Toàn cầu hoá và tác động của toàn cầu hoá tới dịch vụ giáo dục ở Việt Nam. Thực trạng và giải pháp

Lời mở đầu 1.Tính tất yếu Từ năm 1986, khi đất nước chính thức đổi mới kinh tế, chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều hành của nhà nước, mở cửa giao lưu buôn bán với bên ngoài. Đất nước ta đã có những chuyển biến và thay đổi to lớn. Trong giai đoạn chúng ta mở cửa phát triển kinh tế, chúng ta đã từng bước hội nhập và hội nhập ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu. Trong giai đoạn này, nền kinh tế thế giới cũng đang có những biến chuyển sâu sắc. Nổi bật có sự sụp đổ của Liên Xô

doc71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1751 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Toàn cầu hoá và tác động của toàn cầu hoá tới dịch vụ giáo dục ở Việt Nam. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chấm dứt thế giới 2 cực, hình thành 3 trung tâm kinh tế lớn của thế giới là Mỹ, EU và Nhật Bản. Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông, internet đã làm cho kinh tế thế giới phát triển nhanh chóng kì lạ. Sự giao lưu buôn bán không còn trong phạm vi mỗi quốc gia mà đã lan rộng toàn cầu, giữa các công ty của các quốc gia khác nhau, giữa các cá nhân trên toàn cầu với nhau, các dòng vốn đầu tư “ chảy” tự do từ nước này qua nước khác, các dòng người di chuyển liên tục trên thế giới để làm việc tại quốc gia khác nơi mà họ sinh ra...Người ta gọi thế giới đang trở nên toàn cầu hóa mà khởi nguồn là từ các hoạt động kinh tế. Vơi việc gia nhập WTO vào năm 2006, Việt Nam đang chứng tỏ là một quốc gia đang gia nhập hơn nữa và sẽ trở thành một bộ phận “ không thể thiếu” của kinh tế thế giới. “Con thuyền” Việt Nam đang tham gia vào “dòng chảy” của kinh tế thế giới trong đó có “ ngọn gió” mang tên toàn cầu hóa đang len lỏi khắp mọi quốc gia trên toàn cầu. Để “ngọn gió” đó cản trở hay thúc đẩy chúng ta phát triển là tùy vào việc chúng ta đi ngược hay đi xuôi chiều gió. Do đó chúng ta cần phải hiểu được tác động của toàn cầu hóa như thế nào để có những chính sách phát triển phù hợp. Tác động đó của toàn cầu hóa là rộng khắp mọi lĩnh vực, kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục...trong đó có mối quan hệ biện chứng giữa toàn cầu hóa và giáo dục của mỗi quốc gia, toàn cầu hóa tác động lên giáo dục như thế nào? Và giáo dục tại mỗi quốc gia lại tác động trở lại toàn cầu hóa như thế nào? Giáo dục tại Việt Nam đã và đang rồi sẽ như thế nào dưới tác động của toàn cầu hóa khi chúng ta đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới?. Vơi yêu cầu đó, chúng ta sẽ đi nghiên cứu về toàn cầu hóa và tác động của toàn cầu hóa tới dịch vụ giáo dục ở Việt Nam để có thể có những chính sách thích hợp giúp cho giáo dục là nhân tố thúc đẩy Việt Nam trong quá trình hội nhập và hội nhập thành công và chắc chắn vào kinh tế thế giới. 2. Mục đích Đưa ra được những định hướng cho phát triển dịch vụ giáo dục ở Việt Nam để phù hợp với thời kỳ toàn cầu hóa. 3. Đối tượng và phạm vi Chúng ta sẽ nghiên cứu toàn cầu hóa dưới 3 khía cạnh là thương mại toàn cầu, đầu tư FDI toàn cầu và sự di trú toàn cầu. Chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu tác động của thương mại quốc tế, FDI toàn cầu và sự di trú đến giáo dục và sự thay đổi của giáo dục tác động trở lại thương mại quốc tế, FDI, và sự di trú toàn cầu. Nghiên cứu sự tác động của toàn cầu hóa tới dịch vụ giáo dục ở Việt Nam từ 1986 tới nay 4. Phương án nghiên cứu Nghiên cứu tác động của toàn cầu hóa đến giáo dục theo 2 hướng là gián tiếp và trực tiếp, cả tầm vĩ mô và vi mô, cả mặt cung và câu của giáo dục. Đồng thời chỉ ra mối quan hệ biện chứng của toàn câu hoá và giáo dục, trên phạm vi toàn thế giới bằng cách nghiên cứu một số quốc gia điển hình như Hàn Quốc, Singapore, các quốc gia Mỹ Latin, một số quốc gia châu Phi... Từ đó suy ra cho tác động của toàn câu hoá đến Việt Nam và đưa ra những định hướng cho sự phát triển của hệ thống giáo dục đào tạo ở Việt Nam. 5. Kết cấu bài viết I. Lời mở đầu (1) Tính tất yếu (2) Mục đích (3) Đối tượng và phạm vi (4) Phương án nghiên cứu (5) Kết cấu bài viết II. Phần nội dung Chương I: Tổng quan chung 1.1 toàn cầu hóa 1.1.1khái niệm 1.1.2 Tổng quan về tác động của toàn cau hoá 1.1.2.1 Tác động tích cực 1.1.2.2 Tác động tiêu cực 1.1.2.3 Tác động tới quan hệ quốc tế và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trên thế giới 1.2. Dich vụ giáo dục 1.2.1 Khái niệm chung 1.2.2 Tổng quan về hệ thống giáo dục ở Việt Nam 1.3 Tác động của giáo dục lên toàn cầu hóa 1.3.1 Giáo dục và thương mại quốc tế 1.3.1.1 Giáo dục và xuất khẩu dưới góc nhìn vĩ mô 1.3.1.2 Giáo dục và chuỗi giá trị toàn cầu 1.3.1.3 Giáo dục và offshore 1.3.1.4 Giáo dục và khả năng phản ánh nhu cầu của thương mại 1.3.2 Giáo dục và khả năng thu hút dòng vốn đầu tư 1.3.2.1 vốn con người và FDI 1.3.2.2 kĩ năng về công nghệ và kĩ thuật và FDI vào sản xuất 1.3.2.3 Những trung tâm công nghệ cao và khả năng thu hút FDI 1.3.2.4 FDI tại các khu vực khác nhau 1.3.2.5 Giáo dục và lợi ích từ FDI 1.3.3 giáo dục và xác suất di trú 1.3.3.1 di trú cố định 1.3.3.2 di trú tạm thời 1.3.3.3 Các loại hình giáo dục 1.4 Tác động của toàn câu hóa lên giáo dục 1.4.1 Tác động của thương mại đến giáo dục 1.4.1.1 Tác động của thương mại lên câu về giáo dục dưới góc độ vĩ mô 1.4.1.2 Thương mại và lượng cung cho giáo dục dưới góc độ vĩ mô 1.4.1.3 Thương mại và giáo dục dưới góc độ vi mô 1.4.2 Tác động của FDI lên giáo dục 1.4.2.1 Tác động vĩ mô lên lượng câu cho giáo dục 1.4.2.2 Tác động vĩ mô của FDI lên sự cung cấp giáo dục 1.4.2.3 Tác động vi mô lên câu về giáo dục 1.4.2.4 Nguồn cung vi mô của giáo dục đào tạo-“Các khoản đóng góp tự nguyện” 1.4.2.5 Nguồn cung vi mô- Đào tạo nghề 1.4.2.6 Nguồn cung vi mô- Đào tạo đại học 1.4.3 Tác động của di trú đến giáo dục 1.4.3.1 Di trú và sự mất mát trong công suất giảng dạy trong khu vực giáo dục 1.4.3.2 Tác động vĩ mô của di trú lên giáo dục 1.4.3.3 Di trú và sự khuyến khích đầu tư tư nhân vào nguồn lực con người 1.4.3.4 Những tác động khác của di trú lên giáo dục Chương II: Thực trạng dịch vụ giáo dục ở Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hoá 2.1 thực trạng tác động của thương mại quốc tế đến giáo dục ở Việt Nam 2.1.1 Tác động về phía câu dưới góc độ vĩ mô 2.1.2 Tác động về phía cung dưới góc độ vĩ mô 2.1.3 Tác động dưới góc độ vi mô 2.2 thực trạng tác động của FDI đến giáo dục ở Việt Nam 2.2.1 tác động vĩ mô đến lượng cung trong giáo dục 2.2.2 tác động vĩ mô đến lượng cầu về giáo dục 2.2.3 Tác động vi mô 2.3 thực trạng tác động của di trú đến giáo dục ở Việt Nam 2.4 thực trạng thay đổi giáo dục ở Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hóa 2.4.1 Giáo dục đào tạo ở Việt Nam và thương mại quốc tế 2.4.2 Giáo dục đào tạo ở Việt Nam và vốn FDI 2.4.3 Giáo dục ở sự di trú ở Việt Nam Chương III: Định hướng cho phát triển dich vụ giáo dục ở việt nam trong thời kỳ toàn cầu hoá 3.1.gia tăng ảnh hưởng của giáo dục đối với thương mại quốc tế 3.1.1 phát triển xuất khẩu giáo dục 3.1.2 giáo dục đào tạo ngành nghề đáp ứng chuỗi giá trị toàn cầu, offshore 3.2. giáo dục đào tạo ở việt nam và FDI 3.2.1 thu hút FDI trực tiếp vào dịch vụ giáo dục 3.2.2 giáo dục theo sát nhu cầu của các dự án FDI và phải tạo ra đội ngũ nhân lực có “tiếng” để thu hút FDI 3. 