Tổng quan về kiểm toán và kiểm toán nội bộ Ngân hàng Thương mại

Lời mở đầu Nền kinh tế thị trường, nơi diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các chủ thể kinh tế. Để đạt được mục đích phi lợi nhuận của mình không ít các chủ thể kinh tế đã sử dụng những hình thức cạnh tranh không lành mạnh. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình các chủ thể này đưa ra các thông tin kinh tế tài chính sai lệch gây thiệt hại kinh tế đối với chủ thể kinh tế khác. Vì vậy Kiểm toán với chức năng xác định tính hợp pháp hợp lý và hợp lệ tong các hoạt động kinh tế tài chính. Từ đó

doc64 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1516 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Tổng quan về kiểm toán và kiểm toán nội bộ Ngân hàng Thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
làm lành mạnh hoá các hoạt động kinh tế tài chính trong các tổ chức tài chính doanh nghiệp góp phần vào sự phát triển ổn định của nền kinh tế đã trở thành nhu cầu không thể thiếu đôí với nền kinh tế. Căn cứ vào các qui định trong các văn bản qui phạm pháp luật, các chuẩn mực Kiểm toán.Kiểm toán viên sẽ tiến hành xác định tính đúng đắn, hợp lý,hợp pháp của các tài liệu số liệu kế toán, báo cáo tài chính hàng năm. Mọi sai phạm bất hợp lý, không đúng với qui định của pháp luật và các chuẩn mực sẽ được phát hiện Chương I Tổng quan về kiểm toán và kiểm toán nội bộ ngân hàng thương mại I. tổng quan về kiểm toán. 1. khái niệm và bản chất của kiểm toán. Rất có cơ sở để phỏng đoán rằng sự mong muốn có các báo cáo tài chính trung thực đã tồn tại ngay từ khi các cá nhân, có quan hệ hợp đồng với người khác. Nguyên bản”Auditing” gắn liền với nền văn minh Ai Cập và La Mã cổ đại. Từ Auditing có nguồn gốc từ động từ la tinh “ audire” nghĩa là “nghe”. Hình ảnh của kiểm toán cổ điển là các tài khoản về tài sản phần lớn được kiểm tra bằng cách ngươì ghi chép đọc to lên cho một bên độc lập. Ngày nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về kiểm toán. Theo định nghĩa của liên đoàn kế toán quốc tế ( international Federation accoutan- IFAC) thì “ kiểm toán là việc các kiểm toán viên độc lập kiểm tra, và trình bày ý kiến của mình về các bản báo cáo tài chính” tiến sĩ Robert N. Arthor giáo sư trường đại học Harward cho rằng “ kiểm toán là việc xem xét, kiểm tra các việc ghi chép kế toán bởi các Kiểm toán viên công cộng, được thừa nhận, độc lập và ở bên ngoài tổ chức được kiểm tra. điều này cũng phù hợp với định nghĩa được ghi trong lời mở đầu giải thích về chuẩn mực kiểm toán của Vương Quốc Anh", kiểm toán là sự kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ ý kiến về những bản khai tài chính của một đơn vị do Kiểm toán viên được bổ nhiệm để thực hiện các công việc đó theo đúng với bất cứ nghĩa vụ pháp định có liên quan”. ở nước ta, quy chế kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân( ban hành theo Nghị định số 07/CP ngày 29/01/94 của Chính phủ) đã ghi rõ “ kiểm toán độc lập là việc kiểm tra và xác nhận của Kiểm toán viên chuyên nghiệp thuộc các tổ chức kiểm toán độc lập, về tính đúng đắn hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo quyết toán của các doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội khi có yêu cầu của đơn vị này”. Bản chất của kiểm toán nếu xét ở góc độ chung nhất chính là sự kiểm tra độc lập từ bên ngoài, được thực hiện với một số lực lượng có một trình độ chuyên môn cao. Chịu trách nhiệm hoàn toàn về mặt pháp lý và kinh tế đối với các nhận xét của mình về độ tin cậy. 2.sự cần thiết và vai trò của kiểm toán Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kiểm toán đặc biệt là kiểm toán độc lập đã trở thành nhu cầu tất yếu đối với hoạt động kinh doanh,nhằn nâng cao chất lượng quản lý của các doanh nghiệp. Hoạch toán kế toán là bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý kinh tế, ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết cho các quyết định kinh tế. Kiểm toán luôn đi liền và là sự tiếp nối của hoạt động kế toán. Nếu kế toán làm nhiệm vụ tổ chức thu thập, xử lý và cung cấp thông tin thì kiểm toán là sự xác nhận khách quan, tính chuẩn xác của thông tin, và cái quan trọng hơn là qua đó hoàn thiện quy trình quản lý. Mặt khác chúng ta biết rằng các báo cáo tài chính hàng năm do các doanh nghiệp lập ra là đối tượng quan tâm chủ yếu của rất nhiều người như : chủ doanh nghiệp các cổ đông, thành viên Hội đồng quản trị, ngân hàng, bạn hàng của doanh nghiệp... Tuy mỗi đối tượng quan tâm đến báo cáo tài chính của các doanh nghiệp ở các giác độ khác nhau, nhưng đều có mong muốn, nguyện vọng chung là được sử dụng các thông tin tài chính một cách chính xác, trung thực và đầy đủ( có độ tin cậy cao) . Do vậy cần có một bên thứ ba, độc lập khách quan, có kỹ năng nghề nghiệp, có địa vị pháp lý, trách nhiệm kiểm tra và đưa ra kết luận là các báo cáo tài chính của doanh nghiệp lập có trung thực không, có phản ánh đúng đắn và trung thực tình hình tài chính của doanh nghiệp không... Đó chính là công việc của kiểm toán độc lập. ở Việt Nam hoạt động kiểm toán mới ra đời nhưng đã có được địa vị pháp lý vững chắc, được pháp luật công nhận và bảo hộ. 3. các loại kiểm toán. Hiện nay có rất nhiều cách phân loại kiểm toán khác nhau. 3.1. phân loại theo chủ thể kiểm toán. 3.1.1. Kiểm toán nội bộ. Là kiểm toán do Kiểm toán viên nội bộ của đơn vị tiến hành, phạm vi của kiểm toán nội bộ xoay quanh việc “ kiểm tra và đánh giá tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ cũng như chất lượng thực thi trong nhiêm vụ được giao. Thông thường kiểm toán nội bộ hoạt động trong một vài lĩnh vực sau: - Rà soát lại hệ thống kế toán và các quy chế kiểm soát nội bộ có liên quan, giám sát sự hoạt động của các hệ thống này và tham gia hoàn thiện chúng. - Kiểm tra các thông tin tác nghiệp và thông tin tài chính. - Kiểm tra sự tiết kiệm, tính hiệu quả và hiệu xuất của các hoạt động kể cả các quy định không có tính chất tài chính của doanh nghiệp. 3.1.2. Kiểm toán nhà nước. Là hoạt động kiểm toán do các Kiểm toán viên của nhà nước tiến hành và chủ yếu là kiểm toán tuân thủ. 3.1.3. Kiểm toán độc lập. Là loại kiểm toán được tiến hành bởi các Kiểm toán viên độc lập thuộc các tổ chức kiểm toán độc lập. Họ thực hiện các cuộc kiểm toán theo đơn đặt hàng ( yêu cầu của khách hàng). 3.2. phân loại theo mục đích và chức năng. 3.2.1. kiểm toán hoạt động: ( operational audit) Là kiểm toán đánh giá tính hiệu quả, tác dụng của một phương án sản xuất kinh doanh, một quy trình công nghệ hoặc một công trình XDCB hoàn thành đưa vào sử dụng. Vì vậy kiểm toán quá trình hoạt động còn gọi là “ kiểm toán hiệu quả” kiểm toán loại này phải sử dụng nhiều kỹ năng khác nhau: kế toán tài chính, kinh tế, kỹ thuật... Thông thường kết thúc kiểm toán là một báo cáo giải trình có nhận xét, phân tích, đánh giá gửi cho các cơ quan đơn vị có liên quan. 3.2.2. Kiểm toán tuân thủ. Là sự kiểm tra của đơn vị cấp trên đối với đơn vị cấp dưới về sự chấp hành quy chế, chính sách chế độ... kiểm toán sự tuân thủ, vì vậy còn gọi là kiểm toán quy tắc. 3.2.3. Kiểm toán báo cáo tài chính. Là sự kiểm tra, xác nhận xem xét các báo cáo tài chính do các đơn vị kế toán lập ra có đúng đắn trung thực hợp lý hay không, có hợp thức và tuân thủ theo các đòi hỏi pháp định liên quan hay không. 