác của Tô Hoài mà người ta hiểu hơn thế nào là văn chương chân chính, đích thực. 1.1.2. Quan niệm về nghề văn và ngƣời viết văn Quan niệm về nghề văn: Mọi hành động đều xuất phát từ một tư tưởng, mà mọi tư tưởng đều bắt đầu từ một quan niệm. Trong Tự truyện Tô Hoài từng kể: “ Bây giờ khi tôi quyết định lấy nghề viết nuôi thân tôi không nghĩ là tình cờ, nhưng thật tôi cũng không có mục đích gì, đặt ra trước để rồi thành nghề văn và viết văn”[19,tr.234-235]. Tô Hoài quan niệm viết văn là một nghề - một nghề kiếm sống như bất cứ nghề nào. Không hão huyền, không viển vông và ảo tưởng. Ông bước vào làng văn không ngẫu nhiên nhưng cũng không vì mục đích nổi danh, thoả mãn sĩ diện của kẻ sĩ. Vì thế ông chọn nghề viết văn là nghề để kiếm sống, cũng thật dễ hiểu bởi nó thật phù hợp và cũng hết sức chân chính. Bước vào nghề, Tô Hoài cũng sớm nhận ra hai mặt của một vấn đề. Ông đã rất vui mừng nhận những đồng tiền nhuận bút đầu tiên song ông cũng ý thức được rằng nghề viết văn là nghề hết sức nghiêm túc. Ông đã xác định: “Nghề viết là nghề phải học suốt đời” và “sẽ không thể viết được gì nếu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 không có một trình độ tư tưởng và hiểu đời một cách sâu xa” ,và “nếu nhát sợ nhu nhược, chủ quan, chỉ quanh quẩn gặm nhấm dăm ba suy nghĩ cũ, đã sẵn trong đầu, không chịu tiếp xúc và nghiên cứu đời sống, không thể thành cuộc sống, không xứng đáng cầm bút”[23]. Hơn bao giờ hết, Tô Hoài hiểu được để cho ra đời những sản phẩm có giá trị, người cầm bút phải: “Rèn luyện đem đến kết quả, đó là công lao của kiên trì, cố gắng, chịu mày mò, nghe ngóng, tìm kiếm, thu thập, tích trữ mọi mặt vốn liếng, tư tưởng, văn hoá, nhiệm vụ” [23]. Xuất phát từ quan niệm nghiêm túc, đúng đắn về nghề viết văn, Tô Hoài đã dành được ưu thế cho mình trên lĩnh vực hoạt động văn học nghệ thuật nói chung và với hai thể chân dung và tự truyện nói riêng. Quan niệm về người viết văn: Tô Hoài quan niệm người viết văn trước hết họ cũng là người - người lao động, chỉ khác là họ là người lao động nghệ thuật mà thôi. Là người trong cuộc nên ông hiểu được rất rõ các bạn đồng nghiệp của mình. Ở họ trước hết cũng là người như bao nhiêu người bình thường khác. Họ cũng có đầy đủ mọi vẻ đẹp cao quý và không ít những điều bình thường, thậm chí cũng tầm thường nữa: “Ô hay, người ta ra người ta thì người ta phải là người ta đã chứ”[22,tr.385]. Chính cái nhìn giản dị mà chân thực ấy đã khiến cho Tô Hoài không hề giấu giếm về mình khi xây dựng bức chân dung tự hoạ. Ông ghi lại cả những câu đùa mỉa mai của các bạn đồng nghiệp khi nhận xét về mình. Không tô điểm, không cần cường điệu, mà ông cứ đem sự thật ra để kể: “Chúng tôi cũng có đủ thói hư tật xấu của kiểu người như chúng tôi trong xã hội, những ích kỉ ganh ghét nhỏ nhen”[17,tr.16]. Đối với Tô Hoài người viết văn cũng giống như bất cứ người bình thường nào khác. Tô Hoài không chỉ nhìn thấy ở họ một con người bình thường mà ông còn thấy ở họ những tâm hồn nghệ sĩ, mỗi người một vẻ, có tài năng khác nhau. Ở Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 Tô Hoài tài năng nghệ sĩ được ông rất coi trọng, song ông không cho rằng đó là siêu phàm bởi vì theo ông trong bất cứ nghề nào thì cũng có những người tài giỏi, chứ không cứ gì nghề viết. Quan niệm về nghề viết văn và người viết văn như trên đã chi phối toàn bộ tư tưởng nghệ thuật trong những sáng tác chân dung và tự truyện của Tô Hoài, góp phần làm nên sức hấp dẫn ở những sáng tác của ông. 1.2 VỀ HAI THỂ VĂN CHÂN DUNG VÀ TỰ TRUYỆN CỦA TÔ HOÀI 1.2.1. Chân dung văn học của Tô Hoài Chân dung văn học là một đề tài mới mẻ và khó. Sự xuất hiện và phát triển của chân dung văn học được coi là một sự thật ngày càng có ý nghĩa trong đời sống văn học nói chung và trong lịch sử phát ._.triển của phê bình văn học nói riêng. Nó đã thu hút cả giới nhà văn - những người sáng tác. Sự khởi sắc của cả một nền văn học dân tộc đã cung cấp đối tượng, và những gương mặt tiêu biểu trong làng văn, làng báo đã trở thành đối tượng chiếm lĩnh của chân dung văn học. Chân dung văn học là thể loại khá mới trong tiến trình văn học Việt Nam. Vào khoảng những năm 30 của thế kỉ XX, nó mới bắt đầu xuất hiện trên diễn đàn văn học Việt Nam. Còn trước đó, ở thế kỉ XIX, thời kì văn học trung đại ta chưa thấy xuất hiện thể loại này. Có lẽ là do quan niệm, do lí tưởng thẩm mĩ của mỗi tầng lớp giai cấp trong mỗi thời đại khác nhau. Lí tưởng thẩm mĩ của giai cấp phong kiến thiên về vẻ đẹp truyền thống cổ điển, luôn lấy hình mẫu những con người từ thế kỉ trước khi mà xung quanh những hình mẫu ấy đã lấp lánh ánh hào quang, được tô vẽ bởi lòng người mến mộ, muốn nâng lên thành mẫu hình lí tưởng nhằm phục vụ cho giáo lí phong kiến. Đối tượng phản ánh của họ là những con người đương đại. Sang đến thời cận đại và đặc biệt là thời hiện đại, lí tưởng thẩm mĩ của người sáng tác đã có sự đổi khác. Người ta không thoả mãn với hình mẫu xa xưa, người ta muốn ca ngợi, tìm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 hiểu, phát hiện cái đẹp ngay trong cuộc sống đời thường. Không chỉ có nhu cầu thẩm mĩ, người ta còn có nhu cầu giải quyết những vấn đề đầy tính mâu thuẫn mà thời đại đặt ra, nhu cầu tự đánh giá và tự bộc lộ mình. Phải chăng vì thế mà đối tượng phản ánh của thời hiện đại không chỉ là những mẫu hình lí tưởng mà được mở rộng sang cả những người lao động nói chung và nhà văn nói riêng. Nhà văn cũng là những người lao động - lao động nghệ thuật. Ở họ cũng tạo ra những sản phẩm có giá trị như một hàng hoá đặc biệt. Khi nói về họ, cũng có thể nói được cả những điều mang ý nghĩa cuộc đời, mang hơi thở thời đại, biểu hiện suy tư của người viết một cách dễ dàng hơn bao giờ hết. Chính họ đã trở thành đối tượng phản ánh của văn học. Nhiều nhà văn trong quá trình hoạt động sáng tác văn học nghệ thuật, đã tạo ra được những tác phẩm xuất sắc, họ vươn tới đỉnh cao nghệ thuật như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Thế Lữ, Nguyễn Bính, Xuân Diệu… Những nhà văn nổi tiếng này dễ thu hút độc giả - người thưởng thức, và thu hút cả giới nhà văn - những người sáng tác. Sự khởi sắc của cả một nền văn học dân tộc đã cung cấp đối tượng, và những gương mặt tiêu biểu trong làng văn, làng báo đã trở thành đối tượng chiếm lĩnh của chân dung văn học. Đối tượng của thể chân dung văn học không chỉ là những nhà văn mà còn là những nhà khoa học, các danh nhân văn hoá, những nhà hoạt động xã hội nổi tiếng… Họ là những nguyên mẫu trong văn học. Từ góc độ thể loại, lí luận văn học đã xác định chân dung văn học là một thể loại đặc thù, thuộc về thể loại kí văn học. Đây là thể loại lấy từ nguyên mẫu đời sống. Trước khi cầm bút, Tô Hoài đã từng trải qua cuộc sống gian truân vất vả của một người thợ, một tiểu thị dân lăn lóc trên đường đời. Nhưng chính từ kho kinh nghiệm sống ấy, với năng khiếu quan sát, ghi nhớ đặc biệt sắc sảo, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 Tô Hoài đã trở thành nhà văn. Ông viết truyện ngắn, truyện dài, truyện người lớn, truyện thiếu nhi, chân dung, tự truyện ... Trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài thể loại chân dung văn học chỉ chiếm một phần nhỏ, song không phải vì thế mà không có ý nghĩa. Ở những sáng tác này đã hội tụ được cả tài năng nghệ thuật và phong cách đặc biệt của Tô Hoài. Từ những năm 1944, Tô Hoài viết Cỏ dại, đây là tác phẩm mà tác giả tự dựng lên bức chân dung tự họa của mình. Sau đó đến những năm 50, 60 Tô Hoài bắt đầu viết một số trang mà chúng tôi gọi là một thứ chân dung văn học. Viết theo lối kí tuỳ bút có lẽ Tô Hoài có ý thức hơn ai hết về thể văn này nên ông đã đặt tên cho tập sách của mình là Những gương mặt (NXB Tác phẩm mới.1986). Trong không khí phát triển chung của thể chân dung văn học, Tô Hoài lại có thêm Cát bụi chân ai (NXB Hội nhà văn. 1992). Những tác phẩm này của Tô Hoài là những dòng hồi ký chân thực, tỉ mỉ, trong đó tác giả đã dựng lại cả một đời sống văn học của một thời kỳ lịch sử và trên cái nền của đời sống văn học ấy, người ta thấy hiện lên chân dung của những nhà văn lớn, những cây bút lão thành đã quá cố hoặc đang sống, trong đó có cả chính chân dung tác giả. Đó là cái nhìn của người trong cuộc với bao diễn biến vui buồn, những băn khoăn trăn trở, những khát khao náo nức, những gửi gắm lớn lao... Người ta thấy được những dòng tâm sự về mình. Về những điều đã và chưa làm được, cũng như thấy cả một hồi ức về tuổi thơ nhọc nhằn vất vả, quá trình khám phá và nhận thức về con người và xã hội... Song đó không còn là suy tư của nhà văn nữa mà còn là suy nghĩ của cả một lớp người viết thời đó. Những tác phẩm chân dung của Tô Hoài đã cho thấy những kỷ niệm trong đời tư của các nhà văn, quá trình sống và tồn tại của họ, có cả quá trình hình thành và khao khát viết, những vui buồn trong sự nghiệp văn chương. Viết Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 chân dung văn học với Tô Hoài là dịp để giãi bày lòng mình, giải phóng cho một tâm sự để thể hiện rõ hơn một quan niệm sống, quan điểm nghệ thuật mà ông không muốn trực tiếp bộc lộ dưới dạng kỷ niệm hay “phát biểu ý kiến". Những nhà văn được dựng chân dung, họ không có cái độc đáo phi thường của những bậc tài hoa tài tử mà dung dị giữa đời thường, lẫn với mọi người trong xã hội. Hãy xem bức chân dung Nguyên Hồng mà Tô Hoài đã tạo dựng trong tác phẩm của mình: “Chúng tôi đã thuộc tính Nguyên Hồng, cạnh chiếc ba lô con cóc trên lưng, trong cái cặp đúp da bò nâu xỉn giữ gìn từ ngày trước cách mạng vẫn được tha đi, Nguyên Hồng xếp từng chồng bản thảo, lại còn lỉnh kỉnh những hộp tiêm, kim tiêm, nhiều thứ thuốc tiêm, thuốc uống. Ai nhờ tiêm, Nguyên Hồng tiêm ngay. Lại còn hỏi bệnh, đoán bệnh, và bảo người ta phải để mình tiêm. Như một thầy thuốc thực sự.... Như thế, nhà văn đi đường lẫn vào đám đông. Cái quần nâu, tấm áo cánh mồ hôi muối ăn đã bạc cả hai vai, chiếc mũ lá cọ, đôi dép lốp chẳng khác nào với màu sắc, dáng nét của những người đi chợ, người nghỉ quán hàng, người trên đường”[17,tr.98]. Hình ảnh Nguyên Hồng được Tô Hoài tạo dựng qua dòng hồi tưởng như một viên chức bậc trung giữa đường công vụ - như một lão nông về quê sau chuyến đi xa - một kẻ lang thang suốt đời đi tìm đất mới, đã phản ánh đúng quan niệm về nhà văn và nghề văn ở Tô Hoài nói riêng và của xã hội hiện nay nói chung. Quan niệm đó là: “Nhà văn cũng như nghề văn là cao quý, song nhà văn cũng chính từ cuộc đời này mà ra”, cho nên Tô Hoài không ngần ngại mà đem họ ra giữa cái bề bộn phức tạp của đời thường mà suy xét, mà tạo dựng nên. Ông không nói quá cho ai, tô vẽ lý tưởng ai, nhưng cũng không vì thế mà làm mất đi niềm yêu quý của độc giả đối với các đối tượng mà ông đã tạo dựng. Viết chân dung văn học - với Tô Hoài - cũng là dịp để ông tự đánh giá về mình. Không phải là dịp để người viết đề cao hay giới thiệu về mình trước độc giả. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 Mà đây là những trang hồi ức hết sức chân thành, biết tự đánh giá lấy mình tránh sự tô vẽ bịa đặt, nhất là trong những hình ảnh mà tác giả là người duy nhất tham gia chứng kiến sự việc. Với Tô Hoài “hồi ký là một cuộc đấu tranh tư tưởng để viết” và trong “cuộc đấu tranh tư tưởng” ấy, chắc chắn ngòi bút Tô Hoài đã từng có lúc lưỡng lự “nên viết hay không nên viết”. Song cuối cùng ngòi bút đầy sức thuyết phục ấy đã chinh phục bạn đọc chính bởi tính chân thực, khách quan của những dòng hồi tưởng khi nhà văn dựng chân dung. Đọc chân dung văn học của Tô Hoài, chắc chắn dư luận không thiếu người khen kẻ chê, song điều mà không ai không thể không thừa nhận là nó đầy sức hấp dẫn. Cách viết dí dỏm, giọng điệu tinh quái, ngòi bút Tô Hoài đi sâu vào đời tư vào những chuyện “vụn vặt” của đời tư các nhà văn, những mối quan hệ giữa người viết và môi trường được phản ánh, những câu chuyện xoay quanh tác phẩm và dư luận của công chúng được phản ánh rất rõ trong những tác phẩm chân dung văn học của Tô Hoài. Rồi đây, khi mà các thế hệ nhà văn lão thành đã đang sắp kết thúc chặng đường sáng tác của mình và rồi ai cũng vậy, dù không ai muốn đều phải “ra đi” theo quy luật của tạo hóa, nền văn chương nước nhà sẽ lần lượt vắng bóng những tên tuổi từng rạng rỡ một thời như Nam Cao, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Ngô Tất Tố… thì những tác phẩm chân dung văn học, đặc biệt là chân dung văn học của các nhà văn lớn, sẽ là những tư liệu quý giá, quan trọng giúp cho độc giả tiếp cận và hiểu hơn về giới nhà văn. Hơn nữa, nó còn là những nguồn tư liệu quý giá, đáng tin cậy để người nghiên cứu và giảng dạy có thêm kiến thức để bồi đắp cho thế hệ học sinh mai sau. Chân dung văn học của Tô Hoài cũng vậy. Chắc chắn, cùng với tên tuổi của tác giả, nó sẽ còn được nhiều thế hệ độc giả say mê, tìm đọc và trân trọng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 1.2.2. Tự truyện của Tô Hoài Tô Hoài từng quan niệm viết “tự truyện là một cuộc đấu tranh tư tưởng, nói đúng thì khoa học, làm sai thì tự đề cao hoặc minh oan… tôi thích trong con người có nhiều hoạt động một lúc, không thần thánh hóa làm gì… Tôi thích người bình thường và không tả thành người tầm thường”[11]. Tô Hoài sáng tác tự truyện, hồi ký từ rất sớm. Năm 1943, người đọc đã thấy Tô Hoài có tập Cỏ dại - kể lại quãng đời thơ ấu của mình. Theo ông, dù là sáng tác theo thể loại nào cũng phải “Nói được sự thật để khiến cho người đọc cảm xúc từ đó gây suy nghĩ cho họ”[24]. Vì quan niệm viết tự truyện như là một cuộc đấu tranh tư tưởng nên Tô Hoài coi tự truyện là một trong những thể loại trong đó rất cần đến sự sáng tạo của người nghệ sỹ. Đó là những trang ghi chép những sự việc đời tư đã lùi vào quá khứ, song ghi chép ở đây không phải là một bản sao sự việc hay cũng không giống như chiếc máy ảnh chụp lại cảnh vật y như thật mà “trong khi viết, khi chép vốn sống của cả một đời người có ảnh hưởng gián tiếp tới lời và ý ghi, vì thế mới xuất hiện phong cách ghi chép”[23]. Viết tự truyện là nhằm đáp ứng những yêu cầu của hiện tại bằng những câu chuyện kể lại về đời tư, về người thật việc thật ngày hôm qua do chính người kể chuyện chứng kiến và tham gia vào sự việc. Một người có vốn sống từng trải, phong phú như Tô Hoài mới có khả năng viết được thành công “từ những hiện tượng vừa vặt vãnh lại vừa tinh tế ấy, đôi lúc tưởng ngẫu nhiên đến thế mà có sức ngồi dậy trong sáng tạo chỉ vì nó đã được cái nền sống già dặn từng trải của anh xét duyệt rồi quyết định cho trở ra sống lại một lần nữa”[23]. Với tự truyện hay hồi ký, Tô Hoài đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò chủ thể của nhà văn, với ông đó không phải là những ghi chép đơn thuần, bởi vì “khi viết theo lối ghi chép người thật việc thật, sự sáng tạo cũng không cho phép ta Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 giản đơn. Bao nhiêu công phu và tâm sức bấy lâu quanh những thông cảm và hiểu biết rộng của chúng ta về những “mẫu” người thật việc thật ấy, nhưng hiểu được việc thật ấy sẽ đem lại giá trị cao cho sức nghĩ lúc thể hiện ghi chép của anh”[23]. Những hồi ức, những kỷ niệm của cả một đời người bao giờ cũng in đậm trong trí nhớ và theo ta mãi mãi suốt cuộc đời. Với người viết văn lại càng phải tạo cho mình những tình cảm, những kỷ niệm sâu sắc. Trong nghệ thuật và phương pháp viết văn, Tô Hoài từng tâm sự: “Một việc, một người, một nhận xét ở bất cứ quãng sống nào trong đời khi đạt tới mức thật thiết tha thì có sức nhập vào, sức thúc đẩy (hoặc sức dằn vặt ta) cho ta những suy đi nghĩ lại liên tiếp - nghĩa là những mầm mống của sự sáng tạo”. Những mầm mống ấy phải được cất lên từ “hơi thở” từ mồ hôi và máu của cuộc sống. Xuất phát từ quan niệm đó Tô Hoài đã viết tự truyện. Những tập Cỏ dại, Tự truyện… là những dòng hồi ức chân thực, tỉ mỉ, trong đó tác giả đã dựng lại cả một đời sống văn học của một thời kỳ lịch sử và trên cái nền của đời sống văn học ấy, người ta thấy hiện lên chân dung tác giả với bao buồn vui, những băn khoăn trăn trở, những khao khát náo nức, những gửi găm lớn lao… Người ta thấy những dòng tâm sự của tác giả về những điều đã và chưa làm được, cũng như thấy cả một hồi ức về tuổi thơ nhọc nhằn vất vả, và quá trình khám phá và nhận thức về con người và xã hội… Song đó không còn là suy tư của nhà văn nữa mà còn là suy nghĩ của cả một lớp người viết thời đó. Tự truyện của Tô Hoài cho ta thấy được những kinh nghiệm trong đời tư của nhà văn, quá trình sống và tồn tại của nhà văn, có cả quá trình từ nhỏ cho đến lúc trưởng thành với những khao khát, với những buồn vui trong cuộc sống lúc bấy giờ. Viết Cỏ dại (1943) Tô Hoài đã viết về quãng đời thơ ấu nhọc nhằn cay đắng của mình. Trong tác phẩm ông gửi gắm những cảm xúc về một thời đen tối. Ngay từ khi ra đời, nó đã được dư luận chú ý. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 Sau Cỏ dại là tập Tự truyện viết xong năm 1973, in năm 1976, tái bản lần thứ hai năm 1984 kể về cuộc sống của người thợ thủ công vùng ngoại ô Hà Nội, kể về những gian truân, vất vả trên con đường đi tìm “miếng cơm manh áo”, đi tìm lý tưởng, lẽ sống của người thanh niên trong xã hội cũ. Với giọng điệu trầm buồn, tác giả kể chuyện mình, chuyện gia đình, làng quê và xa hơn nữa đó chính là hình ảnh cuộc sống ngột ngạt bế tắc trong những năm trước Cách mạng ở vùng quê của tác giả. Tô Hoài viết Cỏ dại khi ông mới hai mươi tuổi. Chàng trai trẻ ấy cũng chỉ như bao người bình thường khác, thậm chí cuộc sống của anh còn cơ cực, thất nghiệp triền miên, phiêu bạt nhiều nơi, làm đủ mọi để kiếm sống như sau này nhà văn kể lại trong tác phẩm Tự truyện của mình. Sau nay, Cỏ dại đã được gom chung vào chùm Tự truyện làm nên vóc dáng con người của nhà văn. Nhà văn tạo được sức hấp dẫn trong tự truyện là ở những chuyện “vụn vặt, nhem nhọ”. Với việc khai thác cuộc sống thực - “cái mạch sống của cuộc đời tạp nham”, Tự truyện đã đem đến cho người đọc hiểu rõ hơn về thời thơ ấu và trưởng thành của Tô Hoài. Hơn nữa còn hiểu hơn cả một thời đại mà nhà văn đã sống. Nhà văn viết Tự truyện nhưng không hề che giấu cái nghèo, túng quẫn của cuộc sống quẩn quanh, tù túng của những người dân làng Nghĩa Đô, và cái nghèo khổ của cả xã hội lúc bấy giờ. Toàn những chuyện nhỏ nhặt, vặt vãnh đều được hiện lên trong tác phẩm của nhà văn. Những chuyện đời thường nhưng lại có sức thu hút, hấp dẫn độc giả, bởi những chuyện nhà văn viết trong Tự truyện chính là chuyện của họ, viết về họ, viết về những con người bình thường trong cuộc sống. Nhờ Tô Hoài mà độc giả có cái nhìn rõ hơn về đời sống - những điều tưởng như hàng ngày ta va chạm nhưng lại chẳng để lại ấn tượng gì, thì khi đọc chùm Tự truyện của Tô Hoài ta lại thấy cuộc sống quanh ta tuy “vụn vặt, nhọ nhem” nhưng cũng hết sức thú vị. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 Chương 2 TÔ HOÀI VỚI CÁC CHÂN DUNG VĂN HỌC 2.1. CHUNG QUANH KHÁI NIỆM VỀ CHÂN DUNG VĂN HỌC VÀ CHÂN DUNG VĂN HỌC CỦA TÔ HOÀI 2.1.1. Khái niệm Chân dung văn học là “thể loại văn học đặc thù có nhiệm vụ tương tự như thể loại chân dung trong hội họa và điêu khắc, miêu tả diện mạo của một con người cụ thể, có thật, sao cho truyền được thần thái sống động của người đó, phát hiện đặc điểm riêng cá nhân, độc đáo, không lặp lại của một nhân cách với thế giới tinh thần của nó. Khác với hồi tưởng, ghi chép về một con người cụ thể, với tư cách là một thể loại văn học, chân dung văn học miêu tả con người cụ thể với một quan niệm xác định về nhân cách. Phương pháp của chân dung văn học là phương pháp của thể kí. Nó không thiên về cốt truyện. Nhà văn phát huy sở trường về quan sát, chọn lựa chi tiết, cử chỉ ngôn luận, kể cả tác phẩm, tư thế hồi tưởng để dựng lại bộ mặt tinh thần của con người sao cho truyền được thần thái sống động của con người, thường là nhà văn, nghệ sĩ hoặc các nhà hoạt động nổi tiếng”[15]. Khi dựng chân dung văn học, tài năng của người sáng tạo là cực kì quan trọng. Không có năng lực quan sát, không có kinh nghiệm sống với vốn hiểu biết phong phú, không có những tình cảm, xúc cảm chân chính, mạnh mẽ và cao đẹp thì không thể tạo dựng được thể chân dung văn học. Khi đã không sống sâu sắc với chính mình thì làm sao hiểu được sâu sắc đời sống tinh thần của đồng nghiệp, một đối tượng miêu tả hết sức phong phú và phức tạp về tinh thần, tình cảm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 Đọc các tác phẩm thuộc thể loại chân dung, có lúc ta tưởng đó là tác phẩm thiên về phê bình sáng tác, có tác phẩm lại như cuốn tiểu sử nhân vật. Có khi ta lại được đọc những dòng kỉ niệm đầy ấn tượng bởi những cuộc gặp gỡ được hồi tưởng lại. Dù ở bất kì dạng nào, chúng ta cũng cảm nhận được sự cung cấp về tư liệu thật đáng quý. Nhưng ở những nhà văn có tài năng, thì giá trị của tác phẩm không dừng lại ở việc cung cấp tư liệu. Không thoả mãn với điều đó, các nhà văn như Nguyễn Tuân, Tô Hoài, … trên cơ sở tư liệu sống đã xây dựng được những hình tượng chân dung nghệ thuật giàu chất thẩm mĩ, đạt được phẩm chất nghệ thuật cao và gây ấn tượng sâu sắc đối với độc giả. Với tác phẩm chân dung văn học hình tượng nghệ thuật luôn được soi sáng bởi một cái nhìn chủ quan của tác giả. Có lúc tác giả còn bộc lộ quan điểm, tình cảm của mình. Nếu đem so sánh giữa chân dung văn học do các nhà phê bình viết với chân dung văn học do các nhà văn viết thì ta thấy có sự khác nhau. Đọc những chân dung do các nhà phê bình viết, ta thấy họ thường có xu hướng thiên về phê bình và đánh giá, nhưng đối với những nhà văn viết, khi dựng chân dung, họ thường xem đây như là một hoạt động sáng tác. 2.1.2. Các đặc trƣng cơ bản của thể chân dung văn học Chân dung văn học là một thể văn sáng tác thuộc loại kí văn học Tô Hoài từng nói “ Chân dung văn học là việc dựng lại những bóng dáng thần thái văn nhân, những câu nói cái cười, bước đi dáng đứng của họ mà mình từng thấy từng biết”[23]. Nguyễn Đăng Mạnh định nghĩa về chân dung văn học có viết: chân dung văn học “đúng ra, là sáng tác”. Đấy là “một thứ hồi kí, dựng lên nhân vật sống động hẳn hoi, xuất phát từ người thật việc thật”[51]. Theo Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên có viết: “ Phương pháp của chân dung văn học là phương pháp của thể kí. Nó không thiên về cốt truyện”[15]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 Những cách đánh giá trên cho thấy: Chân dung văn học là một sáng tạo nghệ thuật. Nó là một loại kí (viết về “người thật việc thật” hay về những điều “mình từng thấy từng biết”). Chân dung văn học rất cần đến hư cấu tưởng tượng. Hư cấu, tưởng tượng trong chân dung văn học dù mạnh mẽ, phóng khoáng đến đâu, cũng phải dựa trên sự thật, tuyệt nhiên không được phép dựng chân dung văn học về một nhà văn nào đó mà “hư cấu” và “tưởng tượng” ra những chi tiết không có thật trong tiểu sử của nhà văn đó. Chân dung văn học phải là một sáng tạo nghệ thuật thực sự, phải khêu gợi trí tưởng tượng thật sự, nhưng phải sáng tạo trên cơ sở có thực, những chi tiết có thực (trong văn, trong đời). Những kí ức, kỉ niệm, và ấn tượng bao giờ cũng chắp cánh cho những sáng tạo khơi nguồn. Nói như Ilia Eren bua: “Kí ức như ngọn đèn pha ô tô đang đi trong đêm, khi thì nó cho thấy một gốc cây, khi thì một trạm gác, khi một con người. Nhằm trình bày một cách mạch lạc và chi tiết về cuộc đời mình, người ta (đặc biệt là các nhà văn) thường lấp đầy các khoảng trống bằng những dự đoán; thật khó phân biệt đâu là chỗ hồi ức thực thụ kết thúc, đâu là chỗ tiểu thuyết bắt đầu”[54]. Trong khuôn khổ và giới hạn của thể kí, sự sáng tạo của các tác giả chân dung văn học thể hiện chủ yếu ở chỗ nắm bắt và chọn lựa chi tiết có ý nghĩa tiêu biểu và xuất thần của đối tượng. Sự sáng tạo ở đây rất gần với sự sáng tạo của nhiếp ảnh hay hội họa trong việc dựng chân dung. Nói tóm lại, cũng