Tội lạm dụng tín nhiệm nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 140 Bộ luật hình sự 1999

LỜI NÓI ĐẦU Sau hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước mà thực chất đó là cuộc cải cách sâu sắc bắt đầu bằng cải cách kinh tế đã làm thay đổi theo hướng tích cực mọi mặt của đời sống xã hội. Sự chuyển đổi kinh tế từ bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà Nước theo định hướng XHCN đã hình thành nhiều thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau. Bên cạnh những thành tựu rất đáng tự hào đã đạt được vẫn còn tồn tại những biểu hiện tiêu cực do mặt tr

doc64 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2530 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Tội lạm dụng tín nhiệm nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 140 Bộ luật hình sự 1999, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ái của cơ chế thị trường mang lại mà nổi cộm lên là vấn đề tình hình tội phạm diễn ra ngày càng phức tạp, nhiều loại tội phạm gia tăng, tính chất, mức độ ngày càng nguy hiểm hơn.Và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là một trong những tội phạm xảy ra khá phổ biến trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay. Tội phạm xảy ra đã gây nhiều biến động trong xã hội, làm thiệt hại đến tài sản Nhà Nước, tổ chức cũng như tài sản của công dân, cản trở sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên việc xét xử loại tội phạm này trong thực tiễn còn rất nhiều sai sót, vấn đề sai lầm trong việc xác định tội danh và hình phạt, vấn đề "hình sự hóa" các quan hệ dân sự, quan hệ kinh tế và "phi hình sự hóa" trong đấu tranh chống tội phạm kinh tế trong mấy năm gần đây tuy đã giảm đi rõ rệt nhưng vẫn chưa thực sự chấm dứt và vẫn còn thu hút sự quan tâm của nhiều cấp, nhiều ngành và dư luận xã hội thông qua những buổi tọa đàm. Những vấn đề trên còn tồn tại một phần là do chưa nhận thức đúng đắn quy định của luật pháp về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản để phân biệt giữa tội phạm này với tội phạm khác dẫn đến việc các cơ quan áp dụng pháp luật còn tỏ ra lúng túng trong việc xác định tội danh, hình phạt làm ảnh hưởng đến chất lượng xét xử, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm. Vướng mắc này đặt ra cho các nhà nghiên cứu luật hình sự nhiệm vụ là phải làm rõ về mặt lý luận cũng như bản chất và ranh giới của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản làm cơ sở cho nhận thức thống nhất về vấn đề này trong thực tiễn. Với ý nghĩa phục vụ cho công tác nghiên cứu, với động lực tìm hiểu pháp luật để góp một phần lý luận cho việc nhận thức đúng đắn, thống nhất về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản giúp ích cho công tác đấu tranh phòng và chống tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong tình hình mới, tôi chọn "Tội lạm dụng tín nhiệm nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 140 Bộ luật hình sự 1999" làm đề tài luận văn tốt nghiệp Đại học Luật của mình. Nội dung của luận văn là nghiên cứu một cách hệ thống tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam và một số vấn đề thực tiễn áp dụng, qua đó đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện luật. Để hoàn thành luận văn, chúng tôi đã sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, dựa trên các văn kiện Đại hội Đảng, các văn bản của Nhà nước. Đồng thời luận văn cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chuyên ngành như: hệ thống hóa, so sánh, thống kê số liệu, phân tích thuần túy quy phạm pháp luật. Ngoài lời nói đầu và phần kết luận, luận văn được trình bày với cơ cấu như sau: Chương 1: Lịch sử lập pháp hình sự của Nhà nước ta đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Chương 2: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHSVN năm 1999. Chương 3: Một số vấn đề về thực tiễn xét xử tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. CHƯƠNG 1 LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ CỦA NHÀ NƯỚC TA ĐỐI VỚI TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 1.1 Khái niệm chung về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, với xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa khiến các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại diễn ra một cách thường xuyên, nhiều chiều. Việc nhận diện đúng ranh giới giữa giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại với hành vi phạm tội hình sự, từ đó có biện pháp điều chỉnh bằng pháp luật một các hữu hiệu. Điều này có một ý nghĩa to lớn, nhằm làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại, loại bỏ tình trạng được gọi là “hình sự hóa” các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại hay “dân sự hóa” các hành vi phạm tội, cũng như sự nhầm lẫn giữa một số tội phạm có cấu thành gần gũi. Muốn vậy chúng ta cần phải tìm hiểu, nghiên cứu kỹ khái niệm về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trước hết chúng ta cần phải tìm hiểu rõ khái niệm về tội phạm. Tội phạm là một khái niệm phổ biến được rất nhiều ngành khoa học đề cập đến, trong đó khoa học luật hình sự đặc biệt chú trọng nghiên cứu. Điều 8 Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc Hội khóa 10 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2000 (sau đây gọi tắt là BLHS): “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm các lĩnh vực khác của đời sống xã hội”(10) Bộ luật hình sự của nước CHXHCNVN, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2000. Khái niệm tội phạm được đề cập tại Điều 8 BLHS đã thể hiện tập trung nhất quan điểm của Nhà Nước ta về tội phạm: đó là hành vi (của một hoặc một nhóm người) nguy hiểm cho xã hội, đã vi phạm các quy định của BLHS, vi phạm các chuẩn mực đạo đức, phá vỡ trật tự bình thường của hoạt động trong xã hội, gây hậu quả xấu cho lợi ích xã hội và cần phải bị trừng trị. Khái niệm tội phạm trên đây đã khái quát được đầy đủ 4 yếu tố của tội phạm: khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xét về cấu trúc cũng có đủ 4 yếu tố nêu trên tạo thành. Trên cơ sở quy định của Điều 140 BLHS có thể định nghĩa tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản một cách chung nhất như sau: hành vi phạm tội của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ tài sản đã được giao trên cơ sở hợp đồng đã được ký kết giữa chủ tài sản và người có hành vi chiếm đoạt Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là một trong các tội đặc xâm phạm sở hữu. Ở tội này người phạm tội đã không dùng bất cứ thủ đoạn nào để lấy tài sản đang từ trong tay của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm. Chỉ sau khi nhận được tài sản ngay thẳng từ chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm thông qua hợp đồng dân sự, kinh tế người phạm tội mới có hành vi chiếm đoạt. Hành vi chiếm đoạt ở đây là hành vi không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết, bao gồm các hành vi: vay, mượn, nhận tài sản bằng các hình thức hợp đồng rồi chiếm đoạt tài sản đó hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không trả được nợ. Điều 140 BLHS 1999 đã quy định các dấu hiệu pháp lý trong cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cụ thể hơn, chính xác hơn, tránh được các cách hiểu khác nhau hoặc sự tùy tiện trong việc áp dụng pháp luật. Sự quy định này là kết quả