Trách nhiệm pháp lý của công chức trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay

mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Sự nghiệp đổi mới ở nước ta được Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đến nay đã thu được những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực, kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội. Để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới phát triển, nhằm làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, Đảng ta, Nhà nước ta và nhân dân ta phải vượt qua những nguy cơ, thách thức không nhỏ trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế đang diễn biến nhanh chóng, phức t

doc182 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2082 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Trách nhiệm pháp lý của công chức trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạp và đa dạng. Chính vì thế, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra "Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 - 2010". Một trong những giải pháp cơ bản, then chốt để tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nêu trên là "Đổi mới tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, trọng tâm là cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh" [40, tr. 220]. Nội dung cải cách nền hành chính nhà nước đã được khẳng định trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, khóa VII, Nghị quyết Đại hội Đảng khóa VIII, các Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3, 6 (lần 2), 7 khóa VIII, Nghị quyết Đại hội Đảng khóa IX, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 khóa IX và đã được cụ thể hóa trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001- 2010, với bốn nội dung cơ bản là: 1) cải cách thể chế; 2) cải cách bộ máy; 3) xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức; và 4) cải cách tài chính công. Để góp phần thực hiện yêu cầu cấp thiết của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và yêu cầu xây dựng "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân" quy định tại Điều 2 của Hiến pháp 1992 (sửa đổi ngày 25/12/2001), cần thiết phải đẩy mạnh cải cách hành chính ở nước ta lên một bước mới, cơ bản, toàn diện và rộng khắp. Trong các nội dung đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, thì công tác cán bộ có ý nghĩa quyết định. Để làm tốt công tác cán bộ, Đảng ta đã chỉ rõ: Tăng cường kỷ cương nhà nước và chế độ trách nhiệm cá nhân; coi trọng chính sách cán bộ, trên cả hai mặt bồi dưỡng và rèn luyện, có biện pháp ngăn chặn hiện tượng tiêu cực, thiếu dân chủ. Xử lý vi phạm về mặt Đảng và pháp luật của Nhà nước một cách nghiêm minh và bình đẳng đối với cán bộ, công chức nhà nước [40, tr. 337-338]. Việc tăng cường, củng cố chế độ trách nhiệm cá nhân đối với công vụ được giao đòi hỏi phải hoàn thiện sự điều chỉnh pháp luật đối với các dạng trách nhiệm pháp lý của công chức, bao gồm: trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm vật chất, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự và các biện pháp bảo đảm việc thực hiện chúng trên thực tế. Trách nhiệm pháp lý là biện pháp cơ bản để phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với tệ cửa quyền, lạm quyền, quan liêu, tham nhũng, lãng phí của công, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị, đặc biệt là trong bộ máy hành chính nhà nước. Tuy vậy trên thực tế, pháp luật về trách nhiệm pháp lý ở nước ta hiện nay nhìn chung chưa hoàn chỉnh, còn tản mạn, thiếu tính hệ thống, chưa phân định rõ trách nhiệm giữa tập thể với cá nhân phụ trách. Nhiều quy định mang tính nguyên tắc về trách nhiệm pháp lý của công chức nêu trong Pháp lệnh Chống tham nhũng năm 1998, sửa đổi năm 2000, Pháp lệnh Cán bộ công chức năm 1998, sửa đổi bổ sung năm 2003 chậm được cụ thể hóa dẫn đến khó áp dụng trong thực tiễn xử lý vi phạm, ví dụ như trách nhiệm liên đới của thủ trưởng cơ quan để xảy ra tham nhũng tiêu cực trong cơ quan, tổ chức mình phụ trách. Nhiều quy định về trách nhiệm của cán bộ, công chức không còn phù hợp nhưng chậm được điều chỉnh, sửa đổi bổ sung cho phù hợp với chủ trương cải cách hành chính là đúng người, rõ trách nhiệm, tách quản lý nhà nước với hoạt động sản xuất kinh doanh và sự nghiệp, ví dụ như Nghị định số 97/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của Chính phủ về xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất đối với công chức, Nghị định số 217-CP ngày 8/6/1979 của Hội đồng Chính phủ ban hành bản quy định về chế độ trách nhiệm, chế độ kỷ luật, chế độ bảo vệ của công và chế độ phục vụ nhân dân của cán bộ, nhân viên và cơ quan nhà nước. Công tác pháp điển hóa về trách nhiệm pháp lý, nhất là trách nhiệm kỷ luật và trách nhiệm vật chất của công chức cũng ít được chú trọng. Việc áp dụng trách nhiệm pháp lý của công chức ở nhiều nơi, nhiều lúc còn chưa nghiêm, thiếu tính thống nhất, kỷ cương, kỷ luật lỏng lẻo. Thực tế cho thấy, các quy định về trách nhiệm pháp lý của công chức thiếu, chưa chặt chẽ, cụ thể là kẽ hở, điều kiện cho hiện tượng tiêu cực trong bộ máy nhà nước tăng thêm. Tình trạng đau xót hiện nay là một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức thoái hóa biến chất, tham nhũng, hách dịch, mất dân chủ, vô kỷ luật, sống bê tha, vô đạo đức, vô trách nhiệm, làm việc tắc trách, năng lực kém, làm hỏng việc. Về thực trạng này, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã chỉ rõ: Điều làm cho nhân dân còn nhiều bất bình, lo lắng, bức xúc nhất hiện nay là tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng, chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ đảng viên vẫn còn nghiêm trọng; kỷ cương phép nước trong nhiều việc, nhiều lúc chưa nghiêm [44, tr. 187-188]. Về phương diện lý luận, vấn đề