Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Mục lục Trang Lời mở đầu 4 Chương I Cơ sở và đặc trưng của toàn cầu hoá kinh tế 7 5 I . Cơ sở của toàn cầu hoá kinh tế 7 1 . Quan niệm về toàn cầu hoá 5 2 . Cơ sở khách quan thúc đẩy sự gia tăng xu thế toàn cầu hoá 10 II . Đặc trưng của toàn cầu hoá kinh tế 30 1 . Toàn cầu hoá là giai đoạn phát triển cao của quốc tế 30 2 . Trong thời kỳ toàn cầu hoá kinh tế hiện nay , hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với tự do hoá các họat động kinh tế 31 3 . Toàn cầu hoá kinh tế là

doc101 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1259 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xu thế khách quan nhưng chịu tác động lớn từ Mỹ và các nước tư bản phát triển 32 4 . Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình mang tính hai mặt 34 5 . Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình mở rộng sự hợp tác đồng thời với sự gia tăng cạnh tranh ngày càng quyết liệt 38 6 . Toàn cầu hoá kinh tế hiện nay ngày càng gia tăng gắn với xu thế khu vực hoá 39 Chương II Tác động của toàn cầu hoá kinh tế và Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế 41 I . Tác động của toàn cầu hoá kinh tế 35 I . Tác động của toàn cầu hoá 41 1. Thị trường 41 35 2. Các dòng vốn và công nghệ 42 3. Lao động 43 38 II . Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 45 39 1. Quan điểm của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế 45 39 2. Vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 47 41 Chương III Giải pháp để đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế Quốc tế của Việt Nam 80 72 I . Thuận lợi và thách thức đối với Việt Nam trên con đường hội nhập 72 1. Thuận lợi I . Thuận lợi và thách thức đối với Việt Nam trên con đường hội nhập 80 1. Thuận lợi 80 2.Thách thức 84 75 II . Kinh nghiệm của một số nước có nền kinh tế tương đồng trong khu vực về vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế . 88 79 Nhật Bản 88 79 Hàn Quốc 92 83 Trung Quốc 97 87 III . Giải pháp cơ bản để đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam . 101 91 Ưu tiên phát triển các ngành sản xuất kinh doanh mà Việt Nam có lợi thế so với các nước trong khu vực 103 91 2. Tăng hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng hoá 104 93 3. Thực hiện các biện pháp khuyến khích đầu tư 105 94 4. Hoàn thiện hệ thống thuế quan 106 95 5. Phát triển nguồn nhân lực theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá hội nhập với khu vực và thế giới. 108 97 Kết luận 110 98 Danh mục tài liệu tham khảo 111 99 Lời mở đầu Hiện nay, xu thế toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ cả về qui mô và tốc độ . Bất kỳ một nền kinh tế nào muốn phát triển đều phải tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế để giành lấy lợi ích tối đa có thể đạt được cho đất nước mình . Việt nam cũng không nằm ngoài xu thế đó . Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đang ngày càng được mở rộngvà tăng cường . Việt Nam đã tham gia ASEAN ( năm 1995 ); APEC ( năm 1998 ) và tiến tới gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) , là thành viên chính thức của IMF, WB , UNCTAD,... Có thể nói , tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế , Việt Nam ngày càng tăng cường được vị trí và vai trò của mình trên trường quốc tế, đồng thời đưa nền kinh tế đất nước phát triển hoà nhập vào quỹ đạo chung của nền kinh tế toàn cầu. Trong các chiến lược phát triển của các quốc gia đêù đề cập đến xu thế toàn cầu hoá kinh tế . Vậy toàn cầu hoá kinh tế là gì , có vai trò quan trọng như thế nào trong tiến trình phát triển của các quốc gia ?. Trên sách báo và các phương tiện thông tin đại chúng đã bàn không ít đến vấn đề này . Tuy vậy , việc nhìn nhận nguồn gốc , bản chất của toàn cầu hoá kinh tế , đánh giá những tác động của nó trên các bình diện cũng không phải là đã có sự thống nhất , thậm trí đôi khi còn trái ngược nhau . Để góp phần tìm hiểu vấn đề còn tranh luận nêu trên , luận văn tập trung tìm hiểu rõ cơ sở của toàn cầu hoá kinh tế là gì ? , đặc trưng và tác động của nó ra sao ? , từ đó bước đầu làm rõ về việc tham gia của Việt Nam vào quá trình này . Chính vì mục đích nghiên cứu nêu trên , luận văn được chia làm 3 phần : Phần I : Cơ sở và đặc trưng của toàn cầu hoá kinh tế. Phần II : Tác động của toàn cầu hoá và việc Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế. Phần III : Giải pháp để đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế . Nghiên cứu đề tài “ Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam” là một vấn đề khó nhưng lại hết sức cần thiết . Qua đây em mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô , của bạn bè để luận văn này được hoàn thiện hơn . Chương I Cơ sở và đặc trưng của toàn cầu hoá kinh tế I . Cơ sở của toàn cầu hoá kinh tế 1 . Quan niệm về toàn cầu hoá Toàn cầu hoá kinh tế có phải là một quá trình tất yếu không? Để lý giải điều này, một trong những vấn đề tưởng chừng đã giải quyết lại trở thành vấn đề gây tranh luận nhất: Đó là toàn cầu hoá là gì? Chính từ quan niệm khác nhau về toàn cầu hoá mà có những lý giải không giống nhau về cơ sở của toàn cầu hoá, về tính tất yếu hay không của toàn cầu hoá. Hiện nay, ngay trong học thuật cũng còn dùng khá nhiều khái niệm để cùng chỉ về quá trình toàn cầu hoá. Chẳng hạn, trong nhiều tài liệu dùng từ thế giới hoá, rồi quốc tế hoá và rồi hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, thậm chí có người còn đánh đồng thế giới hoá, toàn cầu hoá với các vấn đề có tính toàn cầu. Toàn cầu hoá là kết quả của sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dẫn đến phá vỡ sự biệt lập của các quốc gia tạo ra sự gắn kết, sự phụ thuộc giữa các quốc gia dân tộc trong sự vận động phát triển. Với quan niêm như vây thế giới hoá cũng có nghĩa là toàn cầu hoá và quốc tế hoá được xem như giai đoạn trước đó của xu thế toàn cầu hoá. Quốc tế hoá toàn cầu hoá là một quá trình, và vì vậy nó khác với vấn đề toàn cầu. Tham gia vào quá trình quốc tế hoá toàn cầu hoá chính là thực hiện hội nhập quốc tế. Toàn cầu hoá là một xu hướng bao gồm nhiều phương diện: Kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội ..vv, là sự gia tăng các mối quan hệ trên các mặt của đời sống xã hội loài người. Trong các mặt đó thì toàn cầu hoá kinh tế vừa là trung tâm vừa là cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy các lĩnh vực khác của xu thế toàn cầu hoá nói chung. Tuy nhiên, điều cần thấy là do thực tế vận động của toàn cầu hoá cùng với những hệ quả của nó đã đưa lại những cách lý giải và thái độ không giống nhau đối với xu thế này. Có quan điểm cho rằng toàn cầu hoá chỉ mới xuất hiện gần đây . Sau khi chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu xụp đổ, Mỹ trở thành siêu cường trên thế giới.Toàn cầu hoá được hiểu là chính sách của Mỹ nhằm bành trướng quyền lực, thống trị thế giới theo kiểu Mỹ. Thực chất toàn cầu hoá là Mỹ hoá. Quan điểm này không chỉ tồn tại ở những nước đang phát triển mà còn có ngay cả ở các nước phát triển như Nhật Bản và Pháp ..vv. Chúng ta biết rằng sau chiến tranh lạnh, thế giới vận động theo trật tự đa cực với một siêu cường là Mỹ. Với sức mạnh của mình, Mỹ đang đóng vai trò chi phối bàn cờ thế giới. Suốt những thập kỷ sau chiến tranh thế giới thứ II Mỹ luôn chiếm 30% GDP thế giới. Mỹ là một trong hai siêu cường hạt nhân trên thế giới và sau khi Nga khủng hoảng suy yếu thì Mỹ đang có ưu thế về lĩnh vực này. Kể từ khi sụp đổ cửa cường quốc Xô Viết do khuyết tật trong mô hình, cùng sai lầm trong đường lối, Mỹ thực sự trở thành một siêu cường quốc duy nhất, Mỹ đã xúc tiến một chiến lược nhằm đề cao vai trò lãnh đạo của mình. Mưu đồ của Mỹ là “không để có một kẻ thách thức nào ở lục địa Âu - á nổi lên có đủ khả năng thống trị nơi đây và thách thức nước Mỹ (1). Mỹ muốn quy tụ toàn thế giới vào vòng ảnh hưởng, chịu sự chỉ huy, điều khiển của mình. Trong lĩnh vực quốc tế, Mỹ thao túng các định chế kinh tế toàn cầu, đòi các quốc gia phải mở rộng cửa thi trường, tham gia hội nhập vào bàn cờ kinh tế quốc tế theo các luật chơi đã được định sẵn xuất phát từ nhu cầu, lợi ích và quan niệm chuẩn mực giá trị lối sống Mỹ. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà người ta đồng nhất toàn cầu hoá với Mỹ hoá. Với quan niệm toàn cầu hoá là chính sách của Mỹ là Mỹ hoá nên đã đẩy tới thái độ trên cả bình diện lý thuyết và trong hoạt động thực tiễn cần phải chống lại quá trình này, nhằm đảm bảo cho sự phát triển độc lập, đa dạng các quốc gia dân tộc. Thực ra quan điểm này mới chỉ chú ý đến khía cạnh chính trị của toàn cầu hoá kinh tế. Đúng là Mỹ đang giữ vai trò bá chủ chi phối phần lớn các hoạt động quan hệ kinh tế quốc tế. Song cơ sở nào dẫn đến, cho phép thực hiện vai trò này thì lại chưa có sự quan tâm phân tích thoả đáng. Nghiên cứu lịch sử phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa nói chung của Mỹ nói riêng ta thấy bản thân các nền kinh tế này cũng đã trải qua thời kỳ bảo hộ cao, chống lại sự xâm nhập từ bên ngoài. Các quốc gia tư bản phát triển kêu gọi tự do hoá nền kinh tế toàn cầu, song thực tế chưa có một quốc gia nào thực sự tự do hoá. Toàn cầu hoá nền kinh tế biểu hiện trước hết ở sự gia tăng của tự do hoá trong lưu chuyển các loại hàng hoá, vốn, công nghệ và lao động. Nguyên nhân dẫn đến tự do hoá , dẫn đến sự lưu động không vượt qua khỏi biên giới quốc gia, các yếu tố của quá trình sản xuất chình là ở sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Trong các xã hội xa xưa, các quốc gia dân tộc tồn tại tương đối độc lập, ít có quan hệ với nhau. Nhưng cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự tăng lên của sản xuất và trao đổi hàng hoá, sự mở rộng thị trường, thì các quan hệ cũng dần vượt ra khỏi danh giới quốc gia, hình thành các mối quan hệ quốc tế,phạm vi các hoạt động kinh tế mở rộng. Nếu không có sự phát triển của lực lượng sản xuất, trong đó có sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhất là kỹ thuật giao thông đường thuỷ, đường sắt ..vv mà sau này là sự phát triển của khoa học, kỹ thuật viễn thông thì dù có mở cửa thị trường, có tự do hoá cũng không thể có sự lưu thông các yếu tố sản xuất, con người và các mối quan hệ nói chung giữa các quốc gia, các vùng. Việc giao lưu giữa các vùng đương nhiên đặt ra nhiều cơ hội cho phát triển sản xuất kinh doanh, cho việc tìm kiếm lợi nhuận. Chính sự phát triển sản xuất mà qua đó nhu cầu mở rộng giao tiếp và mở rộng thị trường ngày càng được đẩy mạnh. Sự phát triển của CNTB (như Mác đã chỉ ra) luôn bị hai giới hạn bởi thị trường và nguyện liệu có nguồn gốc trong kết cấu phát triển của CNTB. Việc tạo ra sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất trong CNTB so với các xã hội trước đó cũng chính là cơ sở, là điều kiện cho quá trình bành trướng ra bên ngoài. Kêu gọi tự do hoá, thâm nhập vào thị trường các quốc gia nhằm tìm kiếm lợi nhuận, rõ ràng có nguồn gốc từ bản chất của nền sản xuất TBCN. Sự bành trướng của Mỹ , mà được gọi là Mỹ hoá không chỉ bị phản ứng của các nước đang phát triển mà còn của ngay cả các nước TBCN phát triển, chính là xuất phát từ mục tiêu cạnh tranh lợi ích , muốn phản kháng lại vai trò của Mỹ với tư cách là “trọng tài “ của các cuộc chơi kinh tế, muốn giành giật ảnh hưởng với Mỹ. Chính do xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá xuất hiện gắn liền với sự hình thành và phát triển của CNTB mà dẫn đến nảy sinh quan niệm về quốc tế hoá trước kia và toàn cầu hoá ngày nay là xu thế lớn của sự vận động nền kinh tế thế giới do các nước tư bản mà đứng đầu là Mỹ chủ trương. Từ sự phân tích ở trên chúng ta có thể thấy rằng quốc tế hoá, toàn cầu hoá thực chất không phải là chủ trương của một quốc gia nào. Nhu cầu về tự do hoá và hội nhập được đẩy đến bởi sự phát triển của lựclượng sản xuất do chính CNTB tạo ra. Loại quan điểm thứ hai là quan điểm thừa nhận tính tất yếu khách quan của quốc tế hoá, toàn cầu hoá kinh tế. Tuy vậy ở đây cũng còn cách lý giải khác nhau. Có ý kiến cho rằng toàn cầu hoá kinh tế là sự điều chỉnh quan hệ sản xuất, là giải pháp quan hệ sản xuất. Song vấn đề đặt ra là, tại sao toàn cầu hoá lại chỉ trở thành thực tế trong một, hai thập kỷ vừa qua, sự xuất hiện đó phản ánh điều gì?. Như vậy, toàn cầu hoá ngoài việc thể hiện ra là bước điều chỉnh quan hệ sản xuất, nó còn phản ánh sự tăng tiến, phát triển mới của sức sản xuất ở một trình độ cao với quy mô toàn cầu. Như vậy , toàn cầu hoá kinh tế là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia khu vực tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển . Sự gia tăng của xu thế này được thể hiện ở sự mở rộng mức độ và quy mô mậu dịch thế giới, sự lưu chuyển của các dòng vốn và lao động trên toàn cầu. Cơ sở ra tăng và thúc đẩy xu hướng trên gắn liền với hàng loạt nguyên nhân mà dưới đây chúng ta đi sâu và phân tích. 2. Cơ sở khách quan thúc đẩy sự gia tăng xu thế toàn cầu hoá 2 . 