giống như bất kì tác phẩm thuộc loại văn sáng tác nào, chân dung văn học được coi là thành công phải là những tác phẩm xây dựng được những hình tượng chân xác và sống động như thể loại kí, vừa tô đậm được một cách sắc sảo các nét cá tính của nhà văn được dựng chân dung, lại vừa hàm chứa những nét chung của giới văn nhân nghệ sĩ. Nhờ thể chân dung văn học mà các nhà văn có dịp hiểu biết nhau kĩ càng hơn, những người Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 nghiên cứu và giảng dạy có một nguồn tư liệu tin cậy để làm tốt hơn cho quá trình nghiên cứu. Chân dung văn học là một thể văn bộc lộ đậm nét tính chất chủ quan của người viết: Nhà văn Liên Xô A.Pha-đê-ép, đã từng nói: “… Người viết văn phải thấy được sáng tác là một hình thái lao động, dù hình thái đó có phần đặc biệt, nhưng người viết văn chính là một hình thái lao động”. Sáng tác văn học nói chung là một hoạt động cá nhân, cá thể. Người ta nói văn học là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Và là một hình thái của hoạt động tư tưởng. Tư tưởng là hoạt động của hình thái sáng tác của nhà văn. Tuy nhiên mỗi thể văn, tính chủ quan lại có những tỷ lệ cao thấp khác nhau. Ở chân dung văn học vì là thể bút kí văn học cho nên tính chủ quan bộc lộ đặc biệt đậm nét. Theo Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi “Nhà văn phát huy sở trường quan sát, lựa chọn chi tiết, cử chỉ, ngôn luận, kể cả tác phẩm, tư thế, hồi tưởng để dựng lại bộ mặt tinh thần của một con người, thường là nhà văn, nghệ sĩ các nhà hoạt động xã hội nổi tiếng”. Chính vì vậy, mà những nhà văn viết chân dung văn học thường quan tâm đến những cây bút có tài năng và có cá tính, tức là quan tâm tới những nhà văn nổi tiếng - không mấy ai lại viết chân dung của những nhà văn thiếu cá tính và ít tài năng. Độc giả thường quan tâm tới những chân dung văn học nổi tiếng, có cá tính, có tài năng mà họ hâm mộ. Nhưng viết về chân dung thì bản thân người viết phải là những người có cá tính, có phong cách. Nếu không có, thì không viết được những chân dung đặc sắc. Điều ấy khiến cho tác phẩm chân dung văn học mang tính chủ quan. Hơn nữa, người ta thường chỉ viết, thường chỉ có cảm hứng viết về những cây bút mà mình ưa thích, hâm mộ và có quan hệ thân cận đặc biệt. Điều ấy khiến cho trong các bức chân dung văn học, cái tôi của người cầm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 bút bao giờ cũng bộc lộ đậm nét. Cái tôi của người cầm bút bao giờ cũng bộc lộ tính chủ quan của hoạt động sáng tạo. Đọc những chân dung văn học xuất sắc nhất, ta còn thấy rất rõ tình cảm nồng nhiệt của người viết đối với đối tượng của mình. Tính chủ quan của chân dung văn học còn thể hiện rõ hơn nữa ở cách khai thác và sự phát hiện riêng về đối tượng. Thực ra, những tác phẩm văn học đích thực, được nhiều người thích đọc bao giờ cũng thấm đẫm tính chủ quan của người viết. Chân dung văn học cũng vậy, ở một mức độ nào đấy, chất chủ quan càng đậm đà được biểu hiện một cách khéo léo, thì giá trị văn chương của tác phẩm càng cao, càng lôi cuốn người đọc. Qua chân dung văn học chẳng những biểu hiện được cá tính, phong cách nhà văn - đối tượng dựng chân dung văn học mà còn biểu hiện cả cá tính, phong cách nhà văn - tác giả chân dung văn học. Cái độc đáo của thể loại chân dung văn học là ở đó. Chân dung văn học là một dạng đặc biệt của hoạt động phê bình văn học: M.Gorki từng nói: “Ngôn ngữ là cái áo của mọi tư tưởng”. Đọc các tác phẩm thuộc thể loại chân dung, có lúc ta cảm tưởng đó là một tác phẩm thiên về phê bình chân dung, có tác phẩm lại như cuốn tiểu sử nhân vật. Có khi ta lại được đọc những dòng kỉ niệm đầy ấn tượng bởi những cuộc gặp gỡ được hồi tưởng lại. Dù ở bất kì dạng nào, chúng ta cũng cảm nhận được sự cung cấp về mặt tư liệu thật đáng quý. Nhưng ở những nhà văn có tài năng, thì giá trị của tác phẩm không dừng lại ở việc cung cấp tư liệu. Sự hấp dẫn thật sự của chân dung văn học không phải là chỉ ở chỗ dựng chân dung sống động của nhà văn. Nó còn giúp bạn đọc từ con người mà hiểu được văn, nói như Nguyễn Đăng Mạnh hiểu được “Cái gốc gác, cốt lõi của nó, hay có thể gọi là cái “thần” của văn”[37]. Hơn nữa, giúp bạn đọc hiểu được tư tưởng của nhà văn ấy. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 Các nhà văn viết chân dung thường dựa vào hai cách tiếp cận để dựng chân dung. Thứ nhất là dựa vào văn mà dựng hình tượng tác giả. Thứ hai là chủ yếu dựa vào những chi tiết về đời sống của nhà văn được dựng chân dung, và qua hình tượng ấy, người đọc hiểu được cái phần cốt lõi của tác phẩm văn chương của nhà văn ấy. Thông thường người dựng chân dung phải có khả năng thẩm văn và tổng hợp được từ văn cái thần thái chung của nghệ thuật, hiểu được cả tư tưởng phong cách mà nhà văn - người được tác giả dựng chân dung. Như vậy có thể nói, thể loại chân dung văn học là một dạng đặc biệt của phê bình văn học. 2.1.3. Chân dung văn học của Tô Hoài Những chân dung thấp thoáng trong hồi kí, tự truyện và tiểu thuyết Mặc dù số lượng sáng tác không nhiều so với tổng số trên 160 đầu sách, song Tô Hoài đã cắm những ngọn cờ ở những chặng đường sáng tác trên một con đường khám phá đầy khó khăn và mới mẻ này. Tô Hoài đã từng nghĩ: “Mỗi nhà văn bước vào nghề một cách thì mỗi nhà văn ấy cũng có một lối đi riêng của mình”. Tô Hoài đã mạnh dạn tìm lối đi riêng cho mình ở một thể loại mà văn học Việt Nam không chỉ chưa có nhiều thành tựu mà còn rất mới mẻ, đó là thể loại chân dung. Chính ông từng khẳng định: “Sẽ không thể viết được nếu không có trình độ tư tưởng và hiểu đời một cách sâu xa, nếu không theo nhịp điệu cuộc sống một cách có ý thức và thiết tha, nếu không phát hiện được những cái mới cho cuộc sống”[23]. Bắt nhịp với cuộc sống hiện thực lớn lao, Tô Hoài còn “ý thức và thiết tha” tới số phận của những người lao động nghệ thuật ở nước ta. Song chân dung văn học mà tác giả tạo dựng đầu tiên không phải ai khác mà chính là mình. Tự truyện đã thể hiện sự tích luỹ và chuẩn bị về tư liệu cho thể loại kí với sự thể nghiệm ban đầu ở thể loại chân dung. Khi kể lại câu chuyện đời mình, ông cũng nhắc tới những bạn văn, những người cùng hoạt động trong nhóm Văn hoá cứu quốc. Những tên tuổi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 mà ta đã gặp ở Tự truyện tuy mờ nhạt nhưng sẽ được trở lại trong những bức chân dung sau này như: Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân v.v… Để rồi đến với Cát bụi chân ai Tô Hoài cũng tạo dựng được một phong cách riêng khá độc đáo. Trong bài viết của mình tác giả Trần Đình Nam có so sánh “Văn Nguyễn Tuân cầu kì trang nhã, sang trọng, là một thứ cao lương mĩ vị, có lẽ không phải viết cho số đông rất khó đọc. Tô Hoài lại tự nhiên, nhiều đoạn văn rất gần với khẩu ngữ mà vẫn là văn viết”[44,tr .13]. Với một phong cách đặc biệt, với một vốn sống phong phú, Tô Hoài đã cho ra mắt một tác phẩm thật sự xuất sắc, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong toàn bộ văn nghiệp của Tô Hoài. Quả là Cát bụi chân ai có lối hành văn thật tự nhiên, biến hoá, phức tạp một cách thú vị. Phải là một nhà văn bậc thầy mới viết được những trang đẹp đẽ dường ấy! Ở độ tuổi 72, độ chín cả về phong cách lẫn cái nhìn và tư tưởng nghệ thuật, lại cộng thêm một vốn sống phong phú, thực sự Tô Hoài là một nhân chứng lịch sử hiếm hoi và vô cùng đáng quý. Những nhà văn có tên tuổi nhất trong làng văn Việt Nam hiện đại đều xuất hiện trong Cát bụi chân ai như: Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Nguyễn Huy Tưởng… Rồi rất nhiều những tên tuổi và gương mặt khá quen thuộc khác hiện lên trong tác phẩm như: Vũ Hoàng Chương, Tú Mỡ, Phan Khôi, Phùng Cung, Nguyễn Sáng, Ngô Tất Tố, Văn Cao, Trần Dần, Lê Đạt v.v… Họ là những người có tên tuổi và có vị thế quan trọng trên văn đàn dân tộc, lại là những con người mà cuộc đời và số phận cũng như tâm hồn rất phong phú, đa dạng và đầy éo le xen lẫn vị cay