Toàn cầu hoá & chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam

Lời nói đầu Trong bối cảnh thế giới hiện nay với những biến đổi sâu sắc và mạnh mẽ về tất cả các mặt. Sự phát triển nhảy vọt của khoa học công nghệ, nền kinh tế tri thức chiếm vị thế ngày càng quan trọng trong quá trình phát triển. Do vậy hợp tác kinh tế giữa các nước, các khu vực và toàn cầu có xu hướng ngày càng phát triển bởi nó không chỉ mang lại lợi ích cho mỗi quốc gia, khu vực mà còn mang lại lợi ích trên thế giới. Nhất là Việt Nam với một nền kinh tế đang phát triển và thành tựu khoa họ

doc25 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1274 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Toàn cầu hoá & chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c công nghệ thấp kém thì việc hội nhập khu vực và thế giới sẽ mang lại hiệu quả rất lớn cho tiến trình phát triển kinh tế xã hội mà đường lối của Đảng đã xác định: Việt Nam làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, cùng nhau hợp tác, đôi bên cùng có lợi. Toàn cầu hoá là xu thế khách quan của quá trình phát triển, Việt Nam tham gia hội nhập sẽ có được những cơ hội to lớn nhưng cũng đứng trước những thử thách nặng nề. Việc chủ động hội nhập quốc tế những và một số giải pháp thực hiện là những nội dung được đề cập trong bài viết.trong bài viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế mong thầy cô và các bạn góp ý. Bài viết này đã được hướng dẫn và giúp đỡ rất tận tình của giáo viên Nguyễn Thị Hào. Em xin chân thành cảm ơn! B. Nội dung chính: Thời đại chúng ta đã bước sang một trang mới với những thành tựu quan trọng có tính chất đột phá trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt trong bối cảnh mà cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang phát triển mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu và xu hướng quốc tế hoá ngày càng sâu rộng, thì Đảng ta đã đưa ra quan điểm “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển”. Để hiểu sâu hơn về quan điểm này chúng ta đi tìm hiểu một số vấn đề sau: Chương I: Toàn cầu hoá kinh tế và tính tất yếu khách quan của quá trình toàn cầu hoá kinh tế I. Nền kinh tế thế giới và quá trình toàn cầu hoá 1. Khái niệm toàn cầu hoá: Toàn cầu hoá xuất hiện và phổ cập những thập niên gần đây. Hiện nay tồn tại nhiều định nghĩ về toàn cầu hoá - các nhà kinh tế cho rằng toàn cầu hoá là quá trình lực lượng sản xuất và quan hệ kinh tế vượt khỏi biên giới quốc gia và phạm vi khu vực, lan toả phạm vi toàn cầu, các nền kinh tế quan hệ ngày càng mật thiết với nhau, tuỳ thuộc vào nhau - Toàn cầu hoá khác với quốc tế hoá ở chỗ: trong quốc tế hoá chủ yếu là nói sự lan rộng toàn cầu về không gian, còn trong toàn cầu hoá là nói về vừa lan rộng trong không gian vừa đồng bộ trong thời gian. Vậy thực chất của xu thế toàn cầu hoá là gì? Toàn cầu hoá là kết quả của sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất với sự hợp tác quốc tế hoá sản xuất. Toàn cầu hoá không chỉ giới hạn trong phạm vi kinh tế. Giữa toàn cầu hoá kinh tế và các lĩnh vực, chính trị, xã hội có mối liên hệ tác động qua lại. Khi đề cập đến vai trò của cách mạng hoá công cụ sản xuất tác động đến vấn đề xã hội, C.Mác viết “giai cấp tư sản không thể tồn tại, nếu không luôn luôn cách mạng hoá công cụ sản xuất, do đó cách mạng hoá các quan hệ sản xuất nghĩa là cách mạng hoá toàn bộ những quan hệ xã hội”. Song tiến trình toàn cầu hoá mà dẫn đến là toàn cầu hoá kinh tế luôn đi cùng với sự phát triển của thị trường thế giới. Khi cách mạng công cụ sản xuất và lực lượng sản xuất phát triển sẽ tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp mới ra đời thúc đẩy các ngành, lĩnh vực kinh tế và hệ thống giao thông vận tải phát triển đồng bộ. Sự phát triển đó đã phá vỡ kinh tế tự túc, tự cấp, mở rộng thị trường giao lưu, trao đổi hàng hoá không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn diễn ra trên thị trường khu vực và thế giới. Ngoài ra