1 Thứ nhất là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chúng ta thấy rằng trong xã hội phong kiến lực lượng sản xuất và giao thông kém phát triển cho nên sản xuất và trao đổi chỉ được diễn ra trong một phạm vi quy mô nhỏ. Tính tự cung, tự cấp của sản xuất là đặc trưng chủ yếu của phương thức sản xuất phong kiến. Tuy vậy trong thời đại phong kiến cũng đã có thông thương vượt biên giới quốc gia nhưng chưa tạo ra những quan hệ phụ thuộc trong phát triển, chưa có thị trường thế giới theo nghĩa hiện đại. Khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản Mác và Ănghen đã cho rằng do sự phát triển của lực lượng sản xuất đã dẫn đến sự phân công lao động sản xuất quốc tế, làm cho quá trình sản xuất và tiêu thụ mang tính quốc tế, gắn bó phụ thuộc vào nhau. Mác và Ănghen viết “Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới ... thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc” (C. Mác và Ănghen, Tuyên ngôn của Đảng cộng sản , NXB sự thật , H.1986, tr.47). Như vậy quốc tế hoá có cơ sở từ chính sự phát triển của sản xuất, nó ra đời gắn liền với sự hình thành của thị trường quốc tế, kéo theo đó là quá trình di dân lao động và giao dịch tài chính phát triển mạnh mẽ vượt biên giới quốc gia. Trong thời kỳ đầu quá trình quốc tế hóa, các hoạt động kinh tế giữa các quốc gia mang nặng tính chất phụ thuộc một chiều. Các quốc gia kém phát triển thực hiện cung cấp nguyên vật liệu cho các quốc gia phát triển cao hơn và thường là các nước thuộc địa vào chính quốc. Mỗi quốc gia phát triển cao hơn đều tìm cách tạo lập cho mình một khu vực thuộc địa và thực hiện bảo hộ trong khu vực đó. Do vậy, trên thực tế sản xuất và trao đổi chưa có tính toàn cầu. Thế giới bị chia cắt thành nhiều khu vực thuộc địa và phụ thuộc khác nhau chịu ảnh hưởng của từng quốc gia phát triển hơn, chủ yếu là Pháp, Hà lan, Anh... quan hệ giữa các khu vực này luôn bị kiểm soát và hạn chế nhằm bảo vệ vùng ảnh hưởng và quyền lợi của các cường quốc thực dân. Tuy vậy, do sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất cùng với ý thức độc lập đã đưa lại sự phát triển mới của phân công lao động. Các quốc gia vốn trước là phụ thuộc sau khi giành được độc lập đã chủ động tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, tạo ra điều kiện phát triển hơn nữa của quá trình quốc tế hoá. Quan hệ giữa các quốc gia dân tộc, giữa các nước phát triển và kém phát triển từ đặc trưng phụ thuộc một chiều chuyển dần sang quan hệ tương hỗ phụ thuộc lẫn nhau. Từ sau chiến tranh thế giới thứ II gắn liền với sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc là hiện tượng khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ và ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Các phát kiến về khoa học nhanh chóng được áp dụng vào sản xuất đã thúc đẩy phân công lao động phát triển lên một bước mới. Trên thực tế quan hệ giữa khoa học công nghệ và sản xuất ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong thế kỷ XIX thời gian đưa phát minh khoa học vào ứng dụng trong sản xuất phải mất từ 60 đến 70 năm, đầu thế kỷ XX chỉ còn vài trục năm và trong thập niên 90 khoảng 3 đến 5 năm. Dự báo sau năm 2000 chỉ còn dưới một năm. Do sự tác động của các thành tựu khoa học kỹ thuật và sự xoá bỏ của hệ thống thuộc địa và phụ thuộc, nhờ có sự phát triển mạnh mẽ dựa trên phân công lao động quốc tế mới đã làm gia tăng đáng kể các hoạt động kinh tế quốc tế, thúc đẩy gia tăng xu thế quốc tế hóa các hoạt động kinh tế. Chúng ta biết rằng trước khi bước vào thế kỷ XX mặc dù khoa học, trí tuệ của loài người đã có sự phát triển đáng kể nhưng về cơ bản con người vẫn chỉ là nhận thức vận dụng những quy luật của giới tự nhiên mà mình quan sát được áp dụng vào hoạt động lao động sản xuất. bước sang thế kỷ XX con người không chỉ dừng lại ở những hoạt động khám phá tự nhiên trong tầm quan sát mà đã có khám phá mới trong thế giới vi mô và vĩ mô bằng những thiết bị khoa học. Đáng chú ý trong những thành tựu của khoa học công nghệ là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu và năng lượng mới, công nghệ hàng không vũ trụ. Sự phát triển của những loại hình công nghệ mới này đã làm ra đời hàng loạt ngành kinh tế mới, làm thay đổi diện mạo của nền kinh tế toàn cầu. Dưới sự tác động của khoa học công nghệ các ngành kinh tế truyền thống dần dần nhường bước cho các ngành đại diện cho tiến bộ kỹ thuật. Sự tăng trưởng của nền kinh tế từ dựa chủ yếu vào nguyên vật liệu và lao động chuyển sang dựa chủ yếu vào tri thức. Tri thức trở thành động lực chính cho sự tăng trưởng và phát triển trong nền kinh tế. Thực tiễn phát triển của nền kinh tế thế giới đang cho thấy bước chuyển quá độ từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Hiện nay, ở các nước Bắc Mỹ và một số quốc gia phát triển tây Âu các lĩnh vực kinh tế tri thức đã chiếm khoảng 45 đến 50 %GDP, trong OECD kinh tế tri thức chiếm gần 50%GDP.Đối với Nhật bản, bước sang thập kỷ 70- 80 đã chuyển dần từ xã hội công nghiệp lấy của cải vật chất làm trung tâm sang xã hội lấy tri thức và thông tin lam trung tâm. Cùng với các quốc gia phát triển nhiều nước đang phát triển cũng đã kết hợp bước chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp với bước nhảy tắt, rút ngắn xây dựng những cơ sở của nền kinh tế tri thức. Ví dự như Singapo, Hàn quốc và ngay cả Trung quốc đều đang ra sức phát triển lĩnh vực tin học, phát triển các loại hình kinh tế dịch vụ. Sự phát triển của lĩnh vực kinh tế tri thức dựa trên công nghệ có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao, công nghệ thông tin đã mở ra điều kiện thuận lợi cho sự đẩy mạnh xu thế toàn cầu hoá. Cụ thể với những công nghệ mới làm tăng tốc độ kinh doanh, rút ngắn khoảng cách về không gian và thời gian. Các công việc giao dịch hiện nay phần nhiều được thực hiện hiện qua mạng với các máy vi tính xách tay. Hệ thống mạng Internet quốc tế hình thành cho phép con người có thể biết được hầu như mọi diễn biến của đời sống kinh tế xã hội trong giây lát. Và chính điều này đã góp phần nâng cao trình độ dân trí, tạo điều kiện cho dân chủ phát triển, thúc đẩy nhu cầu mở cửa, giao lưu hội nhập. Tóm lại, chính sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật đã làm phá vỡ hàng rào ngăn cách địa giới trong giao dịch của con người trên tất cả các mặt giữa các quốc gia. Điều này đã đẩy quốc tế hoá kinh tế lên một thời kỳ mới, thời kỳ toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Các quốc gia dù muốn hay không đều chịu tác động của quá trình toàn cầu hoá và đương nhiên để tồn tại, phát triển trong điều kiện hiện nay không thể không tham gia quá trình toàn cầu hoá, tức phải hội nhập quốc tế. 2 . 2 Thứ hai là sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường Quá trình quốc tế hoá, toàn cầu hoá có sự gắn bó chặt chẽ với tiến trình phát triển của thị trường . Chúng ta biết rằng quóc tế hoá nẩy sinh gắn liền với sự hình thành của thị trường liên quốc gia. Kinh tế thi trường càng pháp triển thì nhu cầu về thi trường nhiên liệu càng trở thành quan trọng. Kinh tế thị trường càng phát triển thì có nghĩa phân công lao động càng sâu sắc, vì vậy các bộ phận, các thị trường càng gắn bó phụ thuộc chặt chẽ vào nhau. Chúng ta biết rằng ở thế kỷ XV-XVI nghề nuôi cừu ở Anh đã trở thành kinh tế hàng hoá, là điều kiện để nghề dệt len dạ của Anh phát triển, sản phẩm này thường trở thành mặt hàng có ưu thế lớn với nước Anh trong ngoại thương. Để tiếp tục thúc đẩy phát triển nông nghiệp thương phẩm, nước Anh đã tiến hành cách mạng thủ tiêu quan hệ ruộng đất phong kiến. Với sự biến đổi này, cùng với sự tăng tiến của ngoại thương đã thúc đẩy quá trình hình thành nền kinh tế thị trường khá sớm ở Anh. Với kinh tế thị trường đã mở ra điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ của sức sản xuất, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ chế kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, thúc đẩy sự phân công lao động. Sự phát triển mạnh mẽ của Anh trong thế kỷ XIX và XX cũng gắn liền với sự phát triển của kinh tế thị trường, của sự bành trướng thế lực kinh tế ra bên ngoài, tạo ra sự liên hệ ràng buộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Kinh tế thị trường phát triển đã mở ra điều kiện cho sự gia tăng xu hướng quốc tế hóa thể hiện trên hai khía cạnh chính. Thứ nhất, kinh tế thị trường mở ra cơ sở, điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quy mô sản xuất không bó hẹp trong phạm vi của từng quốc gia mà mang tầm quốc tế, như vậy cũng có nghĩa là thúc đẩy quá trình phân công lao động quốc tế, gắn các quốc gia vào trong sự ràng buộc của sản xuất và tiêu thụ. Thứ hai, kinh tế thị trường phát triển ở các quốc gia đưa lại cơ chế thống nhất cho xử lý các mối quan hệ kinh tế, cũng có nghĩa rằng tồn tại cơ chế, phương thức phân bổ các nguồn lực từ sức lao động, đến tư liệu sản xuất ... Điều này rõ ràng là có ý nghĩa cho thúc đẩy mở rộng đầu tư, giao dịch thương mại và tiếp nhận nguồn lao động ..vv. Cho đến nay loài người đã chứng kiến vai trò của kinh tế thị trường trong thúc đẩy sự phát triển sản xuất. Trên thế giới chưa có quốc gia nào phát triển mà lại không dựa trên nền kinh tế thị trường. Quá trình hình thành, phát triển các nền kinh tế thị trường trên thế giới rất đa dạng, phong phú với nhiều cấp độ, nhiều dạng, nhiều kiểu. Mô hình Đức được gọi là mô hình kinh tế thị trường xã hội. Loại mô hình này chú trọng đến tăng trưởng nền kinh tế thị trường gắn liền với thực hiện chính sách phúc lợi xã hội, thực hiện công bằng xã hội...vv. Mô hình kinh tế thị trường Mỹ , có người còn gọi nó là nền kinh tế thị trường phân tán. Nhà nước thông qua các công cụ phát triển bảo đảm cạnh tranh thị trường. Trong mô hình này trách nhiệm cá nhân cao, nhà đầu tư dám mạo hiểm, dòng đầu tư chuyển động linh hoạt tạo ra hiệu năng kinh tế là đặc trưng của mô hình kinh tế thị trường Mỹ. Mô hình kinh tế thị trường Nhật lại coi trọng sự phối hợp hiệp đồng của nhóm, của Nhà nước – doanh nghiệp và người tiêu dùng. Trong mô hình này vai trò của Nhà nước trong soạn thảo chính sách phát triển kinh tế và điều chỉnh thông qua kế hoạch, pháp luật được chú trọng. Ngoài ra còn các mô hình kinh tế đáng chú ý khác nữa như mô hình kinh tế Thụy Điển, mô hình kinh tế thị trường trong các nước công nghiệp hoá. Nhìn chung các mô hình này có những điểm giống và khác nhau. Song suy cho cùng thì đó đều là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh những mô hình kinh tế thị trường nêu trên, vào những thập kỷ sau