đắng… Tác phẩm Cát bụi chân ai thực sự gây được sự chú ý của độc giả sau một thời lắng đọng khi mà “Mấy năm cái tên Tô Hoài không còn hấp dẫn trên thị trường chủ nghĩa như trước đây”[4]. Với sự ra đời của Cát bụi chân ai, Tô Hoài đã trở lại vị trí một nhà văn xuất sắc, mang trong mình dòng máu “văn xuôi bẩm sinh” và đáng là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 “nhân chứng của những biến cố lớn nhất của đất nước ta” trong hơn nửa thế kỉ năm qua. Với chân dung văn học, Tô Hoài đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò chủ thể của nhà văn. Với ông sáng tác chân dung văn học không phải là những ghi chép đơn thuần, bởi vì “khi viết theo lối ghi chép người thật việc thật, sự sáng tạo cũng không cho phép ta đơn giản. Bao nhiêu công phu và tâm sức bấy lâu quanh những thông cảm và sự hiểu biết rộng của chúng ta về những “mẫu người thật ấy, những kiểu việc thật ấy” sẽ đem lại giá trị cao cho sức nghĩ lúc thể hiện ghi chép của anh”[23]. Xuất phát từ quan niệm đó, Tô Hoài viết những tác phẩm chân dung văn học. Chân dung văn học nằm trong hồi kí, tự truyện của Tô Hoài. Từ Cỏ dại, Tự truyện đến Những gương mặt, rồi Cát bụi chân ai, và Chiều chiều đều là những dòng chân dung văn học chân thực, tỉ mỉ, trong đó tác giả đã dựng lại cả một đời sống văn học của một thời kì lịch sử. Hình tượng giới cầm bút trong các trang hồi kí của ông có thể khác xa với những gì người đời tưởng tượng, song không phải vì thế mà mất đi lòng yêu quý trân trọng của bạn đọc. Họ không có cái độc đáo phi thường của những bậc tài hoa tài tử mà dung dị giữa đời thường lẫn với mọi người trong xã hội. Đọc tiểu thuyết của Tô Hoài, ta cũng thấy thấp thoáng nhữn._.ác giả. Nhân vật tôi được hiện diện bằng xương, bằng thịt, ngoài hình dáng, hành động, nhân vật tôi còn được khắc hoạ những cá tính, những thói quen sinh hoạt trong cuộc sống hàng ngày - điều mà nhiều cây bút khi xây dựng nhân vật ít để tâm tới. Trong Tự truyện “nhà văn thực sự đã đóng góp vào văn học ta mảng sống buồn bã vật lộn của một thế hệ tuổi thơ - hoặc được nhìn qua cái nhìn trẻ thơ để nói lên một cái gì bản chất của cuộc đời cũ”[32]. Mảng sống ấy rất sinh động có những dáng nét, góc cạnh của cuộc sống đời thường, có lẽ có được điều ấy, trước hết là vì khả năng nhớ dai và rất sinh động ở ký ức của Tô Hoài. Cũng có lẽ vì lứa tuổi thiếu niên, mười tám đôi mươi ấy của đời người lại khớp đúng vào lúc đời sống dân tộc đang chuyển mình từ một thời kỳ tối tăm nhất để chuẩn bị cho một ngày mới - đêm sâu Tiền Cách mạng. Ở Tự truyện nhân vật tôi được hiện diện thật sống động. Ở đó có những ngày thơ ấu (Cỏ dại), những ngày cắp sách đến trường (Mùa hạ đến, mùa xuân đi), những ngày hoạt động trong nhóm ái hữu (Những ngày thơ dệt), Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 109 những ngày lang thang tìm việc làm (Đi làm), những ngày thất nghiệp (Hải Phòng)… Một quãng đời của một đời người, tuy không phải là dài nhưng lại chất chứa bao kỷ niệm vui buồn. Ở đó có nhân vật tôi hiện diện với những cá tính, thói tật, thói quen sinh hoạt của cuộc sống hàng ngày. Cảnh buồn cứ hiện ra trước mắt người đọc dường như bao trùm lên toàn cảnh vật và con người trong cuộc sống. Bắt đầu là hình ảnh của một Cu Bưởi, được thoát ly “nhà quê ra Kẻ Chợ học chữ. Hai năm trời trôi đi, Cu Bưởi chẳng học được một chữ nào vào đầu, thay vào đó là bao nhiêu “kiến thức” bếp núc, nội trợ. Buổi sáng nào “tôi” cũng hì huỵch vần từng chiếc lốp ôtô dựng ngoài mặt tường trước cửa hàng. Tối đến, lại hì huỵch theo mé tường vần vào. “Xong việc vần lốp ôtô là tới việc đánh giầy, xong đánh giầy, vào rửa một chậu bát đũa rếch. Đoạn việc rửa bát rếch, tiếp đến cọ chai (…) cọ được vài chục chai, đã đến buổi trò tan chiều. Tôi sửa soạn và phụ thổi cơm. Nếu không, đem giẻ lau xe đạp cho chú Luyến”. Những ngày đi “du học” của Cu Bưởi sao mà buồn tẻ và thảm thương đến thế. Bao nhiêu ngày tháng trôi đi nơi Kẻ chợ, Cu Bưởi đâu học được chữ nào mà chỉ biết “đánh giầy, cọ chai…, biết nhặt rau muống, ngọn dài, ngắt làm đôi. Gốc cằn và lá sâu thì bỏ”[19]. Thảm thương hơn, hai năm trở về quê là hình ảnh một Cu Bưởi bụng rỗng chữ, cái đầu trắng mốc “hành trang” về là mấy hòn bi sắt và một cái búa đanh, cùng việc thạo nhặt rau muống, cọ nồi và thổi cơm. Nhân vật “tôi” trong Cỏ dại đi vào ký ức bạn đọc không phải là hình ảnh một đứa trẻ khao khát tình mẹ như hình ảnh bé Hồng (Những ngày thơ ấu) hay hình ảnh bé Dần (Sống nhờ - Mạnh Phú Tư), cũng không phải là hình ảnh những đứa trẻ hồn nhiên trong sáng trong độ tuổi vô tư của mình… mà là hình ảnh Cu Bưởi sớm phải bươn trải trong trường đời, sớm phải ý thức về bản thân trong một môi trường buồn tẻ nghiệt ngã. Vì thế mà nhân vật tôi của Tô Hoài buồn nhiều hơn vui, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 110 nỗi buồn đi từ trường đời vào nhân vật và niềm vui cũng được chắt lọc từ cuộc sống hết sức bình dị mà ra. Đến tuổi đi làm tự kiếm sống, nhân vật tôi vật vã trong nhiều nghề khác nhau, nhiều niềm vui, nỗi buồn khác nhau. Từ việc bán hàng ở hiệu giày Bata số nhà 89 phố hàng Đào, công việc buồn tẻ và lạ lùng: “từ giờ anh phải đứng góc ngoài này (…), phải để ý kỹ những người ra vào (…), phải trông từng người một, trong nách trong bụng có thu thu cái gì không”, “… Thành ra bây giờ “tôi” là người tập bán hàng, lại kiêm cả những việc của thằng bồi xăm và thằng hề đồng” nữa. Hết ở hiệu giày Bata, lại về cửa hàng giày ở phố hàng Khay chuyên bán cho khách hàng là tây đầm. Chẳng bao lâu bị đuổi việc, vì ở đây “Tôi” bị quở trách “đã tây thì ra tây, đừng ăn mặc kiểu thế mà bẩn mắt khách hàng”[19], đến việc làm ở hãng Hàng Bông thợ nhuộm, rồi đi làm kho với công việc khuân vác nhặt nhạnh, cuối cùng bỏ việc lang thang…Thảm thương nhất là những ngày thất nghiệp ở Hải Phòng. Trong những ngày tìm việc nương nhờ vợ chồng người bạn nhưng họ cũng nghèo quá, nhà của Cần được tác giả miêu tả: “có lẽ đây là cái buồng tắm cũ. Kê vừa vặn được chiếc giường nhỏ. Thò chân ra ngoài thành giường đã đụng vào tấm cánh sào che hiên” [19], để rồi phải thất thểu quay về Hà Nội… Khắc hoạ nhân vật từ những chi tiết sinh động trong cuộc sống đời thường như thế, nhà văn không có ý định làm méo mó hoặc bôi nhọ nhân vật, mà ở đây là một trong những thủ pháp xây dựng nhân vật của nhà văn. Có lẽ trong làng văn hiện đại Việt Nam ít ai viết về kỷ niệm tuổi thơ và những ngày bước vào tuổi trưởng thành với nhiều chi tiết “vụn vặt” như Tô Hoài. Như vậy, quan điểm trần thuật tham dự mặc dù là qui định trong thể loại tự truyện song đến ngòi bút Tô Hoài người đọc vẫn cảm nhận được tính khách quan của sự vật hiện tượng được miêu tả, cộng với cách kể chuyện hấp dẫn có duyên, nhiều khi lan man mà vẫn kết dính, nhiều khi “vụn vặt” mà vẫn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 111 có ý nghĩa…tất cả những điều đó đã lôi cuốn người đọc làm nên sức hấp dẫn trong Tự truyện của Tô Hoài. Giọng điệu trần thuật: “Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng miêu tả thể hiện trong lời văn, quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm. Cách cảm thụ xa gần, thân, sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm”[15]. Ở mỗi tác giả trong sáng tác của mình, có chất giọng riêng khác nhau, Sêkhốp từng nói: “Nếu tác giả nào không có lối nói riêng của mình thì người đó không bao giờ là nhà văn cả”. Giọng điệu trần thuật phụ thuộc vào quan điểm trần thuật. Quan điểm trần thuật khác nhau sẽ dẫn đến giọng điệu trần thuật khác nhau. “Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong nhà văn và tác dụng truyền cảm tới người đọc, thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết ra được tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu sắp xếp xong hệ thống nhân vật”[15].Giọng điệu trần thuật rất đa dạng phong phú như cuộc sống vốn có của nó. Ở Tô Hoài giọng điệu trần thuật luôn giữ được bản