các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội cũng tác động đến xu thế toàn cầu hoá kinh tế. Điều kiện tự nhiên của các vùng, các quốc gia châu lục khác nhau. Tổng thu nhập quốc gia (GDP) của các châu lục cũng có sự chênh lệch. Ví dụ: châu phi có mật độ dân số thấp, song bình quân GDP trên đầu người chỉ có 660 USD/người/năm. Sự phân bố không đều về tài nguyên, khí hậu và môi trường dẫn đến sự khác nhau về trình độ phát triển, thu nhập, mức sống vật chất và tinh thần. Đây là nguyên nhân của những làn sóng di dân từ vùng có mật độ dân số cao, điều kiện kiếm việc khó khăn, thu nhập thấp đến nơi có dân cư thưa thớt dễ kiếm việc làm, thu nhập cao đời sống, môi trường tốt hơn. Điều đó diễn ra thường xuyên trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Mặt khác con người phải tìm các giải pháp khắc phục tình trạng khan hiếm tài nguyên bằng cách giao thương, trao đổi, mua bán hàng hoá tiêu dùng và các loại tài nguyên khoáng sản nhằm khai thác tài nguyên dư thừa của các nước để khắc phục tình trạng khan hiếm, thiếu hụt nguồn lực phát triển của nước mình. Những yếu tố này góp phần tạo nên xu thế tất yếu phục vụ cho nhu cầu phát triển của tất cả các quốc gia trên thế giới. Bởi vì trên thế giới không có một quốc gia nào có đầy đủ các yếu tố nguồn lực để tự mình xây dựng một nền kinh tế phát triển bền vững. Như vậy toàn cầu hoá kinh tế nhằm khắc phục tình trạng khan hiếm và phân bố tài nguyên không đều, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao và số lượng dân cư ngày một nhiều. Nhưng nhiệm vụ đó chỉ được diễn ra khi mà khoa học công nghệ và lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ cao. Trong điều kiện hiện nay cùng với quá trình hội nhập thì việc đẩy mạnh phân công lao động không chỉ xuất phát từ yêu cầu phát triển các ngành kinh tế văn hoá xã hội mà còn để đáp ứng yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế bởi lẽ nền sản xuất vật chất càng cao, càng đòi hỏi sự hợp tác càng sâu. Trong thế giới ngày nay một sản phẩm thường là kết quả của sự hợp tác phân công lao động trên phạm vi quốc tế. Sự ra đời và phát triển của các Công ty xuyên quốc gia (TNC) ngày càng làm cho nền sản xuất mang tính toàn cầu. Ngày nay trên thế giới có 60.000 TNC chiếm 25% giá trị nền sản xuất toàn cầu. 65% kim ngạch mậu dịch quốc tế, 70% đầu tư nước ngoài, 90% công nghệ cao, các quan hệ thương mại, các dòng vốn đầu tư, các hoạt động dịch vụ phát triển rộng khắp chưa từng có giữa các nước. Dưới tác động của xu thế toàn cầu hoá, mức độ liên kết thống nhất của thị trường thế giới được tăng cường, không còn hiện tượng tách rời thị trường XHCN với thị trường TBCN, các cường quốc công nghiệp không còn phân chia thị trường thế giới thành những vùng ảnh hưởng rõ rệt của riêng từng nước mà cùng một lúc thâm nhập và cạnh tranh với nhau trên mọi thị trường ở cả 3 cấp Quốc gia, khu vực và toàn cầu. Như vậy, hiện thực đời sống cho thấy: quan hệ kinh tế có tính toàn cầu là sản phẩm tất yếu, là xu thế khách quan khi lực lượng sản xuất đạt trình độ quốc tế hoá cao, khoa học công nghệ tiến bộ vượt bậc, kinh tế thị trường trở thành phổ cập. Nói cách khác không phải giai cấp này hay thế lực kia có thể tự mình sáng tạo toàn cầu hoá, và dưới tác động của xu thế toàn cầu hoá, xuất hiện nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, là hoạt động của các quốc gia mở rộng hợp tác kinh tế, không chỉ bằng các quan hệ giao dịch song phương mà bằng cả những hình thức cao hơn là xây dựng các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu. Ngày nay, nhiều vấn đề kinh tế , xã hội, môi trường chỉ riêng một quốc gia, dù là quốc gia lớn mạnh nhất cũng không thể giải quyết được mà phải có sự liên kết của nhiều nước. Thực hiện hội nhập quốc tế đã trở thành nhu cầu cấp thiết của mọi quốc gia nhằm tận dụng các mặt lợi thế của toàn cầu hoá đồng thời hoạt động thực tế mặc nhiên góp phần thúc đẩy làm phong phú cơ bản của xu thế này. Vậy xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc gia luôn luôn tiềm ẩn hai khả năng: thời cơ và thách thức, mặt phải và mặt trái, hợp tác và đấu tranh, tự chủ và phụ thuộc…. Những khả năng đó tác động theo chiều hướng nào là tuỳ thuộc vào khả năng chủ quan của từng quốc gia. Tóm lại: Thực chất của những hoạt động kinh tế lan toả khắp toàn cầu được thể hiện trong các đặc trưng sau: Một là, sự phát triển nhanh chóng các mối quan hệ kinh tế, thương mại và chu chuyển tư bản trên phạm vi quốc tế và khu vực. Hai là, từ xu hướng liên kết dẫn đến sự ra đời các tổ chức kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và khu vực. Ba là, toàn cầu hoá tác động đến phát triển kinh tế và quá trình hình thành các tổ chức chính trị, xã hội, tư pháp quốc tế và khu vực. Toàn cầu hoá kinh tế có mối quan hệ biện chứng với các vấn đề chính trị, xã hội. Bốn là, toàn cầu hoá gắn liền với sự tiến bộ xã hội và các thành tựu về cách mạng khoa học- công nghệ và bùng nổ thông tin tự động hoá cao. 2. Tính tất yếu khách quan của quá trình toàn cầu hoá. Bước vào thế kỷ XXI, tình hình thế giới có những biến đổi sâu sắc và mạnh mẽ. Khoa học công nghệ có những bước nhảy vọt chưa từng thấy, nền kinh tế tri thức sẽ chiếm vị trí càng lớn mạnh trong quá trình phát triển. Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một xu thế tất yếu trong quan hệ kinh tế hiện nay. Hội nhập, tham gia vào toàn cầu hoá kinh tế không chỉ tạo ra những điều kiện thuận lợi mà cả những khó khăn thách thức cho phát triển kinh tế xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới. Trong xu thế đó, ở các mức độ khác nhau, các nước không thể không tham gia hội nhập bởi lẽ. Toàn cầu hoá đã lôi cuốn tất cả các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy vừa hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Quan hệ song phương, đa phương giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng cả trong kinh tế, văn hoá và bảo vệ môi trường phòng chống tội phạm, thiên tai và các đại dịch… các Công ty xuyên quốc gia tiếp tục cấu trúc lại, hình thành những tập đoàn khổng lồ chi phối nhiều linh vực kinh tế, vì vậy các quan hệ đa phương không chỉ giới hạn ở các quan hệ lợi ích kinh tế mà còn có các lợi ích khác, như liên kết các nước đang phát triển cùng nhau đấu tranh vì sự toàn cầu hoá, chân chính chống lại sự áp đặt không công bằng, thiếu bình đẳng của các nước phát triển và các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia. Như vậy, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới là một xu thế tất yếu và là yêu cầu khách quan đối với bất cứ một nước nào trên con đường phát triển trong điều kiện thế giới ngày nay. Thực chất của hội nhập là đấu tranh để giành thị trường hàng hoá, vốn kỹ thuật, kinh nghiệm tham gia phân công lao động quốc tế để khai thác tiềm năng bên ngoài, kết hợp phát huy tối đa nội lực, không ngừng nâng cao sức mạnh về kinh tế và vị thế quốc gia, trước tác động mạnh mẽ của xu thế đã khiến cho không có một nền kinh tế của quốc gia nào có thể đứng ngoài xu hướng đó. II. Các hình thức và tác động của toàn cầu hoá 1. Các hình thức 1.1. Ngoại thương Cơ chế quản lý ngoại thương chuyển từ cơ chế Nhà nước độc quyền về ngoại thương sang cơ chế thị trường, thực hiện kinh doanh ngoại thương nhiều thành phần. Hiện tại Việt Nam đã có quan hệ ngoại thương với hơn 130 nước trên thế giới và điều này đã được xác định rõ định hướng phát triển kinh tế trong đại hội IX của Đảng “ Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại… tạo điều kiện thuận lợi để tăng nhanh xuất khẩu, thu hút vốn, công nghệ từ bên ngoài, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, thực hiện cam kết song phương và đa phương”. Thực hiện định hướng đó thì trong lúc kinh tế thế giới năm 2002 tăng chậm thì việc kinh tế nước ta vẫn giữ được mức tăng GDP, 7,04%, cao hơn mức 6,8% của năm 2001 và đứng thứ nhì sau Trung Quốc rõ ràng là một thành công lớn. Trong đó lĩnh vực có thành tích cao nhất phải kể đến ngoại