cùng của thế kỷ XX nhiều quốc gia vốn trước đây từ chối nền kinh tế thị trường đã thực hiện cải cách, phát triển nền kinh tế thị trường với những nét đặc thù tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế cụ thể. Cho tới những năm 80 của thế kỷ XX ta thấy vẫn còn 80% dân số thế giới sống trong những nước có sự cách biệt ở mức độ khác nhau với thị trường thế giới. Nhưng với sự mở cửa của Trung quốc từ tháng 12 năm 1978, sau đó ấn độ cùng nhiều nước Mỹ La Tinh, rồi đến các nước XHCN cũ ở Đông Âu...vv đã làm mở rộng không gian của nền kinh tế thị trường thế giới. Có thể nói ngày nay nền kinh tế thế giới thống nhất ở cơ chế vận hành: cơ chế thị trường. Đây chính là cơ sở cho sự gia tăng của xu thế toàn cầu hoá kinh tế. Kinh tế thị trường phát triển thì sự giao thoa, xâm nhập lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng gia tăng. Có thể nói ngày nay không có một nền kinh tế thị trường dân tộc thuần khiết. Chẳng hạn cho đến năm 1988 Nhật đã chiếm 35 % tổng vốn đầu tư nước ngoài ở Mỹ, còn EU chiếm 19,3%. Theo số liệu thống kê đầu tư nước ngoài vào Mỹ từ thập kỷ 70 đến nay có sự gia tăng. Năm 1970 đầu tư nước ngoài chiếm 4 % tổng tài sản của Mỹ, năm 1984 là 7,6 % và đến năm 1988 tăng lên 37 %. Tổng tài sản nước ngoài ở Mỹ hiện nay lên đến 5800 tỷ USD, so với GDP của Mỹ là 7575 tỷ USD, tức là bằng 76,5 %. Năm 1998 nếu chỉ tính tám nước thành viên EU (Anh, Đức, Hà Lan, Thụy Sỹ, Pháp, Bỉ, ý, Thuỵ Điển và Ai Len) đã có 151 công trình đầu tư vào Mỹ với tổng doanh thu 530 tỷ USD. Ngay như Nhật Bản, một quốc gia vốn hạn chế đầu tư nước ngoài thì đến năm 1999 tỷ lệ vốn đầu tư nước ngoài đã chiếm 24 % tổng vốn đầu tư vào các doanh nghiệp Nhật Bản. So với 10 % trong những thập niên trước đây. Toyota một hãng lớn của Nhật và thế giới, mức sản xuất ôtô hiện nay ở nước ngoài đúng bằng khối lượng ôtô xuất khẩu được của hãng sắn sàng tại Nhật Bản. Ngược lại ngành công nghiệp sản xuất ôtô của Mỹ sẽ bị sụp đổ nếu không còn điều kiện nhập các linh kiện phụ tùng từ Nhật. Đối với EU thì Mỹ cũng đầu tư vào một khối lượng khổng lồ, riêng trong cổ phần của hãng ôtô Chysler Mỹ đã chiếm 1/3. Qua sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường không chỉ ở sự mở rộng qui mô về không gian, về sự xâm nhập ràng buộc lẫn nhau giữa các thị trường mà còn thể hiện ở sự phát triển theo chiều sâu, đó là sự bùng nổ phát triển thị trường tài chính gắn liền với sự xuất hiện của một loạt công cụ mới trong thanh toán giao dịch. Các thị trường tài chính đan xen vào nhau chặt chẽ đến mức lãi xuất cho vay và giá chứng khoán cũng ràng buộc với nhau và lượng vốn tư nhân luân chuyển trên thị trường tài chính lớn hơn tài nguyên của nhiều nước. Thị trường sản phẩm hàng hoá cũng gia tăng mạnh mẽ thể hiện ở quy mô chưa từng có của khối giao dịch thương mại và ở sự phát triển của các dạng giao dịch mới như thương mại dịch vụ và điện tử. Như vậy, có thể thấy sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường chính là cơ sở, là điều kiện cho quá trình quốc tế hóa. Nhìn chung các nước trên thế giới ngày nay đều dựa trên cơ chế thị trường, sử dụng các phương tiện và công cụ của kinh tế thị trường trong hoạt động kinh doanh, đưa lại một không gian rộng lớn, không gian toàn cầu cho các hoạt động sản xuất và lưu chuyển các yếu tố của quá trình sản xuất ấy. 2 . 3 Thứ ba là sự bành trướng của công ty xuyên quốc gia (TNC-Transnational corporation) Sự phát triển mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia trong những thập niên qua vừa phản ánh đặc điểm của quá trình toàn cầu hoá, vừa là nhân tố thúc đẩy quá trình quốc tế hóa gia tăng mạnh mẽ lên một bước mới: toàn cầu hoá. Chúng ta biết rằng với sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất trong CNTB tất yếu dẫn đến sự tập trung sản xuất và dẫn đến độc quyền. Trong lịch sử của nền sản xuất thế giới vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX các tổ chức kinh tế độc quyền đã bắt đầu ngự trị trên thế giới. Vào nửa sau thế kỷ XX dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã đưa lại sự phát triển chưa từng có của các công ty xuyên quốc gia. Nếu vào những năm 60 có khoảng 7000 công ty xuyên quốc gia thì đến những năm 80 có khoảng 20000 và năm 1998 có khoảng 60000 công ty mẹ và trên 500000 công ty con rải rác ở khắp các quốc gia trên địa cầu. Với một mạng lưới rộng khắp như vậy, hoạt động của chúng thực sự tác động đến nền kinh tế toàn cầu. Chúng kéo theo các nền kinh tế quốc gia vào vòng chu chuyển của mạng lưới công ty. Hiện nay các công ty xuyên quốc gia kiểm soát 80% công nghệ mới, 40 % nhập khẩu, 60 % xuất khẩu, 90% đầu tư trực tiếp nước ngoài và sử dụng 34,5 triệu lao động . Khoảng 500 công ty lớn kiểm soát tới 25% tổng sản phẩm thế giới và giá trị trao đổi của chúng tương đương 3/4 giá trị thương mại toàn cầu. Với sức mạnh như vậy , các công ty xuyên quốc gia không những có ưu thế phân phối tài nguyên trong phạm vi thế giới giúp cho việc thúc đẩy phân công lao động quốc tế đi vào chi tiết hoá mà còn thông qua việc toàn cầu hoá sản xuất và kinh doanh quốc tế để đẩy nhanh tiến trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới . Sự phát triển mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia trên địa phận toàn cầu đã tạo ra mạng lưới liên kết kinh tế quốc tế . Các quốc gia có thể tham gia ngay vào dây chuyền sản xuất quốc tế và cũng vì vậy mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau gia tăng . Chẳng hạn công ty xuyên quốc gia Boeing của Mỹ đã sử dụng tới 600 công ty ở nhiều nước khác nhau cùng thực hiện sản xuất các bộ phận của máy bay Boeing. Thực tế là vấn đề xuất xứ quốc gia trong hàm lượng của một sản phẩm đã trở nên phức tạp đến mức dường như không thể xác định một cách chính xác . Các công ty xuyên quốc gia đã đóng góp quan trọng vào thúc đẩy liên kết sản xuất , tăng trưởng thương mại đầu tư và chuyển gao công nghệ quốc tế . Các TNC thường tập trung vào lĩnh vực chế tạo và hướng vào xuất khẩu . Trong hơn một thập niên gần đây giá trị thương mại của các TNC trên thế giới đã tăng lên một cách mạnh mẽ, từ 2,426 tỷ USD năm 1982 lên đến 6,412 tỷ USD năm 1994 , tức tăng trên 2,6 lần. Đáng chú ý là mức tăng giá trị thương mại của các chi nhánh TNC ở khu vực Đông Nam á đạt mức cao nhất, từ 193 tỷ USD lên 871 tỷ USD trong cùng thời gian trên. Vai trò trong thương mại thế giới của các TNC còn thể hiện ở lượng giá trị thương mại được thực hiện trong nội bộ các TNC . Nhìn chung mức trao đổi nội bộ giữa các chi nhánh chiếm khoảng 1/3 tổng giá trị thương mại thế giới . Điều cần thấy là các TNC đã đóng vai trò rất lớn trong việc tăng mức xuất khẩu của các nước đang phát triển , thực chất là đẩy mạnh tiến trình hội nhập của các nền kinh tế này vào nền kinh tế thế giới nói chung . Trong hơn một thập kỷ lại đây, xuất khẩu của các chi nhánh TNC ở các nước đang phát triển tăng mạnh , đặc biệt ở một số quốc gia thuộc khu vực châu á-Thái Bình Dương. Ví dụ ở Xingapo xuất khẩu của các chi nhánh TNC chiếm tới 90% tổng giá trị xuất khẩu hàng chế tạo , Malaixia khoảng 50% ,Philippine 50% . Ngay ở Việt Nam mức đóng góp vào xuất khẩu của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài trong những năm vừa qua cũng tăng đáng kể . Tính từ khi có đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam đến tháng 8/1999,mức xuất khẩu của khu vực có FDI là 5.387 triệu USD 1998: 1983 triệu USD , riêng 8 tháng đầu năm 1999 đạt 1.598 triệu USD . Cùng với việc thúc đẩy hoạt động thương mại khu vực và toàn cầu , các TNC còn thực hiện và thúc đẩy qúa trình tự do hoá đầu tư . Theo số liệu thống kê phần chủ yếu của đầu tư nước ngoài được thực hiện qua kênh của TNC .Mức đầu tư ra nước ngoài trong những thập niên gần đây có sự gia tăng mạnh mẽ. Năm 1997 các TNC trên thế giới đã thực hiện 424 tỷ USD FDI .Năm 1999 tổng FDI trên thế giới là 644 tỷ USD trên phạm vi hơn 100 quốc gia , tức là tăng lên 36,6% so với năm 1998 và cao gấp rưỡi so với 1997. Trong đó mức FDI qua kênh TNC đổ vào các nền kinh tế thế giới trong năm 1999 đạt khoảng 441 tỷ USD , riêng các nước đang phát triển đạt 165 tỷ USD . Việc gia tăng mạnh mẽ vốn FDI các nền kinh tế ,nhất là với các nước đang phát triển có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội theo hướng hoà nhập._. vào nền kinh tế toàn cầu . Nếu đem so sánh mức FDI chúng ta thấy , tỷ trọng của FDI trong GDP có xu hướng tăng lên . Nếu năm 1980 FDI vào các nước chiếm tới 4,6% thì mức FDI ra từ các nước đạt 5%GDP , đến năm 1985 con số tương ứng là 6,5 và 5,9; 1990: 90 và 7,9 ; 1996: 10,6 và 10,8. Đầu tư của các công ty xuyên quốc gia phương Tây vào các nước đang phát triển lên tới 80 tỷ USD . Đáng chú ý trong cơ cấu đầu tư bao gồm cả những lĩnh vực có trình độ chuyên môn cao, đầu tư cả trong sản xuất sản phẩm hữu hình và vô hình. Điều này tác động rất lớn đến qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế-xã hội của các quốc gia đang phát triển thúc đẩy các nước nâng dần mức độ tự do hoá đầu tư. Việc gia tăng các hoạt động TNC ở các quốc gia đang phát triển còn đóng góp quan trọng vào việc đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao trình độ quản lývà chuyển giao các công nghệ hiện đại. Đây là những mặt rất quan trọng để các quốc gia đang phát triển nâng cao trình độ phát triển của mình, từng bưởc rút ngắn khoảng cách phát triển. Sự phát triển mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia từ chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay có nhiều lý do. Trước hết phải thấy là các công ty xuyên quốc gia có chiến lược phát triển phù hợp với xu thế quốc tế hoá, toàn cầu kinh tế. Các TNC đã dựa vào các ưu thế về vốn, kỹ thuật, nguồn thông tin để thiết lập các chi nhánh khác nhau ở các nơi có điều kiện thuận lợi nhất cho việc sản xuất gia công, lắp ráp. Hơn nữa với chiến lược kinh doanh tổng hợp nó cũng tạo điều kiện cho việc sử dụng và phân bổ nguồn vốn hợp lý, tạo sự đan xen các chu kỳ sản xuất kinh doanh của các sản phẩm, phân tán rủi ro, hỗ trợ lẫn nhau. Do sự tồn tại các chi nhánh khác nhau ở nhiều vùng, quốc gia với những nhu cầu đa dạng, với những trình độ sản xuất và tiêu dùng khác nhau cho nên có thể luân chuyển sản phẩm trong nội bộ công ty, kéo dài chu kỳ của sản phẩm , góp phần gia tăng lợi nhuận. Điều đáng nói nữa là bản thân các TNC đều rất chú trọng nghiên cứu sáng chế sản phẩm, mẫu mã mới, đổi mới qui trình công nghệ. Đây chính là một thế mạnh và là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự phát triển mạnh mẽ của các TNC. Điều cần thấy là trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt , muốn có được ưu thế đòi hỏi các TNC phải gắn chặt hoạt động kinh doanh với nền kinh tế toàn cầu , đồng thời phải xem và thực sự tạo lập cho được không gian kinh tế có có tính hệ thống toàn cầu để thực hiện các hoạt động kinh doanh sản xuất , đầu tư ở mọi vùng , kết hợp phân công hợp tác trong nội bộ và với các đơn vị ngoài công ty , tức phải có chiến lược kinh doanh toàn cầu . Các TNC trong những năm qua đã đẩy mạnh triển khai chiến lược như vậy , bao gồm một số nội dung như : thứ nhất là thực hiện toàn cầu hoá cơ cấu tổ chức TNC . Mọi liên hệ trong và giữa các công ty đều liên kết thành một mạng lưới thống nhất kinh doanh toàn cầu . Thứ hai là thực hiện toàn cầu hoá đầu tư . Thứ ba là toàn cầu hoá thị trường , tức là chú ý mở rộng phạm vi tiêu thụ , xây dựng mạng lưới kinh doanh tiêu thụ trong toàn bộ thị trường với một không gian toàn cầu . Thứ tư toàn cầu hoá mở rông kỹ thuật , trong đó chú trọng tạo lập mạng lưới kỹ thuật tin học toàn cầu , góp phần thúc đẩy thực hiện ba mặt nêu trên . Thứ năm là tạo lập liên minh chiến lược xuyên quốc gia toàn cầu . Điều này cho phép phối hợp hoạt động chung của các tập đoàn vì mục tiêu chung , nhất là trong phối hợp sử dụng các nguồn lực , phân chia lợi nhuận và gánh chịu rủi ro . Với các chiến lược này không chỉ gắn bó hoạt động của các TNC với nhau mà thực sự nó tạo ra động lực cho quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới . Như vậy sự phát triển và xâm nhập ngày càng mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia vào các nền kinh tế dân tộc đã góp phần xoá bỏ sự ngăn cách , biệt lập trong phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới . Các quốc gia dân tộc từng bước tham gia , thích ứng với các chuẩn mực của nền kinh tế quốc tế , đồng thời nó cũng đem lại nét mới từ những bản sắc riêng của các quốc gia bổ xung vào nền kinh tế toàn cầu , làm gia tăng tính đa dạng của nó . 