sắc riêng: giọng hài hước dí dỏm pha chút mỉa mai, tinh quái. Có thể nói đó là chất giọng khá ổn định mặc dù trước và sau Cách mạng, cũng có lúc nó xuất hiện đậm nhạt khác nhau song nhìn chung là phổ biến. Bên cạnh giọng điệu khác, nó làm nên tính phức điệu trong giọng điệu trần thuật của tác giả. Đọc Cỏ dại, ngay trong hồi ức về mình ta đã nhận ra chất giọng hài hước, dí dỏm, một cái nhìn giễu cợt về mình: “Một buổi kia, đương ngồi, tôi chợt buồn đi đái. Thôi chết. Tôi đã thấy có những đứa thường khoanh tay, thò đầu lên bàn thầy, “xin thầy cho đi giải ạ” Tôi cũng sẽ lên thưa thầy một câu, tôi cũng được đi. Nhưng tôi không dám lên. Tôi cứ ngồi im, chốc chốc nhăn nhó nhìn trộm thầy…”[19,tr.45]. Hay có hôm ngủ mê Cu Bưởi đái dầm: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 112 “Một đêm kia, tôi ngủ mê thấy được về chơi nhà. Lâu lắm mới được về. Lạ quá, trước nhà có cây cam quả chín đỏ ối. Tôi hái ăn chán chê. Rồi tôi chạy ra ngõ. Tôi đứng trên đầu cây gỗ. Tôi vén quần cẩn thận. Tôi đái một bãi chơi. Tôi sực tỉnh. Quần tôi ướt hết đũng. Mặc phản ẩm nhơm nhớp. Quần ướt quá. Tôi ngồi, hai mắt ráo hoảnh. Cơn ngủ đã tan mất. Tôi khấn thầm, cầu cho cái quần chóng ráo…”[19,tr.78]. Trong dòng hồi tưởng về người ông, bên cạnh những tình cảm thương yêu, kính trọng người đọc vẫn nhận ra giọng điệu tinh quái dí dỏm vốn có của nhà văn và trong cái tinh quái dí dỏm ấy có một cái gì đó không hẳn là mỉa mai mà là chua chát, tủi buồn, buồn vì cuộc đời kiếp người cũng quẫn, quanh quẩn, tù túng, những kiếp người như đang sắp tắt, sắp chìm xuống, không hy vọng vào tương lai. Vì thế mà dòng hồi tưởng thấm đẫm nỗi buồn. Dí dỏm, hài hước, tinh quái, nghịch ngợm mà người đọc vẫn thấy thấm buồn: “Chỉ có lúc ngồi bên mâm rượu với ông, tôi mới biết yêu ông, sợ ông và cũng ghét ông nhất. Bởi vì, suốt ngày lầm lì, đến quãng vài ba chén cay vào, ông tôi mới nói ra, lúc ấy ông tôi hay sinh sự đánh bà tôi. Ông chửi bà tôi - rằng chỉ vì “con mẹ trời đánh kia” mà ông không có con trai - lần nào cũng một câu rủa ráy ấy. Ông tôi ngồi rụt cả hai ống chân lên phản. Hai bàn tay nắm lại, đặt xuống trước hai bàn chân, như lối ngồi của ông Ba Mươi trong tranh thờ. Ông ngồi đợi bà nói thêm một câu. Chỉ một câu thôi. Câu gì cũng được, miễn là có câu nói cho ngứa hai lỗ tai mà bà tôi thì không bao giờ im được…”[19,tr.14-15]. Hình ảnh người ông trong kí ức Tô Hoài gợi ta nhớ đến người ông của Macxim Goócki trong thời thơ ấu. Họ giống nhau bởi cùng chung số phận: đều là những con người “dưới đáy” của sự cùng khổ, “đói cơm rách áo” thì quay ra hành hạ người thân của mình, tìm đến rượu để vơi đi nỗi đau và trút Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 113 vào nhau tất cả sự căm tức, cứ như đó là nguyên nhân cho nỗi khổ của đời mình. Họ đâu biết rằng họ chỉ là nạn nhân của cái xã hội bất công ấy. Như vậy trong Tự truyện ta nhận thấy có sự đan cài, pha trộn nhiều giọng điệu khác nhau trong cùng một tác phẩm song nổi bật lên vẫn là nụ cười hài hước dí dỏm, có khi trong dòng hồi tưởng về mẹ, bên cạnh những tình cảm thương yêu, kính trọng độc giả vẫn nhận ra giọng điệu tinh quái dí dỏm vốn có của nhà văn và cũng trong cái tinh quái dí dỏm ấy là một nỗi buồn chua chát về cuộc đời, kiếp người nghèo khổ, tù túng không có hy vọng vào tương lai: “Bóng u tôi hoà lẫn với bóng tối, vẽ nên một khuôn mặt trăng trắng với đôi mắt nhỏ lòng đen nhuốm màu nâu đồng. Cái bóng mơ hồ trong lớp lớp những ngày tháng ngậm ngùi, thấp thỏm đợi chờ dài dặc. Người ta hình như không mấy khi tỉ mỉ nhìn ngắm những người thân. Có khi như sực nhớ tôi bỗng giật mình ngờ ngợ như người trước mặt đây không phải là u tôi. Có đâu u tôi đã bạc tóc đường ngôi lốm đốm, lưa thưa… Tôi còn nhớ có buổi chiều, không biết u tôi đi đâu về. Ngoài ngõ tiếng chó sủa inh ỏi. Tôi chạy ra, thấy u tôi đương rối rít cuống queo xua con chó vện của nhà cứ lăn xả vào cắn. Tôi phải quát thật to, nó mới gầm gừ chịu lùi. Thì ra con chó hoa mắt. Hôm ấy u tôi mặc áo cánh trắng. Xưa nay con chó nhà đã quen mắt với cái áo nâu của u tôi. Chưa bao giờ u tôi có cái áo trắng”[19,tr.22-23]. Hình ảnh người mẹ lam lũ, vất vả trong con mắt nhà văn vẫn đôi chút pha thêm sự dí dỏm, hài hước, tinh quái, nghịch ngợm mà khi đọc nên người đọc vẫn thấy xót xa thấm buồn trước một kiếp người trong cuộc sống. Chuyện thầy giáo Tỏi trong Mùa hạ đến, Mùa xuân đi vì sao có cái tên Tỏi, Chuyện thầy mất chiếc roi và để bù cho cơn giận, thầy bắt học trò tát lẫn nhau. Cảnh cả một lớp học, học trò tát lẫn nhau bôm bốp, rồi sau cơn tát, thầy bắt học trò mỗi đứa góp một xu mua roi mới, chuyện thầy cho học trò bắn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 114 chim sẻ trong trường để thầy nhắm rượu…tất cả vẫn là bút pháp quen thuộc của Tô Hoài… Nhưng khi Tô Hoài để cho thầy ốm bệnh nằm trong chăn, trò rán chim mời thầy ăn, rồi trò khóc và dào lên một lòng thương cảm: “Tôi bỗng thương xót thầy với một tình cảm lạ lùng, tôi muốn khóc”[19,tr.131]. Rồi sau đó thầy mất việc… điều ấy làm người đọc cảm thấy câu chuyện thật ra không có gì đáng cười nữa. Vì một nỗi bất hạnh chung đã gắn bó số phận họ với nhau: số phận thầy và trò. Vừa bi, vừa hài, cái đáng cười lại rất thương tâm, đó chính là giọng điệu mang bản sắc riêng của Tô Hoài. Ở đây chất giọng tinh quái và mỉa mai chỉ thể hiện rõ nét khi viết về những tập tục trì trệ lạc hậu của làng quê, còn khi hướng tới cuộc sống lao khổ của người dân nghèo, thì giọng trần thuật lại trở nên xót xa thương cảm. Giọng điệu trần thuật trong tác phẩm của Tô Hoài luôn giữ được bản sắc riêng: mỉa mai, bóng gió pha chút gai góc, tinh quái. Đó là chất giọng khá ổn định ở cả trước và sau Cách mạng, mặc dù mức độ đậm nhạt có khác nhau. Nhưng bên cạnh giọng điệu ấy, nhà văn còn sử dụng nhiều giọng điệu, nó làm nên tính phức điệu trong giọng điệu trần thuật của tác giả. Hướng ngòi bút tới người dân lao khổ thì trái tim nghệ sĩ trở nên buồn với giọng trần thuật trở nên xót xa, thương cảm: “Mỗi lần nhớ lại những ngày ở Cầu Am, tôi chỉ nhớ phảng phất thế, nhưng những nét xoáy cắt vào kỷ niệm cứ long lanh như những nhát khía. Một tiếng trẻ nghiến răng. Cái gốc đa xù xì, con trâu đến cọ lưng. Những câu hát ngẩn ngơ…Thằng Tây bắn súng…cò què …Người con gái tùm hụp chiếc khăn vuông, bàn tay trắng xanh mà tôi chỉ trông thấy vào lúc sẩm tối. Lão đồng cô bán bánh cuốn, bán hàng nước. Mọi người đều tốt bụng và đều khổ mà có người khổ đến phải đi trẫm mình vào cái ao có ma đằng sau nhà thương. Nhà bác hàng nước vẫn cãi nhau với vợ bác cu-li san, nhưng đôi lúc lại rơm rớm nước mắt…”[19,tr.160]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 115 Đọc Tự truyện mà ta cảm thấy nhói lên nỗi buồn về cảnh vật và con người trong tác phẩm. Ta thấy bao trùm lên toàn bộ tác phẩm là giọng điệu trữ tình mang sắc thái bùi ngùi cảm động. Sắc thái giọng điệu này thường bộc lộ khi nhà văn viết về những gian truân trong cuộc sống sinh hoạt và hiện thực mà bản thân mỗi con người phải đối mặt, bởi đó là quy luật của cuộc sống. Đọc Tự truyện, nhân vật tôi triền miên trong những kỷ niệm buồn buồn thời thơ ấu đến lúc trưởng thành. Giọng điệu bùi ngùi trở nên hữu hiệu đưa người đọc trở về với những kỷ niệm xưa. Ở đó có cảnh “ông tôi hay đánh bà tôi, các dì tôi hay cãi nhau, có cảnh bản thân nhân vật tôi những ngày Kẻ Chợ lủi thủi cọ chai và vần lốp ôtô, có cảnh nhặt lá đa, lá muỗm ở sân đình, ở cửa quan về cho bà đun bếp…”[19]. Giọng điệu cứ bùi ngùi xúc động không phải được tạo ra bởi từ sự gia công của câu chữ, mà xuất phát từ tình cảm chân thành của tác giả. Những ngày thất nghiệp lang thang kiếm việc ở Hải Phòng, khiến nhà văn không khỏi thấm thía cảnh khổ đau của cái nghèo. Giọng điệu ấy lại thật da diết: “Cần bâng khuâng hỏi tôi trong bóng tối: - Không biết đời chúng mình cứ thế này đến bao giờ” Tôi không hiểu Cần băn khoăn về cuộc đời theo nghĩa đen hay nghĩa bóng, còn tôi thì tôi đang nghĩ đến một cái gì mơ hồ buồn lắm [19,tr.208-209]. Âm hưởng bùi ngùi da diết trải dài trong nhiều tác phẩm của Tô Hoài bắt nguồn từ hiện thực của cuộc sống. Những năm trước Cách mạng, là cuộc sống quẩn quanh tù túng khiến con người bế tắc trong mưu kế sinh nhai. Họ lâm vào cảnh cùng đường tuyệt vọng. Sau Cách mạng, âm hưởng da diết bùi ngùi chỉ xuất hiện khi nhà văn nhớ về những kỷ niệm buồn xưa hoặc bản thân phải đối diện với qui luật tất yếu của một đời người. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 116 Rõ ràng, bên cạnh giọng điệu dí dỏm hài hước, giọng điệu suồng sã tự nhiên, giọng điệu chủ đạo của Tô Hoài còn là giọng trữ tình với nhiều sắc thái tình cảm. Tô Hoài là nhà văn của con người và cuộc sống đời thường, ở đó ông bộc lộ thái độ trước muôn màu, muôn vẻ của cuộc sống. Cái sắc thái làm nên giọng điệu chủ đạo của Tô Hoài trong Tự truyện đã chứng tỏ nhà văn sống trọn vẹn với con người và cuộc đời cả lúc vui cũng như lúc buồn, cả lúc khổ đau cũng như lúc sung sướng hạnh phúc. Nhờ giọng điệu này mà chúng ta có thể nhận ra rằng, từ những sự việc vốn bình thường trong cuộc sống cũng có thể trở thành chất liệu muôn đời cho văn chương. Nhịp điệu trần thuật: Đọc Tự truyện của Tô Hoài ta thấy nhịp điệu trần thuật nhìn chung thường chậm rãi, nhà văn luôn hướng ngòi bút của mình đến những câu chuyện thường ngày, ông không đi vào những vấn đề có tính chất lịch sử, xã hội lớn lao, vì vậy mà nhịp điệu trần thuật trong các sáng tác của ông cứ lặng lẽ dần trôi như dòng đời vốn có. Nếu như ở Nam Cao, tài năng nổi bật là phân tích tâm lý nhân vật, bộc lộ sự đau đớn, dằn vặt trong tâm hồn họ, các tác phẩm của ông bộc lộ những vấn đề có tính chất xã hội lớn lao thì Tô Hoài lại thường đi vào cuộc sống với mạch ngầm bình thường của cuộc sống như sự vốn có của nó. Những tác phẩm của ông cứ lặng lẽ dần trôi theo mạch trần thuật của nhà văn. Trong Tự truyện là những mảng tự truyện về quãng đời thơ ấu, thời thanh niên của nhà văn thì nhịp điệu trần thuật nhìn chung ổn định cứ dần trôi lặng lẽ theo một kết cấu thời gian nhất định. Những cảm nhận về cuộc đời, về số phận con người cứ dần hiện ra theo sự trưởng thành của nhân vật tôi. Nhịp điệu trần thuật tự nhiên, giọng điệu gần gũi, cùng với cách kể chuyện hấp dẫn, có duyên đã lôi cuốn người đọc vào một quãng đời của tác giả. Từng bước đi thăng trầm của cuộc đời nhà văn cứ lần lượt hiện lên trang sách. Từ chuyện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 117 của thằng Cu Bưởi kể về ngôi nhà, mảnh vườn xưa quen thuộc và những người thân cứ lần lượt được giới thiệu. Rồi đến những ngày ở Kẻ Chợ đi học nhưng hai năm trời không có được chữ nào vào đầu mà chỉ biết đến nghề đánh giày, cọ ve chai, rửa bát rồi nấu cơm…Và đến khi đi học, rồi đi làm, đi bán giày bata “số 89 phố hàng Đào” rồi về cửa hàng giày ở “phố hàng Khay”, nào là được gọi về làm bàn giấy của hãng ở phố Giăngsole, Hàng Bông, Thợ nhuộm…Cứ thế qua bước đi của thời gian, nhà văn trưởng thành trên trường đời là xã hội, mỗi suy nghĩ, dự định đều chín chắn hơn. Nhìn chung nhịp điệu trần thuật không có gì đặc sắc so với trước đây của ông: thường chậm chạp thong thả như cuộc sống hàng ngày. Có lúc vừa kết hợp kể và tả. Đó là những đoạn rẽ ngang trong mạch trần thuật: đoạn miêu tả thiên nhiên, đoạn phong tục, đoạn hồi tưởng quá khứ, hoặc có đoạn là những lời bình luận ngoài đề. Đang hồi tưởng về ông, tác giả lại đưa người đọc trở về quá khứ của ông ngoại với những ngày tháng trai trẻ vất vả lam lũ của chàng thanh niên từng phải ra Bắc vào Nam, từng làm phu, làm đường, đến cả việc đóng vai trò làm thầy lang “bất đắc dĩ” để kiếm hai bữa ăn đường, rồi cả việc từng hành nghề đi ăn trộm, ăn cướp để kiếm sống… Mạch truyện bị xen ngang và tạm thời dừng lại song người đọc lại có điều kiện để dõi theo đường đời của từng nhân vật hoặc lại được thưởng thức những bức tranh thiên nhiên kỳ thú. Trong các tác phẩm của Tô Hoài ta thấy xen kẽ ngôn ngữ người trần thuật với ngôn ngữ nhân vật góp phần tạo nên nhịp điệu cho tác phẩm, làm cho tiến trình mạch kể, tả chậm lại. Nhịp điệu chậm góp phần giúp nhà văn thể hiện chủ đề tác phẩm. Đang kể về chuyện thầy giáo bắt học sinh tự tát vào mặt nhau, mỗi đứa đóng một xu để mua roi mới, rồi nhà văn lại tả cảnh mùa hè lồng vào những câu chuyện “Đành chịu, ngày trước học trò đi học, gặp thầy dữ đòn hay thầy giáo hiền cũng chỉ như người đi đường gặp mưa gặp nắng, không biết thế nào Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 118 mà tránh… Rồi mùa xuân đi, mùa hạ đến. Ngày tháng nhạt nhẽo, oi ả, khó nhọc”[19,tr.121]. Mạch truyện bị xen ngang tạm dừng lại song người đọc lại có điều kiện để theo dõi đường đời của từng nhân vật hoặc được thưởng thức những bức tranh thiên nhiên kỳ thú. Nhãn quan sinh hoạt thế sự khiến cho mạch trần thuật có lúc tưởng như lan man, sa đà song không hề bị mất đi cái logic chung của tác phẩm. Mạch trần thuật hết sức chi tiết, tỉ mỉ, hiện thực được miêu tả nhiều khi “trần trụi” từ những chuyện “vụn vặt, tủn mủn”, bằng cái nhìn tinh quái của người trong cuộc tạo nên sức hấp dẫn, tính chân thực của thể loại tự truyện. Nhịp điệu trần thuật này phù hợp và giúp đỡ Tô Hoài thể hiện bức tranh cuộc sống hiện thực bình dị, tự nhiên vốn có. Tô Hoài quan tâm đến cuộc sống đời thường, những vui buồn, lo toan của người dân lao động nên tác phẩm của ông giản dị, tự nhiên, gần gũi đối với mỗi người đọc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 119 KẾT LUẬN Tô Hoài là một tấm gương sáng về tinh thần lao động sáng tạo, về công phu rèn luyện tay nghề của một nhà văn chuyên viết về văn xuôi. Cùng với nhiều nhà văn tài năng đương thời, ông đã có những đóng góp cho sự phát triển của nền văn xuôi hiện đại. Với một sức lao động dẻo dai, bền bỉ, Tô Hoài đã có số lượng lớn tác phẩm ở nhiều thể loại và điều đáng qúi hơn là có được những nét đặc sắc riêng trong phong cách nghệ thuật của mình. Qua mảng đề tài chân dung và tự truyện, Tô Hoài đã góp phần làm nên những áng văn hay cho dòng văn học Việt Nam nói chung và cho thể loại chân dung văn học và tự truyện nói riêng. Đọc những tác phẩm thuộc thể loại chân dung văn học của Tô Hoài, người đọc có cảm tưởng như được gặp gỡ và trò chuyện với bao gương mặt vốn thân quen và đáng kính trọng. Họ hiện ra trước mắt chúng ta bình dị, chân chất, và cũng nhiều cảm động. Tô Hoài đã khuấy động vào con tim khối óc chúng ta trước những con người với những số phận lênh đênh, tài hoa nhưng cũng lắm gian truân. Nhờ Tô Hoài chúng ta đã hiểu được những người nghệ sĩ tài ba, và hơn hết hiểu được sâu sắc “nghề văn”- một nghề cao quí nhưng cũng đầy gian nan. Chọn viết về thể loại chân dung văn học, Tô Hoài đã tự nhận về mình những khó khăn của lớp người khai phá một thể loại mới trong lịch sử văn học dân tộc. Sự khó khăn ấy chỉ kích thích thêm ý thức sáng tạo của nhà văn trước nhu cầu cung cấp tư liệu văn học cho độc giả. Nhờ một trí nhớ tuyệt vời, Tô Hoài đã lưu giữ được một kho kí ức đầy giá trị. Các tác phẩm thuộc thể loại chân dung văn học của Tô Hoài về số lượng tuy chưa nhiều nhưng lại có ý nghĩa to lớn. Chân dung văn học không chỉ dừng lại ở việc giúp ta hiểu biết về thế giới nghệ thuật nhà văn, mà còn giúp ích đối với sự phát triển của thể loại chân dung văn học Việt Nam. Với ngòi bút điêu luyện đã trải qua bao Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 120 khổ luyện công phu, Tô Hoài đã ghi được những thành công đáng kể trong thể loại chân dung văn học của mình. Bên cạnh đó, thể tự truyện của Tô Hoài cũng in dấu những thành công đáng kể. Tự truyện của Tô Hoài cũng để lại những dấu ấn riêng với phong cách mang đậm dấu ấn cá nhân. Đọc tự truyện của Tô Hoài, người đọc thấy được cái “tôi” của nhà văn, thấy được những tâm sự chất chứa trong tác phẩm, với tấm lòng yêu thương con người của nhà văn. Từ góc