thương với mức tăng kim ngạch xuất khẩu 10%, gần gấp đôi mức tăng của năm 2001. Đã có 20 mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch trên 100 triệu USD/năm, tất cả các khoản này đã góp phần tập chung hỗ trợ xây dựng các ngành điện, giao thông, thuỷ lợi, y tế, giáo dục vv… Tuy nhiên, phát triển mạnh về ngoại thương cũng đặt ra trước chúng ta một số thách thức: Thứ nhất, hàng hoá các khu vực sẽ vào Việt Nam dễ dàng hơn, kể cả các hàng công nghhiệp, vật tư và các hàng tiêu dùng. Vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt với hàng hoá của các nước ngay trong thị trường nội địa. Những hàng hoá của Việt Nam có chất lượng thấp và giá cao hơn của các nước khác nên khó có thể xuất khẩu sang đó, ngược lại hàng hoá của nước ngoài lại có nhiều khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp Việt Nam, do vậy thâm hụt cán cân thương mại có thể sẽ tăng lên. Nhiều ý kiến còn lo ngại về tình trạng nhập siêu lớn (2,7 tỷ USD, gấp đôi năm 2001), theo thông tin có được thì mức nhập siêu phần lớn rời vào các nhóm hàng như máy móc, công nghệ và nguyên phụ liệu để sản xuất hàng gia công cho xuất khẩu. Thứ hai, giữa hệ thống chính sách, pháp luật của Việt Nam và định chế của các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế còn có sự khác biệt lớn. Ngoài ra, sự thiếu ổn định và nhất quán trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài và đầu tư của tư nhân trong nước, những thiếu sót trong quy hoạch, đầu tư, thuế, tín dụng cho phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển vùng còn phải đáng lưu tâm thêm nữa. Chúng ta cần phải giải quyết nhanh chóng những mâu thuẫn những khó khăn còn tồn tại để có thể tranh thủ các điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế xây dựng một nền kinh tế có sức cạnh tranh và hội nhập có hiệu quả. 1.2. Đầu tư vốn: Không chỉ đối với riêng nước ta mà với tất cả mọi nước trên thế giới, việc khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực luôn có ý nghĩa quyết định đối với tăng trưởng, phát triển nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, ý nghĩa của chính sách đầu tư lại càng quan trọng hơn. Bởi lẽ, một chính sách đầu tư đúng đắn sẽ cho phép phát huy và sử dụng có hiệu quả không chỉ các nguồn nội lực mà cả các nguồn ngoại lực có được từ những lợi thế so sánh, những ưu thế của phân công lao động và hợp tác quốc tế. Ngược lại, một chính sách đầu tư không đúng sẽ không những cản trở việc phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, mà còn là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng thậm chhí làm sụp đổ cả nền kinh tế. Trong những năm qua, nước ta đa chủ động hội nhập kinh tế thế giới và khu vực. Hiện nay nền kinh tế nước ta được đánh giá là một nền kinh tế tương đối mở xét theo tỷ lệ kim ngạch ngoại thương so với GDP và chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Vì vậy nước ta có nhiều cơ hội để phát huy các nguồn lực (cả nội lực và ngoại lực) cho phát triển, nếu có chính sách đầu tư đúng. Nhưng cũng sẽ có không ít những thách thức nếu chúng ta không có chính sách đầu tư đúng theo tinh thần Nghị quyết của Bộ chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế đang được quán triệt và triển khai. Qua hơn 6 năm thực hiện luật đầu tư nước ngoài, Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng đã là môi trường thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào địa bàn. Vốn đầu tư nước ngoài từ năm 1994 đến năm 1996 là 72 - 78%. Từ năm 1997 đến năm 1999 luôn luôn chiếm trên 80% tổng số vốn đầu tư toàn thành phố, trong đó có vốn đầu tư nước ngoài vào công nghiệp chiếm tỷ trọng tương đối cao, dao động từ 30 - 40% tổng số vốn đầu tư ngoài vào Hà Nội. Dự báo thời kỳ 2001 - 2005 Việt Nam sẽ thúc đẩy vốn FDI trung bình một năm vào khoảng 5 - 6 tỷ USD, trong đó Hà Nội một năm khoảng 0,8 - 1 tỷ USD. Thời kỳ 2006/2010 Việt Nam sẽ thu hút vốn FDI trung bình 1 năm vào khoảng 8 - 9 tỷ USD, trong đó Hà Nội khoảng 2,0 - 2,2 tỷ USD/năm. Nguồn vốn này đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế. Ngoài ý nghĩa bổ sung nguồn vốn đáng kể cho tăng trưởng, khu vực này còn góp phần tạo việc làm chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý. Do vậy cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư để thu hút, sử dụng có hiệu quả hơn vốn FDI. Thời gian qua, đầu tư tư nhân trong nước tăng nhanh và có vị trí ngày càng quan trọng hơn, từ mức dưới 20% tổng đầu tư xã hội (thời kỳ 1997 - 2000) lên 24,7% (năm 2001) và tăng khoảng 30% (so với năm 2000). Tuy nhiên so với các nước trong khu vực, tỷ lệ tiếp kiện dân cư còn thấp, định hướng sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn của khu vực tư nhân vẫn còn nhiều hạn chế. Cần có nhiều cơ chế chính sách để phát triển kinh tế tư nhân, khuyến khích đầu tư tư nhân. Trong bối cảnh suy giảm vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) toàn cầu, kết quả cam kết của các nhà tài trợ cho Việt Nam năm 2001 vẫn đạt mức 2,4 tỷ USD, và vốn giải ngân vẫn đạt 1,7 tỷ USD là khả quan, góp phần thiết thực cho tăng trưởng, phát triển cần phải tiếp tục nghiên cứu kỹ lưỡng bài học thành công cũng như chưa thành công trong thời gian qua để tiếp tục đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động thu hút, sử dụng ODA, vay và trả nợ nước ngoài theo tinh thần bản “Đồng thuận Mông - tơ - Sây” (tháng 4 - 2002, Mêhicô) về tài trợ cho phát triển. Như vậy, thu hút vốn đầu tư nước ngoài trở thành bộ phận chủ yếu trong quan hệ kinh tế thế giới, là nhân tố quan trọng hàng đầu của nhiều nước nhằm phát huy lợi thế của mỗi quốc gia để phát triển. Nhu cầu đầu tư càng trở nên thiết thực trong điều kiện tiến bộ khoa học kỹ thuật và phân công lao động quốc tế ngày nay, sẽ không có sự phát triển hoàn chỉnh nếu không có sự đầu tư tư bản và công nghệ giữa các nước và khu vực trên thế giới. 1.3. Chuyển giao công nghệ Chiến lược phát triển đất nước ta là chiến lược phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp, để đạt được mục tiêu đó, chúng ta phải có được một nền khoa học hiện đại áp dụng vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội. Trong thời đại ngày nay khoa học và công nghệ thực sự là nền tảng của sự phát triển. Nhận thức rõ vai trò đó của khoa học và công nghệ, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết quan trọng về khoa học và công nghệ. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ hai ban chấp hành trung ương khoá VIII một lần nữa nhấn mạnh: “Cùng với giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”. Thực tiễn phát triển của hơn 15 năm đổi mới, đã chứng tỏ việc chúng ta áp dụng những tiến bộ khoa học, đổi mới công nghệ, tiếp thu công nghệ tiên tiến và một yếu tố rất quan trọng làm thay đổi bộ mặt đất nước và cuộc sống của nhân dân. Để đạt được tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) liên tục đạt khoảng 8% những năm qua, ngoài yếu tố chuyển đổi cơ chế, mở cửa, chủ động, hội nhập với thị trường khu vực và thế giới thì yếu tố quan trọng. Trong hoạt động sản xuất, kinh doanh thường thấy nổi lên vấn đề vốn, nhưng phân tích kỹ thì thực ra, vốn phần lớn cũng là để đổi mới và tiếp thu công nghệ (mua thiết bị, máy móc - phần cứng của công nghệ, và mua quy trình, bí quyết công nghệ, nâng cao trình độ tay nghề, năng lực quản lý cho người lao động….phần mềm của công nghệ). Không chỉ riêng đối với nước ta mà lịch sử công nghiệp hoá trên thế giới cũng cho thấy đã có rất nhiều cuộc cách mạng kỹ thuật và công nghệ ra đời. Cuộc cách mạng được thực hiện đầu tiên ở nước Anh đã tạo ra công cụ lao động bằng máy móc, thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí, làm thay đổi về chất và tư liệu sản xuất. Từ giữa thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại lại tạo ra bước đột phá mới trong sự phát triển lực lượng sản xuất. Sự phát triển đó không chỉ đem lại tính chất hiện đại cho các yếu tố tư liệu sản xuất mà còn ở kỹ thuật, phương pháp, bí