2 . 4 Thứ tư là vai trò của các định chế kinh tế toàn cầu và khu vực . Các định chế kinh tế toàn cầu ra đời nhằm đáp ứng đòi hỏi của xu thế quốc tế hoá , toàn cầu hoá kinh tế . Sự tồn tại và hoạt động của các định chế kinh tế toàn cầu và khu vực lại góp phần thúc đẩy sự phát triển hơn nữa của xu thế toàn cầu hoá. Trong các tổ chức kinh tế - thương mại - tài chính toàn cầu và khu vực có ảnh hưởng lớn tới quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá về kinh tế phải kể đến WTO,IMF,WB và các tổ chức khu vực như EU, NAFTA,APEC...Với các mục tiêu chức năng của mình các tổ chức kinh tế quốc tế đã tham gia và thúc đẩy các hoạt động kinh tế quốc tế , điều phối và quản lý các hoạt động này . Cho dù tính hiệu quả của tổ chức này còn được đánh giá khác nhau xuất phát từ quan điểm lợi ích quốc gia , song không ai không thừa nhận sự cần thiết cà vai trò của chúng , thậm trí đang đặt ra yêu cầu về hoàn thiện cơ cấu tổ chức, đổi mới nguyên tắc hoạt động của chúng . a) Tổ chức thương mại thế giới (WTO) có thể khẳng định là một tổ chức kinh tế có vai trò hàng đầu trong thức đẩy sự phát triển của xu hướng toàn cầu hoá kinh tế . WTO mà tiền thân là hiệp định về thuế quan và mậu dịch (GATT) ra đời năm 1947 như một luật lệ quốc tế định ra luật lệ cho mậu dịch thế giới , chủ yếu là để ký kết các hiệp định giảm thuế quan và những hạn chế khác đối với những sản phẩm chế tạo của các nước đã công nghiệp hoá . Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới , vai trò của các quốc gia đang phát triển tăng lên , những qui định của GATT ngày càng bộc lộ những bất hợp lý . Ngày 1/1/1995 WTO ra đời thay cho GATT . WTO có chức năng điều hành và thực thi các hiệp định thương mại đa phương và hiệp định giữa một số bên cấu thành WTO , WTO hoạt động với tính chất một diễn đàn cho các cuộc thương lượng mậu dịch đa phương , tìm kiếm các giải pháp xử lý tranh chấp thương mại giám sát các chính sách thương mại quốc gia và hợp tác với các thiết chế quốc tế khác liên quan tới việc hoạch định chính sách kinh tế toàn cầu . Với chức năng trên thực tế trong thời gian hoạt động của mình GATT/WTO đã đóng góp đáng kể vào tự do hoá thương mại toàn cầu .Tất nhiên lợi ích của quá trình này , luật chơi của GATT/WTO còn nhiều vấn đề phải bàn cãi , song thực tế dường như tất cả các quốc gia ( cả phát triển và đang phát triển ) đều muốn trở thành thành viên của WTO . Không chỉ thông qua các hoạt động điều phối hệ thống mậu dịch thế giới để đẩy mạnh quá trình tự do hoá mà bản thân quy định của WTO trong điều kiện gia nhập cũng bắt buộc các quốc gia phải điều chỉnh tiến trình hội nhập cho phù hợp . WTO qui định các nước gia nhập phải thực hiện toàn bộ các nghĩa vụ pháp lý theo các hiệp định hiện có của WTO và vì vậy cần phải điều chỉnh những quy định, luật lệ quốc gia cho phù hợp với thông lệ chung của quốc tế , tất nhiên theo những lộ trình phù hợp với quy định của WTO . Bên cạnh đó các quốc gia tham gia vào WTO phải cam kết mở của thị trường hàng hóa và dịch vụ . Những quy định này thực tế thúc đẩy các quốc gia tham gia vào quá trình toàn cầu hoá . Nhìn lại chặng đường của GATT/WTO chúng ta thấy tổ chức này đã đóng góp quan trọng vào thúc đẩy tự do hoá nền kinh tế toàn cầu . Nếu trong thời kỳ đầu của GATT , mức thuế bình quân của các nước phát triển là 44%, sau một thời gian đến năm 1979 mức đó đã giảm đáng kể , đối với EU còn 7% , Nhật Bản 10%, Mỹ: 13%. Cho tới vòng đàm phán TOKYO đã có 90 quốc gia tham gia vào GATT và theo qui định của hiệp định TOKYO , năm 1988 mức thuế bình quân của Mỹ giảm xuống tới 4.73% , EU: 3.9% , Nhật: 4,85% . cho đến nay WTO có khoảng 140 thành viên , một số quốc gia trong đó có Việt Nam đang thúc đẩy tiến trình tham gia vào WTO . b) Các tổ chức tài chính tiền tệ lớn như WB,IMF,...cũng đóng vai trò lớn trong thúc đẩy nền kinh tế thế giới theo xu hướng quốc tế hoá , toàn cầu hoá. Các tổ chức này tham gia vào điều chỉnh quan hệ tài chính - tiền tệ giữa các quốc gia thành viên và thực hiện cho vay để hỗ trợ quá trình phát triển kinh tế xã hội . Nếu WB cho vay theo các dự án và chương trình phát triển dài hạn , thì IMF cho các nước bị thâm hụt cán cân thanh toán vay gắn và trung hạn . Xung quanh cơ chế điều phối của WB , IMF cũng còn nhiều ý kiến khác nhau và gắn liền với nguồn tài chính từ các tổ chức này cũng không ít các giàng buộc , nhất là với các nước đang phát triển . Hiện nay còn nhiều ý kiến , nhất là từ các nước đang phát triển đòi hỏi phải thay đổi mục tiêu và nguyên tắc hoạt động của tổ chức này , tạo điều kiện bình đẳng cho các quốc gia tiếp cận các nguồn vốn tài chính giúp khắc phục tình trạng lạc hậu , nghèo đói . Trên thực tế các tổ chức tài chính này chịu sự chi phối của các nước tư bản phát triển , đặc biệt là Mỹ . Vì vậy, các điều kiên đặt ra khi cho vay khó có thể tránh khỏi áp lực nhất định , nhất là với những nước như Việt Nam , đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa . Song không thể phủ nhận vai trò quan trọng của nguồn vốn từ các tổ chức này , đặc biệt trong điều kiện thiếu vốn của các nước phát triển nói chung và đối với Việt Nam nói riêng . Tác động của các dòng vốn từ IMF ,WB đối với sự phát triển của các quốc gia là không thể phủ nhận. Những trợ giúp của tổ chức này cho việc khắc phục cuộc khủng hoảng kinh tế ở Mêhico và ở một số nước Châu á những năm vừa qua là một ví dụ . c) Liên hợp quốc , cùng với vai trò của các định chế có tính toàn cầu như trên , việc thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá kinh tế , không thể khong nói đến vai trò của Liên hợp quốc , đặc biệt các tổ chức kinh tế thuộc Liên hợp quốc , chẳng hạn như hội nghị Liên hợp quốc về Hợp tác và phát triển ( UNCTAD). Vai trò của Liên hợp quốc đối với xu thế thúc đẩy toàn cầu hoá kinh tế thể hiện trên hai khía cạnh . Thứ nhất là khía cạnh gián tiếp , Liên hợp quốc là một tổ chức đa phương đa chức năng có tính toàn cầu . Chương trình nghị sự của Liên hợp quốc không chỉ bó hẹp trong phạm vi kinh tế mà bao gồm cả việc duy trì hoà bình an ninh , giải quyết các vấn đề văn hoá xã hội . Các hoạt động trong các lĩnh vực phi kinh tế cũng tạo ra sự ràng buộc gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của các quốc gia thành viên và vì vậy tác động đến sự phối hợp hợp tác của các nước trong các hoạt động kinh tế . Khía cạnh thứ hai là tác động trực tiếp đến thúc đẩy liên kết kinh tế toàn cầu thông qua các tổ chức chức năng về kinh tế như UNCTAD . UNCTAD được thành lập năm 1964 là cơ quan thuộc đại hội đồng Liên hợp quốc trong lĩnh vực thương mại và phát triển có mục tiêu là giúp các nước đang phát triển sử dụng tối đa các cơ hội phát triển trong lĩnh vực thương mại , đầu tư , tài chính , công nghệ , các loại dịch vụ và phát triển bền vững . Trải qua gần 4 thập kỷ tồn tại và phát triển , UNCTAD đã đóng góp quan trọng vào quá trình hợp tác kinh tế toàn cầu , đẩy mạnh xu thế toàn cầu hoá kinh tế . Điều này được thể hiện thông qua hàng loạt các hiệp định và các hoạt động trợ giúp được UNCTAD bảo trợ . Chẳng hạn như hiệp định ưu đãi chung về thuế quan năm 1971, Hiệp định về hệ thống toàn cầu ưu đãi thương mại giữa các nước đang phát triển1989, hiệp định về nguyên liệu và thành lập quỹ chung 1988 thực hiện soạn thảo các công ước về giao thông vận tải , thông qua quy tắc và quy định bình đẳng ở phạm vi đa phương đối với việc kiểm soát những hành động hạn chế thương mại, ... UNCTAD đã tiến hành giúp đỡ nhiều quốc gia đang phát triển trên cở sở cỏ cấu lại các khoản nợ , đóng vai trò quan trọng trong việc vân động sự hỗ trợ quốc tế cho các chương trình hành động của các nước đang phát triển ... Ngoài ra , UNCTAD còn thực hiện nhiều chương trình hỗ trợ kỹ thuật liên quan đến hệ thống thương mại quốc tế đa phương, trợ giúp các quốc gia đang trong quá trình gia nhập WTO. UNCTAD còn đóng vai trò tích cực trên các diễn đàn quốc tế về ODA , về các hạn ngạch tín dụng trong IMF , giảm nợ cho các nước nghèo ... Với các hoạt động như trên UNCTAD không chỉ góp phần vào sự phát triển của mỗi quốc gia mà còn tạo ra một không gian chung cho sự phối hợp hợp tác phát triển , gia tăng các quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Với những kết quả UNCTAD đưa lại , các quốc gia đang phát triển đều cho thấy cần phải tăng cường vai trò hơn nữa của tổ chức này vì lợi ích của phương Nam cũng như lợi ích của cả cộng đồng . d) Cùng với các tổ chức có tính toàn cầu như trên , các tổ chức khu vực như EU, ASEAN ,... cũng đống vai trò quan trọng thúc đẩy xu hướng khu vực hoá , toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế . Vai trò và tác động của các tổ chức này rất khác nhau do trình độ phát triển của các nước thành viên , do mức độ gắn kết và mục tiêu hoạt động...tác động của các tổ chức này đến xu thế toàn cầu hoá thể hiện trên hai hướng chính : Thứ nhất , việc tham gia vào các tổ chức này cho phép các quốc gia được hưởng những ưu đãi của hoạt động kinh doanh khu vực ; thúc đẩy các quốc gia trong khu vực tiến ; đến những chuẩn mực chung trong quá trình sản suất và tiêu thụ sản phẩm . Trên cở sở các thoả thuận hợp tác song phương và đa phương đã làm tăng thêm sự gắn bó tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế , thực chất nó thúc đẩy phân công lao động quốc tế ngày càng sâu săc trong nội bộ tổ chức . Thứ hai, hoạt động của cá tổ chức này từ thấp đến cao sẽ đẩy đến hình thành một thị trường thống nhất trong khu vực buộc các quốc gia tham gia phải có lịch trình hội nhập tích cực để hoà đồng vào khu vực . Nói tóm lại các tổ chức kinh tế quốc tế toàn cầu và khu vực vừa là kết quả vừa là động lực của quá trình toàn cầu hoá kinh tế . Thiếu vắng các tổ chức này quá trình trên diễn ra tự phát và đương nhiên là chậm chạp .Thực tế của quá trình quốc tế hoá ở những thời kỳ đầu cho thấy rõ điều đó . Cùng với các nhân tố như đã trình bày, các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu đã thúc đẩy xu thế quốc tế hoá phát triển nên bước mới từ cuối những năm 70 trở lại đây mà được gọi là toàn cầu hoá . 2 . 5 Thứ năm , vai trò của chính phủ và sự chuyển đổi trong chính sách phát triển kinh tế Toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu song tốc độ của toàn cầu hoá phụ thuộc rất nhiều vào chính sách của các quốc gia. Các chính sách này có phù hợp với xu thế chung của quá trình tự do hoá hay không , các chính phủ có ủng hộ việc đó không? có tích cực tham gia vào quá trình phá bỏ các hàng rào hạn chế luân chuyển của các yếu tố sản xuất không ... đều tác động lớn đến xu thế toàn cầu. Chúng ta đã chứng kiến sự thụt lùi của quá trình quốc tế sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất , điều này có liên quan rất lớn đến vai trò của chính phủ . Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất cả thế giới đã đi vào thời kỳ bảo hộ thương mại và nhiều hàng raò hạn chế di chuyển của dòng vốn quốc tế cũng được đặt ra . Trong suốt những năm 1930, Mỹ đã tăng rất mạnh thuế và hiệu ứng kéo theo là hàng loạt các quốc gia đẩy mạnh mức thuế của mình nên cao , kết cục là lưu thông quốc tế bị hạn chế , nền kinh tế thế giới bị suy thoái mạnh . Các dòng vốn quốc tế gần như khô kiệt bởi các chính phủ do muốn thực hiện kiểm soát vốn nên đã tìm cách hạn chế sự ràng buộc của nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế quốc tế . Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các quốc gia phát triển cùng các tập đoàn tư bản đã nhận thấy vấn đề cần phải tự do hoá thương mại , giảm các hàng rào thuế quan nhằm bành trướng các thế lực kinh tế ra bên ngoài . Các chính sách phát triển của chủ nghĩa tư bản dựa trên mô hình quản lý TAYLOR trong những năm 50-60 đang đặt ra không ít vấn đề do môi trường kinh doanh chuyển đổi . Chúng ta biết chủ nghĩa TAYLOR hay còn gọi là chủ nghĩa hợp lý hoá lao động xuất hiện ở Mỹ ngay trước cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất . Nó đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Mỹ trong thời kỳ giừa hai cuộc chiến tranh thế giới . Sau chiến tranh thế giới thứ hai nó được du nhập sang châu âu thông qua kế hoach MARSHALL. Trên thực tế chủ nghĩa TAYLOR đã đóng góp hết sức quan trọng cho sự phát triển của sản suất trên phạm vi quốc tế trong suốt gần 30 năm sau chiến tranh thế giới thứ hai . Nét nổi bật của chủ nghĩa TAYLOR , như chúng ta đã biết là sự tách rời hai giai đoạn nghĩ và làm trong hoạt động của con người .Các qui trình sản xuất ,sự sáng tạo phát triển công nghệ ... được dành cho số ít những người lập ra,qui chuẩn hoá . Công đoạn tiếp theo là đa phần người lao động có nhiệm vụ thực thi nguyên mẫu một cách máy móc không đòi hỏi một sự sáng tạo , một suy nghĩ. Kiểu tổ chức này đẻ ra những con người lao động giống như một cái máy với các chức năng nhất định lặp đi lặp lại cả cuộc đời , một sự đơn điệu nhàn chán . Cách tổ chức quản lý này được vân dụng cả vào lĩnh vực tổ chức công cộng và nhà nước . Trên thực tế các tư tưởng quản lý theo chủ nghĩa TAYLOR ăn sâu , bám rễ trong các xã hội phương tây . Bước đầu những năm 70 , môi trường kinh doanh quốc tế có những thay đổi ( mở đầu là cuộc khủng hoảng dầu mỏ , tiền tệ) đã đặt ra yêu cầu cấp thiết cần có tổ chức linh hoạt và theo mạng lưới của các doanh nghiệp . Trên thực tế ở nhiều quốc gia đang đẩy mạnh quá trình chuyển dịch này . Ví dụ ở Mỹ , nhiều xí nghiệp tổ chức quản lý kiểu TAYLORđã bị đóng cửa và nhiều xí nghiệp mới hình thành trên cơ sở tuyển dụng những người lao động trẻ , biết tính toán , có khả năng bàn bạc theo nhóm . Sự cứng nhắc của chủ nghiã TAYLOR trong môi trường kinh doanh mới đã vô tình trở thành lực cản của gia tăng năng suất , nâng cao hiệu quả công việc. Điều này góp phần làm gia tăng tình trạng suy thoái , đình trệ , lạm phát ở các quốc gia phát triển phương tây bắt đầu từ nửa cuối thập kỷ 70. Trong bối cảnh này các chính phủ tây âu và Mỹ đã thông qua một loạt các quyết định theo xu hướng giải điều tiết , tạo sự linh hoạt năng động trong kinh doanh . Các biện pháp giải điều tiết nhằm khắc phục tình trạng suy thoái được áp dụng ở các quốc gia phương tây chủ yếu tập chung vào lĩnh vực dịch vụ như dịch vụ tài chính , giao thông vận tải và thông tin , ở Mỹ tập trung vào khu vực năng lượng và tài chính tiền tệ . Chương trình giải điều tiết (tức là tháo bỏ các qui chế) đã góp phần thúc đẩy quá trình tự do hoá , đẩy đến đợt bùng nổ mới của xu thế quốc tế hoá từ cuối những năm 70 trở lại đây – xu thế toàn cầu hoá. Tác động của giải điều tiết ở tây Âu và Mỹ đến xu thế toàn cầu hoá đã được nhiều tác giả đề cập đến , tập chung lại có thể thấyviệc giải điều tiết có tác dụng giảm giá hàng hoá , nâng cao chất lượng hoạt động của các dịch vụ và cũng vì vậy , dẫn đến cạnh tranh ngày càng gia tăng . Giải điều tiết đã thúc đẩy việc toàn cầu hoá thị trường tài chính , mở rộng tự do thương mại và đầu tư . Cùng với việc giải điều tiết ở các quốc gia tư bản phát triển , trong những năm 80- 90 nhiều quốc gia trên thế giới đã tiến hành cải cách mở của , thực hiện tư nhân hoá và tự do hoá mở ra không gian mới cho sự gia tăng xu thế toàn cầu hoá . Đặc biệt trong quá trình cải cách nhiều quốc gia đã thực hiện chuyển hướng phát triển kinh tế hướng nội sang hướng ngoại mà cốt lõi là chuyển từ công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu sang công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu . Với chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu buộc các quốc gia phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế , phát triển kinh tế không phải chỉ dựa vào bên trong mà phải căn cứ vào nhu cầu thị trường thế giới , sản xuất sản phẩm và dịch vụ phù hợp với yêu cầu và chuẩn mực của thị trường quốc tế . Muốn vậy đòi hỏi các quốc gia phải mở cửa nền kinh tế , cho nhập các thành tựu công nghệ , thu hút đầu tư để xay dựng và phát triển một cơ cấu nghành kinh tế phù hợp . Như vậy với chiến lược hướng về xuất khẩu , trên thực tế đã đẩy đến xu thế gắn bó phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia , giữa các nền kinh tế thông qua thực hiện phân công lao động quốc tế dựa trên những thế mạnh của từng nền kinh tế dân tộc . II . Các đặc trưng cơ bản của toàn cầu hoá kinh tế Toàn cầu hoá kinh tế hiện nay là giai đoạn phát triển cao của quốc tế hoá kinh tế Từ nửa sau thế kỷ XIX cho đến nay quá trình quốc tế hoá đã trải qua ba trời kỳ , ba làn sóng quan trọng . Làn sóng đầu tiên diễn ra trong khoảng 50 năm trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất . trong thời kỳ này , những sự trao đổi quốc tế và liên lục địa đã phát triển nhanh hơn cả sự sản xuất trên toàn thế giới , những dòng tài chính tăng lên nhanh hơn nhiều trên quy mô toàn thế giới so với sự tăng trưởng của việc trao đổi và sự sản xuất trên toàn thế giới . vào lúc đó những bất bình đẳng giữa các nước , giữa các vùng và trong từng nước , từng vùng tăng nên nhanh chóng . Đồng thời lúc đó cũng diễn ra sự di cư quốc tế tự do hơn bây giờ nhiều : hàng chục triệu người châu âu đã rời bỏ quê hương để sang Mỹ , úc ... Làn sóng thứ hai của quốc tế hoá diễn ra vào những năm 50, 60 và 70 của thế kỷ XX , tức là thời kỳ có sự giảm bớt quan trọng những rào chắn trong sự trao đổi quốc tế , nhất là trong những nền kinh tế phát triển . ở giai đoạn này đã có một sự tăng trưởng về trao đổi quốc tế lớn hơn nhiều so với sản xuất trên thế giới , đã có một sự bùng nổ những dòng tài chính trên phạm vi toàn cầu , đã có sự bùng nổ hoạt động của các công ty quốc gia . thời kỳ này nảy sinh những nhận thức về sự mất đi những chủ quyền quốc gia . Làn sóng thứ ba bắt đầu từ cuối những năm 80 trở đi và lúc này thuật ngữ toàn cầu hoá được sử dụng phổ biến . ở giai đoạn này người ta thấy có sự co hẹp quan trọng của những rào chắn trong trao đổi , trong những dòng tài chính và trong đầu tư , có sự tăng trưởng nhanh chóng về sản xuất và sự tăng trưởng còn quan trọng hơn nữa về những trao đổi quốc tế , đặc biệt là là sự tăng trưởng nhanh về tài chính và đầu tư quốc tế trên bình diện không cân bằng trong nội bộ các nước và giữa các nước khác nhau . 2.Trong thời kỳ toàn cầu hoá kinh tế hiện nay hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với tự do hoá các hoạt động kinh tế . Trong giai đoạn quốc tế hoá trước đây việc hội nhập vào nền kinh tế quốc tế , mà thực chất là sự bành trướng các hoạt động kinh tế vượt ra khuôn khổ của biên giới quốc gia không gắn với việc tự do hoá các hoạt động kinh tế . Đôi khi cùng với quá trình bành trướng của hoạt động kinh tế lại có sự gia tăng của các biện pháp bảo hộ các thị trường các nhượng địa . Thực tế sự phát triển của các quốc gia tư bản phát triển cho thấy rõ điều đó . Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai đã nhanh chóng khôi phục kinh tế , bành chướng thế lực kinh tế ra bên ngoài nhanh và mạnh . Tuy vậy nền kinh tế Nhật Bản trong thập kỷ 60 và 70 là một trong những nền kinh tế bảo hộ cao nhất thế giới TBCN . Trên thực tế cho mãi tới nửa sau của thập kỷ 70 Nhật mới hoàn thành quá trình tự do hoá thị trường vốn và cũng mới gần đây Nhật bản mới mở cửa thị trường gạo . Vào cuối năm 1974 , tỷ trọng nhập khẩu hàng chế tạo so với GDP của Nhật Bản là 2% , so với mức 15% của các nước châu âu như Pháp , Đức và hơn 20% của Anh , Hàn Quốc đã bảo hộ nền công nghiệp ôtô trong suốt 30 năm cho tới khi họ trở thành nhà sản xuất và xuất khẩu lớn(1). Sự tách rời giữa tự do hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là đặc điểm của giai đoạn quốc tế hoá trước đây . Trong giai đoạn mới , toàn cầu hoá , việc hội nhập quốc tế gắn liền với quá trình tự do hoá . Không thể hội nhập quốc tế mà không có tự do hoá nền kinh tế dân tộc . Đây là điểm mới của xu thế toàn cầu hoá ngày nay . Đương nhiên hội nhập quốc tế có nhiều mức độ , nhiều tầng nấc và nó gắn liền với mức độ của tự do hoá trong kỷ nguyên toàn cầu hoá hội nhập quốc tế càng sâu thì tự do hoá càng rộng . Không một quốc gia nào có thể hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu mà lại có thể không tự do hoá . Cơ sở của sự gắn bó chặt chẽ giữa hội nhập và tự do hoá chính là do sự phát triển sâu sắc của phân công lao động quốc tế. Với cơ chế thị trường thống nhất các quốc gia tham gia vào phân công lao động quốc tế , làm cho các nền kinh tế trong quá trình toàn cầu hoá gắn bó chặt chẽ với nhau . Mỗi nền kinh tế dân tộc là một bộ phận của cái chỉnh thể toàn cầu, gắn bó, phụ thuộc vào kinh tế toàn cầu . Chỉ có hội nhập là con đường hiệu quả để phát huy thế mạnh , lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế và để bổ sung cho điểm yếu của nền kinh tế dân tộc cũng từ chính sự phân công lao động quốc tế . Nói cách khác hội nhập phải gắn liền với tự do hoá là con đường tất yếu và hiệu quả để phát triển nền kinh tế mỗi quốc gia trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay . 3. Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan nhưng đang chịu tác động lớn từ Mỹ và một số nước tư bản phát triển . Thứ nhất ưu thế của Mỹ thể hiện trước hết là các quy chuẩn hoạt động kinh doanh quốc tế đều xuất phát từ Mỹ . Mỹ là quốc gia có nền kinh tế thị trường và khoa học phát triển cao, chính trong sự phát triển đó nảy sinh các quan niệm , các giá trị mà trên thực tế đang được áp dụng trên qui mô kinh doanh toàn cầu . Đó là những qui chuẩn về tài chính , về chế độ quản lý , về các tiêu chuẩn y tếv.v...Chính điều này cũng đã thúc đẩy tâm lý xem xét phổ biến các tiêu chuẩn , qui phạm của lối sống Mỹ là điều hiển nhiên và Mỹ cũng luôn phản ứng lại những ý định , việc làm để xác lập các tiêu chuẩn cho cuộc chơi trên phạm vi toàn cầu mà trái với Mỹ . Thứ hai do không bị thiệt hại bởi chiến tranh thế giới thứ hai nền kinh tế Mỹ có cơ hội phát triển mạnh mẽ . Với sức mạnh kinh tế và quân sự Mỹ đóng vai trò lãnh đạo trong khối các nước tư bản mà biểu hiện cụ thể là NATO . Mỹ có vai trò lớn trong các tổ chức kinh tế có tính toàn cầu kể cả Liên hợp quốc . Ngày nay với sự suy yếu của Nga , cho dù các quốc gia đang phát triển có gia tăng vai trò của mình thì trên thực tế Mỹ vẫn là kẻ thao túng phần lớn bàn cờ thế giới . Có thể nói , quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) ngân hàng thế giới (WB) đại diên cho lợi ích toàn cầu mà khách hàng của các cơ quan ấy được hiểu là thế giới . Tuy nhiên , trên thực tế , những cơ quan ấy do Mỹ khống chế mạnh mẽ , thông qua đó Mỹ thể hiện chính sách thái độ của mình.Những khoản tài chính của IMF hay WB , những Nghị quyết của các tổ chức quốc tế chịu ảnh hưởng rất lớn từ Mỹ. Thứ ba , góp phần vào địa vị hiện nay của Mỹ là vai trò to lớn của nền kinh tế Mỹ mà cụ thể là các TNC cuả Mỹ trong nền kinh tế toàn cầu , chúng chiếm một tỷ phần lớn mậu dịch, đầu