của quá trình khảo sát và tổng kết thực tiễn xét xử của những nhà làm luật, đánh dấu một bước phát triển mới của công tác xây dựng pháp luật của Nhà Nước ta: "Việc nhà làm luật quy định được các dấu hiệu định tội trong điều luật là xuất phát từ thực tiễn xét xử loại tội phạm này trong hơn 10 năm thi hành bộ luật hình sự năm 1985, đặc biệt vào những năm cuối của thập kỷ 90(1997-1999) tình trạng các cơ quan pháp luật ở nhiều địa phương đã “Hình sự hóa” các quan hệ dân sự, kinh tế làm cho nhiều người bị kết án oan về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà lẽ ra họ chỉ là bị đơn trong các vụ án dân sự. Trước một thực trạng như vậy, đòi hỏi các nhà lập pháp phải đưa vào trong cấu thành những dấu hiệu đặc trưng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”(19) Đinh Văn Quế (2002), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, phần các tội phạm, tập II, Bình luận chuyên sâu, Nxb TPHCM. Mỗi một loại tội phạm đều có lịch sử hình thành và phát triển, giai đoạn sau là sự kế thừa và phát triển của giai đoạn trước và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng trải qua các giai đoạn hình thành và phát triển như vậy. 1.2. Một số nét về lịch sử lập pháp hình sự của Nhà Nước ta đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trong bất cứ một chế độ xã hội có giai cấp nào, Nhà Nước cũng đều xác lập, bảo vệ, củng cố và thúc đẩy sự phát triển của những quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị bằng sự hỗ trợ của các quy phạm pháp luật, trong đó có những quy phạm pháp luật hình sự. Một trong những nhóm quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ phải kể đến nhóm quan hệ sở hữu. Sở hữu, theo quan điểm của CN MLN là tổng thể các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình sản xuất, phân phối của cải vật chất giữa con người với nhau trong xã hội. Thực chất của sở hữu là sự chiếm hữu về của cải vật chất trong xã hội, sự chiếm hữu đó có thể tồn tại dưới những hình thức và thay đổi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sở hữu chính là mối quan hệ giữa con người với con người đối với đối tượng của quyền sở hữu đó chính là tài sản.Việc xâm phạm đến quan hệ sở hữu hay nói cách khác là xâm phạm đến sở hữu của Nhà Nước, của tổ chức hoặc công dân, ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn cơ sở vật chất của xã hội, ảnh hưởng tới chính sách phát triển kinh tế, xã hội của Nhà Nước ta, gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Trong luật hình sự Việt Nam tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định từ rất sớm, và ngày một được hoàn thiện. Chúng ta có thể khái quát các gian đoạn phát triển của nó như sau: 1.2.1 Giai đoạn 1945-1954 Cách mạng tháng 8 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Do vừa trải qua cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp hao tốn cả sức người, sức của, vì vậy đây chính là thời kỳ mà Nhà nước ta đang trong hoàn cảnh đầy khó khăn thử thách, thù trong, giặc ngoài, các vấn đề xã hội như nạn đói, nạn dốt, giặc ngoại xâm trở thành những vấn đề nóng bỏng, nhu cầu xây dựng lại nền tảng cơ sở vật chất, kinh tế cho xã hội trở nên cấp thiết. Một trong những biện pháp là phải có những quy định để bảo vệ tài sản của Nhà Nước làm cơ sở nền tảng để xây dựng và củng cố chính quyền. Sau khi Hiến pháp 1946 được thông qua, ghi nhận "quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được đảm bảo"(4) Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1992 và Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ xung một số điều của Hiến pháp 1992) (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. .Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để bảo vệ sở hữu, đặc biệt sở hữu xã hội chủ nghĩa như Sắc lệnh số 26/SL( 25/02/1946) trừng trị các tội phá hủy công sản, Sắc lệnh số 233/SL (17/11/1946) trừng trị các tội phù lạm, biển thủ công quỹ…đây là những văn bản đầu tiên đặt nền móng cho việc hoàn thiện các quy định về tội xâm phạm sở hữu sau này. Tuy nhiên những sắc lệnh này vẫn còn nhiều những hạn chế. Trước hết nó mới là những quy định sơ lược, chưa khái quát hết được những hành vi xâm hại đến quan hệ sở hữu mà mới chỉ tập trung vào một số hành vi: trộm cắp, phá hoại hoặc gắn với các đối tượng của các hành vi xâm phạm là tài sản xã hội chủ nghĩa. Cho đến Thông tư 442/TTg (19/11/1955) của thủ tướng chính phủ về trừng trị một số tội phạm đã nhận định: “ Vì về mặt bảo vệ tài sản quốc gia, tính mệnh và tài sản của nhân dân, luật cũ có nhiều khoản không thích hợp nên chính phủ lại ban bố một số sắc lệnh trừng trị tội tham ô, tội tống tiền, tội bắt cóc, ám sát, tội đánh bạc như là Sắc lệnh 27/SL ngày 28/02/1946…". Tuy nhiên các quy định về tội lạm dụng tín nhiệm trong giai đoạn này chưa được quy định cụ thể, chủ yếu xét xử theo nguyên tắc và án lệ, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định với tên gọi “ Bội tín”. “… 1. Lừa gạt, bội tín: phạt tù từ ba tháng đến năm năm."(15) TANDTC (1975), Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập I, Hà Nội Có thể nói đây chính là những quy định đầu tiên của nhà nước ta về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản( Bội tín). Trong quy định này các nhà làm luật xác định mức trách nhiệm của tội lừa gạt, bội tín là như nhau. Quy định này còn mang tính hình thức, việc xác định hành vi cụ thể của từng tội phạm có chính xác không phụ thuộc nhiều vào các cơ quan xét xử. Tuy vậy việc ban hành văn bản này là cần thiết và kịp thời trong hoàn cảnh đất nước ta lúc bấy giờ. 1.2.2 Giai đoạn từ 1954-1975 Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, bên cạnh những thuận lợi đạt được, Nhà Nước ta lại đứng trước hàng loạt các vấn đề cần phải giải quyết để khôi phục lại nền hòa bình. Ngày 15/06/1956 Chủ tịch nước ký lệnh công bố Sắc lệnh số 267/SL nhằm trừng trị những âm mưu, hành động phá hoại hoặc làm thiệt hại đến tài sản của Nhà Nước, của hợp tác xã và của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch xây dựng kinh tế, văn hóa. Điều 7 Sắc lệnh 267 quy định: “Kẻ nào vì tham lam, tư lợi mà phạm tội trộm cắp, lãng phí, làm hỏng, hủy hoại, cướp bóc tài sản của nhà nước, của nhân dân thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.”(14) ) S đd. Sắc lệnh số 267 đã có sự phân biệt tài sản của nhà nước và tài sản của công dân, giúp việc xử lý tội phạm được chính xác và hiệu quả hơn. Ngày 24/06/1957 Bộ tư pháp cũng đã ra Thông tư 72-VVH-HS hướng dẫn thi hành sắc lệnh 267. Sắc lệnh này cũng không quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà cho phép áp dụng những nguyên tắc tương tự khi xét xử những hành vi “ phạm tội phá hoại khác”.Theo đó nếu hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản diễn ra, Tòa án căn cứ theo đường lối xử lý các tội phạm khác để xét xử. Như vậy cũng như Thông tư 442/TTg Nhà Nước ta vẫn cho phép áp dụng nguyên tắc “ tương tự trong xét xử”. Điều đó chứng tỏ pháp luật vẫn chưa được hoàn chỉnh, hành vi phạm tội vẫn chưa được xác định cụ thể, nó đặt ra một thách thức rất lớn đối với công tác xây dựng và thực thi pháp luật. Năm 1959, sau khi nước ta hoàn thành xong công cuộc cải tạo XHCN ở Miền Bắc thì công việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho CNXH là nhiệm vụ trọng tâm.Việc bảo vệ sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể là vấn đề cấp bách được đặc biệt coi trọng. Điều 40 Hiến pháp 1959 đã ghi nhận: “Tài sản công cộng của nước Việt nam dân chủ cộng hòa; là thiêng liêng không thể xâm phạm. Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng”(4) S đd, Tr.38. . Đất nước ngày càng phát triển biểu hiện qua những biến đổi to lớn về mọi mặt kinh tế xã hội. Trong khi đó những văn bản trước đây về bảo vệ sở hữu và việc áp dụng luật lệ của chính quyền cũ đã tỏ ra không còn phù hợp. Vì vậy ngày 21/10/1970 Ủy ban thường vụ Quốc Hội đã thông qua pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN và pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản của công dân nhằm bảo vệ tài sản XHCN và tài sản riêng của công dân, góp phần tăng cường tiềm lực kinh tế, quốc phòng, bảo vệ, nâng cao đời sống của nhân dân. Hai pháp lệnh này là sự tiếp nối và hoàn thiện các văn bản về các tội xâm phạm sở hữu trước đây. Lần đầu tiên tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy đinh thành một tội danh riêng với các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm này, hình phạt nghiêm khắc. Điều 11 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN quy định: “1.Kẻ nào nhận tài sản XHCN để giữ, vận chuyển, gia công, sửa chữa hoặc để làm một việc gì khác mà lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt, bớt xén hoặc đánh tráo tài sản đó, thì…" Điều 11 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân quy định: “1. Kẻ nào nhận tài sản của người khác để giữ, vận chuyển, gia công, sửa chữa hoặc để làm một việc gì khác mà lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, bớt xén hoặc đánh tráo tài sản đó thì…”(14) Sđd. Theo như quy định trên ta thấy đối tượng của hai tội là khác nhau nhưng hành vi khách quan là giống nhau. Ở quy định này, hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt là hành vi “bớt xén” hoặc “đánh tráo” chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ tài sản được giao ngay thẳng trên cơ sở hợp đồng gửi giữ, gia công, vận chuyển…, đối tượng của hành vi chiếm đoạt là tài sản XHCN hoặc tài sản công dân, hình phạt được áp dụng đối với đối tượng phạm tội tương đối nghiêm khắc: Hình phạt tù tối thiểu là 3 tháng, tối đa là 20 năm. Tuy cách trình bày còn đơn giản nhưng nhìn chung về mặt kỹ thuật lập pháp đã có sự tiến bộ, tạo cơ sở pháp lý để trừng trị hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Qua hai điều luật ta thấy tài sản XHCN do đặc biệt được coi trọng, nên chính sách xử lý tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN nghiêm khắc hơn so với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản riêng của công dân. Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án nhân dân tối cao năm 1971, 1972; Thông tư số 213/NCPL ngày 05/05/1973 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiếm sát nhân dân tối cao, Bộ công an…Cùng với thông tư này còn có Chỉ thị số 14/TATC ngày 12/07/1974 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 228 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng cũng đề cập đến vấn đề liên quan đến việc xử lý tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Sự ra đời của hai pháp lệnh năm 1970 với những quy định về hành vi và thủ đoạn phạm tội mặc dù còn rất đơn giản nhưng cũng đã đánh dấu một bước phát triển trong lịch sử lập pháp của Nhà Nước ta, tạo cơ sở cho những quy định tiếp theo về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản sau này. 1.2.3 Giai đoạn 1975-1985 Năm 1975 Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất và có nhiều sự đổi mới: bộ máy chính quyền mới, văn bản pháp luật mới. Ngày 15/03/1976 Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành Sắc luật số 03/SL-1976 quy định các tội phạm và hình phạt được áp dụng ở Miền Nam Việt nam, trong đó có quy định về các tội xâm phạm sở hữu, trong đó tội lạm dụng tín nhiệm được quy định tại điểm b Điều 4 cũng với tên gọi “ Bội tín”. “…b.Phạm các tội khác như: trộm cắp, tham ô, lừa đảo, bội tín, cướp giật, cưỡng đoạt, chiếm giữ trái phép thì bị phạt tù từ sáu tháng đến bẩy năm…”(15) TANDTC (1978), Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập II, Hà Nội. Những quy định trong Sắc luật này về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng như các tội phạm khác rất sơ lược, chỉ nêu tên tội phạm mà không xác định các dấu hiệu pháp lý cụ thể. Nội dung của Sắc luật này và hai Pháp lệnh năm 1970 về cơ bản là thống nhất, tuy nhiên sắc luật này trình bày với quy mô nhỏ gọn hơn và được dồn vào cùng một điều với một số tội như: lừa đảo, bội tín, cướp giật, cưỡng đoạt…Việc quy định như vậy dẫn đến việc xử lý tội phạm không công bằng. Có những tội xâm phạm đến một khách thể như tội lừa đảo, bội tín (xâm phạm đến quan hệ sở hữu) nhưng có tội xâm phạm đến nhiều khách thể như tội cướp giật, cưỡng đoạt (cùng một lúc xâm phạm đến quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân). Cách quy định như vậy đòi hỏi phải có thêm văn bản hướng dẫn thi hành để xử lý từng loại tội phạm cho chính xác. Tháng 04/1976 Bộ tư pháp đã ra Thông tư số 03/BTP/TT hướng dẫn thi hành Sắc luật trên. Giai đoạn 1985 đến nay Bộ luật hình sự năm 1985 được Quốc Hội thông qua ngày 27/06/1985 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1986. Đây là bộ luật được ban hành trên cơ sở pháp điển hóa các văn bản pháp luật hình sự của Nhà Nước ta được ban hành từ những năm đầu của chính quyền cách mạng đến giữa những năm 80 của thế kỷ XX, cũng như thể chế hóa chính sách hình sự của nhà nước ta trong thời kỳ cả nước thống nhất đi lên CNXH. Lần đầu tiên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có một bộ luật, đánh dấu một bước tiến bộ vượt bậc trong lịch sử lập pháp hình sự của Nhà Nước ta. BLHS 1985 đã giành hai chương quy định về tội xâm phạm sở hữu,chương IX “các tội xâm phạm sở hữu XHCN”, chương VI “ các tội xâm phạm sở hữu của công dân”. Trong đó tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 135 (tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN), Điều 158 (tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân). Điều 135 quy định: “1. Người nào lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm”…và Điều 158 quy định: “1. Người nào lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của người khác thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm(5) Bộ luật hình sự của nước CHXHCNVN (1985), Nxb Pháp lý, Hà Nội. . Việc dành riêng hai điều luật quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong BLHS 1985 đã khẳng định mức độ nghiêm trọng của hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong thực tiễn cũng như sự cần thiết phải xác lập một cơ sở pháp lý thống nhất để xử lý hành vi phạm tội. Tuy nhiên, nhược điểm của 2 điều luật là không mô tả cụ thể hành vi phạm tội. Hiện tượng này cũng rất phổ biến trong BLHS 1985, đòi hỏi phải có nhiều văn bản hướng dẫn thi hành nếu không sẽ gây khó khăn trong việc áp dụng luật hình sự vào thực tiễn xét xử. và trên thực tế việc xác định các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của nó vẫn dựa trên quy định của hai pháp lệnh năm 1970. Hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN nghiêm khắc hơn so với tội chiếm đoạt tài sản của công dân, điều đó thể hiện định hướng xây dựng CNXH, phát huy tính chủ đạo của thành phần kinh tế quốc doanh trong chính sách hình sự của Nhà Nước ta. Trong bối cảnh lịch sử và hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ, BLHS 1985 là công cụ sắc bén của Nhà Nước, của nhân dân, đã phát huy vai trò, tác dụng to lớn trong công cuộc bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Do sự phát triển của kinh tế xã hội có nhiều thay đổi đòi hỏi pháp luật cũng phải thay đổi cho phù hợp. BLHS 1985 đã được sửa đổi 4 lần vào các năm 1989, 1991, 1992, 1997. Điều 135 của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN có 2 lần được sửa đổi vào các năm 1989, 1992; Điều 158 của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân có 1 lần được sửa đổi vào năm 1991. Các lần sửa đổi này chỉ sửa đổi, bổ xung khung tăng nặng mà không sửa đổi bổ xung cấu thành cơ bản, chưa khắc phục được thiếu sót trong quy định về mặt khách quan của hành vi phạm tội(6) Bộ luật hình sự của nước CHXHCNVN (1990), Nxb Pháp lý, Hà Nội. ,(7) Bộ luật hình sự của nước CHXHCNVN ( 1991), Nxb Pháp lý, Hà nội. ,(8),(9) Bộ luật hình sự của nước CHXHCNVN ( 1997), Nxb Pháp lý, Hà nội . Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN, lần sửa đổi thứ nhất theo luật sửa đổi, bổ xung một số điều của BLHS, được Quốc Hội thông qua ngày 12/08/1991 đã điều chỉnh tăng hình phạt ở khoản 3 từ mười năm đến hai mươi năm lên từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân. Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân lần sửa đổi này đã thêm một khung hình phạt ở khoản 3- Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm" Lần sửa đổi theo luật sửa đổi, bổ xung một số điều của BLHS được Quốc Hội thông qua ngày 22/12/1992 đã bổ xung thêm một số tình tiết tăng nặng ở khoản 2 Điều 135-Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN là: “c-Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội”(8) Bộ luật hình sự của nước CHXHCNVN ( 1994), Nxb Pháp lý, Hà nội. Theo đó BLHS sửa đổi, bổ xung có quy định áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ quản lý tài sản XHCN từ hai năm đến năm năm trong trường hợp trên. Sau hơn 10 năm thi hành BLHS và đã qua 4 lần sửa đổi, BLHS 1985 đã có những đóng góp đáng kể nhưng đứng trước sự thay đổi lớn lao của nền kinh tế, ngoài khu vực kinh tế nhà nước kinh tế tập thể, khu vực kinh tế tư nhân đã có những bước phát triển vượt bậc. Đã qua thời kỳ của nền kinh tế hiện vật, kế hoạch hóa tâp trung bao cấp, thay vào đó Đảng và Nhà nước ta có chính sách là xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên cơ sở nhiều hình thức sở hữu khác nhau, vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN, các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật và đều được nhà nước bảo hộ như nhau. Trước tình hình đó BLHS năm 1985 đã tỏ ra không còn phù hợp, không đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Thêm vào đó là vào những năm cuối của thập kỷ 90 (1997- 1999) tình trạng các cơ quan pháp luật ở nhiều địa phương đã "hình sự hóa" các quan hệ dân sự, kinh tế, làm cho nhiều người bị kết án oan về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà lẽ ra họ chỉ là bị đơn trong các vụ án dân sự. Trước thực trạng như vậy đòi hỏi các nhà lập pháp phải đưa vào cấu thành những dấu hiệu đặc trưng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Do đó việc ban hành một bộ luật mới là rất cần thiết. Ngày 22/11/1999 Quốc Hội khóa X đã thông qua bộ luật hình sự năm 1999 và cũng đã thông qua Nghị quyết số 32/1999/QH-10 về việc thi hành BLHS. Bộ luật này đã kế thừa và phát huy BLHS 1985 trên cơ sở tiếp thu những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm và những thay đổi của nền kinh tế. Bộ luật gồm 24 chương và 344 điều. BLHS năm 1999 đã có sự đổi mới toàn diện về cả nội dung và hình thức so với BLHS năm 1985.Các tội trong chương tội xâm phạm sở hữu XHCN và chương xâm phạm sở hữu của công dân được nhập lại thành một chương “Các tội xâm phạm sở hữu”. Sự thay đổi trên đây nhằm tạo mặt bằng pháp lý bình đẳng giữa các thành phần kinh tế khác nhau và đồng thời tạo điều kiện thuận tiện cho việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Trên tinh thần đó, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140) ra đời là kết quả của sự sửa đổi một cách căn bản từ hai điều luật riêng rẽ ở hai chương khác nhau trong BLHS năm 1985. Vì tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản công dân cơ bản giống nhau về các dấu hiệu khách quan và chủ quan, chỉ khác nhau về đường lối xử lý. Cho nên quy định tại Điều 140 BLHS năm 1999 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hoàn toàn phù hợp. Như vậy, các trường hợp sai lầm về khách thể cũng không cần đặt ra, đồng thời tránh được oan sai, rắc rối và phức tạp.Tuy nhiên việc quy định chung như vậy không có nghĩa là bỏ qua định hướng XHCN mà vẫn coi việc xâm phạm sở hữu Nhà Nước là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 48 BLHS. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 140 BLHS 1999 như sau: “Điều 140: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 1.Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đọat tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản,chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm. a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó; b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.. 2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Lợi dụng chức vụ , quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan ,tổ chức; c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; d) Chiếm đoạt tài sản từ trên năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; đ) Tái phạm nguy hiểm.; e) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng ; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân; a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.”(10) Sđd. So với quy định tương ứng trong BLHS năm 1985, Điều 140 đã mô tả được chi tiết hơn các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đó là: Người phạm tội vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi: + Dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt. + Bỏ trốn để chiếm đoạt. + Sử dụng tài sản đó vào mục đich bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Điều 140 cũng ghi nhận việc định lượng tài sản bị chiếm đoạt như: Tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ một triệu đồng trở lên hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt, hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Từ sự quy định trên đây, Điều 140 BLHS năm 1999 giúp phân biệt được với các hành vi không phải là tội phạm (như hành vi dân sự hoặc kinh tế), phân biệt được với các tội phạm khác có cấu thành gần gũi (như tội tham ô tài sản, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản). Điều này giúp ích rất nhiều cho công tác áp dụng pháp luật, thể hiện trình độ lập pháp cao của Nhà Nước ta.. Tóm lại, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đã trải qua nhiều giai đoạn hình thành và phát triển khác nhau.Ở mỗi thời kỳ khác nhau, những quy định về tội phạm này cũng được thay đổi ngày càng hoàn thiện hơn để đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới. Văn bản pháp luật ra đời là sự kế thừa có chọn lọc nhằm phát huy tác dụng của văn bản pháp luật trước. Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn sự tiến bộ về mặt lập pháp hình sự của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 140 BLHS năm 1999, điều cần thiết là phải nghiên cứu đầy đủ nội dung quy định tại điều này của BLHS CHƯƠNG 2 TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH TẠI ĐIỀU 140 BLHS 1999 2.1. Các dấu hiệu pháp lý cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Xét về mặt cấu trúc, tội phạm có đặc điểm chung là đều được hợp thành bởi những yếu tố nhất định, tồn tại không tách rời nhau nhưng có thể phân chia được trong tư duy và do vậy có thể cho phép nghiên cứu độc lập với nhau. Những yếu tố đó theo khoa học luật hình sự Việt Nam là khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan. Bốn yếu tố đó đã hợp thành cấu thành của tội phạm. Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung._. có tính đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự(18) Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb CAND, H, 2003. . Cấu thành tội phạm được coi là khái niệm pháp lý, là sự mô tả khái quát loại tội phạm nhất định. Cũng như bất kì loại tội phạm nào, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng được hình thành bởi bốn yếu tố: khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan.Việc nghiên cứu các dấu hiệu cấu thành tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc làm sáng tỏ bản chất pháp lý của loại tội phạm này từ đó là cơ sở pháp lý cho việc định tội và truy cứu trách nhiệm hình sự. 2.1.1. Về khách thể của tội phạm. Khách thể của tội phạm là một trong những vấn đề trung tâm của khoa học luật hình sự. Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở thừa nhận tính giai cấp của pháp luật nói chung cũng như của luật hình sự nói riêng , khẳng định:" Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại" (18) . Theo luật hình sự Việt Nam những quan hệ xã hội được coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội đã được xác định trong Điều 8 BLHS. Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu. Có rất nhiều hình thức sở hữu khác nhau như sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, sở hữu tư nhân,…theo quy định của Hiến pháp 1992 và Bộ luật dân sự năm 2005 (sau đây gọi tắt là: BLDS năm 2005). Chủ thể của quan hệ sở hữu trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bao gồm Nhà nước, các tổ chức và công dân. Hành vi gây thiệt hại cho các quan hệ sở hữu là hành vi xâm phạm đến các quyền: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu. Cũng như các hành vi phạm tội khác, để xâm phạm đến quan hệ sở hữu thì người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng phải tác động đến tài sản (đối tượng vật chất mà nhờ đó quan hệ sở hữu phát sinh và tồn tại). Tài sản theo quy định của Điều 163 BLDS 2005 gồm: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” (11) Bộ luật dân sự của nước CHXHCNVN, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2005. . Trong luật hình sự, đối tượng tác động của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chính là tài sản và nó phải thỏa mãn những đặc điểm sau: Tài sản phải được thể hiện dưới những dạng vật chất, có giá trị hoặc giá trị sử dụng, các vật này phải là thước đo giá trị sức lao động của con người được kết tinh, đồng thời phải thỏa mãn được các nhu cầu về vật chất hoặc tinh thần của con người. Những hành vi tác động đến đến các vật không còn giá trị kinh tế như thuốc đã bị tiêu hủy, hàng hóa không còn giá trị sử dụng thì không phải là đối tượng tác động của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Vật và tiền nói chung luôn luôn là đối tượng tác động của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Những giấy tờ thể hiện quyền về tài sản như hóa đơn lĩnh hàng, tín phiếu, séc, thẻ tín dụng…có thể là đối tượng tác động của tội phạm này với điều kiện thông qua đó bất cứ ai cũng có thể nhận được một số tiền hoặc tài sản nhất định. Nếu những giấy tờ có giá trị mà thông qua đó không trực tiếp lấy được tài sản mà chỉ là những phương tiện hực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc các giấy tờ chỉ dùng vào việc phân phối thì mặc dù có hành vi chiếm đoạt thì cũng không phải là đối tượng tác động của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Về nguyên tắc tài sản đó phải mua bán, trao đổi được một cách hợp pháp, những tài sản mà Nhà Nước cấm tư nhân mua bán, trao đổi như thuốc phiện, vũ khí, ngoại tệ,…cũng không phải là đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Có những tài sản không thể là đối tượng của loại tội phạm này mặc dù hành vi chiếm đoạt tài sản đó cũng thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành của tội này như: rừng cây, hầm mỏ, vũ khí, thuốc nổ, chầt phóng xạ, chất cháy, chất nổ…Do có những đặc điểm, tính chất quan trọng nhất định nên những tài sản đó đã trở thành đối tượng của một số tội phạm riêng. Trước đây theo BLHS 1985 chỉ cần chứng minh đươc một người có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, không cần chứng minh giá trị tài sản là bao nhiêu (trừ trường hợp hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể theo quy định tại khoản 3 Điều 8 BLHS ) là có thể kết luận đã có dấu hiệu tội phạm (giá trị tài sản chỉ là yếu tố lượng hình, không phải là yếu tố định tội ), thì nay theo BLHS 1999 yếu tố lượng hình đã trở thành một căn cứ để xác định có cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hay không. Khoản 1: từ 1 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng Hoặc dưới 1 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. Khoản 2: từ trên 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng. Khoản 3: từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. Khoản 4: từ 500 triệu đồng trở lên.(10) Sđd. Việc đưa yếu tố định lượng tài sản là một căn cứ để xác định có cấu thành tội phạm hay không góp phần hạn chế tới mức cao nhất quyền tuỳ nghi của toà án, tránh xét xử oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm giúp xác định rõ ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm. Nó cũng là cơ sở pháp lý để áp dụng thống nhất pháp luật trong toàn quốc, tạo cơ sở để người dân hiểu rõ hơn những quy định của pháp luật để qua đó tự điều chỉnh hành vi của mình tránh trường hợp phạm tội do không hiểu rõ các quy định của pháp luật. 2.1.2. Mặt khách quan của tội phạm Theo khoa học luật hình sự, mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện ra của tộI phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan, có thể nhận thức được bằng các giác quan trực tiếp hay bằng tư duy lôgic. Các Mác đã viết: " Nếu chỉ có sự biểu lộ đơn giản ý định làm cái này hoặc cái khác thì không thể lấy đó làm cái để truy tố về mặt hình sự, cũng như về mặt chính sách cải tạo. Luật hình sự của Xô viết và luật hình sự của các nước XHCN khác cũng không quy định trách nhiệm với ý đồ " thuần tuý " đối với những suy nghĩ khác của con người, cho dù đó là ý định phạm tội (1) C.Mác- F.Engel toàn tập, tập I, Nhà xuất bản quốc gia Beclin, 1967. . Nội dung mặt khách quan bao gồm: hành vi khách quan của tội phạm, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả cũng như thời gian, hoàn cảnh, công cụ, phương tiện, thủ đoạn phạm tội. Trong đó hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản và " nếu lấy pháp luật mà không