3 giáo dục và di trú 3.3.1 ngành giáo dục đào tạo thu hút nhân tài và các nhà nghiên cứu đến và làm việc tại Việt Nam 3.3.2 chống lại tình trạng chảy máu chất xám 3.4. định hướng chính sách của chính phủ nhằm làm cho nguồn nhân lực phù hợp hơn với thời kỳ toàn cầu hoá 3.4.1 định hướng chính sách phát triển nguồn nhân lực 3.4.2 định hướng chính sách đầu tư 3.4.3 định hướng chính sách thương mại 3.4.4 định hướng chính sách di trú Danh mục chữ viết tắt: BAT - -British American Tobacco Group BP --British Petroleum EPZ --Export Processing Zone FDI --foreign direct investment GATS --General Agreement on Trade in Services GDP --gross domestic product GVC --global value chain HO --Heckscher-Ohlin HRDF-- Human Resource Development Fund MFA-- Multi Fibre Arrangement MNE --multinational enterprise OBM --original brand manufacturing OEM --original equipment manufacturing PSB --Productivity and Standards Board (Singapore) PSDC --Penang Skills Development Centre (Malaysia) R & D --research and development SDF --Skills Development Fund (Singapore) UNESCO-- United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization UK --United Kingdom US --United States (of America) WTO-- World Trade Organization WB --World Bank II Phần Nội Dung Chương I: Tổng quan chung 1.1Toàn cầu hóa khái niệm chung Chúng ta sẽ nghiên cứu toàn cầu hóa dưới 3 khía cạnh kinh tế là thương mại quốc tế, đầu tư FDI toàn cầu và sự di trú toàn cầu. Thương mại quốc tế về hang hóa và dịch vụ đang tăng trưởng nhanh chóng, thâm chí còn nhanh hơn thu nhập quốc dân của hầu hết các quốc gia. Source : IMF Đồ thị: Mô tả sự tăng lên nhanh chóng của thương mại toàn câu Chúng ta sẽ xem xét 2 quá trình chủ yếu trong thương mại quốc tế là sự tăng lên của chuyên môn hóa và sự nổi lên của chuỗi giá trị toàn cầu. Chuyên môn hóa là quá trình di chuyển một hay một vài giai đoạn của quá trình sản xuất từ quốc gia này sang quốc gia khác( Feenstra, 1998). Qúa trình chuyên môn hóa thường được nhắc đến trong khu vực sản xuất hàng hóa, nhưng những năm gần đây băt đầu phát triển chuyên môn hóa trong các ngành dịch vụ. Chuỗi giá trị toàn cầu là hệ thống các công ty xuyên quốc gia. Một chuỗi giá trị bao gồm đầy đủ các hoạt động để đưa một sản phẩm hay dịch vụ từ giai đoạn ý tưởng, qua các khâu trung gian của quá trình sản xuất, và phân phối đến người tiêu dùng cuối cùng và chuyển nhượng lần cuối sau khi dùng.( Gereffi, 1999; Kaplinsky, 2000). Đầu tư FDI toàn cầu, đầu tư tư nhân toàn cầu đến các quốc gia đang phát triển đang tăng nhanh chóng trong 3 thập kỷ trở lại đây. Tuy nhiên, vốn FDI chủ yếu là giữa các quốc gia đang phát triển, trong khi FDI đến các quốc gia đang phát triển lại chủ yếu tập trung ở Trung Quốc, Mexico, Brazil, Malaysia, một vài quốc gia châu Phi... Đồ thị: Các nguồn vốn đầu tư vào các nước đang phát triển từ năm 1990 đến 2005 Nguồn: WB Tác động của toàn câu hoá Tác động tích cực Thị trường được mở rộng, sự giao lưu hàng hoá thông thoáng hơn, hình thành sự phân công lao động quốc tế có lợi và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.( Tác động của thương mại quốc tế) Giúp các nước tiếp cận được nguồn vốn, công nghệ từ bên ngoài, những thành tựu của khoa học công nghệ được chuyển dao nhanh chóng và ứng dụng rộng rải. Mạng lưới thông tin và giao thông vận tải bao phủ toàn câu Tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh vì hoà bình , hợp tác và phát triển. 1.1.2.2 Tác động tiêu cực Các nước công nghiệp phát triển chiếm ưu thế trong nền kinh tế thế giới thao túng toàn cau hoá Sự phân cực giàu nghèo ngày càng sâu sắc Nền kinh tế toàn cau hoá rất dễ bị chấn thương Tiêu cự trong trao đổi hàng hoá thương mại Tội phạm xuyên quốc gia, bản sắc văn hóa các dân tộc bị xâm hại... 1.1.2.3 Tác động tới quan hệ quốc tế và quá trình hội nhập quốc tế trên thế giới Các nước trên thế giới chuyển sang chính sách mở cửa Quan hệ đa phương ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế Tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng gia tăng Trong quan hệ quốc tế, luôn luôn tồn tại hai chiều hướng: hợp tác và cạnh tranh. 1.2Dịch vụ giáo dục 1.2.1Khái niệm chung Hệ thống giáo dục, nhìn chung ở tất cả các quốc gia là mô hình để phát triển nguồn vốn nhân lực. Ở hầu hết các nước, đang phân biệt giáo dục dưới đại học, đào tạo nghề và giáo dục đại học và trên đại học ở phạm vi quốc gia, trên phạm vi quốc tế có giáo dục ở nước ngoài. Giáo dục dưới đại học: Đó là hệ thống đào tạo các cấp nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản về các môn học, những kĩ năng về toán và văn... Đào tạo nghề: Bao gồm đào tạo kĩ năng về nghề nghiệp Giáo dục đại học và trên đại học: thường bao gồm những tổ chức giáo dục nội địa sau chương trình phổ thông. Giáo dục ở nước ngoài: bao gồm những sinh viên học chương trình đại học ở nước ngoài hoặc học từ xa qua mạng. Những giai đoạn trên của hệ thống giáo dục đào tạo là có liên kết chặt chẽ; Chất lượng giáo dục ở chương trình dưới đaị học là hết sức quan trọng cho chương trình đại học; hệ giáo dục chất lượng và phù hợp là cơ sở cho đào tạo và cơ hội việc làm. 1.2.2Tổng quan về dịch vụ giáo dục ở Việt Nam Trong thời kỳ phong kiến, giáo dục ở Việt Nam chịu ảnh hưởng của nền giáo dục phong kiến Trung Quốc. Trong thời kỳ phong kiến-thực dân Pháp, giáo dục ở Việt Nam chịu ảnh hưởng của nền giáo dục phong kiến và thực dân Pháp. Từ khi cách mạng tháng tám 1945 thành công đến 1975, nền giáo dục ở miền Bắc Việt Nam chịu ảnh hưởng của của nền giáo dục Liên Xô. Nền giáo dục ở miền Nam chịu ảnh hưởng của nền giáo dục Hoa Kỳ. Từ 1975 đến 1986: Nền giáo dục ở Việt Nam chịu ảnh hưởng của nền giáo dục Liên Xô. Từ 1986 đến nay: Việt Nam đang tiến hành đổi mới giáo dục cùng với chương trình đổi mới của cả đất nước. Một nhận xét khái quát, truyền thông giáo dục ở Việt Nam còn nặng về giáo dục hàn lâm chuyên sâu, trọng khoa bảng, bằng cấp, thiếu kỹ năng thực hành. Hệ thống giáo dục còn tương đối khép kín, chưa thức sự liên kết được vai trò của mình với các khu vực khác. Tuy nhiên cả hệ thống giáo dục đang có những thành công bước đầu trong công cuộc đổi mới. 1.3 Tác đôngcủa giáo dục lên Toàn câu hòa Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực quyết đinh như thế nào đến các quốc gia tham gia vào toàn cầu hoá? Những đất nước có nền kinh tế hiệu quả và cạnh tranh tốt thường thành công trong môi trường toàn cầu hoá hơn 1.3.1 Giáo dục và tăng trưởng kinh tế Sản lượng phụ thuộc vào nguồn vốn vật chất và vốn con người. Nguồn vốn con người lại phụ thuộc vào hệ thống giáo dục và đào tạo. Mankiw et al.(1992) thống kê sản lượng đầu người ở 98 quốc gia không sản xuất dầu mỏ vào năm 1985 và nhận thấy nguồn vốn con người làm tăng sản lượng. Những phát hiện trên chủ yếu là của các mô hình kinh tế học tân cổ điển. Sẽ là hoàn toàn khác đi nếu chúng ta suy nghĩ tập trung vào tầm quan trọng của đổi mới và việc học đến quá trình tăng trưởng. Giáo dục và đào tạo là yếu tố quan trong nhất của chiến lược cạnh tranh. Và chính phủ ở một vài quốc gia châu Á đã can thiệp thành công vào hệ thống giáo dục của họ để cải thiện khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và hệ thống đào tạo con người. 1.3.2 Giáo dục và thương mại Phát triển giáo dục và kĩ năng lao động giúp các công ty và các cá nhân tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá như là xuất khẩu hàng hoá và chuỗi giáo trị toàn cầu. Việc có một hệ thống giáo dục linh hoạt là rất quan trọng, để điều chỉnh đến những điều kiện thương mại mới: trong khi các quốc gia tiên tiến(đặc biệt là khu vực Đông Á) đang có chính sách năng động để phát triển giáo dục cho xuất khẩu( Hàn Quốc là một ví dụ điển hình), các quốc gia nghèo hơn đang phải đối mặt với những khó khăn để hội nhập, mà nguyên nhân hầu như là do hệ thống giáo dục thiếu linh hoạt. Chúng ta phải thừa nhận rằng nguyên nhân ở đây rất phức tạp, hầu hết các quốc gia nghèo đều có hệ thống giáo dục không linh hoạt, nhưng một phần nhỏ vẫn có hệ thống giáo dục linh hoạt lien quan đến những cơ hội kinh tế hiển nhiên. 