hoàn thiện, nâng cao hiệu quả chế độ công vụ phải tiến hành đồng thời với việc hoàn thiện pháp luật về công chức, công vụ, nhất là về trách nhiệm của công chức nhà nước. Thành tựu khoa học pháp lý ở nước ta nói chung và lý luận chung về nhà nước và pháp luật nói riêng đã tạo ra những tiền đề lý luận quan trọng cho việc nghiên cứu về trách nhiệm pháp lý. Tuy nhiên, phạm trù vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý mà chủ thể là công chức nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu và cụ thể hóa trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta hiện nay. Những căn cứ lý luận và sự đòi hỏi của thực tế nêu trên là lý do của việc lựa chọn vấn đề "Trách nhiệm pháp lý của công chức trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận án tiến sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề trách nhiệm pháp lý nói chung, trách nhiệm pháp lý của công chức nói riêng. Các khía cạnh khác nhau của trách nhiệm pháp lý của công chức như: khái niệm, mục đích, cơ sở, đặc điểm, các hình thức trách nhiệm và thủ tục áp dụng trách nhiệm pháp lý của công chức đã được đề cập đến trong các công trình, báo cáo của các một số tác giả, như Lazarev B.M với cuốn sách Cơ sở pháp lý của trách nhiệm trong quản lý ở Liên Xô và Cộng hòa Dân chủ Đức (Mátxcơva, năm 1986) và bài Đặc điểm trách nhiệm của những người có chức vụ trong cuốn sách Liên Xô - Cộng hòa Dân chủ Đức: Chế độ công vụ (Mátxcơva, năm 1986), Aduskin I.C với cuốn sách Thủ tục kỷ luật ở Liên Xô (Saratop, năm 1986), Batrilo I.L với bài viết Chế định trách nhiệm trong quản lý đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật Liên xô (số 6, năm 1977), Malein H.C với cuốn sách Vi phạm pháp luật: khái niệm, nguyên nhân, trách nhiệm (Mátxcơva, năm 1985) và bài Trách nhiệm về tài sản của các chủ thể quản lý trong cuốn sách Trách nhiệm trong quản lý (Mátxcơva, năm 1985), Serbax A.I với cuốn sách Trách nhiệm pháp lý của người có chức vụ trong bộ máy quản lý nhà nước (Kiep, năm 1980),... ở trong nước, vấn đề trách nhiệm pháp lý của công chức cũng đã được một số tác giả quan tâm nghiên cứu, như các tác giả: Đoàn Trọng Truyến về vấn đề trách nhiệm công vụ trong giáo trình Hành chính học đại cương của Học viện Hành chính Quốc gia (Hà Nội, năm 1997), Nguyễn Cửu Việt về trách nhiệm trong quản lý trong giáo trình Luật hành chính Việt Nam của Đại học Quốc gia Hà Nội (Hà Nội, năm 1997 và năm 2000), Ngô Tử Liễn về trách nhiệm hành chính trong cuốn sách Cưỡng chế hành chính nhà nước của Học viện Hành chính Quốc gia (Hà Nội, năm 1996), Đinh Văn Mậu, Phạm Hồng Thái về trách nhiệm trong hoạt động công vụ trong cuốn sách Giải đáp pháp luật - Luật hành chính Việt Nam (Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1995), Hoàng Thị Ngân với bài Về trách nhiệm pháp lý đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (số 2, năm 2001) và bài Trách nhiệm về việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật sai trái đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật (số 5, năm 2003), Vũ Thư về chế tài hành chính (luận án tiến sĩ luật học, năm 1996) và bài Trách nhiệm pháp lý theo luật Hiến pháp đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật (số 12, năm 2002), Võ Khánh Vinh trong cuốn sách Tìm hiểu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ (Hà Nội, năm 1996), Nguyễn Hoàng Anh với bài viết Chế định trách nhiệm vật chất trong luật hành chính Việt Nam và một số vấn đề cần hoàn thiện trong cuốn sách Nhà nước và pháp luật Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI (Hà Nội, năm 2002), Dương Thanh Mai với bài Bồi thường thiệt hại đối với oan sai trong tố tụng đăng trên Tạp chí nghiên cứu Lập pháp (Hà Nội, năm 2001), Đinh Thiện Sơn về trách nhiệm pháp lý của người có chức vụ trong quản lý ở Việt Nam (luận án phó tiến sĩ luật học năm 1989),... Nhìn chung, việc nghiên cứu của các tác giả được quan tâm ở những góc độ khác nhau của phạm trù pháp lý được xem xét, nhưng chưa nghiên cứu một cách toàn diện vấn đề trách nhiệm pháp lý của công chức, nhất là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Do đó, việc nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống và sâu sắc vấn đề trên là việc làm có ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của luận án Mục đích của luận án là nghiên cứu một cách hệ thống các vấn đề lý luận về trách nhiệm pháp lý của công chức, thực trạng quy định pháp luật và thực hiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của công chức, từ đó rút ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm pháp lý của công chức, bảo đảm việc thực hiện tốt hơn chế định pháp lý này trong thực tiễn, nhất là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay. Do tính chất của vấn đề nghiên cứu, tác giả không có tham vọng đi sâu vào tất cả các khía cạnh của trách nhiệm pháp lý của công chức, mà chỉ tập trung nghiên cứu trách nhiệm pháp lý của công chức - trách nhiệm tiêu cực đối với chủ thể chịu trách nhiệm là công chức nhà nước. Phù hợp với mục đích và phạm vi nghiên cứu, luận án có những nhiệm vụ chủ yếu sau đây: - Làm rõ khái niệm, đặc điểm, các hình thức trách nhiệm pháp lý của công chức và mối quan hệ giữa trách nhiệm pháp lý của công chức với các dạng trách nhiệm xã hội khác. - Luận giải các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với trách nhiệm pháp lý của công chức. - Phân tích thực trạng quy định pháp luật và thực hiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của công chức ở nước ta hiện nay, bước đầu xác định những nguyên nhân mặt tích cực và hạn chế của thực trạng đó. - Luận giải các mục tiêu, phương hướng hoàn thiện trách nhiệm pháp lý của công chức trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay và kiến nghị các giải pháp hoàn thiện