3.3. Phân loại theo kế hoạch kiểm toán. 3.3.1. kiểm toán định kỳ. Là kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm do chủ doanh nghiệp mời các tổ chức kiểm toán chuyên nghệp, hoặc do cơ quan quản lý nhà nước tiến hành hay yêu cầu của các tổ chức kiểm toán chuyên nghiệp kiểm tra. 3.3.2. Kiểm toán bất thường. Là việc kiểm toán không thường xuyên nhằm phục vụ cho từng mục đích riêng biệt nào đó. Ví dụ : kiểm toán khi doanh nghiệp chuẩn bị tuyên bố phá sản, chấm dứt hoạt động, kiểm toán tài sản khi liên doanh chia tách,sáp nhập... 4/ Chức năng kiểm toán. Kiểm tra xác nhận: với chức năng kiểm tra Kiểm toán viên thực hiện kiểm tra xác nhận: + Tính trung thực, độ tin cậy của các thông tin. + Kiểm tra việc tuân thủ các chính sách, quy định. Sau khi kiểm tra và xác nhận Kiểm toán viên còn tiến hành đánh giá và đề xuất đối với các thông tin được kiểm toán. 5. Kiểm toán viên. 5.1. Tiêu chuẩn kiểm toán viên. Theo liên đoàn kiểm toán quốc tế thì yêu cầu đối với một kiểm toán viên bao gồm: 5.1.1. kỹ năng và khả năng của kiểm toán viên. Việc thực hiện kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán phải được tiến hành một cách thân trọng theo yêu cầu nghề nghiệp. Vì vậy Kiểm toán viên phải được đào tạo và trải qua kinh nghiệm về những kỹ năng cơ bản về nghề kế toán, một số kỹ năng của luật sư và nhà nghiên cứu khoa học. Một Kiểm toán viên trước hết phải là chuyên gia lành nghề, đồng thời một Kiểm toán viên được đào tạo không vô tổ chức trở thành một Kiểm toán viên có hiệu quả. Kiểm toán viên phải thường xuyên nhận thức được sự phát triển về kế toán kiểm toán. Kiểm toán viên có nghĩa vụ duy trì kỹ năng và trình độ nghiệp vụ của mình trong suốt quá trình hành nghề. Yêu cầu về kỹ năng và khả năng nghề nghiệp còn lưu ý các Kiểm toán viên chỉ nhận làm những phần việc mà bản thân hoặc hãng của mình có đủ trình độ và khả năng hoàn thành công việc đó. 5.1.2.Đạo đức của kiểm toán viên. Kiểm toán viên phải là người trung thực thẳng thắn, có lương tâm nghề nghiệp, phải công minh chính trực và không được phép để cho sự định kiến thiên lệch, làm lấn át tính khách quan, chính trực. Kiểm toán viên phải điều chỉnh mình cho phù hợp với uy tín của ngành nghề, uy tín của bản thân và của hãng, phải tự kiềm chế những tính có thể phá vỡ uy tín nghề nghiệp. Kiểm toán viên phải thường xuyên rèn luyện tính cẩn thận một cách thoả đáng tất cả các kỹ năng và sự siêng năng cần thiết khi thực thi nhiệm vụ của mình. 5.1.3. Tính độc lập của kiểm toán viên. Khi tiến hành kiểm toán, Kiểm toán viên phải thể hiện tính độc lập của mình, không được để cho các ảnh hưởng chủ quan, khách quan, hoặc sự chi phối của vật chất làm mất đi tính độc lập. Kiểm toán viên không được có quan hệ và có quyền lợi về mặt kinh tế ở đơn vị mà Kiểm toán viên đang nhận làm kiểm toán. Những quan hệ huyết thống cũng ảnh hưởng đến tính độc lập của Kiểm toán viên. 5.1.4. tôn trọng bí mật. Kiểm toán viên phải tôn trọng bí mật của những thông tin đã thu thập được trong quá trình kiểm toán, không được tiết lộ bất kỳ một thông tin kiểm toán nào cho người thứ ba khi chưa được phép. 5.1.5. Tôn trọng pháp luật. Trong hoạt động nghề nghiệp, kiểm toán viên phải tôn trọng và chấp hành đúng các chế độ, thể lệ, nguyên tắc, và luật pháp của Nhà nước. Kiểm toán viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động nghề nghiệp của mình trong báo cáo kiểm toán. 5.1.6. Các chuẩn mực nghiệp vụ. Kiểm toán viên phải tiến hành công việc nghiệp vụ của mình theo những chuẩn mực nghiệp vụ chuyên ngành phù hợp với công việc đó. Theo chế độ kiểm toán hiện hành của Viêt Nam, Kiểm toán viên phải có đủ các tiêu chuẩn sau: +Lý lịch rõ ràng, có phẩm chất trung thực, liêm khiết, nắm vững các chế độ chính sách kinh tế, tài chính kế toán hiện hành, không có tiền án tiền sự. + Có bằng tốt nghiệp đại học hoặc trung học chuyên ngành tài chính kế toán, đã công tác kế toán tốt từ 5 năm trở lên( đối với tốt nghiệp đại học) và 10 năm đối với tốt nghiệp trung học. + Đã qua kỳ thi tuyển Kiểm toán viên do Hội đồng thi cấp Nhà nước tổ chức và được Bộ trưởng Bộ tài chính cấp chứng chỉ. + Được nhận vào làm việc tại một tổ chức kiểm toán độc lập hoạt động hợp pháp tại Việt Nam và đã được đăng ký danh sách Kiểm toán viên ở Bộ tài chính. 5.2. Trách nhiệm, quyền hạn của kiểm toán viên. 5.2.1.Trách nhiệm của kiểm toán viên. Chấp hành nghiêm chỉnh các nguyên tắc kiểm toán quy định, thực hiện đúng hợp đồng kiểm toán, lập báo cáo kiểm toán và chịu trách nhiệm về tính trung thực khách quan của kết quả kiểm toán và ý kiến nhận xét trong báo cáo kiểm toán. Không được gây trở ngại cho đối tượng kiểm toán khi tiến hành kiểm toán. Tuân thủ pháp luật của Nhà nước Việt Nam. Bảo đảm trung thực, độc lâp, khách quan,công bằng và bí mật số liệu. Tuân thủ các chuẩn mực kế toán và kiểm toán hiện hành của Việt Nam và các chuẩn mực kiểm toán quốc tế. 5.2.2. Quyền của kiểm toán viên. Độc lập về chuyên môn nghiệp vụ theo khuôn khổ của pháp luật. Yêu cầu khách hàng cung cấp đầy đủ kịp thời các tài liệu liên quan đến nội dung kiểm toán. Đối chiếu xác minh các thông tin kinh tế có liên quan tới đơn vị được kiểm toán ở trong và ngoài đơn vị. Có quyền khước từ làm kiểm toán viên cho khách hàng nếu xét thấy không đủ khả năng và điều kiện kiểm toán. Phát hiện đơn vị được kiểm toán có hiện tượng vi phạm pháp luật có quyền thông báo và kiến nghị với đơn vị và có quyền ghi ý kiến của mình vào báo cáo kiểm toán. 6. Các khái niệm sử dụng trong kiểm toán. 6.1. Gian lận và sai sót. 6.1.1. Gian lận: Là những hành vi có chủ ý lừa dối liên quan đến việc tham ô, biển thủ tài sản hoặc là xuyên tạc các thông tin tài chính hoặc giấu giếm tài sản. Gian lận có thể biểu hiện dưới các dạng sau: + Xử lý chứng từ theo ý muốn chủ quan như sửa đổi, làm giả chứng từ.... + Giấu giếm thông tin tài liệu hoặc nghiệp vụ . + Ghi chép các nghiệp vụ không đúng sự thật. +áp dụng sai các nguyên tắc kế toán một cách cố ý. 6.1.2. Sai sót: Là những nhầm lẫn ảnh hưởng đến báo cáo tài chính như: + Lỗi về tính toán số học hay ghi chép sai. + áp dụng sai các nguyên tắc kế toán. + bỏ sót hoặc hiểu sai khoản mục. 6.2. Trọng yếu và rủi ro. 6.2.1. Trọng yếu: Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ( độ lớn) bản chất của sai phạm ( kể cả sai sót), thông tin tài chính hoặc là đơn lẻ, hoặc là từng nhóm, mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì sẽ là không chính xác hoặc là sẽ rút ra những kết luận sai lầm. 6.2.2. Rủi ro trong lĩnh vực kiểm toán bao gồm: a. Rủi ro tiềm tàng: Tồn tại ngay trong bản thân nghiệp vụ, môi trường kinh doanh. Rủi ro tiềm tàng là khả năng tiềm ẩn những sai sót trọng yếu trong đối tượng kiểm toán. loại rủi ro này nằm trong hoạt động kinh doanh, trong môi trường và trong bản chất nghiệp vụ trước khi chúng ta xem xét tính hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ. b) Rủi ro kiểm soát. Là khả năng mà hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị không phát hiện ra và ngăn chặn được những sai sót trọng yếu. c) Rủi ro phát hiện. Là rủi ro mà Kiểm toán viên không phát hiện ra các sai sót trọng yếu trong đối tượng kiểm toán, khi tiến hành kiểm toán. d) Rủi ro kiểm toán. Là những rủi ro mà Kiểm toán viên có thể mắc phải khi đưa ra những nhận xét không xác đáng về đối tượng kiểm toán và đó chính là những sai sót nghiêm trọng. 