quyết sản xuất hiện đại, trình độ tổ chức và quản lý tiên tiến… nghĩa là từ thiết bị, con người thông tin đến tổ chức quản lý. Như vậy, thực chất của chuyển giao công nghệ là đưa công nghệ từ nước này sang nước khác làm thay đổi quyền sở hữu và quyền sử dụng công nghệ được chuyển giao nhằm rút ngắn quá trình hiện đại hoá công nghệ và do vậy có thể đẩy nhanh tốc độ, nâng cao năng lực sản xuất, khai thác có hiệu quả hơn các nguồn lực nhằm đạt được sự tăng trưởng kinh tế nhanh. ở nước ta, việc tiếp cận chuyển giao và phát triển công nghệ là hết sức cần thiết, song vấn đề đặt ra là phải có cơ chế chính sách hợp lý để việc chuyển giao công nghệ vừa đạt được mục tiêu khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế vừa đáp ứng được yêu cầu, mục tiêu bảo vệ môi trường sinh thái. 1.4. Chuyên mô hoá sản xuất và hợp tác sản xuất Chúng ta đã biết mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế là hợp tác nội lực là chính và ngoại lực và tạo thành sức mạnh tổng hợp để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Chúng ta “mở cửa” nền kinh tế, thực hiện đa dạng, đa phương hoá quan hệ kinh tế quốc tế, tăng cường xu hướng hợp tác và nhất là thể hoá kinh tế thế giới, nhằm thu hút các nguồn lực kinh tế từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước, mở rộng phân công lao động quốc tế tăng cường liên doanh, liên kết, hợp tác. Đến nay, trên thế giới đã có đến hàng trăm hình thức tổ chức liên chính phủ và hàng nghìn hình thức tổ chức phi chính phủ hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế và thương mại khoa học và công nghệ, văn hoá xã hội, tiêu biểu như có tổ chức thương mại thế giới (WTO); tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD); tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa (OPEC), Liên Hiệp Châu Âu (EU - 15), Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASAN) vv…. Ngày nay xu thế chung của thế giới là đi vào hoà hoãn mọi vấn đề có tính quốc tế giải quyết bằng con đường đối thoại và chuyên môn hoá sản xuất hợp tác sản xuất giữa các quốc gia, giữa các khu vực, giữa các vùng đã trở nên là điều nghiễm nhiên, bởi lẽ chuyên môn hoá sản xuất và hợp tác sản xuất là sự lợi dụng hợp lý nhất những điều kiện vốn có của vùng - nhằm tiết kiệm và tăng năng suất lao động xã hội, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư hiệu quả sản xuất - kinh doanh để tạo ra một khối lượng sản phẩm hàng hoá vừa tốt vừa rẻ, có sức cạnh tranh thoả mãn nhu cầu của vùng, vừa đáp ứng nhu cầu nhất định của nền kinh tế quốc dân nghĩa là thông qua chuyên môn hoá sản xuất vùng, tham gia tích cực vào các hoạt động kinh tế - xã hội giữa các vùng, góp phần thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội theo lãnh thổ trên phạm vi cả nước. Đứng trước xu thế toàn cầu hoá thì sự chuyên môn hoá sản xuất và hợp tác sản xuất thực sự là cần thiết, có như vậy mới có được sự hỗ trợ nhau tốt nhất trong sản xuất kinh doanh cũng như trong các hoạt động phát triển khác, có thể khai thác và sử dụng được hợp lý những nguồn tài nguyên thiên nhiên những nguồn lao động… hơn nữa lại có thể giải quyết được những vấn đề mang tính toàn cầu như nạn ô nhiễm môi trường căn bệnh thế kỷ, chiến tranh hạt nhân…. liên quan đến vận mệnh nhân loại, số phận của nhiều cộng đồng, dân tộc mà sự giải quyết chúng cần có sự phối hợp, hợp tác của nhiều quốc gia. 1.5. Xuất khẩu lao động Đảng và Nhà nước đã khẳng định, con người giữ vị trí trung tâm trong toàn bộ chiến lược phát triển kinh tế xã hội và phải phát triển thị trường sức lao động nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng nhanh tỷ lệ lao động chất xám, lao động có kỹ thuật. Nước ta có nguồn nhân lực dồi dào, trung bình mỗi năm tăng thêm khoảng 1 triệu đến 1,1 triệu người. Với số dân 76,3 triệu người vào thời điểm ngày 1 - 4- 1999, Việt Nam là quốc gia có quy mô dân số lớn thứ 3 ở Đông Nam á, thứ 14 trên thế giới, thứ 7 Châu á. Như vậy, dân số Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trong