trách nhiệm pháp lý của công chức cả về quy định pháp luật lẫn tổ chức thực hiện. 4. Cơ sở khoa học và phương pháp nghiên cứu của luận án Về cơ sở khoa học của luận án, thực hiện đề tài này tác giả dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng nhà nước kiểu mới - Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong điều kiện đổi mới ở nước ta, dựa vào tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã phân tích một số quan điểm khác nhau trong sách báo pháp lý Việt Nam và nước ngoài về những vấn đề liên quan đến đối tượng nghiên cứu. Những luận điểm được phát triển trong luận án được dựa trên các công trình nghiên cứu cơ bản của các nhà khoa học trong và ngoài nước, các báo cáo tổng hợp của các cơ quan chức năng về tình trạng vi phạm pháp luật của công chức nước ta trong những năm gần đây. Về phương pháp nghiên cứu, các phương pháp được tác giả sử dụng trong quá trình nghiên cứu là: phương pháp luận Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng duy vật), phương pháp so sánh pháp luật, phương pháp quy nạp và diễn dịch, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê xã hội học. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã lý giải vấn đề trách nhiệm pháp lý của công chức theo các quan điểm: hệ thống, lịch sử, thực tiễn và trong mối liên hệ với thực tế đời sống cũng như các hiện tượng pháp lý khác. 5. Những điểm mới của luận án Luận án là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam nghiên cứu tương đối toàn diện và có hệ thống về trách nhiệm pháp lý của công chức trên cả bình diện lý luận và thực tiễn xây dựng và thực hiện pháp luật trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay. Điểm mới của luận án thể hiện trên các khía cạnh sau đây: - Kiến giải một cách có cơ sở khái niệm trách nhiệm pháp lý của công chức gồm hai khía cạnh tích cực và tiêu cực. Trong giới hạn nghiên cứu, đã làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm trách nhiệm pháp lý của công chức, các hình thức trách nhiệm pháp lý của công chức và tương quan giữa trách nhiệm pháp lý của công chức với trách nhiệm chính trị, đạo đức và với các biện pháp tác động xã hội khác. - Đưa ra được các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với trách nhiệm pháp lý của công chức. - Đánh giá một cách tương đối toàn diện các quy định pháp luật về trách nhiệm pháp lý của công chức, cũng như thực trạng vi phạm pháp luật của công chức và thực tiễn áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với công chức vi phạm. - Đề xuất được những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm pháp lý của công chức và những giải pháp bảo đảm việc thực hiện trách nhiệm pháp lý của công chức trong thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. 6. ý nghĩa thực tiễn của luận án Những kết luận và kiến nghị của luận án có ý nghĩa thực tiễn trong việc nghiên cứu hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm pháp lý của công chức, trước mắt là Luật Công vụ và những văn bản dưới luật về vấn đề này; đồng thời làm tư liệu nghiên cứu phục vụ quá trình cải cách hành chính ở Việt Nam. Ngoài ra, luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy chuyên sâu về trách nhiệm pháp lý của công chức. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án gồm 3 chương, 9 mục. Chương 1 Cơ sở lý luận về trách nhiệm pháp lý của công chức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam 1.1. Khái niệm công chức và trách nhiệm pháp lý của công chức Công vụ và công chức có mối liên hệ mật thiết với nhau, khi quan niệm về công vụ ra sao thì sẽ có một quan niệm về công chức tương ứng. Nói cách khác, quan niệm đúng đắn về công chức chỉ dựa trên cơ sở quan niệm phù hợp về công vụ, nhất là trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Do đó, trong phần này cần thiết phải tìm hiểu về khái niệm công vụ làm cơ sở cho việc nghiên cứu về công chức và trách nhiệm pháp lý của công chức. 1.1.1. Khái niệm công vụ ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, chế độ nhà nước khác nhau nền công vụ được quy định khác nhau do có những cách hiểu, quan niệm khác nhau về phạm vi khái niệm công vụ. Hay nói cách khác, phạm vi công vụ luôn phụ thuộc vào quan điểm chính trị, chế độ chính trị, xã hội và bản chất nhà nước. Có thể khái quát các quan niệm khác nhau trong lịch sử về công vụ như sau: - Trong nhà nước phong kiến, công vụ được xem như một sứ mạng thiêng liêng cao cả và cũng là nơi quy tụ các lợi ích vật chất, quyền thế về tinh thần đối với nhân dân. Việc tuân thủ mệnh lệnh của nhà vua tức là thực thi bổn phận công vụ. Do đó, công vụ xét cho cùng là chế độ phục vụ nhà vua. Nhiều tác giả khi nghiên cứu về công vụ của nhà nước phong kiến Việt Nam đều cho rằng: "Công vụ ngày xưa là việc quan, là một công việc ai cũng xem là quan trọng, một phần là vì những chế tài mà các nhà cầm quyền có thể sử dụng, nhưng phần vì đối với xã hội, đối với tâm lý thông thường của con người, những người được lên những chức vị cao cũng đều được mọi tầng lớp xã hội kính trọng" [45, tr. 188]. Dưới giác độ hành chính học, Giáo sư Đoàn Trọng Truyến đã khái quát công vụ và công chức của nhà nước phong kiến như sau: "Dưới chế độ phong kiến, công vụ được xem như một sứ mệnh cao cả. Người gia nhập công vụ có niềm vinh quang, tự hào, được xã hội tôn vinh" [134, tr. 145]. - Trong nhà nước tư sản, công vụ xét về bản chất là sự phục vụ cho quyền lực công. Tuy nhiên, do sự khác nhau trong tổ chức nhà nước nên ngay trong các nhà nước tư sản cũng tồn tại một số quan niệm khác nhau về công vụ. Tiêu biểu là hai quan niệm về công vụ làm cơ sở cho hai chế độ công vụ cơ bản sau đây: Thứ nhất, chế độ công vụ chức nghiệp. Trong chế độ này, công vụ được quan niệm như một chức nghiệp, do đó nó được duy trì liên tục và ổn