1.3.2.1Giáo dục và xuất khẩu dưới góc độ vĩ mô Theo lý thuyết H-O về thương mại quốc tế ,những nguồn lực tự nhiên và vốn ,với lực lượng lao động sẽ quyết định lợi thế so sánh của các quốc gia và do đó dẫn tới quá trình chuyên môn hoá của quốc gia đó. Châu Phi là quốc gia đông lao động trình độ thấp,giá rẻ và cũng có là châu lục có lợi thế về các nguồn lực tự nhiên. Do đó nó xác định lợi thế so sánh của Châu Phi trong thương mại quốc tế. Việc có nhiều nguồn lực tự nhiên nhưng thiếu lao động kĩ năng giải thích vì sao mặt hàng xuất khẩu của Châu Phi chủ yếu là các mặt hàng thô chưa qua chế biến. Thực trạng này cũng giống với thực trạng ở nhiều quốc gia đang phát triển. Mọi người thường cho rằng cần phải đào tạo con người có một nền tảng giáo dục thật tốt, một số ít thì lại cho rằng cần đào tạo để có những kĩ năng riêng biệt. Họ trích một ví dụ về việc xuất khẩu gỗ ở Chile, việc này trở nên dễ dàng và hiệu quả khi đã có sẵn những kĩ sư về rừng tốt nghiệp ở các trường đại học ở địa phương. Có ít “bằng chứng” chứng tỏ tác động của đào tạo nghề nghiệp lên xuất khẩu. Tác động thường phù thuộc vào tính đặc trưng của đào tạo. Nhiều quốc gia đang tăng việc thu thuế các công ty và sau đó có thể dùng vào các chương trình đào tạo. Với cách này, kĩ năng có thể được “ nâng cấp” từ quá trình phát triển của kinh tế. Chúng ta đang nhận ra tầm quan trọng của các tổ chức đào tạo truyền thống lâu đời ở Mĩ Latinh và có thể có nhiều hơn ở các nước Đông Á, nơi mà kĩ năng được “nâng cấp” nhanh hơn và phù hợp hơn(ví dụ như ở Singapore với SDF( skill development fund)và một chương trình tương tự ở Malaysia) 1.3.2.2Giáo dục và chuỗi giá trị toàn cầu Tài liệu về chuỗi giá trị toàn cầu đang tăng lên nhanh, nó nhấn mạnh đến tầm quan trọng của mối quan hệ giữa các công ty và một chuỗi giá trị. Qua đó, lao động có những kĩ năng đặc biệt được yêu cầu để công ty tham gia vào những chuỗi giá trị. Chúng ta sẽ xem xét những chuỗi giá trị quần áo và hàng hóa. Cơ cấu của thương mại về quần áo đang thay đổi. Quần áo ở Mỹ và Bắc Âu đang bị chi phối bới một nhóm các nhà bán lẻ, dẫn đầu chuỗi hàng hóa buyer driven. Trong khi các nhà sản xuất xuyên quốc gia đóng vai trò quan trọng trong việc kết hợp hệ thống sản phẩm trong những chuỗi hàng hóa producer driven, trong một chuỗi buyer driven những người bán lẻ lớn, những nhà marketer nổi tiếng và những nhà sản xuất nổi tiếng đóng vai trò quan trọng trong việc kết hợp và định vị lại hệ thống sản xuất, đặc biệt đối với những quốc gia đang phát triển, mà các công ty ở đó đã hợp đồng cung cấp hàng hóa theo từng chi tiết cụ thể. Một nhóm các công ty( các nhà bán lẻ, các nhà marketer nổi danh, các nhà sản xuất...)quyết đinh nơi nào để source quần áo. Một vài quốc gia thành công với hệ thống buyer-driven, và một vài nước châu Á đang trở thành các nhà sản xuất như kiểu OEM( original equipment manufacturing) hay OBM( original brand manufacturing). Những thay đổi này yêu cầu một lượng lao động lành nghề với những kĩ năng marketing và design thích hợp. Những nền công nghiệp mới ở Đông Á trở thành các nhà sản xuất OEM, các khách hàng ở Mỹ có thể đặt hàng với các quốc gia này, và họ lại chuyển khâu sản xuất sang các quốc gia có lợi thế là nguồn lao động dồi dào và rẻ( Trung Quốc, Indonesia, Việt Nam), và những sản phẩm hoàn thành sẽ được “ship” trực tiếp từ các quốc gia này đến Mỹ thông qua hệ thống quota của Mỹ. Các quốc gia như Trung Quốc, với ưu thế lực lượng lao động dồi dào.Các quốc gia này không cần nhiều lao động lành nghề, phụ nữ rất hơp với những công việc này, những lao động này chỉ cần đào tạo nhanh là họ có thể thích hợp với công việc. Nhưng nếu công nhân sẵn sàng “nâng cấp” kĩ năng của họ và sử dụng những thiếp bị công nghệ hiện đại hơn, điều này có thể dẫn đến sự mở rộng hoạt động marketing và design trên toàn cầu. Đối với các lọai hàng hóa khác ngoài quần áo và sợi, để đáp ứng nhu cầu của các nhà nhập khẩu hoa quả, rau quả, café, cacao, trà và các hàng hóa khác ở các thị trường các quốc gia phát triển, chúng ta không nên chỉ tập trung vào các hoạt động của các cá nhân, của từng quốc gia riêng biệt. Bây giờ chúng ta phải hiểu được làm sao để các cá nhân, các quốc gia có thể phù hợp trong chuỗi giá trị toàn cầu. Điều này đòi hỏi kĩ năng giao tiếp tốt, phương pháp phù hợp và kĩ năng kinh doanh để giúp cho những hoạt động của các công ty đi theo xu hướng của chuỗi giá trị toàn cầu. Để làm được điều đó, chìa khóa là cần có những kĩ năng kinh doanh, khả năng làm chủ doanh nghiệp. Do đó giáo dục là rất quan trọng trong khâu đào tạo con người, giúp các cá nhân có đủ kĩ năng cần thiết để đa dạng hóa thành những sản phẩm khác nhau trong chuỗi giá trị toàn cầu. 1.3.2.3Giáo dục và offshore Gereffi( 2004) đã bàn về sự tăng lên nhanh chóng của hoạt động gia công trên khắp toàn cầu trong khoảng 4 thập kỉ trở lại đây. Làn sóng đầu tiên của gia công trong sản xuất là từ những năm 60 đến những năm 70. Các quốc gia nổi bật có Ấn Độ, Trung Quốc, Philipines, Malaysia, Singapore, Mexico, Nga, một phần của EU và Nam Phi. Không phải tất các các hoạt động sản xuất đều được chuyển sang cho các nước đang phát triển, một vài các công đọan khác như Design hay Marketing vẫn thường ở các nước phát triển. Điều này giải thích nguyên nhân xuất hiện chuỗi giá trị toàn cầu, một kết cấu phức tạp của các công ty và hệ thống sản xuất. Trong khi khu vực dịch vụ đang góp phần làm “phân tán” quá trình sản xuất và làm xuất hiện chuỗi giá trị toàn cầu ở khu vực sản xuất hàng hóa, nó lại ít gây ảnh hưởng đến “gia công” toàn cầu( global outsourcing)( Jones và Kierzkowski, 2001). Nguyên nhân hầu như bởi hàng hóa dịch vụ mang tính trực tiếp đến người tiêu dùng và thường chỉ cung cấp cho khách hàng ở phạm vi quốc gia đó. Nhưng những năm gần đây, tất cả đã thay đổi, đó là nhờ vào sự tăng lên nhanh chóng của công nghệ thông tin và truyền thông. Offshoring dịch vụ từ các nước phát triển đến các nước đang phát triển( và giữa các nước đang phát triển) đang bắt đầu phát triển. Trong khi offshoring bắt đầu với những hoạt động “ ít giá trị” ( back office transactions và call centres), nó bắt đầu phát triển sang các bộ phận khác liên quan đến các công việc trí thức( chương trình phần mềm, kĩ thuật, design, kế toán, tư vấn pháp luật và tư vấn y tế), và do đó những hoạt động mới này yêu cầu giáo dục trình độ đại học và giáo dục ở trình độ cao hơn nữa. Sự phân chia lại các hoạt động không còn đơn giản là theo những qui tắc của lợi thế so sánh, mà còn tuân theo lợi thế cạnh tranh. Điều này được minh họa rõ nét bằng Ấn Độ- thường được gọi là “ cơ quan hậu bị” của thế giới. Ân Độ đang xuất khẩu các loại hình dịch vụ như call centres, công việc “văn phòng hậu bị” và công nghệ thông tin mà chủ yếu là nhờ lực lượng lao động lành nghề có kĩ năng phù hợp ở đây, cả bao gồm kĩ năng quản trị thật tốt cho những những “ văn phòng hậu bị” ở Ấn Độ. Các quốc gia nghèo khác cũng bắt đầu đi theo xu hướng này, trong khi các quốc gia Caribbean tham gia vào khoảng những năm 1990, một vài nước châu phi( Ghana, Mauritius, Senegal) mới bắt đầu tham gia vào quá trình toàn cầu hóa sản xuất dịch vụ. Điều quan trọng ở đây là những hoạt động mới này mang lại bởi toàn cầu hóa yêu cầu lực lượng lao động lành nghề có kĩ năng phù hợp. Mà lại rất khó để các quốc gia đang phát triển đáp ứng được. Các quốc gia phù hợp có thể kể đến như Hungary, Cộng hoà Séc, Hàn Quốc...nơi mà tỷ lệ dân số có giáo dục đại học cao. Hơn nữa, những quốc gia này có nguồn lực trong nước phù hợp cho phát triển ngành công nghiệp phần mềm. Có rất nhiều người Ân Độ đang học tập và giảng dạy tại các trường đại học Hoa Kỳ; họ đang góp phần làm nên cuộc cách mạng về công nghệ thông tin ở Mỹ. Và cũng mở ra cho Ân