vài chục năm nữa là sẽ ổn định ở mức 120 - 125 triệu người do đó Việt Nam sẽ đứng vào 1 trong nhóm 10 nước có dân số đông nhất thế giới. Tuy nhiên, đông dân lại là một lợi thế của nước ta hiện nay vì nó đem lại một nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, trình độ học vấn khá cao, đây là một trong những điều kiện để thu hút vốn đầu tư của nước ngoài vì kinh doanh ở Việt Nam sẽ có lợi nhuận cao và hàng hoá có sức cạnh tranh (giá nhân công rẻ - hàng hoá rẻ - cạnh tranh tốt). Ngoài ra dân số đông còn là một lợi thế trong việc xuất khẩu lao động,lao động Việt Nam không chỉ đông mà còn có nhiều phẩm chất tốt như cần cù, năng động, sáng tạo, có khả năng thích ứng mau lẹ với mọi biến động của nền kinh tế thị trường … cho nên rất thích hợp với nhiều thị trường lao động như là thị trường Châu á (Đài Loan, Hàn Quốc) Đông Âu, Châu Phi… Như vậy, với hơn 76 triệu dân thì Việt Nam là một thị trường đầy tiềm năng, điều này sẽ có hai ý nghĩa: Một là: nếu khai thác tốt thị trường nội địa sẽ là một yếu tố đảmbảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, bởi lẽ dân số đông sẽ hấp dẫn các nhà tư bản nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, vì có thể tiêu thụ được một khối lượng lớn hàng hoá. Hơn nữa, trong điều kiện kinh tế nước ta còn yếu kém, lao động cơ khí và tự động hoá chưa phổ biến thì lực lượng lao động này là nhân tố quyết định sự tăng trưởng kinh tế. Để sử dụng triệt để và có hiệu quả nguồn lao động nước ta, phải cần hình thành những phẩm chất tốt cho người lao động, đó là đạo đức, tác phong, thể chất nhưng đặc biệt là đào tạo nghề, đồng thời phải đẩy nhanh sự phát triển của nền kinh tế tạo ra nhiều chỗ làm. Hai là: Dân số nước ta đông, tăng nhanh trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn yếu kém, của cải thặng dư còn ít, tích luỹ nhỏ, do đó đã gây ra những sức ép nặng nề đối với chất lượng cuộc sống, tài nguyên môi trường, quá trình đầu tư trở lại cho sản xuất và phát triển kinh tế. Vì vậy, đứng trước xu thế toàn cầu hoá của thời đại, chúng ta cần có sự chuẩn bị, có sự khắc phục, có chính sách hợp lý để khai thác tốt tài nguyên nhân lực của nước ta cũng như đáp ứng những đòi hỏi trong quá trình hội nhập. 1.6. Phát triển thị trường trong nước trong bối cảnh hội nhập Để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực phải tập chung ưu tiên giải quyết nhiều vấn đề, trong đó phát triển thị trường trong nước cũng là một vấn đề hết sức quan trọng, bởi vì nếu không có sự chuẩn bị, không chủ động phát huy nội lực thì không thể hội nhập thành công. Sản xuất và thị trường luôn gắn kết thúc đẩy nhanh phát triển. Phát triển sản xuất sẽ thúc đẩy mở rộng thị trường trong và ngoài nước, ngược lại, có thị trường rộng lớn sẽ tạo điều kiện để đẩy mạnh sản xuất về quy mô, chất lượng và hiệu quả. Trong những năm gần đây, thị trường nội địa nước ta có bước phát triển, nhiều mặt hàng đã bước đầu tìm được chỗ đứng trên thị trường, thu nhập của người dân tăng dẫn đến sức mua tăng, thúc đẩy tăng trưởng của các ngành khác và góp phần làm cho thị trường nội địa phong phú, đa dạng và cạnh tranh cao hơn. ở nước ta hiện nay, thị trường đã được hình thành nhưng vẫn còn nhiều yếu kém, các quy luật của cơ chế thị trường chưa phát huy vai trò tích cực. Cung và cầu mất cân đối: giá cánh kéo giữa hàng nông sản thực phẩm và hàng công nghiệp, dịch vụ vẫn còn lớn, trong khi Việt Nam là một nước công nghiệp, gần 80% dân số sống ở vùng còn khá lớn nên sức mua không cao, chưa kích thích mạnh cầu tiêu dùng. Vẫn còn tiềm ẩn nhiều của tình trạng thiểu phát, chưa thiết lập được mối liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất và các nhà kinh doanh nên chưa tạo thành hệ thống lưu thông lưu thông lâu dài và ổn định ngay cả thị trường trong nước, chưa nói đến thị trường nước ngoài. Chất lượng hàng hoá thấp, mức cạnh tranh chưa cao, nhiều mặt hàng cung đã vượt cầu, quản lý và điều hành của Nhà nước còn những