định không phụ thuộc vào sự thay đổi của chính trị. Người công chức được đào tạo, tuyển chọn một cách cẩn thận vào công vụ và được đảm bảo suốt đời. Công chức được coi như một loại người chuyên làm công việc nhà nước, địa vị của họ được tôn vinh. Các nước theo chế độ chức nghiệp điển hình là Pháp, Đức, Italia,... Quan niệm này đã coi công vụ là một nghề nghiệp của con người, nên nền công vụ này trở nên cứng nhắc, khó thay đổi. Trong bản thân nền công vụ chia ra nhiều thứ bậc theo văn bằng, tạo nên sự trì trệ, khó thích ứng với sự biến động. Chế độ công vụ theo chức nghiệp dẫn đến sự ổn định của nền hành chính, nhưng lại làm cho nó thiếu năng động, cuối cùng có thể dẫn đến kìm hãm sự phát triển về kinh tế. Hạn chế này khiến các quốc gia đang phát triển có nền công vụ chức nghiệp phải liên tục cải cách và tiếp thu các yếu tố tiến bộ của nền công vụ việc làm [56, tr. 66-67]. Thứ hai, công vụ là một công việc nhất thời, một việc làm. Căn cứ để tuyển dụng sắp xếp công chức chỉ dựa vào công việc, vào chức vụ người đó đảm nhiệm chứ không phải dựa vào bản thân người công chức đó. Cụ thể, căn cứ vào công việc, mà định ra các tiêu chuẩn về con người phù hợp với công việc đó, định ra các quyền hạn, trách nhiệm và những đãi ngộ... tương ứng với chức vụ đó và trên cơ sở những tiêu chuẩn xác định của công việc mà lựa chọn người. Người công chức không có địa vị ổn định, họ có thể bị thải hồi bất cứ khi nào nếu không đáp ứng được các yêu cầu của công việc hoặc khi không cần cho công việc nữa. Công vụ đối với họ chỉ là một việc làm, họ là người làm thuê cho nhà nước. Các nước có nền công vụ theo chế độ việc làm là Mỹ, Hà Lan và các quốc gia chịu ảnh hưởng của Mỹ. Do đặc điểm này mà nền công vụ việc làm (chức vụ) không tạo ra sự ổn định cần thiết cho nền hành chính, đội ngũ công chức không có tính liên tục và kế thừa. Tuy vậy, nền công vụ này rất năng động và có hiệu suất cao, do tận dụng được hết mọi khả năng của người công chức [56, tr. 66-67]. - Đối với các nước đang phát triển, mới giành được độc lập, nền công vụ ở các nước này thường mang đặc trưng hỗn hợp, chịu ảnh hưởng từ nhiều nền công vụ khác, công vụ phong kiến, công vụ chức nghiệp, công vụ việc làm, cũng như bản sắc riêng của quốc gia đó. Nền công vụ chưa được định hình, thường nghiêng về mô hình công vụ nước nào nó chịu ảnh hưởng nhiều nhất, thông thường là nước cai trị trước kia [116, tr. 277-304]. - Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa trước đây, có ý kiến cho rằng tồn tại một nền công vụ riêng, với đặc trưng của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa trong đó Đảng cộng sản giữ vai trò lãnh đạo. Đội ngũ nhân sự trong tổ chức Đảng cũng như trong Nhà nước đều do Đảng bố trí sắp xếp, quản lý, cùng hưởng quy chế pháp lý chung với các đối tượng cán bộ Đảng, tổ chức xã hội. Cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, có thể được điều động theo nhu cầu công tác từ ngành này sang ngành khác, từ trung ương đến địa phương, từ tổ chức Đảng, tổ chức xã hội sang cơ quan nhà nước và ngược lại. Do vậy, không tạo ra sự ổn định và tính chuyên nghiệp của nền công vụ, người công chức không tích lũy được kinh nghiệm, không thích nghi với công việc [56, tr. 63-69]. Chúng tôi cho rằng, mô hình công vụ xã hội chủ nghĩa, chưa phải là một mô hình công vụ độc lập vì bản thân nó có nhiều yếu tố tiếp thu của mô hình chức nghiệp và mô hình việc làm. Ví dụ, vừa phân chia công chức theo ngạch, bậc vừa có hệ thống lương chức vụ. Pháp luật của một số nước trên thế giới cho rằng, công vụ có nội dung bao gồm việc thực hiện các hoạt động của nhà nước trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục, an ninh, quốc phòng nhằm thỏa mãn nhu cầu chung của xã hội trên cơ sở đường lối chính trị đã hoạch định. Tất cả những hoạt động của nhà nước đều nhằm mục đích phục vụ nhân dân, thi hành pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống để bảo đảm trật tự, kỷ cương xã hội. Mặt khác, các luật đều được cụ thể hóa bằng quyết định quản lý nhà nước. Việc thi hành các quyết định quản lý nhà nước và tiến hành những hoạt động về quản lý công chức, quản lý ngân sách, quản lý tài sản là để thực hiện các công việc nói trên. Vậy, công vụ là hoạt động phục vụ công việc nhà nước, được bảo đảm bằng quyền lực nhà nước và nhằm sử dụng quyền lực đó để thực hiện các nhiệm vụ quản lý của nhà nước [48, tr. 16; 60]; [48, tr. 11; 114-116]. Theo PGS.TS Nguyễn Cửu Việt, ở nước ta hoạt động do các cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy của Nhà nước, Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội và nhiều tổ chức xã hội khác thực hiện, thực chất đều là hoạt động phục vụ lợi ích công; đa phần trong số đó có tính chuyên nghiệp, thường xuyên và được bảo đảm bằng ngân sách nhà nước. Như vậy, có thể nói rằng, đây là hoạt động "công vụ" với nghĩa đúng của từ. Tuy nhiên, trên cơ sở ý nghĩa khoa học và thực tiễn quy định pháp lý về vấn đề này, khái niệm công vụ có thể được hiểu là hoạt động của các công chức, viên chức trong cơ quan, đơn vị sự nghiệp của nhà nước và lực lượng vũ trang [72, tr. 195-198]. Dù rằng khái niệm "công vụ" trong pháp luật hiện hành chưa có định nghĩa chính thức và nội hàm của khái niệm này còn có sự biến động, chúng ta vẫn có thể nhận thấy (qua nội dung Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ công chức số 11/2003/PL-UBTVQH ngày 29/4/2003), công vụ có những đặc điểm chính sau đây: Một là, "công vụ" trước hết là hoạt động có tính chất phục vụ. Toàn bộ hoạt động của bộ máy hành chính - nhà nước thực chất có tính chất phục vụ. Bản thân hoạt động hành pháp thực chất là nhằm đưa pháp luật do quyền lập pháp ban hành vào đời sống, do đó dưới góc độ này, nó mang tính chất phục vụ quyền lập pháp. Đồng thời, quyền hành pháp còn