6.3. Bằng chứng kiểm toán. Là tập hợp tất cả các thông tin tài liệu mà Kiểm toán viên thu thập được để làm căn cứ đưa ra những nhận xét, kết luận trên báo cáo kiểm toán. Yêu cầu của bằng chứng kiểm toán: + tính đầy đủ: nói về số lượng bằng chứng, số lượng bằng chứng nhiều hay ít phụ thuộc vào mục tiêu, đối tượng kiểm toán. + Tính thích hợp : nói về chất lượng và độ tin cậy của bằng chứng, phụ thuộc vào kinh nghiệm, trình độ của Kiểm toán viên. Kỹ thuật thu thập bằng chứng: + Yêu cầu đơn vị được kiểm toán cung cấp. +điều tra phỏng vấn, xây dựng danh mục câu hỏi. + Quan sát. +Phân tích tính toán. 6.4. Doanh nghiệp hoạt động liên tục. Thông thường một doanh nghiệp được coi là hoạt động liên tục khi nó tiếp tục hoạt động trong tương lai định trước, người ta quan niệm rằng doanh nghiệp không có ý định và cũng không cần phải giải thể hoặc thu hẹp quy mô hoạt động của mình. Một số biểu hiện của hoạt độngliên tục: - Biểu hiện về tài chính: +Tổng số nợ phải trả trên tổng số nợ ngắn hạn phải trả. + Các khoản vay mượn đến hạn không đủ khả năng thanh toán, không đủ độ tin cậy để vay ngắn hạn tài trợ cho tài sản dài hạn. + Các tỷ lệ tài chính. + lỗ trong kinh doanh. Biểu hiện hoạt động: + thiếu cán bộ chủ chốt mà không được bổ sung. + thiếu nguồn cung cấp thông tin chuẩn mực. - Các biểu hiện khác như không đủ vốn pháp định doanh nghiệp đang bị kiện, có sự thay đổi về chính sách kinh tế của chính phủ. 6.5. Hồ sơ kiểm toán. Hồ sơ kiểm toán chính là các dẫn chứng bằng tài liệu về quá trình làm việc của Kiểm toán viên, về các bằng chứng thu thập được để hỗ trợ cho quá trình kiểm toán và làm cơ sở cho ý kiến của Kiểm toán viên trên báo cáo kiểm toán. Hồ sơ kiểm toán bao gồm các tài liệu kế toán, các bảng xác nhận và giải trình, các tài liệu khảo sát về kiểm soát nội bộ, kế hoạch kiểm toán, chương trình kiểm toán, các bảng cân đối liệt kê phân tích... Yêu cầu của hồ sơ kiểm toán: + Hồ sơ kiểm toán phải có đề mục rõ ràng. + Hồ sơ kiểm toán phải có chữ kí của Kiểm toán viên. + Hồ sơ kiểm toán phải đươc chú thích đầy đủ về nguồn gốc dữ liệu, kí hiệu sử dụng... + Hồ sơ kiểm toán phải đầy đủ. + Hồ sơ kiểm toán cần trình bày dễ hiểu và rõ ràng. + Hồ sơ kiểm toán cần được xắp xếp khoa học. 7. Phương pháp kiểm toán. 7.1. Phương pháp kiểm toán cơ bản . Các phương pháp kiểm toán cơ bản là các phương pháp được thiết kế sử dụng nhằm mục đích thu thập các bằng chứng về sự hoàn chỉnh chinh xác và hiệu lực của các dữ liệu do hệ thống kế toán xử lý. 7.1.1. Phương pháp phân tích, đánh giá tổng quát. Phương pháp này chủ yếu dùng để phân tích, đánh giá các thông tin tài chính của doanh nghiệp. a. phân tích so sánh về lượng trên cùng một chỉ tiêu ( phân tích ngay) như so sánh số liệu kỳ này với kỳ trước, số liệu thực tế với giấy phép đầu tư... b. Phân tích tỷ suất( phân tích dọc) bằng cách so sánh, xác định tỷ lệ tương quan giữa các chỉ tiêu, khoản mục... 7.1.2. Phương pháp kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và các số dư. Phương pháp kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và các số dư chỉ thích hợp với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, các loại nghiệp vụ có tính chất không phức tạp hoặc những bộ phận, những khoản mục dễ “ cảm xúc” trong kinh doanh. Tuy nhiên phương pháp này tỏ ra không thực tế khi quy mô và khối lượng giao dịch ngày càng tăng. Bởi vậy kiểm toán hiện đại không kiểm tra chi tiết, toàn bộ các nghiệp vụ và số dư tài khoản mà việc kiểm tra chi tiết được dựa trên cơ sở lấy mẫu một số nghiệp vụ cùng loại. 7.2. Phương pháp tuân thủ. Phương pháp tuân thủ là những nghiệp vụ kiểm tra được thiết lập để thu thập bằng chứng đảm bảo hợp lý rằng hệ thống kiểm soát nội bộ có hiệu lực. Đặc trưng của phương pháp tuân thủ là dựa vào hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp. Nếu hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp được đánh giá là mạnh, là hiệu quả và kiểm toán viên có thể tin tưởng vào thi các công việc kiểm toán có thể và cần phải dựa vào hệ thống kiểm soát. Tuỳ thuộc vào mức thoả đáng về kiểm soát, kiểm toán viên có thể áp dụng các phương pháp cụ thể sau: 7.2.1. Phương pháp cập nhật cho hệ thống. Còn gọi là kỹ thuật kiểm tra hệ thống. Kỹ thuật này đòi hỏi việc kiểm tra chi tiết một loạt các nghiệp vụ cùng một loại ghi chép từ đầu đến cuối để xem xét đánh giá các bước kiểm soát áp dụng trong hệ thống kiểm soát nội bộ. Nếu việc kiểm tra hệ thống cho thấy các bước kiểm soát là yếu thì cần tiến hành thử nghiệm các chi tiết. 7.2.2. Thử nghiệm các chi tiết đối với kiểm soát. Các thử nghiệm chi tiết đối với các kiểm soát chủ yếu cũng được dựa trên cơ sở kiểm tra mẫu các chứng từ. 8. Kỹ thuật lấy mẫu kiểm toán. Lấy mẫu kiểm toán là việc kiểm tra một phần dữ liệu( mẫu) để rút ra kết luận hợp lý cho toàn bộ dữ liệu( tổng thể). Kiểm toán viên chấp nhận những điều không chắc chắn nào đó trong kết quả của phép thử kiểm toán vì những lý do: -Kiểm toán viên không tìm kiếm một sự chắc chắn, chính xác tuyệt đối của toán học. - Bằng chứng thu thập từ một nguồn được xác minh bởi các bằng chứng thu thập được từ các nguồn khác sẽ tăng thêm độ tin cậy của Kiểm toán viên. - Việc kiểm tra toàn bộ số liệu có thể vẫn chưa cung cấp được sự chắc chắn tuyệt đối vì có thể có những nghiệp vụ không được ghi chép. - Chi phí cho việc kiểm tra toàn bộ các bút toán trong ghi chép kế toán để chứng minh cho mọi bằng chứng kiểm toán là không kinh tế. Vì những lý do trên, mẫu kiểm toán được sử dụng một cách thông dụng và phổ biến, kỹ thuật lấy mẫu kiểm toán có vị trí đặc biệt quan trọng trong kiểm toán hiện đại. Các phương pháp chọn mẫu. - Phương pháp chọ mẫu ngẫu nhiên, là chọn bất kỳ phần tử nào trong tổng thể. Hay mọi phần tử trong tổng thể đều có khả năng được lựa chọn. - Phương pháp chọn mẫu có hệ thống, là phương pháp chọn máy móc theo khoảng cách xác định trên cơ sở kích cỡ của tổng thể và số lượng phần tử của mẫu cần chọn. - Chọn mẫu phi xác suất: là phương pháp chọn mẫu mà Kiểm toán viên sẽ quyết định phần tử nào được lựa chọn vào mẫu. 9/ Quy trình kiểm toán. Quy trình của một cuộc kiểm toán gồm 3 bước: + B1 : lập kế hoạch kiểm toán. + B2 : thực hiện kiểm toán. + B3 : lập báo cáo kiểm toán. 9.1. Lập kế hoạch kiểm toán. Kiểm toán viên phải lập kế hoạch kiểm toán khi bắt đầu tiến hành cuộc kiểm toán, nó giúp cho việc kiểm toán được tiến hành khoa học và có hiệu quả cao, đúng thời gian. Để lập kế hoạch kiểm toán thì Kiểm toán viên cần tìm hiểu về đối tượng được kiểm tóan để xác định những đặc trưng cơ bản có liên quan đến đối tượng được kiểm toán như môi trường hoạt động, môi trường pháp lý, môi trường kinh tế xã hội, lĩnh vực ngành nghề kinh doanh. đặc biệt kiểm toán viên phải hiểu biết được về những văn bản có liên quan đến ngành nghề và chỉ ra được những lĩnh vực có rủi ro, những lĩnh vực trọng yếu trong hoạt động của đơn vị, tình hình rủi ro kiểm soát của doanh nghiệp, trên cơ sở đó Kiểm toán viên xác định được trọng tâm kiểm toán đồng thời nhằm hạn chế rủi ro. Cụ thể Kiểm toán viên cần thu thập những thông tin cần thiết về đối tượng được kiểm toán: - Phạm vi và quy mô hoạt động kinh doanh. - Quá trình thành lập, điều kiện, khả năng hiện tại và tương lai của doanh nghiệp. - Tổ chức sản xuất và những quy trình công nghệ sản xuất kinh doanh chủ yếu, các rủi ro tiềm tàng. - Tình trạng tài chính và các mối quan hệ kinh tế chủ yếu của khách hàng. - Tổ chức quản lý kinh doanh, trình độ, năng lực của những người điều hành chính của doanh nghiệp. - Tổ chức bộ máy và công việc kế toán, tài chính thống kê. - Tổ chức kiểm soát nội bộ. - Đánh giá thuận lợi và khó khăn của doanh nghiệp trong công tác kế toán, quản lý hay hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi có được các thông tin trên kiểm toán viên phải đưa ra kết luận: + Tình hình kinh doanh và rủi ro. + Môi trường hệ thống thông tin. + Môi trường kiểm soát. + Các chế độ kế toán. Các bộ phận cấu thành kế hoạch kiểm toán. - Kế hoạch về nội dung kiểm toán: bao gồm các thông tin, các nghiệp vụ được kiểm toán, để lập được kế hoạch về nội dung kiểm toán kiểm toán viên cần phân tích được đối tượng kiểm toán, xác định được mục tiêu tổng thể và mục tiêu chi tiết của cuộc kiểm toán, qua đó xác định phạm vi, quy mô, xác định lĩnh vực trọng yếu cần kiểm toán. trong kế hoạch về nội dung kiểm toán viên cũng cần xác định được các phương pháp cũng như các phương tiện hỗ trợ và sự phối hợp giữa các bước, các nhóm