tư và tài chính quốc tế . Sau chiến tranh thế giới thứ hai kinh tế Mỹ chiếm tới 50% GNP của thế giới . Trong những thập kỷ gần đây do sự phát triển kinh tế của Nhật và Tây Âu cùng sự gia tăng của một số quốc gia đang phát triển , phần của Mỹ trong thế giới có giảm đi , cho tới năm 1995 còn 20% . Tuy vậy với tỷ phần 20% thì thực lực của Mỹ rõ ràng cũng đã gấp 2,5 lần của Nhật và tương đương với phần của 18 nước Tây Bắc Âu cộng lại , cũng như ngang bằng với phần của 5 quốc gia đông dân số nhất thế giới là Trung Quốc , ấn độ , Nga , Braxin và Indonesia. Vai trò của kinh tế Mỹ thể hiện qua sức mạnh của các TNC. Trong 50.000 TNC hàng đầu thế giới Mỹ có 3000. Nếu chỉ tính trong 500 công ty lớn nhất thì Mỹ có 175, Nhật có 112, Đức có 42 ,Pháp có 38,...Thu nhập của 175 các công ty xuyên quốc gia này xấp xỉ 4000 tỷ USD , chiếm 35% tổng thu nhập của 500 công ty nói trên . Các chi nhánh của các TNC Mỹ có mặt ỏ hầu hết các quốc gia trên thế giới trong đó ở một số nước mức sản xuất của các chi nhánh TNC chiếm tỷ phần đáng kể trong GDP của nước chủ nhà . Chẳng hạn , chiếm 5.9 % GDP ở Anh , Singapore 8,2% , Canada 8.6% ... Các TNC đóng vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế của Mỹ . Năm 1994 tổng doanh số bán ra của các công ty mẹ của Mỹ là 3.957 tỷ USD và của các chi nhánh TNC ở nước ngoài là 1.432 tỷ USD . Cùng với hoạt động mậu dịch các TNC tham gia đầu tư lớn ra thị trường nước ngoài . Năm 1996 Mỹ đầu tư ra nước ngoài qua các chi nhánh TNC tới 796,5 tỷ USD trong đó tập trung vào Anh quốc tới 142,6 tỷ USD . Sức mạnh kinh tế của Mỹ còn thể hiện qua vai trò đồng Đôla phương tiện thanh toán trong giao dịch quốc tế . Hiện nay đồng Đôla đang thao túng thị trường tiền tệ, chiếm từ 60-80% giá trị thanh toán thương mại toàn cầu . Những sức mạnh này góp phần mở rộng quyền lực kinh tế của Mỹ đối với tiến trình toàn cầu hoá kinh tế . Thứ năm , sức mạnh , ưu thế của Mỹ trong tiến trình toàn cầu hoá còn được đảm bảo bởi sức mạnh khoa học – kỹ thuật , của sự khống chế thị trường thông tin . Trong nhiều năm qua Mỹ đang đứng đầu về các phát minh và triển khai các phát minh mới về khoa học vào đời sống . Mỹ đang giữ lợi thế cạnh tranh trong công nghệ thông tin . Đây là lĩnh vực quyết định ưu thế của Mỹ hiện tại cũng như trong các năm tới đây . Thứ sáu, vai trò to lớn của Mỹ trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế còn gián tiếp bắt nguồn từ sự chi phôí về lĩnh vực an ninh – quân sự đối với các cường quốc tư bản Tây Âu và kể cả Nhật Bản . Liên minh Đại Tây Dương , gọi tắt là NATO chính do Mỹ khởi xướng và hiện đang thực sự là người điều khiển chiến lược của tổ chức này và vì vậy trên thực tế Mỹ đã trở thành người tham dự chủ chốt vào các công việc nội bộ của Châu Âu ... Hiệp ước an ninh phòng thủ Mỹ – Nhật ra đời trong bối cảnh sau chiến tranh thế giới II thực sự là chiếc ô an ninh , là bà đỡ cho tiến trình phát triển kinh tế Nhật Bản và cũng vì vậy , nó ràng buộc nền kinh tế Nhật với Mỹ , đường hướng chiến lược toàn cầu của Mỹ tác động lớn , nếu nói không quá nó đã trở thành một cơ sở chính sách đối ngoại của Nhật . 4. Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình mang tính hai mặt , nó vừa đưa lại những cơ hội cho phát triển đồng thời nó cũng đặt ra những thách thức đối với các quốc gia Toàn cầu hoá là quá trình tất yếu . Việc hội nhập tham gia vào toàn cầu hoá kinh tế sẽ tạo ra cho các bên tham gia những cơ hội đồng thời cũng đặt ra những thách thức . Có ý kiến đã cho rằng toàn cầu hoá là “ con giao hai lưỡi “ , có thể tạo ra những xung lực làm tăng tốc độ phát triển kinh tế , đưa lại kỹ thuật mới góp phần nâng cao mức sống của người dân ở các quốc gia và nó cũng có thể làm xói mòn nền văn hoá và chủ quyền quốc gia , đe doạ sự ổn định kinh tế- xã hội v.v... a) Những cơ hội của tham gia của toàn cầu hoá kinh tế Thứ nhất , sự phát triển của toàn cầu hoá kinh tế phá bỏ những cản trở , những hàng rào ngăn cách giữa các quốc gia , mở ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quan hệ quốc tế , từ đó các quốc gia có thể tận dụng cơ hội cho phát triển từ thị trường bên ngoài . Thứ hai , toàn cầu hoá kinh tế mở ra khả năng ch._. động sản ... Hiện nay Hàn Quốc đầu tư vào 50 nước trên thế giới, trong đó vào khu vực châu Mỹ là 45% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài, Đông Nam á và Thái Bình Dương 41%, các nước trung cận động 7,4%... tính ra đến năm 1989 Hàn Quốc có 70 công ty đã xây dựng các chi nhánh ở 16 quốc gia trên thế giơí. Năm 1995 Hàn Quốc đã đưa ra một chiến lược tham gia quá trình toàn cầu, xem đó như một chiến lược phát triển dân tộc để đưa Hàn quốc thành một quốc gia có vai trò chủ chốt trong các vấn đề của thế giới. Chiến lước tham gia toàn cầu hoá của Hàn Quốc xác định rõ lịch trình của các bước sau : Trước tiên và quan trọng nhất, giáo dục phải được toàn cầu hoá. Điều đó có nghĩa hệ thống giáo dục phải được cải cách triệt để, để đào tạo một số lượng đủ những công dân trẻ, sáng tạo và dám làm – những lãnh đạo tương lai của đất nước. Giáo dục phải được định hướng lại, hướng về việc bồi dưỡng tính chất và tính sáng tạo, óc sáng kiến, tinh thần kỹ luật tự giác và tính cạnh tranh phải được nhấn mạnh. Hơn nữa những cải cách giáo dục cơ bản này kết hợp với công nghệ tin học hiện đại Hàn Quốc có thể nâng năng lực trí tuệ lên những trình độ cao nhất. Thứ hai , các hệ thống luật pháp và kinh tế phải được cải cách để đáp ứng được trình độ hoàn hảo của thế giới. Quy tắc của luật pháp và sự tuân thủ trật tự cơ bản phải chiếm ưu thế. Nghề luật cũng phải được cải cách và trật tự kinh tế cũng phải được toàn cầu hoá. Tất cả mọi giao dịch kinh tế phải minh bạch và tự do và cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh phải được đảm bảo. Các tổ chức tài chính cũng phải trở nên có tính cạnh tranh hơn và chế độ thuế khoá phải trở nên công bằng hơn. Ngoài ra các quan hệ giữa lao động và quản lý phải có tính chất xây dựng và hợp tác hơn. Thứ ba, chính trị và các phương tiện thông tin cũng phải hướng về sự toàn cầu hoá một cách vững chắc hơn. Các chính đảng phải ganh đua mạnh mẽ hơn về mặt tư tưởng và sự lựa chọn chính sách và phải phấn đấu hơn nữa để trao đổi tinh thần dân chủ trong đảng mình và chuẩn bị một thế hệ sắp tới của các nhà lãnh đạo chính trị. Nếu các chính khách có khả năng lãnh đạo và tập hợp được nhân dân, quá trình bầu cử không những phải được thực hiện một cách công bằng và công khai, mà bản thân các chính khách cũng phải cố gắng đặc biệt để phát triển tài năng chuyên môn trong lĩnh vực cụ thể của các vấn đề công cộng và để có thể đại diện một cách hữu hiệu hơn cho các tầng lớp khác nhau của xã hội. Quốc hội cần hoạt động có hiệu quả hơn và làm cho chính trị phong phú hơn. Các phương tiện thông tin cũng phải tự cải tổ để trở thành một công cụ công khai thực sự không thiên vị. Thứ tư, cả chính phủ quốc gia lẫn chính quyền địa phương phải được làm cho có tính toàn cầu hoá. Giờ đây, cần phải bãi bỏ các qui định hành chính để phát triển ột mức tối đa tính sáng tạo trong khu vực tư nhân. Tuy nhiên chính quyền sẽ vẫn tiếp tục tham gia một cách tích cực vào các khu vực như thương mại , lao động và môi trường – những nơi cần có một số quy định để duy trì trật tự . Hành chính tổ chức phải trở nên hữu hiệu và kinh tế như những công ty kinh doanh quản lý giỏi về mặt cung cấp những dịch vụ công cộng. Một “chính phủ nhỏ bé hữu hiệu” và một chính phủ khéo léo và mềm dẻo” là những mục tiêu hàng đầu của những nỗ lực của chính quyền tiến tới toàn cầu hoá. Đồng thời, sự tự quản của địa phương phải được củng cố để các cộng đồng địa phương có thể tham gia vào cuộc cạnh tranh lành mạnh với nhau và để tăng lên tối đa tiềm lực đầy đủ của các cộng đồng, và như vậy là có thể đương đầu một cách thắng lợi và với những thách thức của sự toàn cầu hoá. Thứ năm, Hàn Quốc phải tham gia một cách tích cực hơn nữa vào những nỗ lực toàn cầu bảo vệ môi trường. Mọi người phải phối hợp hành động để tạo nên một cộng đồng kiểu mẫu thân thiện với môi trường trong đó không chỉ thế hệ hiện tại mà cả thế hệ tương lai sống hài hoà với thiên nhiên. Thứ sáu, văn hoá và cách tư duy phải được toàn cầu hoá. Người Hàn Quốc phải phát huy sự phong phú vốn có của nền văn hoá truyền thống của mình và hoà nhập với nền văn hoá thế giới. Lúc đó họ phải tiến ra trước thế giới với một tinh thần rộng mở và tự hào với nền văn hoá riêng của mình và kính trọng nền văn hoá của các dân tộc khác. 3 . Đối với Trung Quốc Quá trình mở cửa tự do hoá thị trường nội địa và hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới cũng diễn ra một cách linh hoạt và có tính chiến lược giống như Nhật Bản và Hàn Quốc. Trung quốc đã xác định lịch trình hội nhập trên cơ sở phát triển năng lực của nền kinh tế nội điạ chứ không hội nhập chặt chẽ và toàn phần ngay với nền kinh tế thế giới. Chiến lược hội nhập như vậy đã được các chuyên gia đánh giá, xem như một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thành tựu ngoạn mục hơn hai thập kỷ cải cách vừa qua của Trung Quốc. Quá trình mở cửa hội nhập của Trung Quốc được đánh dấu bởi Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khoá IX của Đảng Cộng sản Trung Quốc (tháng 12/1978). Kể từ đó cho đến nay quá trình mở cửa, cải cách hội nhập ở Trung Quốc đã trải qua 3 giai đoạn và trong suốt tiến trình đó luôn luôn quán triệt phương châm thận trọng, từng bước và hội nhập với nhiều tầng nấc. Giai đoạn một của cải cách chủ yếu diễn ra ở nông thôn trong lĩnh vực nông nghiệp. Giai đoạn hai bắt đầu từ năm 1984 với việc chuyển trọng tâm cải cách sang các doanh nghiệp quốc doanh, cải cách lĩnh vực giá cả, chú trọng phát huy vai trò của một số thành phố trung tâm. Giai đoạn ba từ 1992 trở lại đây cải cách một cách đồng bộ. Trong cải cách nền kinh tế đã từng bước mở cửa đối ngoại. Trong lĩnh vực thương mại Trung Quốc đã thực hiện những cải cách theo hướng tự do hoá từng bước , tình trạng gò bó độc quyền của cơ quan ngoại thương Trung ương đã bị phá bỏ. Cuối năm 1994 chỉ tiêu pháp lệnh vể tổng mức xuất khẩu được xoá bỏ. Các chủ thể tham gia hoạt động ngoại thương tăng lên nhanh chóng. Tính đến cuối năm 1997, cả nước có 16.658 xí nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu các loại, bao gồm 7.678 công ty ngoại thương, 7.803 xí nghiệp sản xuất kinh doanh ngoại thương, 925 viện nghiên cứu khoa học, 260 cơ quan vật tư thương nghiệp. Ngoài ra còn có 2.737 cơ sở buôn bán tiểu ngạch biên giới . Vào năm 1980 Trung Quốc mới có quan hệ với 177 nước và khu vực thì đến 1997 đã có quan hệ với 227 quốc gia và vùng lãnh thổ. Để tạo điều kiện cho nông dân tự do hoá trong trao đổi buôn bán, Trung Quốc đã thực hiện giảm sự kiểm soát của Nhà nước đối với lưu thông vật tư, hàng hoá. Trước cải cách có 120 loại sản phẩm công nghiệp do Nhà nước quản lý, đến năm 1997 còn 60 chủng loại. Trước cải cách có 259 chủng loại vật tư do Nhà nước quản lý phân phối thì đến năm 1987 còn 23. Trong xuất khẩu trước cải cách Nhà nước trực tiếp quản lý 870 loại hàng nay giảm xuống chỉ còn 36 loại và loại hàng mà Nhà nước thu mua trước kia là 65 loại thì nay chỉ còn 20 loại. Nếu như trước khia Nhà nước quyết định giá cả thì thông qua từng bước cải cách đã chuyển sang do thị trường xác định. Vào năm1984 quy định giá bán sản phẩm tư liệu sản xuất vượt mức kế hoạch nhìn chung không được cao hơn hoặc thấp hơn 20% giá quy định. Năm 1985 đã xoá qui định này. Năm 1986 số sản phẩm hàng hoá áp dụng chế độ hai giá cũng còn khá cao/ Cho đến nay thì hầu như hàng hoá do thị trường điều tiết giá cả (90% tổng kim ngạch bán lẻ tiêu dùng, 80% kim ngạch thu mua sản phẩm nông nghiệp và cũng khoảng 80% trong thu mua hàng tư liệu sản xuất). Cùng với từng bước tự do trong