mang tính chất phục vụ dân chúng. Vì vậy, đây còn là đặc điểm phân biệt "công vụ" với các hoạt động tư pháp. Hoạt động tư pháp là xét xử, phán quyết liên quan đến lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các công dân. Bên cạnh đó vẫn có những mảng "công vụ" phục vụ cả hoạt động tư pháp, vì trong cơ quan tư pháp vẫn có công chức làm việc. Nhưng tính chất phục vụ ở đây gắn với nhà nước, do nhà nước thông qua bộ máy các cơ quan nhà nước, các cán bộ, công chức, viên chức thực hiện, do đó tính chất phục vụ ở đây, trực tiếp hay gián tiếp đều gắn với tính quyền lực và pháp lý. Hai là, hoạt động công vụ có tính chuyên nghiệp. Tính chất này xuất phát từ yêu cầu chuyên môn hóa của khách thể quản lý, của công vụ nhà nước, đặc biệt trong điều kiện khoa học, công nghệ phát triển cao của thế giới hiện đại. Nó đồng thời là điều kiện cần thiết bảo đảm cho hoạt động công vụ có khả năng giải quyết được các vấn đề nảy sinh trong việc thực hiện các chức năng của Nhà nước trong điều kiện hiện nay. Tính chuyên nghiệp được hiểu cả ở hai mặt: là hoạt động đòi hỏi phải có kiến thức chuyên môn về các ngành và lĩnh vực quản lý, đồng thời đòi hỏi cả hiểu biết về khoa học quản lý. Thực tiễn chế độ công vụ nước ta đang phát triển theo hướng coi công vụ là một nghề tương tự như chế độ công vụ chức nghiệp, tuy có kết hợp ít nhiều với chế độ công vụ theo việc làm. Ba là, nó có thể không trực tiếp làm ra của cải vật chất cho xã hội nhưng bảo đảm các điều kiện, hỗ trợ, tổ chức quản lý hoạt động sản xuất của cải vật chất. Nói cách khác, đó là hoạt động quản lý con người, nhằm tác động lên con người hoặc phục vụ con người. Đây là hoạt động của những người làm quản lý chuyên nghiệp - công chức, những người thực hiện hoạt động hành chính - nhà nước theo cách nói thông dụng hiện nay; và của cả những người có uy tín và năng lực quản lý được bầu - cán bộ. Ngoài ra, công vụ còn bao gồm cả hoạt động của các chuyên gia trong các lĩnh vực hoạt động khác của Nhà nước như: giáo dục (giáo viên), khoa học - công nghệ (nghiên cứu viên, kỹ sư, kiến trúc sư...), y tế (bác sĩ...), văn hóa nghệ thuật (họa sĩ, nhạc sĩ, nhà văn...)... Các chuyên gia này trong Pháp lệnh Cán bộ công chức sửa đổi và Nghị định hướng dẫn thi hành Pháp lệnh được gọi là viên chức, chứ không phải là công chức như trước kia. Đây lại không phải là hoạt động quản lý con người, mà là hoạt động trực tiếp làm ra những sản phẩm tinh thần cho xã hội, tuy không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất. Bốn là, hoạt động công vụ nhà nước được bảo đảm bằng ngân sách nhà nước. Những đặc điểm này xác định hoạt động công vụ nhà nước như một dạng hoạt động riêng biệt, khác những dạng hoạt động sản xuất như hoạt động của công nhân và nông dân. Từ những phân tích nêu trên, bước đầu có thể đưa ra định nghĩa công vụ như sau: Công vụ là một loại lao động mang tính phục vụ, tính quyền lực và pháp lý được thực thi bởi đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trong quá trình quản lý toàn diện các mặt hoạt động của đời sống xã hội. 1.1.2. Khái niệm công chức Nền công vụ của mỗi quốc gia có tính quy định trực tiếp tới không chỉ quan niệm mà cả quá trình hình thành đội ngũ công chức của quốc gia đó. Tùy theo phạm vi công vụ rộng hay hẹp, khái niệm công chức cũng có nội hàm rộng, hẹp tương ứng. Nhìn chung, các quan niệm về công chức ở nước ta và các nước khác trong lịch sử và hiện tại thường khác nhau về đối tượng nào là công chức. Sự khác nhau này thể hiện trong các quan điểm dưới đây: - Quan điểm thứ nhất, thường xuất phát ở các nước theo mô hình công vụ xã hội chủ nghĩa. Do đồng nhất hoạt động công vụ với hoạt động quản lý của Đảng, đoàn thể và lao động trực tiếp của công nhân, dẫn đến quan niệm về khái niệm công chức nhà nước không chỉ bao gồm những đối tượng làm việc trong cơ quan nhà nước (cả lập pháp, hành pháp và tư pháp) mà cả trong các tổ chức Đảng, đoàn thể, thậm chí trong cả các đơn vị sản xuất [5, tr. 108-109]. Với phạm vi này, khái niệm công chức không xác định, quy chế công chức không rõ ràng. Quan điểm này đồng nhất với khái niệm "cán bộ" của tác giả Tô Tử Hạ đưa ra trong "Một số vấn đề về công chức, công vụ trong điều kiện hiện nay" [152, tr. 10]. - Quan điểm thứ hai cho rằng, công chức bao gồm những người làm việc trong bộ máy nhà nước nói chung, tương ứng với quan niệm công vụ là hoạt động của toàn bộ bộ máy nhà nước (bao gồm hoạt động của công chức trong cơ quan quyền lực, xét xử, kiểm sát và cơ bản nhất là trong các cơ quan quản lý nhà nước). Quan niệm này tương tự như cách hiểu khái niệm "viên chức" ở nước ta [77, tr. 178]. - Quan điểm thứ ba cho rằng, công chức bao gồm những người hoạt động trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp của Nhà nước và bộ máy phục vụ của các cơ quan nhà nước khác, giữ một công vụ thường xuyên, ổn định [61]. - Quan điểm thứ tư thuần túy cho rằng, công chức chỉ bao gồm những đối tượng phục vụ trong bộ máy hành chính, giữ một chức vụ thường xuyên và ổn định. Quan niệm này xuất phát từ chỗ coi công vụ nhà nước chỉ là hoạt động của các cơ quan hành chính [152, tr. 12]. Từ những quan niệm trên về công chức, mà ở những nước khác nhau cũng có những quy định khác nhau về đối tượng này. Theo Điều lệ tạm thời về công chức nhà nước của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa công bố ngày 14/8/1993, có hiệu lực kể từ ngày 1/10/1993, công chức nhà nước bao gồm công chức lãnh đạo và không lãnh đạo. Để trở thành công chức mọi người đều phải thông qua một chế độ tuyển dụng hết sức nghiêm ngặt. Chức danh công chức không lãnh đạo gồm: Cán sự, chuyên viên, chuyên viên tổ trưởng, chuyên viên tổ phó, trợ lý chuyên viên nghiên cứu, chuyên viên nghiên cứu, trợ lý chuyên viên thanh tra, chuyên viên thanh tra. Chức danh công