kiểm toán - Kế hoạch về thời gian: + Thời gian tổng thể của cuộc kiểm toán. + Thời gian chi tiết để kiểm toán từng khâu, từng nghiệp vụ. - Kế hoạch về nhân sự: liên quan đến việc lựa chọn số lượng Kiểm toán viên cũng như các yêu cầu nghề nghiệp đối với các Kiểm toán viên. 9.2. Thực hiện kiểm toán. Thực hiện kiểm toán là giai đoạn Kiểm toán viên triển khai thực hiện các nội dung đã ghi trong kế hoạch kiểm toán. Thực hiện kiểm toán gồm các bước sau: + Nghiên cứu đánh giá hệ thống kế toán và các quy chế kiểm soát nội bộ. + Thu thập bằng chứng kiểm toán bằng việc áp dụng các kỹ thuật. + Tiến hành phân tích, đánh giá các thông tin đã thu thập được để đưa ra ý kiến nhận xét của mình về đối tượng kiểm toán. 9.3. Kết thúc kiểm toán. Trong bước này kiểm toán viên phải làm những công việc cuối cùng để hoàn tất kiểm toán, các bước phải làm là: + Chuẩn bị hoàn thành kiểm toán. + Lập báo cáo kiểm toán. + Hoàn chỉnh hồ sơ kiểm toán. + Giải quyết các sự việc phát sinh sau khi lập báo cáo kiểm toán nếu có. a) Chuẩn bị kiểm toán: Sau khi hoàn thành công việc kiểm toán tại các bộ phận riêng lẻ, Kiểm toán viên chuẩn bị lập báo cáo kiểm toán. trước khi lập báo cáo kiểm toán, Kiểm toán viên cần tổng hợp các kết quả thu thập được. Đây chính là công việc chuẩn bị hoàn thành kiểm toán, bao gồm việc xem xét các khoản công nợ ngoài dự kiến, xem xét các sự kiện sảy ra sau ngày kết thúc niên độ, xem xét về giả thuyết doanh nghiệp hoạt động liên tục, và đánh giá tổng quát về kết quả thu thập được. Công việc này nhằm soát xét lại toàn bộ quá trình kiểm toán, kết quả thu thập được và cân nhắc các cơ sở để đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính. b) Báo cáo kiểm toán: Báo cáo kiểm toán là văn bản được Kiểm toán viên phát hành để trình bày ý kiến của mình về thông tin tài chính được kiểm toán. Kiểm toán viên phải rà soát xét lại và đánh giá các kết luận rút ra từ các bằng chứng kiểm toán đã thu thập được làm căn cứ cho việc diễn đạt những nhận xét của mình về các thông tin tài chính. + Đối tượng kiểm toán, thông tin tài chính được kiểm toán + Chuẩn mực kế toán và các nguyên tắc được dùng làm chuẩn mực đánh giá trong cuộc kiểm toán. + Công việc Kiểm toán viên đã làm. + Chuẩn mực kiểm toán được áp dụng. + Các giới hạn về phạm vi( nếu có). + ý kiến của Kiểm toán viên về thông tin tài chính. + Nhận xét và biện pháp cải tiến đối với kiểm toán nội bộ( nếu cần thiết). Báo cáo kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính có bốn dạng chính: - Báo cáo chấp nhận toàn bộ: Kiểm toán viên đưa ra báo cáo chấp nhận toàn bộ khi Kiểm toán viên không có sự loại trừ trọng yêú nào về việc áp dụng hợp lý các nguyên tắc kế toán, và không có sự giới hạn nào về phạm vi kiểm toán. -Báo cáo chấp nhận từng phần: Báo cáo mà Kiểm toán viên chấp nhận từng phần được phát hành khi Kiểm toán viên cho rằng ngoại trừ một số thiếu sót trong báo cáo tài chính, hoặc một số giới hạn về phạm vi kiểm toán, thì báo cáo tài chính đã trình bày một cách trung thực và hợp lý. - Báo cáo không chấp nhận ( loại ý kiến trái ngược): báo cáo kiểm toán không chấp nhận đưa ra nhận xét rằng báo cáo tài chính của đơn vị không trình bày một cách hợp lý về tình hình tài chính và kết quả hoạt động theo các chuẩn mực kế toán hiện hành. - Báo cáo từ chối nhận xét ( ý kiến từ bỏ): Kiểm toán viên đưa ra báo cáo từ nhận xét khi có những giới hạn nghiêm trọng về phạm vi kiểm toán, hoặc tồn tại những tình huống chưa rõ ràng có ảnh hưởng nghiêm trọng đến báo cáo tài chính. c) Hoàn chỉnh hồ sơ kiểm toán: Sau khi lập và ký báo cáo kiểm toán, Kiểm toán viên phải hoàn chỉnh hồ sơ kiểm toán, hồ sơ kiểm toán được lập thành 2 bộ: một hồ sơ gửi cho đơn vị được kiểm toán, một hồ sơ giữ lại phòng kiểm toán. d) Giải quyết các công việc sau khi ký báo cáo kiểm toán: Sau khi gửi báo cáo kiểm toán có thể phát sinh các sự việc cần được Kiểm toán viên tiếp tục giải quyết như: - Có sai sót nhỏ trong báo cáo tài chính do sơ xuất trong tính toán ghi chép cần sửa lại. - Phát hiện ra sai sót đáng kể do đơn vị cung cấp không đủ, không chính xác hồ sơ tài liệu liên quan hoặc do hạn chế của Kiểm toán viên không phát hiện được trong quá trình kiểm toán. - Đơn vị chấp nhận sửa đổi lại các điểm sai sót, theo yêu cầu và hướng dẫn của Kiểm toán viên. - Đơn vị yêu cầu kiểm toán lại do trước đó đã từ chối. Nếu các sai sót nhỏ trong báo cáo tài chính không làm ảnh hưởng đến ý kiến nhận xét trong báo cáo kiểm toán thì không phải lập lại báo cáo kiểm toán. nếu có ảnh hưởng đến tính hợp lý trong nhận xét của báo cáo kiểm toán, thì Kiểm toán viên phải trực tiếp kiểm tra, hướng dẫn việc sửa chữa và lập lại báo cáo kiểm toán với nhận xét phù hợp. II. Những vấn đề cơ bản về hệ thống kiểm soát nội bộ. 1. Hệ thống kiểm soát nội bộ. 1.1. Khái niệm. Hệ thống kiểm soát nội bộ là toàn bộ các quy định tổ chức quản lý chức năng, nhiệm vụ và phương pháp công tác mà một đơn vị phải tuân theo. Hay: Hệ thống kiểm soát nội bộ là toàn bộ những chính sách, những thủ tục kiểm soát do ban giám đốc của đơn vị thiết lập, nhằm đảm bảo việc quản lý chặt chẽ và tính hiệu quả của các hoạt động trong khả năng có thể. Hệ thống kiểm soát nội bộ được biểu diễn bằng sơ đồ sau. Hệ thống kiểm soát nội bộ Hệ thống cơ chế kiểm tra giám sát mội bộ Kiểm toán nội bộ 1.2. Các bộ phận của hệ thống kiểm soát nội bộ. 1.2.1. Môi trường kiểm soát: Bao gồm tất cả các nhân tố ảnh hưởng đến quy trình thiết lập sự vận hành và tính hiệu quả của kiểm soát nội bộ, trong đó chủ yếu là sự nhận thức và hành động của các nhà quản lý. Các nhân tố đó bao gồm: - Quan điểm, triết lý và phong cách điều hành của nhà quản lý. - Cơ cấu tổ chức của đơn vị. - Chính sách về nhân sự. - Các kế hoạch và dự toán. - Các yếu tố bên ngoài: như môi trường pháp lý, đối thủ cạnh tranh, tình hình kinh tế xã hội... 1.2.2.Hệ thống kế toán. Qua việc ghi nhận, tính toán, phân loại các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, không những hệ thống kế toán cung cấp những thông tin cho quá trình, quản lý mà nó còn giúp cho việc kiểm soát các mặt hoạt động của đơn vị. Một hệ thống kế toán hữu hiệu phải đảm bảo các yêu cầu sau. - Tính có thực: chỉ ghi chép những nghiệp vụ kinh tế có thực. - Sự phê chuẩn: phải đảm bảo sự phê chuẩn trước khi thực hiện mọi hoạt động nghiệp vụ. - Tính đầy đủ: phải phản ánh đầy đủ, không bỏ sót, giấu giếm mọi nghiệp vụ phát sinh. - Sự đánh giá: không để xảy ra những sai phạm trong tính toán, trong việc áp dụngchính sách kế toán. - Sự phân loại: đảm bảo các nghiệp vụ được phân loại theo đúng quy định. 1.2.3. Các thể thức kiểm soát. Là toàn bộ những chính sách, thủ tục giúp cho việc thực hiện các chỉ đạo của nhà quản lý, nó đảm bảo các hoạt động cần thiết để quản lý các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp. Có rất nhiều thủ tục kiểm soát khác nhau, tuy nhiên chúng đều thuộc 6 nhóm: - Phân chia trách nhiệm thích hợp hay nguyên tắc bất kiêm nhiệm. - Các thủ tục phê chuẩn. + Phê chuẩn chung: là những chính sách hướng dẫn do ban giám đốc đưa ra để cho cấp dưới thực hiện. + Phê chuẩn cụ thể : phê chuẩn đối với từng nghiệp vụ cụ thể thông qua dấu, chữ ký. - Chứng từ và sổ sách phải đầy đủ để ghi chép nghiệp vụ, lập, luân chuyển , lưu trữ chứng từ phải đúng nguyên tắc kế toán. - Bảo vệ an toàn tài sản vật chất. - Kiểm tra độc lập. - Phân tích rà soát. 2/ Kiểm toán nội bộ. 2.1. Khái niệm. Kiểm toán nội bộ là một chức năng đánh giá độc lập được thiết lập trong tổ chức, để kiểm tra và đánh giá hoạt động của tổ chức đó, với mục đích giúp cho các thành viên hoàn thành hữu hiệu thách nhiệm của mình. 2.2. Các nguyên tắc cơ bản của kiểm toán nội bộ. 2.2.1. Nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ. - Kiểm