Độ triển vọng và lợi thế to lơn để xuất khẩu dịch vụ công nghệ thông tin sang Mỹ. 1.3.2.4Giáo dục phù hợp với thương mại toàn cầu. Như đã nói ở trên giáo dục là rất quan trọng trong việc định hướng cho sản lượng và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Do đó phát triển giáo dục là cần thiết và quan trọng để thúc đẩy sự tự do hóa thương mại. Ví dụ như là, khi theo đuổi những lý thuyết thương mại chuẩn mực, sự giảm thuế nhập khẩu sẽ làm giảm giá hàng hóa nhập khẩu và làm tăng sản lượng của hàng hóa này gây ra sự cạnh tranh với hàng hóa trong nứơc tại nước đó. Do đó các nhà sản xuất trong nước phải điều chỉnh và thay đổi để tham gia vào các khu vực sản xuất khác. Do đó họ cần tăng khả năng hoạt động, năng suất để tham gia vào các hoạt động mang lại lợi nhuận khác. Và điều này đặt ra yêu cầu với một hệ thống giáo dục thích hợp và linh động. Điều chỉnh hệ thống giáo dục không thể làm trong “ ngày một ngày hai” mà cần nhiều thời gian. Mọi người cần được đào tạo để làm việc trong những hoạt động kinh tế mới. Những quốc gia như Hàn Quốc hay Singapore đang nhanh chóng tập trung vào hệ thống giao dục của họ để có thế tận dụng sớm nhất những cơ hội thương mại mà toàn cầu hóa mang lại. Trong khi các quốc gia khác đang gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, giáo dục sẽ giúp các quốc gia này thay đổi và phát triển để phù hợp với toàn cầu hóa. 1.3.3 Giáo dục và khả năng thu hút dòng vốn tư nhân 1.3.3.1Nguồn vốn con người và FDI Xét về tổng thể, nghiên cứu về giáo dục ở các nước đang phát triển chỉ ra rằng những thành tựu đạt được trong giáo dục liên quan đến dòng vốn FDI( Noorbakhsh, 2001) Te Velde( 2005) thống kê và tìm ra rằng, giáo dục tiểu học, trung học và đại học quyết định chủ yếu đến FDI của Anh và Mỹ ở các nước đang phát triển. Và số liệu thống kê cho FDI của tất cả các quốc gia cũng cho kết luận tương tự 1.3.3.2Kĩ năng kĩ thuật và công nghệ và FDI vào sản xuất Chúng ta thường khẳng định rằng sự thu hút vốn FDI vào sản xuất và sự phát triển kĩ năng về kĩ thuật công nghệ có quan hệ mật thiết với nhau. Các công ty đa quốc gia thường đi đầu trong việc sử dụng công nghệ mới. Họ cũng thường yêu cầu kĩ năng và vốn nhiều hơn các công ty địa phương, yêu cầu công nhân với kiến thức phù hợp về kĩ thuật và công nghệ, như là các kĩ sư. Sự tăng lên trong nguồn vốn FDI làm tăng lượng cầu cho lao động về lao động lành nghề có kĩ năng phù hợp. Do đó dẫn đến sự khan hiếm lao động có kĩ năng trừ khi hệ thống giáo dục ở các quốc gia cung cấp đội ngũ lao động có chất lượng tốt và phù hợp, có thể tham gia vào các khu vực kinh tế có sự đầu tư của vốn FDI. Để có đội ngũ lao động đươc giáo dục phù hợp và chất lượng tốt yêu cầu có một nền tảng giáo dục tốt( ít nhất là giáo dục phổ thông) từ đó các công ty đa quốc gia có thể đào tạo thêm với hệ thống đào tạo của họ cũng như hệ thống đào tào đại học của quốc gia đó. Sự cạnh tranh dựa trên lợi thế về nguồn lực con người đang tăng lên trong thời kỳ toàn cầu hóa( Lall, 2001). Chất lượng, số lượng và các loại hình đào tạo trong hệ thống giáo dục để tham gia vào toàn cầu hóa đang biến đổi không ngừng. Có thể nhận thấy rằng các con hổ Châu Á luôn tìm cách mở rộng hệ thống giáo dục và tập trung vào kĩ thuật công nghệ để thúc đẩy xuất khẩu và FDI vào các công nghệ đó. Tuy nhiên, ở Thailand, giáo dục phổ thông là chưa đủ để dẫn tới sự thay đổi về thiếu thốn lao động có kĩ năng. Nhiều quốc gia Mỹ Latin đang phải rất vất vả để cung cấp giáo dục phù hợp và chất lượng do đó đang gặp khó khăn trong xuất khẩu hàng hóa giá trị cao và thu hút FDI vào trong nứơc. Đó là do chất lượng giáo dục ở các nước này chưa đáp ứng đủ yêu cầu về chất lượng và số lượng. Những quốc gia như Brazil, Mexico, hay Chile đang nằm ở đáy nếu đem so hệ thống giáo dục của họ với mặt bằng chung của giáo dục toàn cầu. 1.3.3.3Những trung tâm công nghệ cao và chiến lược thu hút FDI FDI ở khu vực sản xuất công nghệ cao hoặc hoạt động dịch vụ dựa trên sự có sẳn của lao động lành nghề ở địa phương và các trung tâm phát triển công nghệ và trung tâm nghiên cứu phát triển. Singapore là một ví dụ. Sharp bắt đầu trung tâm design Sharp vào khoảng giữa những năm 1990, Oki xây dựng trung tâm công nghệ Oki ở Singapore vào năm 1996 dành cho nghiên cứu hệ thống wireless và đa truyền thông..Trung tâm nghiên cứu và phát triển của Ericsson được xây dựng ở Thụy Điển, FầnLan, Đưc, Hungary, Singapore và Berkeley.... Sự mở ra của các trung tâm này tủy thuộc vào lượng lao động lành nghề có kĩ năng được đào tạo phù hợp ở các quốc gia đó, sau đó những trung tâm này sẽ như là những “thỏi nam châm” nhằm thu hút thêm nữa FDI. 1.3.3.4Tác động của giáo dục lên FDI tại các khu vực khác nhau Sự tác động của giáo dục vào việc thu hút FDI có xu hướng khác biệt trong những khu vực khác nhau. Ở đây chúng ta phân biệt và chỉ nghiên cứu vào ngành công nghiệp phụ thuộc vào nguồn lực tự nhiên, công nghiệp ô tô và khu vực giáo dục. Sự sẵn có những nguồn lực tự nhiên( gas, dầu, dược liệu tự nhiên) là nguồn nhân chính để thu hút FDI vào các lĩnh vực này( ví dụ như ở Angola, Nigeria, Bolivia, Trinidad và Tobago). Tuy nhiên không loại trừ các nhân tố vô cùng quan trọng khác như cơ sở hạ tầng...Khai thác dầu là ngành cần nhiều vốn và lao động có kĩ năng chuyên sâu như quản lý và kĩ sư. Các công ty dầu mỏ như Shell hay BP( British Petroleum) gửi những chuyên gia của họ để điều hành các chi nhánh ở các quốc gia. .. Giáo dục cũng đóng vai trò hết sức quan trọng đối với một ngành công nghiệp hết sức chủ yếu trong thời kỳ toàn cầu hóa: ngành công nghiệp ô tô. Barnes, Kaplinsky và Morris nghiên cứu sự phát triển ngành công nghiệp này ở Nam Phi, chỉ ra rằng design tốt có thể giúp tạo nên sản phẩm chất lượng toàn cầu và bán được giá cao. Một vài quốc gia đã cố gắng sử dụng những chính sách giống các quốc gia Đông Á để đạt được sự phát triển trong khu vực công nghiệp. Tuy nhiên, nó đã không mang lại kết quả như mong đợi, do sự khác biệt ở một vài đặc điểm với các quốc gia này( điều kiện vĩ mô, giáo dục, nghiên cứu phát triển...). Giáo dục tự nó là nhân tố quan trọng trong việc thu hút FDI vào chính ngành dịch vụ giáo dục. Các nhà cung cấp giáo dục quốc tế đã và đang xây dựng nhiều trung tâm ( chi nhánh) ở các nước đang phát triển. Nhiều quốc gia Caribean đang cố gắng thu hút các trường đại học offshore ở bên ngoài. Có trường đại học dược offshore ở Antigua, Belize, Dominica, Grenada...Cầu về những trường học offshore như vậy có xu hướng tăng nhanh hơn cung, ví dụ như để cung cấp đủ sự thiếu hụt về y tá ở Mỹ. Singapore cũng là một ví dụ điển hình về việc thu hút sự đầu tư của các trường kinh doanh từ bên ngoài. 1.3.3.5 Giáo dục và lợi ích từ FDI Nhiều tài liệu chứng minh rằng sự đóng góp của FDI cho phát triển phụ thuộc phần lớn vào điều kiện ở các quốc gia nhận vốn FDI, ví dụ như quan điểm của chính phủ quốc gia đó về chính sách thương mại,hay như chính sách nguồn nhân lực. Các quốc gia sẽ thành công nếu họ sử dụng những chính sách để tối đa hóa tác động của FDI lên công nghệ và giáo dục và ngược lại, điều này được quyết định bởi một hệ thống giáo dục và đào tạo phù hợp. 1.3.4 Giáo dục và xác suất di trú Có nhiều nhân tố gây ảnh hưởng đến xác suất di trú. Ví dụ, sự khác biệt về lương giữa các quốc gia thường là nguyên nhân chính dẫn đến sự di trú. Giáo dục cũng là nhân tố tác động tới sự di trú. Chúng ta sẽ phân biệt di trú cố định và di trú tạm thời, chúng ta sẽ cũng xem xét xem những loại hình giáo dục khác nhau tác động tới di trú. 1.3.4.1 Di trú cố định Những người di trú thường được đào tạo tốt hơn nếu so sánh với mặt bằng trung bình của các quốc gia “sending”, Carrington và Detragiache(1998) thống kê tỷ lệ di trú ở 61 quốc gia đang phát triển vào năm 1990, họ tìm ra rằng Các cá nhân được giáo dục ít hay không có giáo dục thường ít có khả năng tham gia vào mạng lưới di trú toàn cru Những người di trú thường được giáo dục tốt hơn phần còn lại của đất nước họ. Docquier và Marfouk(2004) tìm ra rằng: Trong số dân nhập cư ở Châu Phi có khoảng 31,4% có giáo dục trinh độ đại học vào năm 2004, trong khi tỉ lệ công nhân có gi._.