mậu dịch, Trung Quốc đã tiến hành mở cửa theo giai đoạn và quy mô tăng dần với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trước cải cách FDI không được phép thâm nhập vào Trung Quốc. Từ khi mở cửa vốn đầu tư nước ngoài vào Trung quốc mỗi ngày một tăng lên. Từ năm 1979 đến 1998 Trung Quốc đã thu hút được 573,5 tỷ USD, trong đó 63% là FDI, xâm nhập vào 20 ngành kinh tế, từ 100 nước và khu vực trên thế giới. Mức FDI vào Trung quốc vào những năm vừa qua chiếm tới 50% tổng FDI vào các nước đang phát triển. Trung Quốc đang đứng thứ hai trong số 10 nước hàng đầu thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Sở dĩ Trung Quốc thu hút được nhiều vốn là do lợi thế so sánh trong môi trường đầu tư, trong đó phải kể đến những cải thiện về chế độ thuế, lợi nhuận, giá đất và các luật lệ kinh doanh ngày càng phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư. Điều đáng chú ý trong thu hút vốn nước ngoài của Trung Quốc là có xác định rất rõ ràng lĩnh vực, mức độ cho phép FDI hoạt động. Thời kỳ đầu cải cách Trung Quốc chỉ cho phép FDI vào một số ngành : Khai thác, năng lượng, công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp hoá chất, luyện kim, chế tạo máy .v.v... Năm 1995 Trung Quốc đưa ra 18 hạng mục khuyến khích FDI , 15 hạng mục hạn chế, 13 hạng mục cấm FDI. năm 1996 có tới 527 cơ quan đại diện về tiền tệ và vốn đầu tư nước ngoài ở Trung Quốc, 140 chi nhánh ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài và 8 công ty bảo hiểm nước ngoài hoạt động ở Trung Quốc. Bên cạnh mở cửa thu hút vốn nước ngoài , Trung Quốc cũng tích cực mở rộng năng lực kinh doanh của các doanh nghiệp vượt biên giới quốc gia, hội nhập vào quá trình kinh doanh quốc tế. Nếu thời kỳ đầu cải cách chỉ có vài xí nghiệp thì nay toàn Trung Quốc có 5976 Xí nghiệp hoạt động kinh doanh ở nước ngoài. Trong số 225 nhà thầu khoán quốc tế được bầu chọn năm 1997, thì Trung Quốc có 27. Các xí nghiệp này của Trung Quốc hiện đang hoạt động trên 160 quốc gia và vùng lãnh thổ. Cho đến cuối 1997 Trung Quốc đã đạt được 71,7 tỷ USD hợp đòng hợp tác kinh tế đối ngoại với mức doanh thu là 48,2 tỷ USD và đã có 1,54 triệu lượt người đi lao động ở nước ngoài. Riêng trong lĩnh vực tiền tệ đến cuối năm 1999 Trung Quốc có 46 doanh nghiệp tham gia vào thị trường vốn quốc tế, cung cấp hơn 10 tỷ USD tiền vốn. Cùng với hoạt động kinh doanh Trung Quốc cũng khá tích cực tham gia các hoạt động của tổ chức kinh tế toàn cầu và khu vực. Trung quốc là thành viên của APEC, có quan hệ chặt chẽ với ASEAN và đang tích cực vận động gia nhập WTO. Rõ ràng là Trung Quốc đang tích cực hội nhập vào nền kinh tế quốc tế. Mức độ phát triển của ngoại thương, của FDI và những cải cách thị trường theo hướng tự do hoá minh chứng cho điều đó. Song cũng cần thâý là mức độ hội nhập của Trung Quốc còn hạn chế . Trung Quốc tỏ ra thận trọng với quá trình tự do hoá và hội nhập quốc tế, cho dù họ luôn ý thức rằng hội nhập là tất yếu. Kinh nghiệm và cũng là thành công của Trung Quốc trong lĩnh vực cải cách đối ngoại có thể đúc rút lại, “Một là loại bỏ mô thức đóng cửa hoặc đóng cửa, xây dựng quốc sách cơ bản vể cải cách mở cửa, thiết lập cơ chế kinh tế mở cửa, hai là mạnh dạn tiếp thu mọi thành quả văn minh, xã hội loài người bao gồm cả chủ nghĩa tư bản đã tạo ra, lợi dụng triệt để hai nguồn tài nguyên hai thị trường trong ngoài; ba là hình thành lý luận đặc khu kinh tế và kinh tế hướng ngoại, bốn là xử lý đúng đắn mối quan hệ cải cách mở cửa với tự lực cánh sinh”. Tóm lại đối với các quốc gia trên thay vì hội nhập một cách triệt để và toàn diện với nền kinh tế thế giới, họ chỉ hội nhập có mức độ và theo những hướng nhất định có lợi cho sự phát triển của nền kinh tế trong suốt tiến trình công nghiệp hoá. Đó chính là kiểu hội nhập có tính chiến lược và trong quá trình này vai trò của nhà nước được chú trọng với tư cách là người điều tiết nhịp độ hội nhập. Khác với Trung Quốc, hai quốc gia Nhật Bản và Hàn Quốc đã thực hiện một chính sách bảo hộ khá chặt chẽ, tạo ra điều kiện cho việc nâng cao sức cạnh tranh của các ngành kinh tế trong điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu và xâm nhập vào môi trường kinh doanh khu vực và toàn cầu. Trong điều kiện của sự gia tăng xu thế toàn cầu hoá hiện nay Trung Quốc đã kết hợp khá thành công giữa mở cửa từng bước với quá trình hội nhập vào các tổ chức kinh tế và tham gia mở rộng mạng lưới kinh doanh quốc tế của mình. Kết quả của những nền kinh tế này là những bài học kinh nghiệm rất bổ ích cần tham khảo cho ta hiện nay. III . Một số giải pháp cơ bản để đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam Để khắc phục những tồn tại trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới , đồng thời để nâng cao hiệu quả tham gia của Việt Nam không chỉ trong lĩnh vực thương mại , đầu tư mà còn trong các lĩnh vực liên kết khác , đòi hỏi Việt Nam cần có những giải pháp đồng bộ và hiệu quả , có sự tham gia của nhiều nghành hữu quan. Phần này xin đưa ra một số giải pháp cơ bản sau : 1 .Ưu tiên phát triển các nghành sản xuất kinh doanh mặt hàng Việt Nam có lợi thế so với các nước trong khu vực . Trong giai đoạn đầu tham gia AFTA,APEC,ASEM,... Chúng ta nên chọn những nghành mà lợi thế so sánh có thể phát huy tác dụng nhiều nhất : đó là những nhgành dựa trên nguồn lao động dồi dào, có thể tiếp thu tay nghề nhanh , nguồn tài nguyên đa dạng và phong phú ( có thể nói đây là những lợi thế so sánh trước mắt được quy định bằng những đặc tính kinh tế hiện đại). Như vậy , chỉ có thể đảm bảo trong thời gian tương đối ngắn những mặt hàng sản suất trong nước này có thể cạnh tranh được , trước tiên là trong thị trường nội địa , sau đó là thị trường nước ngoài . Một số nghành sản suất có lợi thế so sánh nhiều nhất sau đây cần được ưu tiên phát triển : Ngành nông sản : Gạo , Cà phê và hạt điều là những mặt hạng nông sản có kim ngạch lớn trong thương mại Việt Nam – ASEAN . Hầu hết khối lượng xuất khẩu sang ASEAN thực chất được chuyển khẩu sang thị trường chính là Châu Âu và Mỹ (cà phê , hạt điều)và khắp các châu lục (gạo) . Nói chung , nông sản có nhiều cơ hội thâm nhập thị trường ASEAN và qua đó thâm nhập vào các thị trường khác trên thế giới. Nhu cầu gạo trên thế giới vẫn có tăng , Việt Nam vẫn dư gạo để xuất khẩu. Hiện nay trong nông nghiệp đã xuất hiện xu thế chuyển sang canh tác gạo giống mới , thuộc loại cao cấp . Kể từ năm 2003 , danh mục nông phẩm chế biến nhậy cảm bắt đầu được đưa vào thực hiện CEPT , Việt Nam có cơ hội thuận lợi hơn để xuất khẩu gạo sang các nước ASEAN . Nhìn chung , xuất khẩu gạo có thể tăng , đặc biệt Việt Nam có thể cạnh tranh với Thái Lan trong xuất khẩu gạo cao cấp vào các thị trường này và nếu giành ưu thế , Việt Nam xẽ đẩy nhanh xuất khẩu gạo sang các thị trường khác trên thế giới. Các mặt hàng nông sản có thể coi là một trong những thế mạnh trong xuất khẩu của Việt Nam . Tuy nhiên , đây là những mặt hàng hết sức nhạy cảm và thông thường trong thương mại quốc tế thường được các nước áp dụng các biện pháp và chính sách bảo hộ , trợ giá ở mức độ cao . Vì vậy , đối với những mặt hàng này , chúng ta xây dựng một hệ thống các chính sách ổn định với mức độ ưu đãi cao và đặc biệt là tập trung để khuyến khích phát triển công nghệ chế biến trong nước đối với những mặt hàng này để nâng cao vị thế của hàng hoá Việt Nam trong thương mại quốc tế . Ngành dệt May So với các nước khác , ngành dệt may của Việt Nam có ưu thế hơn về nguồn nhân công có văn hoá , cần cù , thông minh và lương không cao . Thêm vào đó , thị trường nội địa rộng lớn , đang phát triển nhanh cả về chiều rộng và chiều sâu . Nhu cầu trong nước và ngoài nước đang diễn ra mạnh mẽ xu hướng đa dạng hoá và yêu cầu cao hơn , biến đổi nhanh hơn . Tuy nhiên, ta cũng kém lợi thế hơn về công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý . Sự hiện diện của nhãn hàng Việt Nam trên thị trường thế giới còn ở mức thấp , điều kiện tiếp cận nguồn vốn còn rất hạn chế . Hầu hết các doanh nghiệp chưa làm chủ được công đoạn tạo mẫu , chọn mẫu hợp thị hiếu và chỉ có một số doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh các sản phẩm có sức cạnh tranh thuộc khoang tiếp thị loại cao . Do đó , để chiếm lĩnh thị trường , nâng cao khả năng cạnh tranh trong ngành dệt và tạo tiền đề cho ngành may mặc , Việt Nam cần thu hút đầu tư và liên doanh với nước ngoài . Bên cạnh một số sản phẩm mà chúng ta có lợi thế so sánh tương đối lớn , còn một số ngành khác , mặc dù hiện đang được nhập khẩu với một số lượng tương đối lớn , nhưng thực tế chúng ta cũng có nhiều điểm lợi thế cần được tích cực khai thác để nâng cao khả năng cạnh tranh . Khai thác lợi thế tương đối về lực lượng lao động dồi dào với khả năng tiếp thu tay nghề nhanh , những ngành hàng điện , điện tử , ... sẽ là những ngành thích hợp để phát huy lợi thế sau này của Việt Nam . Nhìn chung , các ngành công nghiệp này được phát triển từ cơ sở của công nghiệp lắp ráp và là những ngành sản xuất được phát triển nhiều ở các nước đang phát triển để sử dụng nguồn lực về sức lao động và chuyển giao những công nghệ không phải là hàng đầu từ những nước phát triển . Tuy nhiên , những ngành sản xuất đòi hỏi phải có một thời gian nhất định để tạo thế phát triển và tạo thế đưngs trên thị trường Việt Nam . Đây là một vấn đề hết sức khó khăn vì thị trường trong nước đã tràn ngập hàng hoá của các nước lớn , các nước phát triển cũng như của các nước ASEAN . Do đó , trong giai đoạn phát triển ban đầu của những ngành sản xuất này , việc sử dụng đầu tư nước ngoài trực tiếp dưới các hình thức xí nghiệp liên doanh hay xí nghiệp 100% vốn nước ngoài và việc chuyển giao công nghệ sẽ là những tiền đề hết sức quan trọng . 2. Tăng hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng hoá Hiện nay hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam vẫn còn thấp , hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là những sản phẩm khai thác từ tự nhiên hoặc cả những sản phẩm từ tự nhiên không tái tạo , những sản phẩm nông lâm ngư nghiệp chưa qua chế biến hoặc chế biến thô . Còn các sản phẩm công nghiệp nghèo về chủng loại , chất lượng kém , giá thành cao do công nghệ lạc hậu lại tiêu tốn vật tư , nguyên liệu năng lượng . Với thực trạng như vậy mà không được thay đổi , cải thiện thì hội nhập sẽ là nguy cơ chứ không phải là cơ hội . Chính vì vậy , nâng cao hiệu quả và tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam . Do đó phải xét lại quy hoạch phát triển và kế hoạch đầu tư của tất cả các ngành , địa phương và doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở đánh giá chính xác và phân tích sâu sắc tính cạnh tranh của sản phẩm trong nước , kể cả hàng hoá và dịch vụ . Tiêu chuẩn ở đây là : cơ cấu sản xuất và đầu tư phải hướng vào các sản phẩm tận dụng được lợi thế so sánh của đất nước , tạo ra những sản phẩm có khả năng cạnh tranh , đáp ứng nhu cầu trong nước và thế giới . Mọi phương án sản phẩm đều phải đặt trong quan hệ so sánh về chất lượng và giá cả so với hàng nưóc ngoài , yêu cầu này đặt ra càng nghiêm ngặt đối với các sản phẩm mới . Các sản phẩm thay thế nhập khẩu cũng phải phấn đấu sau một thời gian nhất định phải đảm bảo được chất lượng và giá cả có sức cạnh tranh với hàng nước ngoài . Những thứ trong nước cần , nhưng điều kiện và khả năng sản xuất trong nước về cả trước mắt và lâu dài đều khó khăn thì cần cân nhắc phương án đầu tư sản xuất trong nước với việc nhập khẩu hàng từ nước ngoài . Ngược lại , những sản phẩm tuy sức tiêu thụ không cao nhưng có lợi thế cạnh tranh , thị trường thế giới có nhu cầu mạnh thì mạnh dạn đầu tư phát triển , tăng cường xuất khẩu để có ngoại tệ nhập khẩu những hàng hoá trong nước chưa sản xuất được . 