toán nội bộ phải thực hiện kiểm toán đối với tất cả các quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tuỳ thuộc theo quy mô và mức độ rủi ro . - Kiểm toán nội bộ phải kiểm tra đánh giá về: + Khả năng hoạt động, tính hiệu quả và sự thoả đáng của các cơ chế quản lý, điều hành rủi ro. + khả năng hoạt độn, tính hiệu quả và sự thoả đáng của cơ chế quản lý, điều hành rủi ro. + Đánh giá việc tuân thủ các quy định của pháp luật và các quy đị._.nh nội bộ. + Xác định mức độ phù hợp với luật và quy chế quản lý cả trong việc ban hành chính sách và thủ tục nội bộ. + Xác định chất lượng thực hiện của cả ban quản lý và cán bộ trong việc thực hiện các trách nhiệm được giao. + kiến nghị các phương án phòng ngừa rủi ro và cải thiện hoạt động. - Thực hiện các cuộc kiểm toán đặc biệt. - Tư vấn cho các bộ phận chức năng chuyên môn khi triển khai thực hiện các đề án và giúp đỡ họ giaỉ quyết khó khăn vướng mắc. * Quy chế kiểm toán nội bộ Việt Nam quy định nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ. + Kiểm tra tính phù hợp, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ. + Kiểm tra, xác nhận chất lượng, độ tin cậy của thông tin kinh tế, tài chính của báo cáo tài chính trước khi trình duyệt. + Kiểm tra sự tuân thủ các nguyên tắc hoạt động, quản lý kinh doanh đặc biệt sự tuân thủ luật pháp, chính sách, chế độ tài chính kế toán, quyết định của Hội đồng quản trị, Ban giám đốc. + Phát hiện những sơ hở, yếu kém, gian lận trong quản lý, trong bảo vệ tài sản của doanh nghiệp, đề xuất các giải pháp nhằm cải tiến, hoàn thiện hệ thống quản lý, điều hành kinh doanh của doanh nghiệp. 2.2.2. Chức năng của kiểm toán nội bộ. Kiểm toán nội bộ có nhiệm vụ bảo vệ doanh nghiệp trước những rủi ro, nguy cơ thất thoát tài sản. Để làm được như vậy kiểm toán nội bộ phải thực hiện : - Kiểm toán hoạt động. - Kiểm toán tài chính. - Kiểm toán điều hành. Kiểm toán nội bộ cũng có chức năng tư vấn, đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của cơ cấu tổ chức cũng như quy trình vận hành của doanh nghiệp. Giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp thông qua việc kiểm toán toàn diện trên tất cả các lĩnh vực và đưa ra các ý kiến tư vấn. Góp phần hoàn thành mục tiêu của doanh nghiệp. 2.2.3. Vị thế của kiểm toán. Với chức năng và nhiệm vụ như trên bộ phận kiểm toán phải có được vị thế vững chắc trong doanh nghiệp, điều này đòi hỏi các nhà quản lý doanh nghiệp phải quan tâm đúng mức tới bộ phận kiểm toán nội bộ. 2.2.4. Tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ. Bộ phận kiểm toán nội bộ cần được xây dựng sao cho phù hợp với quy mô của doanh nghiệp và đảm bảo thoả đáng công tác kiểm toán trong khuôn khổ mục tiêu kinh doanh và môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. 2.2.5.Những yêu cầu chuyên môn và phẩm chất cá nhân đối với kiểm toán viên nội bộ. - Tính độc lập của Kiểm toán viên nội bộ phải độc lập với các hoạt động mà họ tiến hành kiểm toán. Các Kiểm toán viên nội bộ phải tiến hành các cuộc kiểm toán của mình một cách khách quan. - Kiểm toán viên nội bộ phải chấp hành các chuẩn mực về thái độ. - Có kiến thức, khả năng định hướng chuyên môn cần thiết để thực hiện nhiệm vụ của mình. - Kiểm toán viên nội bộ phải biết ứng xử và có khả năng giao tiếp. - Kiểm toán viên nội bộ phải quan tâm tới quyền hạn chuyên môn của mình thông qua hoạt động đào tạo nâng cao kiến thức. - Khi tiến hành kiểm toán, kiểm toán viên nội bộ phải đảm bảo sự thận trọng cần thiết. Theo quyết định 832 /QD/CĐKT ngày 28/20/97 của Bộ tài chính về việc ban hành quy chế kiểm toán nội bộ thì người được bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ làm kiểm toán nội bộ phải có đủ các tiêu chuẩn sau: + Có phẩm chất trung thực, khách quan, chưa có tiền án tiền sự và chưa bị kỷ luật cảnh cáo trở lên do sai phạm trong quản lý kinh tế, tài chính, kế toán. + Đã tốt nghiệp đại học chuyên nghành kinh tế, tài chính kế toán 5 năm trở lên trong đó ít nhất 3 năm làm việc tại doanh nghiệp nơi được giao nhiệm vụ làm kiểm toán viên nội bộ. + Đã qua huấn luyện về nghiệp vụ kiểm toán, kiểm toán nội bộ theo nội dung chương trình thống nhất của bộ tài chính và được cấp chứng chỉ. 2.2.6. Phạm vi công việc. Đánh giá tính thích hợp và tính hiệu quả của cơ chế kiểm tra nội bộ cũng như chất lượng của việc thực hiện nhiệm vụ trong nội bộ doanh nghiệp. Cụ thể kiểm toán viên phải xem xét về : - Tính xác thực và đầy đủ của thông tin. - Việc chấp hành các chiến lược, kế hoạch, quy trình, luật định, nghị định và hợp đồng. - Bảo vệ tài sản của doanh nghiệp. - Việc sử dụng vốn một cách kinh tế có hiệu qủa. - Việc thực hiện các mục tiêu đã đề ra phục vụ cho quá trình kinh doanh hay các chương trình. 2.2.7. Công tác điều hành bộ phận kiểm toán nội bộ. Kiểm toán viên trưởng phải điều hành hoạt động bằng những thể thức thích hợp như: - Phải có văn bản quy định rõ về mục tiêu, chức năng và trách nhiệm của bộ phận kiểm toán nội bộ. - Phải quy định chính sách và thủ tục kiểm toán nội bộ. - Phải lập kế hoạch kiểm toán nội bộ. - Phải phối hợp những hoạt động của bộ phận với các kiểm toán viên độc lập. - Phải có kế hoạch kiểm soát chất lượng kiểm toán nội bộ. 2.2.8. Cách thức làm việc của bộ phận kiểm toán. Về cơ bản, các kỹ thuật và quy trình kiểm toán của kiểm toán nội bộ cũng tương tự như kiểm toán độc lập. Cũng cần nhắc lại là các khác biệt trong công việc là xuất phát từ sự khác nhau về mục đích giữa 2 loại hình này, chẳng hạn trong kiểm toán các thông tin tài chính, thì kiểm toán nội bộ thường chỉ quan tâm xem xét tính xác thực của dữ liệu và sự tuân thủ các quy định. Phương pháp và yêu cầu trong kiểm toán nội bộ thường bao gồm các vấn đề sau: - Lập kế hoạch kiểm toán: Công việc của kiểm toán nội bộ dựa trên cơ sở một kế hoạch kiểm toán toàn diện, kế hoạch kiểm toán phải định hướng theo mức độ rủi ro. Chương trình kiểm toán năm được xây dựng trên cơ sở phân tích rủi ro trên các mảng hoạt động cuả doanh nghiệp cũng như căn cứ vào lực lượng hiện có của bộ phận kiểm toán nội bộ. Khi lập kế hoạch kiểm toán cần lưu ý đến quy mô hoạt động kinh doanh và quy mô của doanh nghiệp. Kế hoạch kiểm toán phải đảm bảo tất cả các lĩnh vực hoạt động nghiệp vụ, tất cả các bộ phận đều được kiểm toán trong khoảng chu kỳ kiểm toán tối thiểu. Đối với các hoạt động có nhiều rủi ro thì chu trình kiểm toán phải ngắn hơn. chương trình kiểm toán năm là tài liệu công tác của kiểm toán nội bộ và được lãnh đạo phê chuẩn. Phải liên tục kiểm tra lại và tiếp tục phát triển việc lập kế hoạch kiểm toán, phương pháp kiểm toán và chất lượng kiểm toán. - Tiến hành kiểm toán: Đây là giai đoạn mà kiểm toán viên thực hiện những thử nghiệm để kiểm tra thu thập những bằng chứng kiểm toán, và tập hợp trong hồ sơ kiểm toán.bằng chứng được thu thập cũng phải đầy đủ và thích hợp để hữu ích cho việc giúp cho đơn vị đạt được các mục tiêu kinh doạnh. Để thực hiện một cuộc kiểm toán nghiêm túc, cần chuẩn bị chu đáo. Công tác chuẩn bị bao gồm: + Xác định mục tiêu kiểm toán. + Xác định phương pháp kiểm toán ( ví dụ kiểm toán cơ chế, kiểm toán trường hợp cụ thể, kiểm toán nội dung, kiểm toán hình thức, kiểm toán toàn diện, kiểm toán xác suất, kiểm toán có sử dụng điện toán). + Xác định thời gian kiểm toán, cử Kiểm toán viên. + Yêu cầu cung cấp các thông tin cần thiết. + Công bố tiến hành kiểm toán. Thực hiện kiểm toán bao gồm: + ghi nhận hiện trạng về tổ chức trong lĩnh vực công tác cần kiểm toán; có đưa ra nhận định chính xác về quy trình hoạt động ( phân tích thực trang). + Đánh giá về chế độ chứng từ. + So sánh thực trạng với mục tiêu đề ra, để trên cơ sở đó đánh giá tất cả các giao dịch quan trọng. + Ghi chép các bước kiểm toán