áo dục đại học ở Châu Phi chỉ là 3.6%. kết quả tương tự cho giáo dục đại học ở các quốc gia Đông A và Mỹ Latin( hiện tượng chảy máu chất xám) Tỷ lệ di trú của người lao động có trình độ đại học đặc biệt cao ở Trung Mỹ, vùng Caribean, Đông Nam A và Đông và Tây Phi Hiện tương chảy máu chất xám( sự di trú đi của người lao động có trình độ đại học và trên đại học) tăng từ năm 1990 và 2000 và có giảm ở một số các quốc gia Caribean Hoa Kỳ nhận khoảng 53% lượng lao động di trú có giáo dục đaị học, EU là 16.3% và Canada là 13.9% Điều này chứng tỏ rằng nếu lao động càng được đào tạo cao thì khả năng họ di trú đến các quốc gia khác càng cao. Bởi vì lượng cầu về lao động được đào tạo lành nghề luôn tăng trong thời kỳ toàn cầu hóa. 1.3.4.2 Di trú tam thời Chúng ta cần phải phân biệt những nhà cung cấp dịch vụ tạm thời, như là các nhà phát triển phần mềm IT ở Ân Độ, họ đến Anh để giải quyết vấn đề Y2K hay như là tư vấn cho các quốc gia đang phát triển trong một khoảng thời gian ngắn. Di trú tạm thời để cung cấp dịch vụ thường kéo dài trong khoảng thời gian ít hơn 12-18 tháng( một vài trường hợp kéo dài đến 3 năm). Những visa H-1B của Mỹ cho lao động trong những nghề nghiệp đặc biệt như là chuyên gia máy tính hay người mẫu thời trang từ các quốc gia bên ngoài. Những visa H-1B được công nhận trong khoảng thời gian 3 năm. Vào năm 2000, 136800 sự cấp phép mới được chấp thuận cho lao động, chủ yếu là các nghề liên quan đến máy tính. Và đến năm 2004 con số này là 165000 người vào năm 2004. Nhóm lao động lớn thứ 2 di trú là lao động khu vực điện tử, kĩ sư công nghiệp, kiến trúc sư, kế toán... 1.3.4.3 Các loại hình giáo dục Các loại hình giáo dục và đào tạo là đặc biệt quan trọng cho mục đích của di trú. Ví dụ như các lao dộng ở khu vực y tế như bác sĩ và y tá từ Nam Phi, Philipines, và Tây Ân, giáo viên cũn từ các khu vực trên, công nhân IT từ Ân Độ. Khadria(2002) tìm ra rằng 56% số tốt nghiệp từ các tổ chức khoa học dược ở Ân Độ di trú sang nước khác suốt từ 1956 đến 1980; 25% lượng tốt nghiệp ở trường công nghệ ở Madras di trú. Thomas-Hope(2002) tìm ra rằng 2/3 số y tá ở Jamaica di trú trong suốt 20 năm trở lại đây được thay thế bằng các y tá đến từ Cuba. Gần đây, một lượng đáng kể y tá và bác sĩ từ Cuba đã sang Venezuela. Lowell và Findlay( 2002) báo cáo rằng 10% dân số có giáo dục đại học ở Mexico đã di trú sang nước khác vào năm 1990, và 30% trong số đó là kĩ sư và nhà khoa học. Nam Phi mất khoảng 4600 lao động có trình độ đại hoc và trên đại học mỗi năm; 10000 lao động trong lĩnh vực y tế từ năm 1989 đến 1997. Chi tiết từ Liên hợp Anh tiết lộ rằng Nam Phi đã gửi đến Anh khoảng 2500 y tá vào năm 2001, và trung bình 2000 giáo viên mỗi năm. 1.4 Tác động của toàn câu hóa tới dịch vụ giáo dục Để phân tích tác động của toàn câu hóa tới dịch vụ giáo dục tổng thể, chúng ta sẽ phân biệt tác động đến bên cung và bên câu của giáo dục. 1.4.1 Tác động của thương mại đến giáo dục Trong khi hệ thống giáo dục giúp nền kinh tế có thể điều chỉnh đến những điều kiện mới mang lại bởi toàn câu hóa, thì tác động của thương mại đến giáo dục là rất đa dạng( xem biểu đồ *). Ở góc độ vĩ mô, hoạt động xuất nhập khẩu đã làm thay đổi cấu trúc của nền kinh tế, theo đó buộc các quốc gia phải tập trung vào một số lĩnh vực đào tạo giáo dục nhất định( Wood và Ridao-Cano, 1999). Ở góc độ vi mô, sự phát triển nhanh chóng của hệ thống các chuỗi giá trị toàn câu( GVCs) buộc các quốc gia chỉ tập trung vào một số khâu nhất định của quá trình hình thành sản phẩm. Thí dụ, các nhà nhập khẩu lớn về quần áo vô hình chung buộc các công ty ở các quốc gia đang phát triển duy trì những hoạt động sản xuất đơn giản chỉ cần những công nhân trình độ thấp và rất ít phải đào tạo chuyên sâu. Kaplinsky( 2000) đã nhấn mạnh rằng sự tham gia của các quốc gia vào toàn câu hóa không phải ở chỗ các quốc gia đó “ có mặt” mà ở chỗ các quốc gia đó đưa những loại hàng hóa nào để tham gia mà thôi. Các nhà nhập khẩu ở các quốc gia phát triển có xu hướng gây áp lực buộc các nhà cung ứng ở các quốc gia đang phát triển cắt giảm chi phí trong khi phải nâng cao chất lượng sản phẩm. Như vậy các nhà cung cấp hầu như không thể nâng cao chất lượng sản phẩm của họ nhưng lại buộc phải hạ giá thành sản phẩm. Thương mại cũng tác động đến lượng cung cho giáo dục, hơn nữa khi giáo dục là một dịch vụ thương mại, hoạt động thương mại quốc tế có thể làm thay thế hoặc bổ sung cung giáo dục nội địa của quốc gia. Biểu đồ *: Mô tả tác động của thương mại lên giáo dục 1.4.1.1 Tác động của thương mại lên cầu về giáo dục dưới góc độ vĩ mô Có khá nhiều tài liệu nói về mối quan hệ giữa sự mở cửa thương mại của các quốc gia và nhu câu tăng lên đối với lao động có kĩ năng được đào tạo. Ở rất nhiều các quốc gia đang phát triển và phát triển, vị trí tương đối của lao động có kĩ năng được đào tạo tăng lên so với lực lương lao động chung. Có 3 yếu tố chính gây ra điều này, thứ nhất là việc mở cửa thương mại( quá trình toàn câu hóa), thứ hai là sự tiến bộ của công nghệ và những thay đổi liên kết trong tổ chức. Thứ ba là những nhân tố thuộc tổ chức như sự hiện diện của công đoàn làm chênh lệch tiền lương lao đông trong và ngoài công đoàn. Qúa trình mở cửa thương mại làm tăng lượng câu về lao động có kĩ năng và qua đó làm tăng lương cho họ( sự bù đắp lại cao hơn đối với nguồn vốn con người và giáo dục) so với những lao động không được đào tạo bài bản. Như vậy, khi các lao động được đào tạo dễ dàng tìm được công việc lương cao thì sẽ khuyến khích việc đầu tư vào nguồn vốn con người, khuyến khích đầu tư vào giáo dục. Câu hỏi đặt ra là nó sẽ gia tăng lượng cung cho giáo dục hay không. Những nghiên cứu đầu tiên về tác động của thương mại lên cấu trúc của thị trường lao động xuất hiện vào những năm 1990( ví dụ nghiên cứu của Wood, 1997). Do đó cần xem xét lại các lý thuyết phân tích về tác động của thương mại đến thị trường lao động qua đó tác đông tới sự cung cấp dịch vụ giáo dục và đào tạo. Chuang( 2000) đã đặt ra giả thuyết về sự tồn tại mối quan hệ rất gần giữa thương mại và sự tích lũy vốn con người. Việc mở cửa thương mại mở ra nhiều cơ hội việc làm cho lao động có kĩ năng được đào tạo. Sự phát triển của thương mại xúc tiến việc học hành và khả năng truyền bá tri thức về kĩ thuật công nghệ( Grossman và Helpman, 1991; Chuang, 2000). Mặc dù các quốc gia đang phát triển thường xuất khẩu các mặt hàng có hàm lượng “ kĩ năng lao động” thấp, tuy nhiên thương mại giữa họ với các quốc gia phát triển có thể dẫn tới sự chuyển giao công nghệ từ các quốc gia này tới quốc gia họ. Bởi vì sự chuyển giao công nghệ xúc tiến sự tích lũy nguồn vốn con người( Pissarides 1997). Điều này được chứng minh bởi một thực tế là việc học hỏi từ từ quá trình chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển đang diễn ra nhanh hơn trong thời kỳ thương mại toàn câu. Stokey( 1996) đã chỉ ra thương mại là một nguyên nhân làm tăng lương và tăng cru về lao động có kĩ năng, do đó gia tăng sự tích lũy về nguồn vốn con người( thông qua sự bổ sung về nguồn vốn và lao động có kĩ năng và sự thay thế giữa vốn vật chất( tiền đầu tư) và lao động có kĩ năng). Hanson và Harrison( 1995) cũng đã chỉ ra điều này khi nghiên cứu ở Mexico. Sự tích lũy nguồn vốn con người gia tăng chất lượng lao động qua