chức lãnh đạo gồm: Thủ tướng Quốc vụ viện, Phó Thủ tướng Quốc vụ viện, các thành viên Quốc vụ viện; chức trưởng, phó cấp bộ, cấp tỉnh, chức trưởng phó cấp vụ, cấp sở; Trưởng, phó phòng (trong các vụ, sở, huyện); Tổ trưởng, tổ phó; Trưởng, phó cấp xã. Luật Công chức Cộng hòa Liên bang Đức qui định: Những người chịu sự chỉ huy, kiểm tra trực tiếp của Liên bang là công chức liên bang, những người phục vụ ở các đoàn thể xã hội, đoàn thể xây dựng vật chất và tài chính theo luật chung, trực tiếp lệ thuộc Chính phủ liên bang, là công chức gián tiếp. Tất cả các thành phần trên đây đều được gọi là công chức. ở Nhật Bản, công chức bao gồm công chức trung ương và công chức địa phương. Công chức trung ương gồm những người được nhậm chức trong bộ máy chính phủ trung ương, trường công và bệnh viện quốc lập, được lĩnh lương từ ngân sách nhà nước. Công chức địa phương gồm những người làm việc và lĩnh lương từ tài chính địa phương. ở Inđônêxia, công chức bao gồm những người được tuyển dụng và bổ nhiệm làm việc thường xuyên ở các công sở ở trung ương và địa phương, một số sĩ quan cấp cao trong quân đội, những nhà quản trị các doanh nghiệp nhà nước. ở Pháp công chức gồm những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào làm việc trong các công sở gồm các cơ quan hành chính công quyền và các tổ chức dịch vụ công cộng do nhà nước tổ chức, bao gồm cả trung ương và địa phương nhưng không tính các công chức địa phương thuộc các hội đồng địa phương quản lý [50, tr. 15-17]. Những thông tin trên cho thấy, phạm vi công chức ở các nước rất khác nhau. Có nước chỉ giới hạn công chức là những người thực hiện hoạt động quản lý nhà nước, thi hành pháp luật, nhưng cũng có nước coi công chức bao gồm cả những người làm việc trong các cơ quan sự nghiệp thực hiện dịch vụ công. Song điểm chung là, các nước đều giới hạn công chức trong phạm vi bộ máy hành chính nhà nước. ở nước ta, phạm trù công chức không chỉ giới hạn trong phạm vi những người thuộc nền hành chính nhà nước, mà còn nằm cả trong hệ thống chính trị. Theo pháp luật hiện hành đồng thời tồn tại ba khái niệm "cán bộ", "viên chức" và "công chức". Các "cán bộ", "công chức", "viên chức" mà pháp luật nói chung và các văn bản luật hàn._.h chính nói riêng điều chỉnh, không chỉ làm việc trong bộ máy nhà nước, mà cả trong các cơ quan của các tổ chức xã hội (bao gồm cả tổ chức chính trị - Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp). Đây là một nét đặc thù xuất phát từ chế độ chính trị của nước ta [134, tr. 150]. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII và Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, từ giữa năm 1993 công việc xây dựng dự án Pháp lệnh cán bộ công chức được tiến hành khẩn trương. Một trong những nội dung khó khăn và phức tạp nhất là xác định phạm vi khái niệm công chức Việt Nam gồm những ai, họ phải hội tụ đủ những tiêu chí nào. Khi cho ý kiến chỉ đạo về dự án Pháp lệnh Công chức do Ban cán sự Đảng Chính phủ trình Bộ Chính trị ngày 25 tháng 8 năm 1995, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã chỉ rõ: ở nước ta, sự hình thành đội ngũ cán bộ, viên chức có đặc điểm khác các nước. Cán bộ làm việc trong các cơ quan nhà nước, Đảng và đoàn thể là một khối thống nhất trong hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Bởi vậy, cần có một pháp lệnh có phạm vi điều chỉnh chung đối với cán bộ trong toàn bộ hệ thống chính trị bao gồm: các công chức nhà nước (trong đó có công chức làm việc ở các cơ quan quân đội, cảnh sát, an ninh,...), cán bộ làm việc chuyên trách trong các cơ quan Đảng, đoàn thể [50, tr. 13]. Tiếp thu tinh thần chỉ đạo trên của Bộ Chính trị, Điều 1 Pháp lệnh Cán bộ, công chức 1998 được sửa đổi năm 2003 không đưa ra định nghĩa riêng cho từng khái niệm "cán bộ", "công chức", cũng không đưa ra một định nghĩa chung cho cả nhóm "cán bộ, công chức", mà chỉ quy định: 1. Cán bộ, công chức được quy định tại Pháp lệnh này là công dân Việt Nam, trong biên chế, bao gồm: a) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương; ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh); ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện); b) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; c) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; d) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc được giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội; đ) Thẩm phán Tòa án nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân. e) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp; g) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân; Bí thư, Phó bí thư Đảng ủy; người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã); h) Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp xã. 2. Cán bộ, công chức quy định tại các điểm a, b, c, đ, e, g và h khoản 1 điều này được hưởng lương từ ngân sách nhà nước; cán bộ, công chức quy định tại điểm d khoản 1 điều này được hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các nguồn thu sự nghiệp theo quy định của pháp luật [142]. Như vậy, Điều 1 Pháp lệnh cán bộ, công chức chưa đưa ra được căn cứ để phân biệt được rõ đâu là công chức và đâu là cán bộ. Mặt khác, thuật ngữ "cán bộ" vốn có nội hàm rất rộng, không xác định theo ý nghĩa thông dụng từ ngôn từ tiếng Việt: Mọi người làm việc công, hoặc người có thẩm quyền, hoặc người lãnh đạo ở một cương vị cao, thấp bất kỳ, không chỉ trong bộ máy nhà nước, mà cả trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội khác đều có thể được gọi là "cán bộ". Tuy nhiên, quy định trên cũng là cơ sở pháp lý quan trọng tách viên chức sự nghiệp với công chức hành chính, nhưng dường như coi công chức bao hàm cả viên chức (xem khoản 2). Trên cơ sở quy định tại Điều 1 Pháp lệnh cán bộ, công chức, cũng như suy ra từ quan niệm về viên chức trước đây, thì cán bộ, công chức, viên chức có ba đặc điểm chung: là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Điều 1 Pháp lệnh cũng chỉ rõ mỗi cán bộ, công chức, viên chức có phương thức riêng để được vào làm việc trong cơ quan, tổ chức nhà nước và xã hội. Xuất phát từ giới hạn của luận án này, chúng tôi chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu khái niệm công chức. Điều 1 Nghị định số 95/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức quy định: Công chức nói tại nghị định này bao gồm những người đã được quy định tại khoản 3 và khoản 5 Điều 1 của Pháp lệnh Cán bộ, công chức. Cụ thể là: 1. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, làm việc trong các cơ quan sau đây: - Văn phòng Chủ tịch nước; - Văn phòng Quốc hội; - Cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; - Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp; - Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài. - Trường học, bệnh viện, cơ quan nghiên cứu khoa học của Nhà nước; - Cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình của Nhà nước; - Thư viện, bảo tàng, nhà văn hóa của Nhà nước - Các tổ chức sự nghiệp khác của Nhà nước. 2. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc các lực lượng vũ trang nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng hoặc là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp [22]. Căn cứ Pháp lệnh năm 2003 sửa đổi, bổ sung một số điều Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998, ngày 10/10/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 117/2003/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước. Theo đó, Điều 2 của Nghị định quy định về công chức như sau: Công chức nói tại nghị định này là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước được quy định tại điểm b, điểm c, điểm e khoản 1, Điều 1 của Pháp lệnh cán bộ, công chức, làm việc trong các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội sau đây: 1. Văn phòng Quốc hội; 2. Văn phòng Chủ tịch nước; 3. Các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; 4. Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp; 5. Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài; 6. Đơn vị thuộc Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; 7. Bộ máy giúp việc thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện [27]. Cũng theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn, lần đầu tiên trong pháp luật nước ta có quy định về công chức xã, phường, thị trấn. Theo quy định của Nghị định này, công chức xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) được hiểu là những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp xã (gọi chung là công chức cấp xã), gồm các chức danh sau đây: 1. Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy); 2. Chỉ huy trưởng quân sự; 3. Văn phòng - Thống kê; 4. Địa chính - Xây dựng; 5. Tài chính - Kế toán; 6. Tư pháp - Hộ tịch; 7. Văn hóa - Xã hội. Đối chiếu Điều 2 Nghị định số 117/2003/NĐ-CP, khoản 2 Điều 2 Nghị định số 114/2003/NĐ-CP với quy định tại Điều 1 Nghị định số 95/1998/NĐ-CP chúng ta thấy rằng, phạm vi khái niệm công chức quy định tại Điều 2 Nghị định số 117, khoản 2 Điều 2 Nghị định số 114 không bao gồm những người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp và bổ sung thêm những người làm việc trong bộ máy giúp việc thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, những người giữ các chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Theo quy định tại Nghị định số 95/1998/NĐ-CP ngày 17 tháng 11 năm 1998 và Nghị định số 117/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003, công chức nói tại nghị định này và các văn bản hướng dẫn thi hành được phân loại trình độ đào tạo, theo ngạch công chức và theo vị trí công tác. Cụ thể như sau: Nghị định số 95/1998/NĐ-CP ngày 17 tháng 11 năm 1998 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức phân loại công chức theo trình độ đào tạo và vị trí công tác: Theo trình độ đào tạo, công chức được phân thành bốn loại: 1) Công chức loại A là những công chức có trình độ đào tạo chuyên môn từ bậc đại học trở lên; 2) Công chức loại B là những công chức có trình độ đào tạo chuyên môn ở bậc trung học chuyên nghiệp, cao đẳng; 3) Công chức loại C là những công chức có trình độ đào tạo chuyên môn ở bậc sơ cấp; 4) Công chức loại D là những công chức có trình độ đào tạo chuyên môn ở bậc dưới sơ cấp. Cụ thể hóa công chức loại A và D, Thông tư số 04/1999/TT-TCCP ngày 20 tháng 3 năm 1999 của Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) hướng dẫn Nghị định số 95/1998/NĐ-CP quy định: Công chức loại A là những người có trình độ đào tạo chuyên môn từ bậc đại học trở lên. Những người có trình độ cao đẳng tuyển dụng sau ngày 2/12/1998 không xếp ngạch chuyên viên - 01.003 và những ngạch có yêu cầu trình độ đại học mà chỉ được tuyển vào ngạch công chức loại B. Công chức loại D là những người có trình độ đào tạo chuyên môn ở bậc dưới sơ cấp và đã được tuyển dụng vào biên chế trước khi ban hành Nghị định số 25/CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ quy định tạm thời chế độ tiền lương mới của công chức, viên chức hành chính sự nghiệp và lực lượng vũ trang. Những người đào tạo ở trình độ dưới sơ cấp được tuyển sau ngày 23 tháng 5 năm 1993 để làm các công việc: Nhân viên, lái xe, bảo vệ trong cơ quan hành chính sự nghiệp thực hiện hợp đồng trong chỉ tiêu biên chế và được điều chỉnh theo Bộ luật lao động. Trường hợp đặc biệt ở một số cơ quan khi có yêu cầu tuyển công chức loại D phải được sự thống nhất bằng văn bản của Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ. Theo vị trí công tác, công chức được phân thành hai loại: 1) Công chức lãnh đạo (chỉ huy và điều hành); 2) Công chức chuyên môn nghiệp