và các dữ liệu thành tài liệu công tác. + Đưa ra các khuyến nghị, biện pháp tăng cường hiệu quả quá trình hoạt động hoặc khắc phục thiếu sót. + Lập báo cáo, đưa ra ý kiến phê bình cả về nội dung lẫn hình thức trong báo cáo. + Thảo luận, bàn bạc kết quả và thống nhất ý kiến với bộ phận được kiểm toán. -Lập báo cáo: sau mỗi cuộc kiểm toán, bộ phận kiểm toán nội bộ phải lập ngay một báo cáo bằng văn bản và trình cho các thành viên ban giám đốc có thẩm quyền biết; các sai phạm và kiến nghị nêu trong báo cáo phải được thành viên ban giám đốc phụ trách mảng hoạt động bị kiểm toán xem và cho ý kiến. Tuy nhiên, đối với các sai phạm nghiêm trọng thì phải lập ngay một báo cáo bằng văn bản và trình cho tất cả các thành viên ban giám đốc biết. Ngoài ra còn phải định kỳ trình cho tất cả các thành viên ban giám đốc một bản tóm tắt các nội dung kiểm toán và kết quả kiểm toán quan trọng, trong đó cần nêu rõ những sai phạm và thiếu sót nghiêm trọng. Báo cáo kiểm toán nội bộ trước hết phải trình bày về nội dung kiểm toán và các kết luận kiểm toán, đặc biệt nêu rõ các sai phạm nghiêm trọng. Trong đó phải đánh giá về kết quả kiểm toán, nếu cần thiết thì phải đưa ra kiến nghị để sửa đổi cho phù hợp. Các dạng báo cáo là: - Báo cáo được lập dưới dạng văn bản. báo cáo ngắn gọn, rõ ràng và tập trung vào nội dung cơ bản. kiểm toán viên nội bộ phải thảo luận với các nhà quản lý về các kết luận và đề xuất ở một mức độ phù hợp trước khi phát hành báo cáo chính thức. Nội dung báo cáo cần: + Báo cáo phải trình bày về mục đích, phạm vi và kết luận của cuộc kiểm toán. + Đưa ra những chứng cứ có sức thuyết phục, đưa ra những đánh giá về lĩnh vực được kiểm toán: khi phát hiện có những điểm yếu kém, báo cáo cần chỉ ra những khả năng khắc phục. + Báo cáo có thể bao gồm những đề xuất về những cải tiến có thể thực hiện, ghi nhận các kết quả được thoả mãn, và các công việc cần phải tiếp tục tiến hành. + Báo cáo có thể nêu lên quan điểm của bộ phận bị kiểm toán về kết quả kiểm toán và các đề xuất. + Gửi tới Ban lãnh đạo doanh nghiệp, bộ phận được kiểm toán cũng như những bộ phận liên quan khác. - Báo cáo bằng miệng: đối với những thiếu sót nghiêm trọng trong lĩnh vực được kiểm toán, cần tạm thời thông báo bằng miệng cho thành viên Ban Giám đốc phụ trách kiểm toán nội bộ. - Báo cáo định kỳ : sau từng quý, kiểm toán nội bộ cần lập một bản tổng kết tất cả các báo cáo kiểm toán đã công bố của mình. Trong các báo cáo này phải nêu lên những thiếu sót nghiêm trọng cũng như ý kiến trả lời của bộ phận được kiểm toán. đồng thời thông qua bản tổng kết phải thấy rõ được tình hình triển khai thực hiện kế hoạch kiểm toán đã đề xuất. Khi kết thúc một năm kinh doanh, bộ phận kiểm toán nội bộ phải lập một báo cáo tổng hợp về mọi hoạt động kiểm toán mà họ tiến hành trong năm kinh doanh đó và trình cho tất cả các thành viên ban giám đốc. Báo cáo tổng hợp phải cho thấy các mục tiêu đề ra trong kế hoạch kiểm toán có thực hiện được hay không và thực hiện được ở mức độ nào. Trong báo cáo phải nêu ra các sai phạm nghiêm trọng được phát hiện, các biện pháp kiến nghị thi hành để sửa chữa các sai phạm đó và việc thực thi các biên pháp này. Giai đoạn theo dõi: Đối với mỗi cuộc kiểm toán, kiểm toán nội bộ cần theo dõi việc thi hành các biện pháp xử lý, qua đó đảm bảo chắc chắn rằng các bộ phận chức năng, trong khuôn khổ trách nhiệm kiểm tra của mình, thực sự có khắc phục yếu kém, có triển khai các biện pháp đã thống nhất. 3. Kiểm toán nội bộ trong ngân hàng. 3.1. Khái niệm: Kiểm toán nội bộ trong ngân hàng là việc thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận và đánh giá tính thích hợp, tính hiệu quả của hệ thống kế toán, hệ thống các cơ chế, quy chế quy định, biện pháp và các hướng dẫn quy trình nghiệp vụ cũng như chất lượng thực thi những trách nhiệm được giao. 3.2. Kiểm toán một số nghiệp vụ chủ yếu trong ngân hàng. 3.2.1. Kiểm toán nghiệp vụ tín dụng: Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng đồng thời nó cũng là nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro vì vậy khi tiến hành kiểm toán phải quan tâm đến các vấn đề chủ yếu: +Kiểm toán tư cách pháp lý, khả năng tài chính của khách hàng. +Kiểm toán cơ cấu tín dụng và đưa ra nhận định về rủi ro +Kiểm toán tài sản đảm bảo tín dụng về tính pháp lý, về giá trị, khả năng phát mại. +kiểm toán quy trình xét duyệt, hồ sơ tín dụng, hồ sơ thẩm định, giám sát tín dụng... 3.2.2. Kiểm toán nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối. Kiểm toán nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối là toàn bộ các giai đoạn từ giao dịch kinh doanh đến tất toán, hạch toán và giám sát kinh doanh. -Kiểm toán sự phân tách chức năng cả về khía cạnh tổ chức lẫn chức năng của bộ phận chia dịch với các bộ phận khác trong kinh doanh ngoại hối, vì do đặc điểm của kinh doanh ngoại hối việc phân tách chức năng như đã trình bày trên là cách thức tổ chức để có thể kiểm soát rủi ro trong kinh doanh. -Kiểm toán tính phù hợp với thị trường của các giao dịch đã thực hiện. -Kiểm toán quy trình luân chuyển chứng từ, chuyển giao các dữ kiện giao dịch giữa các bộ phận F.O và B.O, quy trình gửi và nhận các xác nhận với đối tác giao dịch. -Kiểm toán việc đưa các dữ liệu vào hệ thống hạch toán. -Kiểm toán quản lý điều tiết rủi ro trong kinh doanh để đảm bảo rằng cách thức quản lý rủi ro cũng như chi phí phòng ngừa rủi ro mà ngân hàng đã chi ra là thoả đáng, đặc biệt lưu ý đến hệ thống hạn mức kinh doanh, giới hạn lỗ trong kinh doanh. 3.2.3 Kiểm toán tiền mặt và tiền gửi ngân hàng nhà nước. -Kiểm toán xem mọi khoản tiền có được đảm bảo thu đầy đủ vào ngân quỹ. -Kiểm toán xem tất cả các khoản chi đều được chi đúng với mục đích, được phê chuẩn và có sự ghi chép đúng đắn. -Kiểm toán xem số dư tiền quỹ hợp lý để đảm bảo chi trả cho nhu cầu rút tiền của khách hàng. -Kiểm toán xem số dư tiền tài khoản tiền mặt và tiền gửi ngân hàng có phải là số dư thực. -Kiểm toán giữa số dư thực tế (tại quỹ) với số dư tiền tài khoản. 3.2.3 Kiểm toán hoạt động đầu tư: -Kiểm toán xem việc đầu tư có tuân theo các quy định đầu tư của cáp có thẩm quyền. -Các quyết định đầu tư có sự phê chuẩn đúng, hợp lý, phù hợp với điều kiện thị trường như giá, thời hạn giao dịch... -Các nghiệp vụ phát sinh có được ghi sổ đúng đắn, hợp lý. -Các khoản đầu tư được định giá đúng đắn, hợp lý, các khoản thua lỗ được trích lập dự phòng đầy đủ. 3.2.5 Kiểm toán nghiệp vụ huy động vốn. -Kiểm toán xem các nghiệp vụ tiền gửi được thực hiện một cách đầy đủ, kịp thời. -Kiểm toán xem bộ phận tiền gửi có thực hiện đúng nguyên tắc kế toán: Tổng phát sinh nợ phải bằng phát sinh có và được phản ánh chính xác vào tài khoản. -Kiểm tra số dư tài khoản với thực tế khách hàng đã gửi. -Xem xét xem bộ phận nghiệp vụ huy động vốn có thực hiện đúng quy định quy chế của ngân hàng và của pháp luật. 3.2.6 Kiểm toán nghiệp vụ L/C: -Kiểm toán quy trình mở và thanh toán L/C. -Việc thực hiện thẩm quyền trong khi mở L/C của cán bộ nghiệp vụ và người quản lý. -Kiểm toán xem có thực hiện đúng so với hệ thống hạn mức tại thời điểm kiểm toán. Chương II Thực trạng hoạt động kiểm toán tại Ngân hàng Nông ghiệp và phát triển Nông thôn Hà Nội I. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông ghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội Ngân hàng Nông ghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội được thành lập theo Quyết định 53/ HĐBT ngày 26/03/1988, Quyết định thành lập ngày 15/08/1988 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội là Ngân hàng thương mại quốc doanh trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội là đơn vị hạch toán phụ thuộc vào Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam . Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội là ngân hàng cấp 2 loại I, có địa bàn hoạt động rộng, do hoạt đông trong Thủ đô Ha nội, một trung tâm kinh tế -văn hoá của cả nước nên hoạt động của ngân hàng chịu ảnh hưởng trực tiếp tình hình kinh tế -văn hoá của Thủ đô. Từ khi thành lập đến nay Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội luôn kinh doanh có lãi và luôn gắn chặt vớ sự đổi mới của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam . Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội hoạt động luôn bám sát định hướng phát triển của Nhà nước cũng như của ngành, đồng thời thường xuyên chấn chỉnh cơ cấu bộ máy tổ chức để phù từng giai đoạn kinh doanh. Vì vậy trong những năm qua Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội đã tạo được lòng tin với khách hàng, kinh doanh hiệu quả đặc biệt góp phần vào sự Phát triển nông nghiệp và nông thôn. Để ghi nhận sự lỗ lực cuả cán bộ công nhân viên, sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban và sự chỉ đạo sáng suốt của Ban lãnh đạo,cùng quả kinh doanh trong những năm trước đó, năm1999 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội đã được Nhà nước tặng thưởng huân chương lao động hạng ba. 2. Mô hình tổ chức và cơ cấu tổ chức. 2.1 Mô hình tổ chức Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà nội là chi nhánh cấp hai trong hệ thông Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam trước đây phụ trách tất cả các Ngân hàng Nông nghiêp trên địa bàn Hà nội. Nhưng hiện nay Ngân hàng Nông ghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội chỉ Quản lý 07 Ngân hàng Nông nghiệp và Nhát triển nông thôn tại các Quận và 03 Ngân hàng khu vực cùng các phòng giao dịch tại các Quận nội thành Hà nội. Mô hình tổ chức Nhno &PTNT Quận Thanh Xuân Nhno &PTNT Quận Ba đình NHNo&PTNT Hànội Nhno &PTNT Quận Hai Bà Trưng NHNo &PTNT Quận cầu giấy Các Nhno &PTNT khu vực Nhno &PTNT Quận đống đa Nhno &PTNT Quận hoàn kiếm Nhno &PTNT Quận tây hồ 2. Cơ cấu tổ chức Hiện nay tại hội sở chính Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội có 09 phòng ban nằm dưới sự điều hành của Ban Giám đốc gồm 01 Giám đốc và 02 P.Giám đốc. Phòng Kinh doanh Ban Giám đốc Phòng Ngân quỹ Phòng Hành chính Phòng Kế hoạch Phòng Vi tính Phòng Kế toán Phòng Kiểm tra - Kiểm toán nội bộ Phòng Thanh toán quốc tế Phòng Tổ chức và đào tạo Giám đốc: là người đứng đầu, chui trách nhiệm chung công việc kinh doanh , chịu trách nhiệm trước pháp luật và cấp trên về hoạt động kinh doanh của đơn vị mình. Các Phó Giám đốc là người giúp việc cho Giám đốc điều hành , có trách nhiệm tư vấn và tham mưu cho Giám đốc trong hoạt động kinh doanh và thực hiện các công việc theo uỷ quyền của Giám đốc. Phòng kinh doanh: có nhiệm vụ thực hiên cho vay đối với mọi tổ chức kinh tế , nhằm cung ứng vốn cho nền kinh tế , thông qua hoạt động cho vay thực hiện nhiệm vụ tiếp cận thị trường . Phòng Kế toán: Thực hiện hạch toán kế toán , thống kê và thanh toán cho khách hàng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội như : mở tài khoản tiền gửi, cho vay…cung cấp thông tin cho lãnh đạo để ra quyết định quản lý và tuân thủ các quy định chế độ kế toán của Nhà nước, ác quy định về quản lý và thực hiện các nhiệm vụ khác do ban Giám đốc phân công. Phòng Ngân quỹ: Phụ trách quản lý các loại tiền mặt, chứng khoán của ngân hàng và thực hiện các quy định về an toàn kho quỹ. Phòng Hành chính: Xây dựng kế hoạch công tác tháng , quý của các chi nhánh, xây dựng chương trình giao ban nội bộ ,chi nhánh và các chi nhánh thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội, thực hiện công tác thi đua khen thưởng, thực hiện các công việc khác do Ban giám đốc phân công. Phòng Kế hoạch : Hoạch định chiến lược khách hàng, chiến lược huy động vốn của ngân hàng và xây dựng kế hoạch kinh doanh cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội . Phòng kiểm tra - kiểm toán nội bộ: kiểm tra công tác điều hành của chi nhánh và các đơn vị trực thuộc ; kiểm tra giám sát việc chấp hành quy trình nghiệp vụ kinh doanh; kiểm tra độ chính xác của các báo cáo tài chính ,việc tuân thủ chế độ và chính sách kế toán theo quy định báo cáo của Tổng Giám đốc và Giám đốc chi nhánh về kết quả kiểm tra và đề xuất biên pháp sử lý khắc phục khuyết điểm tồn tại; giải quyết đơn thư khiếu tố liên quan đến hoạt động của chi nhánh trên địa bàn trong phạm vi uỷ quyền; làm đầu mối trong việc kiểm toán độc lập, thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của ngành ngân hàng và các cơ quan pháp luật khác đến làm viẹc với chi nhánh; thực hiện báo cáo chuyên đề và các nhiệm vụ khác do Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội , trưởng Ban kiểm tra - kiểm toán nội bộ giao. Phòng Vi tính: Tổng hợp thống kê và lưu trữ số liệu, thông tin liên quan đến hoạt động của chi nhánh , xử lý các nghiệp vụ kinh tế phát sinh liên quan đến hách toán kế toán , chấp hành chế độ báo cáo thống kê và cung cấp số liệu , thông tin theo quy định , quản lý bảo dưỡng và sửa chữa thiết bị , máy móc tin học. Phòng thanh toán quốc tế: Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán quốc tế Theo yêu cầu của khách hàng như mở L/C, thanh toán L/C , chuyển tiền, nhận chuyển tiền… Phong tổ chức và đào tạo: Xây dựng văn bản quy chế quy định về tổ chức hoạt động , chỉ đao điều hành, quy hoạch cán bộ, thực hiện công tác đào tạo cán bộ , theo dõi cán bộ , đề xuất với ban giám đốc nâng lương khen thưởng với các chức danh thuộc Ngân hàng Nông ghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội quản lý, giúp Ban Giám đốc quản lý cán bộ công nhân viên thuộc Ngân hàng Nông ghiệp và Phát triểnnông thôn Hànội quản lý bao gồm tuyển dụng lao động , điều động, quản lý hồ sơ cán bộ, theo dõi tăng giảm cán bộ và thực hiện quản lý trên máy vi tính theo quy định của ngành. 3. Kết quả kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội trong những năm ngần đây. 3.1 Nguồn vốn Trong những năm qua, nguồn vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội không ngừng tăng trưởng. Điều đó được thể hiện thông qua bảng số liệu sau. Bảng 1: Kết quả hoạt động huy động vốn Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Tỷ trọng(%) Năm 2001 Tỷ trọng(%) Tỷ lệ tăng giảm(%) Tổng nguồn vốn 3.344,07 4.257 27,3 Nguồn vốn VND 3.095,27 92,5 3.866 90,8 24,9 Nguồn vốn USD 248,8 7,5 391 9,2 57,1 (Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2000; 2001 ) Qua bảng số liệu trên ta thấy nguồn vốn trong năm 2001 của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội tăng ở mức cao. + Tổng nguồn vốn năm 2001 là: 4.257 tỷ đồng, tăng 912,93 tỷ đồng (27,3%) so với năm 2000 + Trong đó: - Nguồn vốn VND: 3.866 tỷ, tăng 770,73 (24,9%). Trong đó nguồn vốn trung, dài hạn chiếm 35% . - Nguồn vốn USD : 391 tỷ, tăng 142,2 ( 56,4%).Trong đó nguồn vốn trung, dài hạn chiếm 55% , riêng tiền giử tiết kiệm từ các tầng lớp dân cư chiếm 88%tổng nguồn vốn ngoại tệ. Để có nguồn vốn trên , năm 2001 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội đã thực hiện có hiệu quả các biện sau : Làm tốt công tác thanh toán vốn cho khách hàng, từ khi Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội áp dụng hình thức chuyển tiền điện tử trong cả nước thì mọi nhu cầu chuyển của khách hàng được đáp ứng nhanh chóng, chinh xác, an toàn trong thời gian ngắn nhất, cùng với sự thay đổi trong phong cách phục vụ khách hàng nên số lượng khách hàng đến giao dich ngày càng nhiều. Làm tốt và mở rộng diện thu tiền mặt tại chỗ, không thu phí cho các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh có thu tiền mặt lớn. Mở rộng địa bàn huy động tiền gửi đói vớ các trrưòng học, bệnh