đó tăng năng suất lao động và cuối cùng là tạo ra lợi thế so sánh cho từng quốc gia trong thương mại quốc tế. Song song với đó là quá trình tác động ngược lại của sự phát triển kinh tế đến sự tích luỹ nguồn vốn con người. Sanchez- Paramo và Schady( 2003) đã phân tích sự tăng lên về lương lao động không bằng nhau trong từng quốc gia và giữa các quốc gia, cụ thể là ở Argentina, Brazil, Chile, Colombia và Mexico. Họ đã chỉ ra nguyên nhân là sự tăng lên về lượng câu đối với lao động có kĩ năng được đào tạo, khi nghiên cứu trong từng khu vực như nhau ở các quốc gia khác nhau. Galhardi( 1999) phân tích rằng sự tăng trưởng nhanh chóng của thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế và quá trình đổi mới công nghệ và chuyển giao công nghệ trong sản xuất đã dẫn tới những công xưởng mới của thế giới. Đó là quá trình đang diễn ra ở các quốc gia công nghiệp muộn ở châu Á và Châu Mỹ Latinh. Ở các quốc gia này, quá trình thay thế sản xuất bằng lao động chân tay bằng lao động máy móc yêu câu sự thay thế những kĩ năng lao động chân tay thông thường băng những kĩ năng rộng hơn và cao cấp hơn, cần được đào tạo bài bản hơn. Sau đó, điều này dẫn tới sự phân bổ những kĩ năng khác nhau và làm tăng lượng câu về lao động được đào tạo có kĩ năng. Galhardi tìm ra nguyên nhân từ quá trình nghiên cứu hoạt động sản xuất xuất khẩu của Hàn Quốc. Sự tăng trưởng kì diệu của Hàn Quốc qua việc tăng nhanh xuất khẩu của họ có thể nói là hệ thống giáo dục mạnh mẽ và sự phát triển thích ứng nhanh chóng của một số ngành nghề đặc biệt như quản lý, giảng viên đại học, kĩ sư, và các ngành nghề khác liên quan. Mặc dù vẫn đang có sự gia tăng trong hoạt động sản xuất hướng xuất khẩu tập trung vào lao động ít kĩ năng do quá trình tự do hoá thương mại toàn câu, chúng ta vẫn thấy được sự sụt giảm của yếu tố “số lượng lao động” trong quá trình sản xuất mà thay vào đó là sự tăng lên của yếu tố “ chất lượng lao động”. Một xu hướng tương tự cũng diễn ra ở Brazil. Yếu tố kĩ năng lao động được cải thiện mạnh mẽ trong khu vực sản xuất đã thoả lấp phần nào tác động tiêu cực do mở cửa tự do thương mại đối với các quốc gia đang phát triển. Wood và Ridao- Cano( 1999) đã kiểm tra sự không cân bằng giữa các lý thuyết về tác động của thương mại lên kĩ năng lao động. Có sự mâu thuẩn về các lý thuyết kinh tế trong vấn đề này. Lý thuyết thương mại cổ điển nói rằng sự gia tăng của hoạt động thương mại sẽ giúp các quốc gia đang phát triển rút ngắn khoảng cách với các quốc gia phát triển và cuối cùng sẽ đuổi kịp. Các lý thuyết khác chỉ ra sự chuyên môn hoá dựa trên sự khác biệt các yếu tố trong thương mại sẽ thay đổi cấu trúc sản xuất ở các quốc gia đang phát triên (với chủ yếu lao động kĩ năng thấp) khác biệt hoàn toàn với cấu trúc nền sản xuất ở các quốc gia phát triển. Wood và Ridao-Cano đã cung cấp một sự giảng giải thay thế dựa vào lý thuyết H-O về thương mại quốc tế. Sự thay đổi bởi thương mại trong vấn đề tiền lương đối với lao động có kĩ năng đã làm tăng đầu tư vào phát triển nguồn vốn con người, qua đó đang làm rộng ra khoảng cách về kĩ năng lao động giữa các quốc gia, đặc biệt là giữa các quốc gia đang phát triển và quốc gia phát triển. Ưng dụng của mô hình chỉ ra rằng thương mại đã làm gia tăng sự không công bằng trong giáo dục vì đối với các quốc gia phát triển thì đó là sự tăng lên của chất lượng giáo dục song song với lượng tiền họ đổ vào hệ thống giáo dục của họ, làm gia tăng chênh lệch kĩ năng so với lao động ở các quốc gia đang phát triển. Điều này hàm ý rằng thương mại quốc tế đã làm tăng thu nhập trên mỗi mức vốn nhưng lại tăng nhanh hơn ở các quốc gia phát triển. 1.4.1.2 Thương mại và lượng cung cho giáo dục dưới góc độ vĩ mô Hoạt động thương mại khuyến khích sự tăng lên của nguồn cung về lao động có kĩ năng nếu các quốc gia tập trung vào những lĩnh vực chuyên sâu trong thương mại quốc tế. Tuy nhiên , thương mại còn có thể gây tác động trực tiếp hơn nữa đến phía cung cho giáo dục. Về cơ bản tác động này theo 2 hướng. Thứ nhất sự gia tăng của thương mại có thề dẫn đến tăng trưởng kinh tế nhanh hơn(các lý thuyết cổ điển xem điều này diễn ra trong ngắn hạn trong khi các lý thuyết hiện đại mong chờ nó có thể diễn ra dài hạn) và qua đó cung cấp nhiều hơn nguồn vốn tài chính cho phía cung giáo dục. Các thuật toán kinh tế chứng minh mối quan hệ giữa sự định hướng khuyến khích xuất khẩu ở các quốc gia và tăng trưởng kinh tế của quốc gia đó là hết sức tốt đẹp( cũng như sự mở cửa cho nhập khẩu và tăng trưởng). Dollar và Kraay( 2000) chỉ ra mối quan hệ tích cực giữa sự mở cửa kinh tế và sự tăng trưởng ở các quốc gia đang phát triển. Kết quả phân tích của họ tất nhiên có tính đến vài trò của chính sách vĩ mô của quốc gia đó(đó là việc họ quản lý chi tiêu chính phủ, lam phát, giáo dục và luật pháp) và phần trăm tổng kim ngạch xuất nhập khẩu so GDP. Tất nhiên những nghiên cứu như thế chưa thể khẳng đinh hoàn toàn nguyên nhân chính xác hay tầm quan trọng của tưng chính sách thương mại, hay nó chưa nói rõ ra nguyên nhân thực sự của việc xuất khẩu( hay nhập khẩu). Tóm lại, chúng ta có thể kết luận sự mở cửa thương mại là có lợi cho phát triển kinh tế với điều kiện là có chính sách vĩ mô và tổ chức thích hợp. Hướng thứ hai là thông qua nguồn thu tài chính từ thuế thương mại. Có khá nhiều quốc gia trên thế giới phụ thuộc vào thuế thương mại( như các loại thuế nhập khẩu) cho nguồn thu ngân sách. Tuy nhiên gần đây khi mà thương mại và tự do hoá thương mại đang tăng nhanh thì các quốc gia có xu hướng gỡ bỏ bớt những rào cản thương mại như thuế, qua đó nó có thể làm giảm khoản vốn có thể để đầu tư vào giáo dục. 1.4.1.3 Thương mại và giáo dục dưới góc độ vi mô Tác động của thương mại lên giáo dục dưới góc độ vi mô là khá giống khi xét trên góc độ vĩ mô. Đầu tiên, các công ty xuất khẩu hay khu vực xuất khẩu luôn có chế độ đãi ngộ tốt nhất đối với lao động được đào tạo bài bản( xem bảng 1) Bảng : Đãi ngộ trong các công ty xuất khẩu, theo kĩ năng. Người nghiên cứu Quốc gia Đãi ngộ trong các công ty xuất khẩu Aw và Batra(1999) Đài Loan 30% đối với lao động có kĩ năng 14% đối với lao động ít kĩ năng hơn Isgut(2000) Comlombia 12.2% trung bình, nhưng cao hơn đối với công nhân “cổ trắng”. Milner và Tandrayen(2003) 5 quốc gia châu Phi 8.5% đến 17.6% đối với tất cả các lao động, nhưng cao hơn đối với công nhân “cổ trắng”. Thứ hai, thương mai quốc tế( nhập khẩu và xuất khẩu) buộc các công ty trở nên hiệu quả hơn, cạnh tranh hơn, qua đó họ phải tuyển nhiều lao động có kĩ năng được đào tạo hơn và cung cấp nhiều khoá đào tạo hơn. Moran(1998) và Chuang( 1998) chỉ ra rằng tham gia hoàn toàn vào cạnh tranh toàn câu là hết sức quan trọng cho việc gây sức ép “nâng cấp” kĩ năng cho lao động. Những công ty là một phần của hệ thống cạnh trạnh toàn câu, khi mà họ phải luôn luôn cạnh tranh, do đó họ phải đầu tư vào giáo dục và đào tạo cũng như tuyển thêm nhiều lao động có kĩ năng, cũng như khi phải áp dụng những công nghệ mới nhất lại yêu câu đào tạo chuyên sâu hơn. Do đó, việc các quốc gia không ngừng tham gia vào hoạt động thương mại toàn câu yêu cau lao động ở các quốc gia đó phải không ngừng được đào tạo tốt hơn. Việc cạnh tranh bây giờ chuyển từ cạnh tranh thương mại sang cạnh tranh trong hệ thống giáo dục cũng như dịch vụ giáo dục của các quốc gia. Tác động của chuỗi giá trị toàn câu lên nhu câù “đôi mới” đối với các nhà cung cấp ở các quốc gia đang phát triển cũng rất đáng quan tâm. Đưa ra một yêu câu cần phân tích năng suất sản xuất ở các nhà cung cấp này sẽ tăng bằng cách nào. Phân tích chuỗi giá trị xem xét 4 loại đổi mới( Kaplinsky và Morris, 2001). Thứ nhất, nâng cấp chu trình liên quan đến việc tăng tính hiệu quả của quá trình