lấy hành vi lại lấy thái độ, tư tưởng làm tiêu chuẩn thì không phải cái gì khác mà chính là sự thừa nhận trên thực tế sự vô pháp luật"(2) C.Mác- F.Engel toàn tập, tập I, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, H, 1995. . Hành vi khách quan của tội phạm được hiểu là những biểu hiện của con người ra bên ngoài thế giới khách quan dưới những hình thức cụ thể nhằm đạt được những mục đích có chủ định và mong muốn. Những biểu hiện ra bên ngoài của mặt khách quan chỉ có ý nghĩa khi có hành vi khách quan. Không thể nói tới hậu quả của tội phạm cũng như những yếu tố khác (như công cụ, phương tiện phạm tội,…) khi không có hành vi khách quan. Hành vi khách quan là tác nhân gây ra sự biến đổi tình trạng của đối tượng bị tác động của tội phạm, và do vậy nó chính là nguyên nhân gây thiệt hại cho quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm. Hành vi khách quan là cầu nối giữa khách thể và chủ thể tội phạm, không có chủ thể của tội phạm khi không có hành vi khách quan của tội phạm.Hành vi khách quan của tội phạm có ba đặc điểm sau: có tính nguy hiểm cho xã hội, là hoạt động có ý thức và có ý chí của chủ thể, là hành vi trái pháp luật hình sự và về hình thức biểu hiện, hành vi khách quan của tội phạm được thể hiện dưới hình thức hành động hoặc không hành động phạm tội. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng có đầy đủ đặc điểm mặt khách quan của tội phạm nói chung. Hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng mang ba đặc điểm trên, đó là: hành vi gây thiệt hại về vật chất cho chủ sở hữu, nguy hiểm cho xã hội, và hành vi đã được tính toán cân nhắc là hoạt động có ý thức và ý chí của chủ thể, được thực hiện dưới hình thức hành động phạm tội hành vi đã vi phạm vào Điều 140 BLHS 1999 (đó chính là hành vi trái pháp luật hình sự). Hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản rất đa dạng đuợc quy định trong Điều 140 BLHS như sau: " Người nào có một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng…; a) Vay,mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó; b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản".(10) Sđd. Như vậy, đặc điểm hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được thể hiện trước hết ở dấu hiệu: người phạm tội đã nhận được tài sản một cách hợp pháp từ chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp. Căn cứ pháp lý của việc nhận tài sản là hợp đồng dân sự, kinh tế như: hợp đồng vay, mượn, thuê tài sản, hoặc các hình thức hợp đồng khác. Giao dịch hợp pháp, ngay thẳng là giao dịch luôn có sự phù hợp giữa ý chí và bày tỏ ý chí. các bên tham gia giao dịch phải có năng lực hành vi dân sự. Mục đích và nội dung giao dịch không trái pháp luật và đạo đức xã hội, người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. Hình thức giao dịch phù hợp với các quy định của pháp luật.Thông qua các giao dịch đó phát sinh các quyền và nghĩa vụ. Giao dịch có thể được thực hiện dưới các hình thức sau: * Vay tài sản: Theo Điều 471 BLDS năm 2005: “Hợp đồng vay tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận và pháp luật có quy định”. Vay tài sản được mô tả trong tội lạm dụng tín nhiệm cũng mang đặc điểm của một hợp đồng vay tài sản nói trên. Bên vay và bên cho vay hoàn toàn tự nguyện khi giao kết hợp đồng. *Thuê tài sản: Theo Điều 480 BLDS:” Hợp đồng thuê tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho thuê giao tài sản cho bên thuê để sử dụng trong một thời hạn, còn bên thuê phải trả tiền thuê”. Đối tượng của hợp đồng thuê tài sản phải là những vật đặc định. *Mượn tài sản: Theo Điều 512 BLDS, Hợp đồng mượn tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho mượn giao tài sản cho bên mượn để sử dụng trong một thời hạn mà không phải trả tiền, còn bên mượn phải trả lại tài sản đó khi hết thời hạn mượn hoặc mục đích mượn đã đạt được”(11) Sdd. . Trong trường hợp này giữa chủ tài sản và người phạm tội thường có mối quan hệ thân thiết như quan hệ bạn bè, yêu đương, hàng xóm…, đối tượng chủ yếu là các phương tiện đi lại như xe máy, xe đạp… Ngoài ra, người phạm tội còn có thể có được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng khác như: hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng gửi giữ tài sản, hợp đồng gia công, dịch vụ, hợp đồng vận chuyển… Sau khi có được tài sản trong tay, người phạm tội mới có hành vi chiếm đoạt tài sản được giao. Sự chiếm đoạt đó có thể là tiếp tục chiếm giữ không chịu trả lại tài sản cho chủ sở hữu (biến thành của riêng), hoặc tự ý sử dụng, định đoạt tài sản không đúng với nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng với ý định không muốn trả lại tài sản khi thời hạn hợp đồng đã hết. Cần phân biệt với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cơ sở để ký kết hợp đồng dân sự là lòng tin (sự tín nhiệm) có thực của người chiếm đoạt. Còn trong tội lừa dảo chiếm đoạt tài sản cơ sở tạo ra lòng tin để ký kết được hợp đồng là thủ đoạn gian dối. Người phạm tội phải dùng thủ đoạn gian dối để làm cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tin giả là thật và giao tài sản cho người phạm tội và trên cơ sở đó chiếm đoạt tài sản. Hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có thể được biểu hiện qua các thủ đoạn như : gian dối, bỏ trốn, hoặc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Thủ đoạn gian dối thường gặp trong thực tế như giả tạo bị mất, hoặc đánh tráo tài sản, rút bớt tài sản khiến sản phẩm được làm ra không có đầy đủ đặc tính về số lượng, chất lượng như yêu cầu của hợp đồng, xoá dấu tích việc nợ, huỷ bỏ các tài liệu chứng cứ chứng minh nghĩa vụ thanh toán như giấy vay nợ, các cam kết. Phần lớn trong các trường hợp người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối để che giấu hành vi chiếm đoạt. Ví dụ: Trần Văn Hưng làm nghề sửa chữa điện tử . Do có uy tín lâu năm nên số lượng khách hàng đến cửa hàng nhà Hưng rất đông. Ngày 8/5/2005 Anh Nguyễn Ngọc Bằng do được một người bạn giới thiệu đã đem bộ dàn nghe nhạc đến cửa hàng của Hưng để sửa. Trong khi sửa chữa, tháo các linh kiện, thấy một vài linh kiện trong bộ dàn là linh kiện của Nhật rất đắt tiền, Hưng đã nảy sinh ý định đổi linh kiện của Nhật bằng linh kiện của Trung Quốc, và chiếm đoạt số linh kiện đó của nhật đó. Như vậy, ban đầu Trần Văn Hưng không hề có ý định chiếm đoạt đoạt số linh kiện đó, mà ý định chiếm đọat chỉ nảy sinh trong quá trình Hưng tháo các linh kiện để sửa. Để che giấu hành vi phạm tội Hưng đã dùng thủ đoạn là thay linh kiện của Nhật bằng linh kiện của Trung Quốc. Hành vi trên đây của Hưng đã cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS năm 1999. Thủ đoạn của hành vi chiếm đoạt chiếm đoạt thứ hai là thủ đoạn bỏ trốn. Nếu người phạm tôi không dùng thủ đoạn gian dối mà sau khi nhận được tài sản một cách hợp pháp đã bỏ trốn với ý thức cố tình không thanh toán, không trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp (hay nói cách khác là ý thức chiếm đoạt tài sản). Bỏ trốn để trốn tránh việc trả nợ là trường hợp người vay, mượn hoặc nhận tài sản từ các hình thức hợp đồng khác nhưng khi hết thời hạn thanh toán họ lại bỏ đi khỏi nơi cư trú, cố tình giấu địa chỉ không cho chủ nợ biết cho đến khi bị phát hiện và bắt giữ. Khi đánh giá hành vi bỏ trốn của người phạm tội phải xem xét một cách khách quan, toàn diện, nếu