nhìn đời thường, nhà văn đã viết về tuổi thơ và tuổi trưởng thành của mình với những câu chuyện đời thường, tưởng như “vụn vặt nhem nhọ” nhưng đầy cảm xúc. Nhà văn đã không hề né tránh hay “tô hồng” quá khứ đời tư của mình. Ông đã tái hiện một hiện thực trong quá khứ như nó vốn tồn tại với tất cả những gì thô ráp xù xì, tạp nham vốn có. Tự truyện vì thế đã gây cho người đọc những bất ngờ thú vị về những câu chuyện vụn vặt đời thường. Tự truyện đã cung cấp cho người đọc những bức tranh đời sống sinh hoạt và phong tục vô cùng phong phú, hấp dẫn ở một vùng quê ngoại thành Hà Nội - làng Kẻ Bưởi- Nghĩa Đô, quê ngoại tác giả, và hơn nữa hiểu được bức tranh đời sống xã hội thời bấy giờ. Bằng cách nhìn đời sống mang dấu ấn riêng, bằng năng lực quan sát đặc biệt tinh tế và khả năng nắm bắt đối tượng nhanh nhạy, Tô Hoài đã lựa chọn các quan điểm trần thuật phù hợp và rất linh hoạt trong tự truyện của mình để từ đó dựng lại bộ mặt tinh thần của nhân cách tác giả, với mục đích nghệ thuật khác nhau. Với thể tự truyện Tô Hoài đã tạo ra được nét riêng biệt, có sức lôi cuốn, hấp dẫn đặc biệt đối với người đọc và làm nên một Tô Hoài với phong cách riêng. Với tâm huyết nghề nghiệp, thái độ lao động nghiêm túc, tích cực, phát huy cá tính sáng tạo, nhà văn Tô Hoài đã gặt được những thành công lớn trong sự nghiệp sáng tác của mình. Với hai thể chân dung và tự truyện Tô Hoài đã để lại cho nền văn học hiện đại Việt Nam những giá trị to lớn về thể loại và những độc đáo ở phong cách nhà văn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 121 Với niềm đam mê, hứng thú khám phá, với sức sáng tạo bền bỉ, dẻo dai của nhà văn Tô Hoài giữa dòng văn và cuộc đời, luận văn đã tìm đến với mảng đề tài chân dung và tự truyện của Tô Hoài. Tìm hiểu những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong chân dung văn học và tự truyện của Tô Hoài, chúng tôi muốn thể hiện một thái độ trân trọng của mình đối với những sáng tạo nghệ thuật của nhà văn, đồng thời cũng hy vọng góp thêm tiếng nói - một tiếng nói khẳng định vị trí và những đóng góp quí báu của nhà văn Tô Hoài đối với thể chân dung văn học và tự truyện của các nhà văn nói riêng và nền văn học hiện đại Việt Nam nói chung. Nhân cách nhà văn trong Tô Hoài là một nhân cách đứng đắn, luôn ở chiều hướng vươn tới cái chân, cái thiện, cái mĩ. Ở tuổi cao nhưng Tô Hoài vẫn luôn tỏ ra sung sức với ngòi bút càng già dặn và uyển chuyển tinh tế hơn. Chúng ta hy vọng rằng Tô Hoài sẽ tiếp tục sáng tác thêm, nhất là ở hai thể loại chân dung văn học và tự truyện để tiếp tục thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ hơn ở những thể loại này. Chúng ta hãy chờ đón những thành tựu tiếp theo của nhà văn lão thành này với một niềm đam mê, trân trọng và yêu mến nhất. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 122 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoài An (1997), “Tô Hoài, nhà văn viết về Hà Nội đặc sắc và phong phú”, Báo Văn hoá văn nghệ Công an, số 10. 2. Hoài An (2001), Chân dung văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 3. Lại Nguyên Ân (2004), 150 Thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc Gia, Hà Nội. 4. Nguyễn Văn Bổng (1995), Thời đã qua, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 5. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 6. Trương Đăng Dung (chủ biên), (1990), Các vấn đề khoa học văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 7. Phan Cự Đệ (2004), Tác phẩm và chân dung, Nxb Văn học., Hà Nội 8. Phan Cự Đệ ( 1974), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tập 1, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp. 9. Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức( 1979), Nhà văn Việt Nam, Nxb Đại học - Trung học chuyên nghiệp. 10. Hà Minh Đức (1987), Tuyển tập Tô Hoài, Tập 1, Nxb Văn học Hà Nội. 11. Hà Minh Đức (2006), Tô Hoài đời văn và tác phẩm, Nxb Văn học. 12. Thu Hà (1999), “Viết nhiều và được nhiều - Đọc “Chiều chiều” của Tô Hoài”, Báo Tuổi trẻ TP HCM. 13. Đặng Thị Hạnh (1998), “Viết về một cuộc đời và những cuộc đời (Cấu trúc thời gian và ngôn từ trong “Cát bụi chân ai”)”, Tạp chí văn học, số 12 14. Nhiều tác giả (1996), Các vấn đề khoa học của văn học, Nxb Khoa học xã hội. 15. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 16. Tô Hoài (2004), Cái áo tế, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 17. Tô Hoài (1995), Những gương mặt, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 123 18. Tô Hoài (1999), Chiều chiều, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 19. Tô Hoài (1985), Tự truyện, Nxb Văn học, Hà Nội. 20.Tô Hoài (2004), Chuyện cũ Hà Nội - tập 1,2, Nxb Trẻ, Hà Nội. 21. Tô Hoài (2006), Ba người khác, Nxb Đà Nẵng. 22. Tô Hoài (2004), Hồi kí, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 23. Tô Hoài (1977) , Sổ tay viết văn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 24. Tô Hoài (1997), Nghệ thuật và phương pháp viết văn, Nxb Văn học, Hà Nội. 25. Tô Hoài (1994), Tuyển tập, Nxb Văn học, Hà Nội. 26. Tô Hoài (1986), Chuyện cũ Hà Nội, Nxb Văn học, Hà Nội. 27. Nguyễn Thái Hoà, Đinh Trọng Lạc (1993), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 28. Nguyễn Công Hoan (1997), “Trau dồi tiếng Việt”, Hỏi chuyện các nhà văn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 29. Đoàn Trọng Huy (2002), Tô Hoài - Quá trình lịch sử văn học Việt Nam, tập III, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 30. Nguyên Hồng (2004), Những ngày thơ ấu, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 31. Phong Lê (1999), Vẫn chuyện văn chuyện người, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 32. Phong Lê - Vân Thanh (2003), (Giới thiệu và tuyển chọn), Tô Hoài về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 33. Phong Lê (1990), Các vấn đề của khoa họcvăn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 34. Phong Lê (2006), Người trong văn - chân dung và Tiểu luận, Nxb Văn hoá, Sài Gòn. 35. Nguyễn Văn Long (2003), “Quan niệm nghệ thuật về con người và những đặc điểm của sự thể hiện con người trong văn học Việt Nam giai đoạn từ 1945-1975” Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 124 36. Nguyễn Quốc Luân (1992), “Về chân dung văn học trong sách giáo khoa”, Tạp chí NCGD, số 5. 37. Nguyễn Đăng Mạnh (1990), Chân dung văn học, Nxb Thuận Hoá. 38. Nguyễn Đăng Mạnh (1981, 1982), “Lời giới thiệu”, Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập 1-2, Nxb Văn học, Hà Nội. 39. Nguyễn Đăng Mạnh(2001), Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb Đại học Quốc Gia, Hà Nội. 40. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 41. Nguyễn Đăng Mạnh (1990), “Tản văn về Nguyễn Tuân”, Báo Văn nghệ, Số 32. 42. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (1975), Tổng tập văn học Việt Nam, tập 30A, Nxb Khoa học xã hội. 43. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), “Tô Hoài với quan niệm về con người”, Báo Văn nghệ, số 25. 44. Trần Đình Nam (1995), “Nhà văn Tô Hoài”, Tạp chí văn học, số 9. 45. Võ Xuân Quế (1963), “Ngôn ngữ một vùng quê trong các tác phẩm đầu tay của Tô Hoài”, Tạp chí văn học, số 5. 46. Trần Đình Sử (chủ biên) (2003), Tự sự học (Một số vấn đề và lịch sử), Nxb Đại học Sư phạm. 47. Trần Đình Sử (chủ biên) (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ giáo dục và đào tạo - Vụ giáo viên Hà Nội. 48. Trần Đình Sử (chủ biên) (1996), Lí luận và phê bình văn học, Nxb Văn học, Hà Nội. 49. Mạnh Phú Tư (2000), Sống nhờ, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 50. Trần Hữu Tá (2001), Tô Hoài một đời văn phong phú, Nxb Trẻ Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học TPHCM. 51. Nguyễn Tuân (1982), Tuyển tập Nguyễn Tuân,tập 1,2, Nxb Văn học, Hà Nội. 52. Mạnh Phú Tư (2002), Sống nhờ, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA9526.pdf
Tài liệu liên quan