viện, các cơ quan hành chính sự nghiệp. . .năm 2001 đẫ có thêm một số trường Đại học, viện nghiên cứ giửi tiền tai Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội , đồng thời Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội đã khai chương thêm 10 phòng giao dịch tại các khu vực tập trung dân cư, các trung tâm thương mại lớn vừa thu hút thêm tiền gửi đân cư vừa làm dịch vụ chuyển tiền. Một số Ngân hàng Quận đã bắt đầu triển khai thu tiền gửi tiết kiệm tại nhà cho một số gia đình có nhu cầu gửi tiền lớn, nhờ vậyđã thu hút một lượng khá lớn tền gửi dân cư, đạt gần 2000 tỷ đồng, chiếm gần 40% tổng nguồng vốn kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội , đây là nguồn vốn quan trọng , ổn định lâu dài, tạo nhiều thuận lợi cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội trong việc đầu tư tín dụng trung và dài hạn. 3.2. hoạt động tín dụng. Dưới sự chỉ đạo đúng đắn của Ban lãnh đạo, chính sách tín dụng hợp lý của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội, trong những năm qua hoạt động tín dụng không ngừng tăng trưởng cả về quy mô lẫn chất lượng tín dụng. Bảng 2: Kết quả hoạt động tín dụng Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Tỷ lệ tăng giảm (%) Cho vay 3181,1 4040 27 Thu nợ 2841,9 3757 32,2 Dư nợ 1297,029 1572 21,2 Dư nợ quá hạn 23,6 40,38 0,74 (Báo cáo hoạt động tín dụng năm 2000; 2001) Qua bảng số liệu trên ta thấy các chỉ tiêu về hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội trong năm 2001 tăng khá cao, cụ thể: + Trong năm 2001 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội đã thực hiện cho vay: 4040 tỷ đồng, tăng 858,9 tỷ đồng (27%) so với năm 2000 +Thu nợ năm 2001 là: 3757 tỷ đồng, tăng 915,1 tỷ đồng (32,2%) so với năm 2000 +Dư nợ năm 2001 là: 1572tỷ đồng, tăng 274,971 tỷ đồng (21.2%) so với năm 2000 Để đạt được kết quả trên trong năm 2001 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội đã thực hiện tốt: -Việc mở rộng đầu tư tín dụng cho các thành phần kinh tế, chú trọng mở rộng cho vay trung , dài hạn để hỗ trợ cho các doanh nghiệp đổi mới thiết bị , mở rộng quy mô sản xuất , đã áp dụng phương thức đầu tư tín dụng đồng tài trơ đối với hai dự án lớn đó là Tổng công ty gốm sứ vay 206 tỷ đồng để xây dựng nhà máy kính nổi Bình dương, công ty bia Hà Nội vay 10 triệu USD để nân gcông xuất hiện có lên gấp hai lần. -Việc đầu tư tín dụng năm 2001 được tập trung cho các dự án thực sự có hiệu quả không phân biệt thành phần kinh tế đã góp phần tích cực cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thực hiện công nghiệp hoá , hiên đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong cơ chế thị trường , dư nợ trung dài hạn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội chiếm 27,3% so với tổng dư nợ. - Nhờ đổi mới kinh doanh nên năm 2001 có thêm 30 doanh nghiệp vay vốn tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội . - Vừa cho vay cho vay các dự án lớn tập trung Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội còn mở rộng cho vay sinh hoạt đối vớ công chức, viên chức, sĩ quan, công nhân viên quốc phòng ttrong các doang nghiệp , trường học , bệnh viện, lực lưọng vũ trang, vớ gần 40 tỷ đồng vốn cho vay Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội đã hỗ trợ cho nhiều gia đình cải tạo, sửa chữ nhà ở, mua sắm cácc thiết bị tiện nghinh hoạt trong gia đình góp phần cải thiện cuộc sống. Cho vay hộ nghèo: Năm 2001, được sự giúp đỡ của các Quận, Phường Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội đã giải ngân cho gần 1000 hộ nghèo vay 2.200 triệu đồng, một số hộ đã tạo được thêm công ăn việc làm, thu nhập tăng, đời sống được cải thiện, trả nợ ngân hàng theo đúng kỳ hạn, cuối năm 2001 còn trên 900 hộ có dư nợ 2.300 triệu đồng . Tuy số lượng hộ vay và dư nợ cho vay hộ nghèo không lớn nhưng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội đã góp phần cùng các cấp các ngành của Hà Nội thực hiện chương trình 03 của Thành Uỷ Hà nội về xoá đói giảm nghèo trên địa bàn Hà Nội. Chất lượng tín dụng: Nợ quá hạn đến 31/12/2001 của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội là 40,38 tỷ đồng chiếm 2,54% tổng dư nợ , tăng 16,78 tỷ đồng (0,74%) so với năm 2000, là do nợ tồn đọng của một số doanh nghiệp Nhà nước được giãn nợ từ nhiều năm dồn lại đến nay không có khả năng trả nợ, hoặc cố tình không chịu trả nợ ngân hàng ,ngân hàng buộc phải chuyển sang nợ quá hạn. Chất lượng tín dụng từ năm 2000 và 2001 đã được nâng nên rõ rệt do cán bô , nhân viên Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội đã nhận thưc được vai trò của chất lượng tín dụng trong hoạt động kinh doanh , mặt khác do thực hiên khoán tài chính, tiền lương cùng với sự chỉ đạo chặt chẽ, công tác kiểm tra - kiểm soát đựoc thực hiện thường xuyên kịp thời nên hoạt động tín dụng thực sự đi vào nề nếp, khắc phục kịp thời những tồn tại nhất là khâu thẩm định hiệu quả của dự án đầu tư. Từ năm 2001, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội đã thành lập ban chỉ đạo và tổ chuyên thu nợ quá hạn và nợ đã xử lý rủi ro từ Thành phố đến tất cả các Ngân hàng Quận, đã phối hợp với các ngành chức năng có liên quan nên đã thu hồi gần 7 tỷ đồng nợ tồn đọng từ nhiều năm nay. 3.3 Hoạt động thanh toán quốc tế. Đây là một mặt nghiệp vụ rất quan trọng có liên quan đến sự phát triển kinh tế của đất nước cũng như của từng doanh nghiệp có liên quan đến xuất nhập khẩu nên năm 2001 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội đã tích cực mở rộng quan hệ đối ngoại với các Ngân hàng nước ngoài , nếu như những năm trước Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội đã làm tốt công tác thanh toán quốc tế thì năm 2001 công tác này được chú trọng hơn và kết quả kinh doanh đối ngoại đã có bước chuyển biến tích cực Bảng3: Tình hình thanh toán quốc tế năm 2000-2001 Chỉ tiêu Số món Giá trị (USD) I. Nhập khẩu Năm 2000 Năm 2001 Tỷ lệ tăng giảm (%) Năm 2000 Năm 2001 Tỷ lệ tăng giảm (%) Mở L/C 559 743 24.76 130073888,07 103545940.22 -20.39 Thanh toán L/C 605 701 13.69 98583871.77 108202831.00 9.76 Thanh toán nhờ thu 103 201 48.76 3108068.54 5340833.74 41.81 Thanh toán chuyển tiền 632 904 30.09 18574177.97 26300016.44 29.38 II. Hàng xuất 1. Giửi chứng từ đòi tiền 92 110 16.36 2349396.27 2677944.02 12.27 2. Thu tiền 93 104 10.58 2642909.56 2359051.70 -10.74 III. Phí dịch vụ 136700.82 187424.51 27.06 (Báo cáo thanh toán xuất nhập khẩu năm 2000; 2001) Qua bảng số liệu trên ta thấy tình hình thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội trong năm 2001 đạt được mức tăng trưởng khá + Nhập khẩu: - Về hoạt động mở L/C: trong năm 2002 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội đã mở 743 L/C, tăng 184 L/C (24,76%) so với năm 2000, điều này là do trong năm ngân hàng đã trú trọng đến công tác mở rộng khách hàng như giảm phí thanh toán . . . nên đã thu hút được thêm nhiều khách hàng mới đến giao dịch với ngân hàng. Tuy nhiên trong năm 2001 giá trị mở L/C trong năm 2001 chỉ đạt 103.545.940,22 USD, giảm 20,39% so với năm 2000 là do trong năm 2001 khách hàng mở L/C với giá trị thấp hơn so với năm 2000. - Về thanh toán L/C: trong năm 2001 ngân hàng đã thực hiện thanh toán 701 L/C , tăng 96 L/C (13,69%), với giá trị 108.202.831,00 USD, tăng 9,76% so với năm 2000 là dokhi nhận được những L/C hợp lệ là ngâ hàng tiến hành thanh toán ngay cho khách hàng để giữ chữ tín với khách hàng. - Về thanh toán nhờ thu và thanh toán chuyển tiền: nhì chung hoạt động thanh toán nhờ thu và thanh toán chuyển tiển trong năm 2001 tai ngân hàng tăng ở mức cao cả về số lượng và giá trị của các khoản thanh to._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33596.doc
Tài liệu liên quan