người phạm tội bỏ trốn hoặc lánh mặt chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản vì nguyên nhân khác thì không coi là bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản. Ví dụ như con nợ chỉ lẩn tránh không giáp mặt với chủ nợ nhằm kéo dài thêm thời gian thanh toán nợ, con nợ lo sợ sẽ bị chủ nợ gọi công an đến bắt, hoặc vì lí do kinh doanh, buôn bán, anh ta phải đến địa phương khác mà không kịp thời thông báo cho chủ nợ biết được. Thủ đoạn thứ hai này thể hiện rõ tính có lỗi và nguy hiểm của hành vi phạm tội. Hành vi bỏ trốn đã gây khó khăn cho việc xử lý tội phạm, vì vậy cần có hình phạt nghiêm khắc đối với trường hợp này. Ví dụ: Năm 2002 Nguyễn Kỳ Tri cùng vợ là Huỳnh Thị Ngọc Trinh đến phường Mỹ Phước thành phố Long Xuyên tỉnh An Giang mở cửa hàng mua bán vật liệu xây dựng. Trong quá trình kinh doanh bị thua lỗ, Tri thiếu nợ nhiều người không có khả năng thanh toán nên kinh doanh được ba đến bốn tháng Tri cùng vợ bỏ trốn. Ngày 10/2/2004 Tri đến thuê nhà tại số 34 đường Hùng Vương khóm 2 thị trấn Mỹ An tiếp tục mở cửa hàng mua bán vật liệu xây dựng lấy tên là "Trung tín". Ngày 9/7/2004 khi đến TP Long Xuyên tỉnh An Giang, Tri đã bị một số chủ nợ cũ phát hiện và Tri đã phải thanh toán số nợ cho họ. Sau khi trả xong nợ ở An giang thấy không còn khả năng duy trì việc bán hàng và thanh toán cho các cá nhân, doanh nghiệp mà Tri đã mua vật liệu xây dựng trong quá trình kinh doanh tại Tháp Mười, nên Tri đã cùng vợ bỏ trốn. Với hành vi chiếm đoạt số tiền mà Tri đã vay trong quá trình kinh doanh thể hiện thông qua việc bỏ trốn nhằm trốn tránh việc thanh toán nợ như trên, Nguyễn Kỳ Tri đã bị VKSND tỉnh Đồng Tháp truy tố theo bản cáo trạng số 27/KSĐT.HS (22/03/2006) về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 140 BLHS. Thủ đoạn của hành vi chiếm đoạt thứ ba là người phạm tội đã sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến việc không trả lại tài sản được.Ở đây, sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp là những trường hợp dùng tài sản vào việc thực hiện tội phạm, có ý nghĩa là dấu hiệu cấu thành tội phạm như: dùng tiền vay để đánh số đề, đánh bạc, buôn lậu, buôn ma tuý, vũ khí quân dụng, mua bán hàng cấm, chất độc, chất cháy…dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản đó. Ví dụ:Trong khoảng thời gian từ tháng 3/1993 đến tháng 10/1996, Ngô Thị Tam- trú tại:189A-Nguyễn Huy Tưởng- Thanh Xuân trung- Quận Thanh Xuân- Hà Nội đã có hành vi lạm dụng tín nhiệm vay và chiếm đoạt tài sản của 16 bị hại với tổng số tiền: 1.130.300.000đ bằng thủ đoan lợi dụng mối quan hệ, Ngô Thị Tam đã viết giấy vay tiền hứa hẹn trả lãi suất cao. Sau đó sử dụng số tiền vay được của người vay sau trả lãi cho người vay trước, số còn lại sử dụng chơi lô, đề hết. Sau khi không còn khả năng thanh toán Ngô Thị Tam đã bỏ trốn. Hành vi sử dụng số tiền vay được vào việc đánh lô, dề là hành vi sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp. Hành vi đó đã cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 140 BLHS. Về thủ đoạn này, cần phân biệt việc dùng tài sản vào mục đích bất hợp pháp với việc sử dụng tài sản không đúng mục đích đã thoả thuận khi giao kết hợp đồng. Mục đích bất hợp pháp là trái với quy định của pháp luật, còn trái mục đích khi giao kết hợp đồng là trái với thoả thuận của các bên, có thể không trái pháp luật.Trường hợp không dùng tài sản vào mục đích phạm tội mà dùng tài sản vào mục đích bất hợp pháp khác thì phải xem xét, đánh giá từng trường hợp cụ thể, tránh những trường hợp định tội sai . Hiện nay trên thực tế khi nhu cầu xuất khẩu lao động ra nước ngoài, du học nước ngoài ngày càng tăng thì tội phạm liên quan đến lĩnh vực này cũng tăng theo, chủ yếu là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nhưng bên cạnh đó cũng có một vài trường hợp mà người phạm tội nhận tiền của chủ sở hữu với cam kết xin việc làm hoặc làm thủ tục xuất khẩu lao động, đi du học nhưng vì một lý do nhất định đẫn đến không thực hiện được hợp đồng, nhưng sau đó đã không trả lại số tiền cho chủ sở hữu mà lại chiếm đoạt luôn. Ví dụ: Trần Anh Vần làm công tác xuất khẩu lao động theo chế độ hợp đồng lao động có thời hạn cho công ty tư vấn thiết kế công trình giao thông 497 (đã được cấp giấy phép số 45 về việc đưa người Việt Nam đi lao động ở nước ngoài). Do có mối quan hệ quen biết từ trước với Ô Hán Quyền, biết Quyền có khả năng tìm kiếm được hợp đồng xuất khẩu lao động sang Đài Loan của các công ty môi giới xuất khẩu lao động Đài Loan. Ông Vần đã hợp tác làm ăn với Quyền, 25 lao động do Vần thu tiền với tổng số 79.200 USD giao cho Quyền 72.000USD nhưng không được đi lao động nước ngoài do phía bên Đài Loan tạm dừng việc tuyển lao động để kiểm tra lại tiêu chuẩn và mức chi phí của hợp đồng. Nhưng Quyền đã không trả lại số tiền đó cho 25 lao động mà lại sử dụng số tiền đó vào mục đích cá nhân hết.Tại bản án hình sự sơ thẩm số 417/HSST(16/4/2004) Quyền đã bị xử lý về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Việc xử lý như vậy là hoàn toàn chính xác, vì khi nhận tiền của những người lao động nhưng không thực hiện được hợp đồng, Ô Hán Quyền đã không trả lại tiền theo thỏa thuận mà lại có hành vi chiếm đoạt. Hành vi trên đã thỏa mãn những dấu hiệu của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.. Hậu quả của tội phạm của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc của những tội phạm có cấu thành vật chất.Theo luật hình sự Việt nam: “hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho những quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự (18) Sđd, Tr.80. . Thiệt hai gây ra cho khách thể được biểu hiện qua sự biến đổi tình trạng bình thường của các bộ phận cấu thành quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm. Hậu quả của hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là việc chiếm đoạt được tài sản của chủ sở hữu đã giao cho mình. Theo quy định tại Điều 140 BLHS 1999, chỉ xử lý hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 1 triệu đồng trở lên hoặc giá trị tài sản dưới một triệu đồng nhưng gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt (như hành vi lừa đảo, trộm cắp, cướp, cướp giật, v.v.. hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt (trộm cắp, cưỡng đoạt tài sản, v.v..) chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì mới cấu thành tội này. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm được biểu hiện ở việc hành vi chiếm đoạt phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian và hậu quả là kết quả trực tiếp của hành vi chiếm đoạt. Như vậy, Điều 140 BLHS đã đưa vấn đề định lượng để xác định để xác định tội phạm hoàn thành khi nào, tội phạm hoàn thành khi người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng số lượng tài sản bị chiếm đoạt phải thỏa mãn về mặt định lượng tài sản đã nêu trong luật. Trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, các yếu tố về địa điểm, thời gian, v.v.. không phải là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm này. 2.1.3. Chủ thể của tội phạm Theo luật hình sự Việt Nam hiện hành thì " chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể " . Như vậy chủ thể của tội phạm chỉ có thể là một con người cụ thể chứ không phải là một pháp nhân và trong một số trường hợp cụ thể chủ thể của tội phạm còn có thêm dấu hiệu đặc biệt khác- được gọi là chủ thể đặc biệt của tội phạm (ví dụ như: chủ thể của tội hiếp dâm, tội nhận hối lộ, v.v..). Ở tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, chủ thể của tội phạm là chủ thể bất kỳ, chỉ cần có đủ hai dấu hiệu có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định chịu trách nhiệm hình sự, không thuộc tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 13 BLHS, nếu có hành vi vi phạm quy định tại Điều 140 BLHS 1999 sẽ trở thành chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức đựoc tính chất nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy. Con người sống trong xã hội, với cấu tạo sinh học đặc biệt vốn đã có khuynh hướng hình thành và phát triển năng lực nói trên. Nhưng phải qua quá trình hoạt động và giáo dục nhất định trong môi trường xã hội khả năng đó mới trở thành hiện thực. Đây chính là một trong những lý do của việc quy định độ tuổi chịu trách nhiệm.