sản xuất trong mỗi giai đoạn và giữa các giai đoạn trong một chuỗi. Nâng cấp sản phẩm dẫn tới sự cải thiện trong chất lượng sản phẩm. Nâng cấp “chức năng của từng giai đoạn” thay đổi một loạt các hoạt động và những chức năng riêng biệt gắn với từng giai đoạn ( thường tương ứng với từng công ty) trong chuỗi( ví dụ, marketing và thiết kế, cải thiện khả năng giao dịch kinh doanh( khâu bán lẻ), hay sự phân phối tối ưu các hoạt động). Cuối cùng, nâng cấp chuỗi liên quan đến việc phát triển lên một chuỗi mới. Như đã phân tích ở trên, quá trình đổi mới nâng cấp như vậy đòi hỏi rất lớn từ nhân tố con người hay lực lượng lao động. Do đó đòi hỏi hệ thống giáo dục linh động để thích ứng nhanh chóng với quá trình đổi mới và nâng cấp của các chuỗi. Một ví dụ cổ điển về việc quá trình nâng cấp của các chuỗi giá trị toàn câu góp phần làm tăng chất lượng nguồn nhân lực ở các nhà cung cấp trong các chuỗi, là chuỗi dệt và quần áo ở một số nước châu Á( Gereffi, 1999). Các quốc gia Đông Á nâng cấp qúa trình sản xuất và chức năng của họ trong chuỗi ( từ lắp ráp gia công đơn giản đến hoạt động Marketing và thiết kế), họ nhận đơn đặt hàng từ các quốc gia phát triển và sau đó chuyển khâu sản xuất sang cho các nước có lao động giá rẻ để gia công( Trung Quốc , Indonesian, và cả Viêtnam). Do đó , các quốc gia Đông Á bây giờ tập trung vào khâu thiết kế và một số khâu cuối của chuỗi giá trị. Các khâu đầu tiên thường tập trung ở các quốc gia phát triển và tất nhiên họ chẳng có lý do gì để “nâng cấp” trừ khi chuỗi này nâng cấp thành một chuỗi mới. 1.4.2 Tác động của FDI lên giáo dục Biểu đồ * minh hoạ tác động của FDI đến giáo dục theo một cái nhìn tổng thể. FDI có thể tác động đến cả phía cung và phía câu đối với giáo dục và đào tạo, và tác động này thường là khác biệt so với tác động của đầu tư nội bộ quốc gia đó. Chúng ta cũng sẽ nhìn nhận vấn đề từ góc độ vĩ mô và cả góc độ vi mô. Biểu đồ *: Tác động của FDI lên giáo dục 1.4.2.1 Tác động vĩ mô lên lượng câu cho giáo dục Các công ty đa quốc gia có thể tác động đến lượng câu về kĩ năng thông qua các cách khác nhau. Đầu tiên, các công ty này tác động tới qui mô của các lực lượng lao động. Điều này tuỳ thuộc vào họ sẽ thay thế hay bổ sung cho việc tuyển dụng lao động ở khu vực họ đầu tư. Qủa thực, sẽ là rất khó để thống kê xem qui mô tuyển lao động của các công ty đa quốc gia vì phạm vi hoạt động của các công ty này quá rộng và còn phù thuộc vào loại hình đầu tư, quốc gia nào nhận vốn...và sự can thiệp của chính sách chính phủ( Lee và Vivarelli, 2004). Thứ hai, các công ty đa quốc gia luôn tuyển lao động có kĩ năng được đào tạo nhiều hơn bất cứ công ty địa phương nào. Kết hợp hai tác động, chúng ta nhận thấy sự gia tăng của hoạt động đầu tư của các công ty đa quốc gia đặt ra yêu câu về chất lượng nguồn nhân lực cho các quốc gia nhận vốn đầu tư. Cuối cùng, các công ty đa quốc gia luôn có xu hướng xúc tiến SBTC( các loại kĩ năng liên quan đến việc sử dụng công nghệ mới). Trong hơn 30 năm gần đây SBTC ở trong các công ty hay các khu vực mở rộng mạnh mẽ trong cả nước phát triển và đang phát triển( Berman et al., 1998, và Berman và Machin, 2000). Các công ty đa quốc gia cũng chuyển giáo SBTC cho các nước đang phát triển, lao động có kĩ năng ở các nước này trở nên hiệu quả hơn. Khi các công ty đa quốc gia tăng những cơ hội cho SBTC, họ tăng lượng cru về lao động có kĩ năng, trong khi giữ các yếu tố khác không đổi. 1.4.2.2 Tác động vĩ mô của FDI lên sự cung cấp giáo dục Tác động vĩ mô của FDI lên giáo dục là khá phức tạp và thông qua sự tăng trong tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động. Chúng ta dễ dàng nhận ra FDI dẫn đến sự phát triển nhanh hơn đối với các nước đang phát triển, với điều kiện chính sách của chính phủ là phù hợp( giáo dục, cơ sở hạ tầng, ...). Qua đó, khi ngân sách nhà nước và vốn khu vực tư nhân tăng lên thì khoản tiền đầu tư cho giáo dục cũng tăng lên, đầu tư phát triển nguồn nhân lực luôn là quốc sách của các quốc gia. Như đã phân tích, các mô hình phát triên hiện đại và các nghiên cứu về kinh doanh quốc tế đã dự đoán rằng khi các quốc gia tham gia vào thương mại tự do và một hệ thống đầu tư trong một môi trường “chuyển giao công nghệ không hoàn hảo”, họ sẽ có xu hướng chuyên môn hoá các hoạt động dựa vào những điều kiện ban đầu như khả năng kĩ năng của lao động. Các quốc gia đang phát triển thương tập trung vào sản xuất sản phẩm cần kĩ năng thấp, hàm lượng trí tuệ thấp, trong khi các quốc gia phát triển có xu hướng tập trung vào sản xuất những sản phẩm cần nhiều kĩ năng lao động, hàm lượng trí tuệ cao. Không phải tất cả các quốc gia sử dụng những nguồn lực tài chính và tự nhiên một cách hợp lý. Ví dụ, Mauritius và Botswana là 2 quốc gia rất khác với Nigeria qua việc thu hút và sử dụng FDI. Nigeria thu hút rất nhiều dự án FDI vào ngành dầu mỏ nhưng sự “có mặt” của những dự án FDI này không đem lại sự khuyến khich trong việc xây dựng nguồn vốn con người, cụ thể quốc gia này là khuyến khích học sinh học hết bậc học phổ thông; Tác động gián tiếp lên hệ thống giáo dục thông qua thu ngân sách cũng không hiệu quả do chính sách và chi ngân sách không phù hợp. Mauritius, đã đầu tư khá nhiều vào viẹc phát triển đội ngũ lao động, do đó, quốc gia này đã phát triển nhanh chóng chỉ dựa trên nên tảng ban đầu là các khoản đầu tư vào hàng may mặc và hàng dệt trong chương trình EPZ( UNCTAD, 1999; Subramanian và Roy, 2003). Như là kết qủa tất yếu, đầu tiên là sự gia tăng học sinh học hết phổ thông để có thế được nhận vào làm ở các xưởng dệt may và gia công quần áo. Bây giờ đất nước nhỏ bé này đã bắt đầu chuyển đến những hoạt động cần kĩ năng cao hơn như cung cấp dịch vụ tài chính...Tương tự, Botswana đã sử dụng nguồn thu từ các dự án FDI khai thác kim cương để đầu tư cho giáo dục. 1.4.2.3Tác động vi mô lên câu về giáo dục Các công ty đa quốc gia luôn có xu hướng sử dụng những công nghệ mới nhất vào qúa trình sản xuất qua đó rất cần lao động trình độ cao. Griliches(1969) đã lần đầu tiên phân tích mối quan hệ giữa trình độ lao động và công nghệ. Rất khó đề phân biệt đâu là nguyên nhân đâu là kết quả trong mối quan hệ này. Bartel và Lichtenberg(1987) cho rằng trình độ lao động là nguyên nhân tạo nên công nghệ mới. Ngược lại, để dùng được những công nghệ tiên tiến cần những lao động trình độ cao. Teece( 1977) đã điều tra tính tự nhiên và chi phí của sự lan toả công nghệ từ công ty của quốc gia này đến công ty của quốc gia khác, kể cả sự lan toả từ công ty mẹ đến các công ty con. Ông chỉ ra rằng công nghệ không đơn giản chỉ là một bản thiết kế với chi phí bằng không. Thay vào đó, nó là “ một hệ thống thông tin không mã hoá... mang theo bởi các giám sát viên, kĩ sư, và người điều khiển...”