yếu kém như quản lý giá, thông tin, dự báo thị trường, dự báo các mặt hàng, tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại vẫn diễn ra với nhiều hình thức tinh vi, các nhân tố thị trường trong nước chưa ổn định. Trong lúc đó cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định thị trường trong nước giữ vai trò quan trọng và động lực và nhân tố quyết định mở rộng thị trường ngoài nước. 1.7. Tiếp tục hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá. Chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá có mục tiêu chung là đảm bảo chủ quyền quốc gia về tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền nội tệ, ổn định giá trị đồng tiền nội tệ, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tăng trưởng kinh tế nâng cao thu nhập cho người lao động. Ngoài ra nó còn thúc đẩy xuất khẩu, tăng cường dự trữ ngoại tệ quốc gia, giảm thâm hụt cán cân vãng lai, làm tăng khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam. Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ “Thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt theo cung cầu ngoại tệ, từng bước thực hiện tự do hoá tỷ giá hối đoái có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước”. Trong những năm qua, với chức năng tham mưu cho chính phủ và thực thi chính sách quản lý ngoại hối, điều hành tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã không ngừng đổi mới và hoàn thiện, hệ thống Ngân hàng Việt Nam từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Tuy vậy chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá là vấn đề phức tạp, có liên quan đến nhiều lĩnh vực nghiệp vụ chuyên sâu. Trên thị trường tiền tệ ở nước ta, tỷ lệ trao đổi giữa các đồng tiền có sự chênh lệch, biến động rất lớn, từ giữa năm 2001, có tình trạng thừa vốn ngoại tệ, khan hiếm vốn nội tệ trong các ngân hàng thương mại. Ngoài ra chúng ta cũng không thể tránh khỏi hiện tượng đô la hoá nền kinh tế. Theo đánh giá của một số tổ chức và chuyên gia quốc tế, thì tình trạng đô la háo đang ở mức độ bình thường và còn có thể kiểm soát được. Bởi vậy chúng ta cần khai thác mặt tích cực của nó, hạn chế tác động bất lợi, kích thích thu hút nguồn kiều hối và thu hút vốn đầu tư nước ngoài và trong nước, thu hút ngoại tệ trong xã hội vào hệ thống ngân hàng, tạm thời chấp nhận tình trạng đô la hoá tài sản có trong ngân hàng hơn là đô lá hoá phổ biến trong xã hội khi thị trường hối đoái ở Việt Nam đang dần hội nhập với quốc tế, các ngân hàng thương mại cần nắm diễn biến lãi suất và tỷ giá trên thị trường thế giới để kinh doanh tiền tệ trong dân nhưng khó cho vay trong nước thì phải năng động đem gửi ở ngân hàng nước ngoài hưởng thu nhập từ nghiệp vụ tiền gửi. Đó là một hoạt động phù hợp với cơ chế thị trường và cũng có lợi cho cả nền kinh tế quốc gia có khoản dự trữ ngoại tệ lớn. Các ngân hàng có nguồn vốn lớn và có thu nhập, người dân có tiền gửi thu được khoản lãi, ngoại tệ không bị trôi nổi trong lưu thông. 2. Những tác động toàn cầu hoá kinh tế 2.1. Tác động tích cực Thứ nhất, việc Việt Nam hội nhập kinh tế với khu vực ASEAN (AFTA) sẽ cho phép hàng hoá của Việt Nam xuất sang các nước ASAN được thuận lợi hơn, nhanh chóng hơn do giảm thuế quan và các thủ tục hải quan. Việt Nam sẽ từng bước tham gia sâu rộng hơn vào quá trình phân công lao động khu vực, phân chia thị trường khu vực và hợp tác kinh tế với các nước ASEAN. Các nước ASEAN sẽ hình thành một thị trường có tính chất tự do khu vực, vì vậy đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ hấp dẫn hơn. Thứ hai, khi tham gia hội nhập kinh tế thế giới, được công nhân là thành viên chính thức của WTO, Việt Nam sẽ được các thành viên của WTO giành cho các đãi ngộ về tối huệ quốc, không phân biệt đối xử đãi ngộ quốc gia và các đãi ngộ khác, gạt bỏ khả năng bị phân biệt, ứng xử trong thương mại. Những đãi ngộ này là điều kiện thuận lợi để Việt ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0104.doc
Tài liệu liên quan