(18) Sđd, Tr.90. Điều 12 BLHS 1999 quy định: " 1. Người nào từ đủ 10 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.. 2. Người nào từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.(10) Sđd, Tr. 21. ) Để xác định được thế nào là tội rất nghiêm trọng hay tội nghiêm trọng cần căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS 1999: “ 3. Tội phạm ít nghiêm trong là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.(10) Sđ d, Tr.19,20. . Tội lạm dụng tín nhiệm có mức cao nhất của khung hình phạt lần lượt là: Khoản 1: ba năm tù; Khoản 2: 7 năm tù; Khoản 3: 15 năm tù; Khoản 4: tù chung thân. Tương ứng đó là bốn loại tội: Khoản 1: thuộc tội phạm ít nghiêm trọng; Khoản 2: thuộc tội phạm nghiêm trọng; Khoản 3: thuộc tộI phạm rất nghiêm trọng; Khoản 4: thuộc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản luôn được thực hiện với lỗi cố ý, vì vậy căn cứ vào Điều 8, Điều 12 BLHS thì chủ thể của tội này, ngoài dấu hiệu phái có năng lực trách nhiệm hình sự, xét về tuổi được xác đinh như sau: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi hành vi phạm tội được quy định tại Điều 140 BLHS. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự nếu thực hiện hành vi phạm tội quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 140 BLHS. 2.1.4. Mặt chủ quan của tội phạm Mặt chủ quan của tội phạm, bao gồm: lỗi, động cơ, mục đích phạm tội, trong đó lỗi được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm. Lỗi là dấu hiệu không thể thiếu được của bất cứ cấu thành tội phạm nào. Mục đích và động cơ phạm tội tuy cũng là những dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm nhưng không phải luôn luôn có ý nghĩa quyết định tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. “Người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi họ có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội”. Đây chính là định nghĩa lỗi về mặt nội dung. Về mặt hình thức, “Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra, được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý”(18) Sđd, Tr. 100, 101, 104. . Trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, lỗi của người phạm tội luôn là lỗi cố ý trực tiếp. “lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra ( Điều 9 BLHS) . Thấy trước được hậu quả của hành vi là sự dự kiến của người phạm tội về sự phát triển của hành vi và mong muốn cho hậu quả xảy ra, tức là mong muốn chiếm đoạt được tài sản do được giao một cách hơp pháp và ngay thẳng thông qua hợp đồng dân sự hoặc kinh tế. Việc xác định lỗi trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, điều cần chú ý là: ban đầu, khi nhận được tài sản theo hợp đồng, người phạm tội mong muốn thực hiện hợp đồng đó. Chỉ sau khi đã giao kết hợp đồng và nhận được tài sản đó, người phạm tội mới có hành vi chiếm đoạt, vì vậy ta chỉ xét đến lỗi của họ tại thời điểm thực hiện hành vi chiếm đoạt chứ không phải tại thời điểm nhận tài sản. Thời điểm nảy sinh ý thức chiếm đoạt là căn cứ rất quan trọng để phân biệt tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản người phạm tội có ý thức chiếm đoạt từ trước khi có tài sản trong tay nên người phạm tội đã bằng thủ đoạn gian dối tạo ra các thông tin sai sự thật làm người bị hại lầm tưởng là thật và đã giao hoặc nhận nhầm tài sản cho người phạm tội, từ đó thực hiện hành vi chiếm đoạt. Như vậy lỗi của cả hai tội đều là lỗi cố ý trực tiếp nhưng thời điểm xuất hiện lỗi của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản muộn hơn. “Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội”(18) Sđd, Tr. 114, 115. . Trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, động cơ vì vụ lợi. Nhưng động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. “Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra cho hành vi phạm tội phải đạt được” .Trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mục đích phạm tội là nhằm chiếm đoạt được tài sản. Ngoài mục đích chiếm đoạt người phạm tội còn có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác, trong trường hợp này người phạm tội cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Mục đích của tội phạm cũng không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Vì bản thân hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội này đã bao hàm mục đích phạm tội. Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, động cơ và mục đích phạm tội không có ý nghĩa trong việc xác định tội danh, chúng chỉ được xem xét trong việc định khung hình phạt và lượng hình. Tóm lại, bốn yếu tố của cấu thành tội phạm của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tồn tại không tách rời nhau, chúng là cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự và để định tội danh. Vì vậy, trong công tác đấu tranh phòng chống tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, các nhà bảo vệ pháp luật phải nắm rõ được các dấu hiệu trên và phải đánh giá chúng một cách khách quan, toàn diện, lôgic, biện chứng, và phải phân biệt được các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với các tội phạm khác gần gũi, cũng như với việc vi phạm hợp đồng dân sự hoặc hợp đồng kinh tế, khắc phục hiện tượng sai lầm trong việc định tội danh, hiện tượng " hình sự hoá ", "phi hình sự hoá "các quan hệ kinh tế, dân sự, để từ đó có cách xử lý phù hợp, tránh xét xử oan sai, tránh bỏ lọt tội phạm, đảm bảo tính pháp chế XHCN. 2.2. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm khác có dấu hiệu gần gũi Qua phân tích các dấu hiệu của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên đây cho phép chúng ta phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác có dấu hiệu gần gũi. Việc phân biệt giữa các tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn, giúp chúng ta hiểu đúng về từng tội phạm cụ thể, tránh được sự nhầm lẫn trong vận dụng, áp dụng pháp luật trong thực tế, đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng oan sai. 2.2.1 Phân biệt với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối, cố ý đưa ra những thông tin không đúng sự thật nhằm để người khác tin đó là thật đã giao nhầm hoặc nhận nhầm tài sản tù người phạm tội. Đây là hai tội phạm có cấu thành gần giống nhau. Dấu hiệu ở yếu tố khách thể, chủ thể, mặt chủ quan của hai tội này là._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32257.doc
Tài liệu liên quan