. Theo quan điểm này, công nghệ mới cần lao động có trình độ cao, có kĩ năng được đào tạo. Tan(2000) đã sử dụng dữ liệu từ hệ thống sản xuất của Malaysia và chỉ ra rằng từ năm 1977 đến năm 1995 có sự tăng lên nhanh chóng nhu câu về giảng viên, nhà quản lý, kĩ thuật viên. Tan cũng tìm ra rằng các công ty đa quốc gia có xu hướng sử dụng công nghệ thông tin nhiều hơn là các công ty địa phương. Điều này ngụ ý rằng các công ty đa quốc gia đưa vào sử dụng những công nghệ mới liên quan đến việc sư dụng lao động kĩ năng mới, điều này rõ ràng có lợi cho lao động có kĩ năng được đào tạo. 1.4.2.4 Nguồn cung vi mô của giáo dục và đào tạo- “các khoản đóng góp tự nguyện” Các công ty đa quốc gia tác động đên lượng cung về nguồn nhân lực thông qua sự đóng góp tự nguyện vào hệ thông giáo dục phổ thông, các chương trình đào tạo chính thức và không chính thức. Chương trình đào tạo không chính thức mục đích chủ yếu là để huấn luyện trình độ, đào tạo kĩ năng liên quan đến công việc, do đó các công ty đa quốc gia có xu hướng tăng lượng chương trình đào tạo này khi họ cần lao động có kĩ năng trình độ cao. Các công ty tư nhân cũng cung cấp các loại hình đào tạo “ tự nguyện” tương tự nhưng rất ít ỏi. Hội đồng kinh doanh nhân dân(2004)( tác giả tạm dịch) cung cấp 3 ví dụ về sự tham gia “tự nguyện” của khu vực tư vào việc cung cấp giáo dục: Alcan tổ chức khoảng 180 trường học ở Canada, US, Brazil và Đông Nam Á, nơi mà khoảng 30000 sinh viên được dạy về bảo vệ môi trường và kĩ năng kinh doanh; Công ty thuốc lá Anh-Mỹ( BAT) cung cấp mỗi năm khoảng 10 suất học bổng học đại học cho sinh viên nghèo có hoàn cảnh khó khăn; Công ty Diageo Breweries( Đông Phi) ở Kenya cấp học bổng hàng năm khoảng cho 30 sinh viên đi học đại học. Có nhiều lý do để các công ty cấp học bổng hoặc đầu tư không hoàn lại vào lĩnh vực giáo dục, nhưng đều xuất phát từ lợi ích của họ. Ví dụ, trong trường hợp của Diageo, họ khó có thể tuyển những sinh viên kĩ thuật mới tốt nghiệp đạt đủ yêu câu chất lượng ở Kenya. Các công ty khai thác nguồn lực tự nhiên cũng tích cực cung cấp đầu tư tự nguyện. Sau thất bại ở Nigeria, Shell đã thay đổi chiến lược của họ vào năm 2000 bằng việc cung cấp khoảng 60 triệu USD hàng năm ( tương đương 0.2 % GDP) đầu tư không hoàn lại cho Nigeria. Với khoảng 1.2 triệu USD dành cho đào tạo nghề, 2.5 triệu USD là các khoản học bổng học phổ thông và đại học. Giai đoạn 1998-2000 công ty BP-Amoco chi tiêu cho các khoản đầu tư vào Xã Hội tăng từ 64.9 triệu USD lên 81.6 triệu USD, tương đương 0.6% tổng doanh thu bán hàng của họ; ¼ tổng số này được dùng cho giáo dục, nhưng phần lớn lại dành cho 2 quốc gia phát triển là Mỹ và Anh, trong khi một phần nhỏ giành cho các quốc gia đang phát triển. Năm 2000, công ty Exxonmobil đầu tư khoảng 92 triệu USD vào các mục đích xã hội và giáo dục, chiếm 0.3 tổng doanh thu của họ, với 19 triệu USD dành cho các quốc gia ngoài nước Mỹ. Công ty Rio Tinto cũng đầu tư khoảng 49.5 triệu USD, 77% trong số đó là dành cho việc đầu tư vào hệ thống giáo dục phổ thông. 1.4.2.5 Nguồn cung vi mô- Đào tạo nghề Sự tham gia của các công ty đa quốc gia vào đào tạo nghề là cách các công ty này tác động đến lương cung cấp lao đông có trình độ chuyên môn. Điều này rõ ràng là có tầm ảnh hưởng quan trọng hơn đối với các những đóng góp tự nguyện của họ. Nghiên cứu một lọat các công ty từ 500 lên đến 56000 ở Comlombia, Mexico, Indonesia, Malaysia và Đài Loan, Tan và Batra( 1995) đã chỉ ra rằng các công ty càng lớn thì càng cung cấp nhiều chương trình đào tạo cho lao động, càng tuyển nhiều lao động có trình độ chuyên môn( ngoại trừ Indonesia), đầu tư nhiều hơn vào khâu nghiên cứu và phát triển( ngoại trừ Indonesia), hoạt động hướng xuất khẩu (trừ Malaysia) dùng sự kiểm soát chất lượng. Tất cả những họat động này đều liên quan đến các công ty đa quốc gia( Dunning, 1993). Thêm vào đó, các công ty này có liên hệ chặt chẽ với các chương trình đào tạo lao động ở Malaysia hay Đài Loan. Trong khi các công ty nước ngoài có xu hướng đào tạo lao đông nhiều hơn các công ty địa phương đó, thì giữa các công ty đa quốc gia này cũng có sự khác biệt do sự không giông nhau về lĩnh vực đầu tư. Đầu tư vào nguồn lực tự nhiên thường yêu câu một số lao động trình độ cao( có thể là các chuyên gia) để sự dụng những phương pháp kĩ thuật phức tạp. Do đó nó có thể cung cấp chương trình đào tạo đặc biệt cho một số lao động( chủ yếu là đào tạo ở nước ngoài). Xu hướng luôn muốn đặt tính hiệu quả của quá trình sản xuất lên hàng đầu khiến các công ty đa quốc gia cung cấp các chương trình đào tạo rất giới hạn bởi vì họ tìm thấy ở các quốc gia đang phát triển phần đông là lực lượng lao động trình độ thấp đi đôi với lương thấp. Cuối cùng, việc cung cấp các chương trình đào tạo giúp cho các công ty này dễ dàng đáp ứng được “sở thích” của họ trong việc đổi mới công nghệ và bổ sung những công nghệ mới nhất. Cả hai hoạt động này đều phải yêu câu đội ngũ lao động trình độ cao, kĩ năng của họ hầu như phải qua các chương trình đào tạo đặc biệt. 1.4.2.6 Nguồn cung vi mô- đào tạo đại học Một vài công ty đa quốc gia xây dựng các trung tâm giáo dục và đào tạo, một phần mở cửa cho cả học viên đến từ nước ngoài. Các công ty này thương hi vọng phát triển những dự án FDI sử dụng trình độ lao động và tri thức công nghệ tương ứng ở quốc gia nhận vốn đầu tư, cho nên các dự án FDI bây giờ phần lớn đổ vào các quốc gia phát triển. Các trường kinh doanh( ví dụ như , Havard, MIT, London Business School, Trường kinh tế Stockholm) đã đang trở thành những công ty quốc tế bằng việc đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển. Chính phủ các quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển có xu hướng khuyến khích các “công ty”này đầu tư vào lĩnh vực giáo dục ở quốc gia họ. Qúa trình tăng nhanh sự quốc tế hóa trong kinh doanh giáo dục dịch vụ giúp mở rộng chất lượng giáo dục đã được công nhận lên tầm quốc tế. Các nhà cung cấp dịch vụ giáo dục quốc tế đang tăng cường việc xây dựng các trung tâm giáo dục và đào tạo ở các nước đang phát triển. Chính phủ các quốc gia này cũng cho phép các công ty giáo dục này ( thông qua hiệp định tự do thương mại GATS) hay là thu hút sự đầu tư của họ ( trong trường hợp của Singapore) để đầu tư vào lĩnh vực giáo dục vốn là thế mạnh của các công ty này. Đó là xu thế tất yếu khi giáo dục được công nhận là một trong những loại hình dịch vụ thương mại, bằng chứng là ở rất nhiều quốc gia, đang diễn ra sự rầm rộ đầu tư của khu vực tư nhân vào giáo dục đào tạo( Như ở Nam Phi, các quốc gia vùng samạc Saharan). Nếu các công ty nước ngoài đầu tư ở các nước đang phát triển thì họ sẽ dễ dàng tìm được thị trường, ngược lại trong trường hợp của Caribbean, họ xây dựng các trường “Offshore” cung cấp dịch vụ giáo dục cho sinh viên ở các nước phát triển( sinh viên từ Mỹ học trong một năm hoặc hơn) và một phần rất nhỏ dành cho sinh viên địa phương. Do đó, các trường quốc tế không thể thay thế cho sự cung cấp giáo dục đại học của khu vực công hay khu vực tư nhân. 1.4.3 Tác động của hoạt động di trú đến giáo dục Hoạt động di trú tác động đến cả lượng cung và lượng cầu cho hoạt động giáo dục.Biểu đồ ** chỉ ra những hướng chính chúng ta cần phải tìm hiểu về tác động của di trú đến các quốc gia “sending”( quốc gia có người di trú đi): tác động của di trú đến khu vực giáo dục, cả tác động trực tiếp và tác động thông qua ảnh hưởng vĩ mô, khi xem xét nền kinh tế tổng thể, xem xét cả tác động trực tiếp và qua những tác động khác. Biểu đồ **: Tác động của di trú lên giáo dục. 1.4.3.1 Di trú và sự mất mát trong công suất giảng dạy trong khu vực giáo dục Những tài liệu về di cư vào thập niên 60 (e.g. Grubel and Scott, 1966) đã nhấn mạnh đến tác động xấu của di cư tới các quốc gia này. Di trú sẽ làm giảm hiệu quả xã hội của những khoản đầu tư chính phủ vào giáo dục. Đặc biệt sự di trú đối với giáo viên được nhấn mạnh rằng có tác động tiêu cực tới dịch vụ giáo dục (Sives, Morgan and Appleton, 2004). Tài liệu đã chỉ ra rằng cần phải xem xét tác động của di trú đến năng suất lao động của bản thân quốc gia “sending” theo từng loại quốc gia: các quốc gia nhỏ sẽ gặp nhiều vấn đề về năng suất khi “giáo viên di trú” hơn các quốc gia lớn. Đơn giản bởi vì các quốc gia lớn hơn có thể ứng phó dễ dàng với hoạt động di trú của giáo viên ở nứơc họ. Hay ở các quốc gia nhỏ, việc tìm kiêm để thay thế lao động đã di trú đi là điều khó khăn hơn so với các nước lớn 1.4.3.2 Tác động vĩ mô của di trú đến giáo dục Quá trình di trú có nhiều tác động vĩ mô, một vài tác động có thể có lợi cho hệ thống giáo dục ở các quốc gia “ sending” Ví dụ,._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25723.doc