3. Thực hiện các biện pháp khuyến khích đầu tư Tận dụng triệt để khả năng về thu hút đầu tư từ những nước trong và ngoài khu vực ASEAN để khai khai thác lợi thế sẵn có của Việt Nam về tài nguyên , sức lao động và thị trường mới ; xây dựng một môi trường đầu tư thuận lợi hơn so với các nước thành viên khác của ASEAN (xây dựng một môi trường đầu tư mang tính cạnh tranh cao) với chính sách ưu đãi rõ ràng và ổn định , những thuận lợi về cơ sở hạ tầng , cụ thể gồm : Bổ xung và hoàn thiện hơn nữa các chính sách đầu tư nước ngoài trực tiếp như chính sách góp vốn , chính sách công nghệ và kỹ thuật , chính sách đất đai và nhà ở cho người nước ngoài , chính sách lao động , tiền lương , chính sách bảo hiểm ... Cải tiến , tạo thuận lợi lớn cho các hoạt động đầu tư nước ngoài trong các thủ tục hành chính như các thủ tục cấp giấy phép đầu tư , kinh doanh xuất nhập khẩu , thủ tục cấp đất , cấp giấy phép xây dựng , thủ tục hải quan ... Cần tập trung hơn nữa tới các vấn đề ưu tiên hoàn thiện cơ sở hạ tầng liên quan đến đầu tư trực tiếp như hệ thống giao thông , điện nước , bến Cảng , thông tin liên lạc, ... Tập trung vào kế hoạch giáo dục , đào tạo để nhanh chóng có được đội ngũ lao động có trình độ cao. Xây dựng một danh mục cụ thể các ngành nghề , lĩnh vực cần được ưu tiên khuyến khích đầu tư nước ngoài trực tiếp , danh mục này gồm: 1) Những ngành cần thu hút đầu tư của những nước công nghiệp phát triển với mục đích sản xuất để xuất khẩu . Đối với những khu vực này cần chú trọng giám sát ưu tiên đầu tư với công nghệ hợp lý và tiên tiến . Khi thực hiện các biện pháp khuyến khích đầu tư cho những ngành này, cần tập trung chú trọng phân tích đầu ra về khả năng tiêu thụ sản phẩm , khả năng cạnh tranh , nhất là khi yếu tố giá thành của sản phẩm được đặt trong điều kiện không còn các hàng rào bảo hộ thuế quan và phi thuế quan . Chính các yếu tố của đầu ra sẽ quyết định đến quy mô , hình thức đầu tư , vấn đề này càng hết sức được quan tâm quản lý , nhất là đối với các hình thức đầu tư từ vốn ngân sách hay vốn nước ngoài . Cần hết sức tránh tình trạng đầu tư ồ ạt vào một số ngành mà không tính đến khả năng cạnh tranh có thể đẫn đến phá sản hàng loạt dự án đầu tư và tăng nợ nước ngoài. 2) Những ngành sử dụng nhiều lao động với mục đích tạo thêm việc làm và thu nhập cho người lao động . Đây là lợi thế rất lớn cho Việt Nam trong khi nhiều nước trên thế giới , đặc biệt là những nước trong khu vực đang mất dần lợi thế cạnh tranh về sức lao động và chuyển đần sang các nghành công nghệ cao . 4.Hoàn thiện hệ thống thuế quan Những định hướng về chính sách thuế trong điều kiện Việt Nam hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới được xác định theo hai mục tiêu chính : cố gắng hạn chế phần giảm thu ngân sách khi thực hiện các cam kết về giảm thuế nhập khẩu , đồng thời sử dụng hệ thống thuế như một công cụ kinh tế vĩ mô , khuyến khích sản xuất và xuất khẩu góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam . Hai mục tiêu này cần được thực hiện thông qua toàn bộ hệ thống thuế bởi vì nó có tác động đến các nhà sản xuất và xuất khẩu không những chỉ có các mức thuế suất của thuế nhập khẩu mà cả các loại thuế khác đặc biệt là thuế doanh thu , thuế lợi tức , thuế đối với đầu tư nước ngoài . Việc hoàn thiện sắc thuế này sẽ góp phần giảm nhẹ bớt phần giảm thu của ngân sách từ việc giảm thuế nhập khẩu . Đối với thuế xuất khẩu , nên áp dụng mức thuế tối thiểu để khuyến khích tối đa xuất khẩu . Tuy nhiên , vẫn cần có các mức thuế riêng cho xuất khẩu nguyên liệu dạng thô , sản phẩm trong nước đang cần không khuyến khích , mặt hàng có tỷ suất lợi nhuận cao do chênh lệch giá trị trong nước và quốc tế. Mặt hàng có thể xuất khẩu được và thị trường xuất khẩu là một vấn đề khó khăn đối với các doanh nghiệp vì tính cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam kém và không có thị trường ổn định vì vậy ta không nên tăng số tiền phải nộp cho ngân sách quá mức đối với xuất khẩu tức là không nên có khoản phụ thu, nếu cần thì điều chỉnh bằng thuế xuất . Đối với thuế nhập khẩu , các mức thuế suất cần được nghiên cứu sửa đổi một cách hợp lý để phù hợp với trình độ và tình hình kinh tế hiện nay của các ngành sản xuất trong nước , căn cứ trên sự phân tích thị trường và chiến lược, khả năng sản xuất của các ngành . Những mức thuế suất này sẽ là những công cụ quan trọng thiết lập cơ chế bảo hộ cho các ngành sản xuất trong nước , thực hiện chính sách thu hút đầu tư nước ngoài đồng thời khuyến khích sự cạnh tranh nhằm đảm bảo nền sản xuất có hiệu quả . Các mức thuế nhập khẩu một mặt được giảm xét đối với một số mặt hàng nhất định , một số mặt hàng có thể nâng lên , như vậy sẽ bù đắp được những thiếu hụt ngân sách khi cắt giảm thuế mà vẫn thực hiện được quy định của hội nhập với các nước và khu vực . Ngoài ra , các mức thuế suất của biểu thuế cũng cần phải được nghiên cứu để xây dựng và hoàn thiện các mức thuế suất ưu đãi , thuế phổ thông , thuế suất tạm thời, ...phù hợp với thông lệ quốc tế tạo điều kiện thuận lợi khi tham gia vào các tổ chức kinh tế , thương mại . Để tạo điều kiện thuận lợi trong việc thực hiện các chính sách thuế cần phải đơn giản hoá các mức thuế trong biểu thuế xuất nhập khẩu tức là giảm dần số lượng các mức thuế khác nhau trong biểu thuế . Việc đơn giản hoá từ biểu thuế sẽ tạo điều kiện quản lý tốt hơn, tránh thất thu thuế đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp trong nước cải tiến kỹ thuật , công nghệ mới để tạo ra sản phẩm có chất lượng và giá rẻ . Phát triển nguồn nhân lực theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, hội nhập với khu vực và thế giới Một trong những yếu tố quan trong đảm bảo việc tham gia có hiệu quả vào quá trình hội nhập là cần có một đội ngũ lao động được đào tạo tốt về chuyên môn và khoẻ mạnh về thể chất . Do đó , phát triển nguồn nhân lực phải là ưu tiên hàng đầu . Đồng thời , để đáp ứng những đòi hỏi của các tiêu chuẩn quốc tế , nhà nước cần chú trọng đến chính sách đào tạo và tái đào tạo lực lượng lao động cho phù hợp với những thay đổi và yêu cầu của thị trường khu vực và thế giới , cần có thị trường lao động linh hoạt hơn . Bên cạnh đó chúng ta phải tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật của ban thư ký ASEAN , APEC , ASEM ,...các nước và các tổ chức quốc tế khác trong việc giúp ta đào tạo lực lượng cán bộ đáp ứng được yêu cầu của của họ khi cần thiết . Trước mắt cần xây dựng , phát triển các trường đại học và cao đẳng theo mạng lưới hợp lý để hình thành một số trường đại học có chất lượng đào tạo ngang tầm với những trường đại học có chất lượng cao trong khu vực . Tiếp tục đổi mới chương trình, nội dung , phương pháp giảng dạy và phương thức đào tạo đội ngũ lao động có chất lượng cao , đặc biệt là trong các ngành kinh tế , kỹ thuật mũi nhọn, công nghệ cao. Gắn việc hình thành các khu công nghiệp , khu công nghệ cao với hệ thống các trường đào tạo nghề . Đưa số học sinh , công nhân kỹ thuật tăng trung bình 11 – 12% Thứ hai là đổi mới cơ bản công tác quản lý và tổ chức giáo dục ; xây dựng hệ thống giáo dục nhằm tạo điều kiện cho mọi người có thể học tập suốt đời theo hướng thiết thực , hiện đại , gắn chặt với yêu cầu của xã hội . Hoàn thiện cơ chế , chính sách và luật pháp để đảm bảo sự nghiệp giáo dục phát triển ổn định , chất lượng , hiệu quả đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực cho đất nước phát triển nhanh và bền vững . Thứ ba là nhà nước giành tỷ lệ ngân sách chính đáng , kết hợp đẩy mạnh xã hội hoá , phát triển giáo dục và đào tạo . Huy động và sử dụng có kết quả mọi nguồn lực cho giáo dục và đào tạo . Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về phát triển giáo dục và đào tạo . Chủ động giành một lượng ngân sách thích đáng để tăng nhanh số học sinh , sinh viên, nghiên cứu sinh được đào tạo ở các nước phát triển . Kết luận Quá trình đổi mới của Việt Nam và xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đã đan quyện chặt chẽ vào nhau. Không nên quên rằng toàn cầu hoá theo hướng tự do hoá mậu dịch và đầu tư là bối cảnh để Việt Nam có thể dứt khoát đoạn tuyệt với cơ chế làm ăn cũ , là một nhân tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với việc hội nhập kinh tế quốc tế một cách hiệu quả . Những thành công đa đạt được qua 15 năm hội nhập sẽ được tiếp tục thúc đẩy khi chúng ta thực hiện các chương trình đầu tiên của tiến trình AFTA, AICO, AIA,... cũng như việc tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế WTO, WB,IMF,... Dù muốn hay không chúng ta phải đối phó với các thách thức to lớn. Song đó là cái giá phải trả cho sự tăng trưởng, cái giá của việc tạo dựng môi trường thương mại và đầu tư có đặc tính cạnh tranh cao, là sự hỗ trợ khu vực tư nhân nhằm thực hiện tốt các chương trình kinh tế vĩ mô của nhà nước. Những chân trời hợp tác quốc tế đang rộng mở , Việt Nam đang đi đúng hướng . Từ AFTA đến APEC và WTO , cùng với việc tham gia vào các định chế kinh tế toàn cầu như WB, IMF, chúng ta sẽ hội nhập ngày càng cao hơn vào nền kinh tế thế giới để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá của mình . Các tài lịệu tham khảo chính Robert Hue: chủ nghĩa cộng sản , một dự án mới ; Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh , H.1999. Tự do hoá và toàn cầu hoá : Rút ra những kết luận đối với công cuộc phát triển, Viện quản lý kinh tế TW dịch , H.1998. Toàn cầu hoá quan điểm và thực tiễn , kinh nghiệm quốc tế , NXB Thống kê , H.1999. David C.Korten: Khi các tập đoàn thống trị thế giới , dịch H. 1999. Toàn cầu hoá và vấn đề hội nhập quốc tế của Việt Nam , viện KTTG , 1999. Ngân hàng thế giới : Bước vào thế kỷ 21, NXB chính trị quốc gia ( dịch) H.1999. Ban phương Nam: Những thách thức ở phương Nam , NXB Chính trị quốc gia (dịch), H. 1996. John Naisbitt: Tám xu hướng phát triển của châu á , NXB Chính trị quốc gia, H.1998. Dự báo thế kỷ 21, NXB Thống kê (dịch), H. 1998. Bộ ngoại giao : Các tổ chức Quốc tế và Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, H. 1998. Tạp chí cộng sản số 4 tháng 2/2000. Zbigniew Brzezinski , Bàn cờ lớn NXB Chính trị quốc gia, H. 1998. Caroline Thomas , Peter Wilkin: Globallization and the South, Mac Millan press, London. 1997. Ankie Hoogvelt: Globalization and the poscolonical Word: The new political economy of development , MacMillan press , London 1997. Robert , J. Holton : Glo balization and Nation state Lon Don , MacMillan press, 1998. Võ Tá Hân – Trần Quốc Hùng – Vũ Quang Việt : Châu á từ khủng hoảng nhìn về thế kỷ 21, NXB Tp. Hồ Chí Minh, 2000. Võ Đại Lược – Kim Ngọc : Các khối kinh tế và mậu dịch trên thế giới , NXB, chính trị quốc gia ,H. 1996. Từ diễn đàn Siatơn : Toàn cầu hoá và tổ chức thương mại thế giới , NXB chính trị quốc gia , H. 2000. Thế giới hai đồng tiền : Giữa hội nhập và phải hội nhập , NXB Thống kê , H. 1999. Viện thông tin khoa học xã hội , khu vực hoá và toàn cầu hoá - hai mặt của tiến trình hội nhập quốc tế , H. 2000. Viện thông tin khoa học xã hội . Toàn cầu hoá và khu vực hoá : cơ hội và thách thức đối với các nước đang phát triển , H. 2000. Báo nhân dân số 23 tháng 4 năm 2001. Chuyên đề ngiên cứu khoa học cấp Bộ tại viện nghiên cứu KTTG “ Bối cảnh quốc tế và sự lựa chọn chiến lược Việt Nam” ( năm 2000). Kinh tế 1999- 2000 Việt Nam và thế giới . Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương tháng 3, 6,9,12, năm 2000. Nghiên cứu kinh tế tháng 5, 8, 9, 10 năm 2000. Những vấn đề kinh tế thế giới tháng 1,5 năm 2000. 28. Danh mục hàng hoá và thuế xuất các mặt hàng của Việt Nam thực hiện hiệp định về ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung ( CEPT của các nước ASEAN cho năm 2000) . ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34220.doc