vụ. Nghị định số 117/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước phân loại công chức cũng theo trình độ đào tạo, vị trí công tác. Điểm mới của Nghị định này còn phân công chức theo ngạch công chức: Theo trình độ đào tạo, công chức được phân thành ba loại: 1) Công chức loại A là người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào tạo chuyên môn giáo dục đại học và sau đại học; 2) Công chức loại B là người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào tạo chuyên môn giáo dục nghề nghiệp; 3) Công chức loại C là người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào tạo chuyên môn dưới giáo dục nghề nghiệp. Theo Thông tư số 09/2004/TT-BNV ngày 19 tháng 2 năm 2004 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 117/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước, công chức loại A được hiểu là những người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào tạo chuyên môn giáo dục đại học và sau đại học bao gồm: cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ. Theo vị trí công tác, công chức được phân ra làm hai loại: 1) Công chức lãnh đạo, chỉ huy; 2) Công chức chuyên môn, nghiệp vụ. Theo ngạch công chức, công chức được phân thành năm loại : 1) Công chức ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương trở lên; 2) Công chức ngạch chuyên viên chính và tương đương; 3) Công chức ngạch chuyên viên và tương đương; 4) Công chức ngạch cán sự và tương đương; 5) Công chức ngạch nhân viên và tương đương. Việc phân loại công chức theo Nghị định số 95 và Nghị định số 117 như đã trình bày, theo chúng tôi là việc làm có ý nghĩa thiết thực về mặt lý luận và thực tiễn đối với việc cơ cấu, quy hoạch, quản lý công chức trong hoạt động công vụ. Trên cơ sở cách phân loại này để có những tiêu chí khác nhau trong việc đánh giá, sử dụng, đề bạt, xử lý công chức vi phạm một cách thích hợp, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Trên cơ sở những vấn đề đã nêu, kết hợp điểm b, c, e khoản 1 và 2 Điều 1 Pháp lệnh Cán bộ, công chức và khoản 1 Điều 2, Điều 4 Nghị định số 117, khoản 2 Điều 2 Nghị định số 114, chúng ta có thể rút ra một định nghĩa đầy đủ hơn về công chức "theo tinh thần" của Pháp lệnh hiện hành như sau: Công chức Việt Nam là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch hoặc được giao giữ một công vụ (được giao nhiệm vụ thường xuyên), được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, vị trí công tác trong các cơ quan, tổ chức của Nhà nước, bộ máy giúp việc của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, mỗi ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn nghiệp vụ, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Như vậy, theo pháp luật hiện hành, công chức là những người, sau khi thỏa mãn những điều kiện theo định nghĩa trên đây, không chỉ tiến hành hoạt động có tính chất phục vụ việc thực hiện quyền lực nhà nước trong cơ quan hành chính nhà nước hiểu theo nghĩa hẹp, mà cả trong Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, cơ quan tư pháp, các cơ quan đại diện của Nhà nước ở nước ngoài, các cơ quan, đơn vị thuộc các lực lượng vũ trang của Nhà nước, bộ máy giúp việc thuộc các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Quan niệm trên đây cho thấy phạm vi khái niệm công chức về cơ bản phù hợp với thực tiễn hiện hành ở nước ta. Nó tương ứng, nhưng chưa phải là đồng nhất hoàn toàn, với phạm vi hoạt động chấp hành và điều hành của Nhà nước [76]. Phạm vi hoạt động chấp hành và điều hành của Nhà nước không thể loại trừ lĩnh vực quốc phòng, an ninh - hoạt động của lực lượng vũ trang. Do đó, không loại trừ có công chức trong lực lượng này. Như chúng ta thấy, Điều 2 Nghị định số 117/2003/ NĐ-CP khẳng định những người được quy định tại điểm e, khoản 1 Điều 1 Pháp lệnh là công chức, nhưng lại loại trừ những người "chuyên nghiệp" trong lực lượng này, trong khi "tính chuyên nghiệp" là đặc trưng cơ bản của hoạt động công vụ của nước ta như trên đã phân tích. Về mặt thực tiễn, lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang - "những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân" là "sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp; làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân" là "sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp", trừ những người thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự tạm thời, đều có đủ các dấu hiệu theo định nghĩa về công chức, trừ dấu hiệu "được bổ nhiệm vào ngạch công chức" (tuy nhiên họ được bổ nhiệm và thăng tiến bằng cách phong hàm, cấp - cách thức và điều kiện cũng tương tự như công chức vậy). Thiếu dấu hiệu này họ có là công chức nhà nước hay không? Tại sao lại không đưa họ vào diện công chức? Theo chúng tôi, họ không chỉ là công chức mà còn là một loại công chức đặc biệt. Tính chất đặc biệt thể hiện ngay trong hoạt động của họ. Nếu không gọi là công chức thì phải chăng là viên chức? Nếu theo cách ở một số nước tư bản mà sử dụng khái niệm "công chức dân sự" và "công chức quân sự" [48, tr. 417-418] thì có thể gọi họ là "công chức quân sự". Mặt khác, quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định số 114/2003/NĐ-CP về công chức cấp xã, bao gồm Trưởng công an cấp xã (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy), Chỉ huy trưởng quân sự cấp xã cũng là tiền đề cơ sở cho kiến giải nêu trên. Tóm lại, trên con đường hoàn thiện, phạm vi khái niệm công chức của nước ta trải qua nhiều bước phát triển, mỗi bước đều phải phù hợp với đòi hỏi khách quan của các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội hay nói cách khác, bị quy định bởi những điều kiện khách quan đó. Đồng thời cũng bị chi phối bởi nhận thức chủ quan của cơ quan lãnh đạo, nhà lập pháp trong từng thời kỳ, trong đó nhân tố chủ quan vẫn là cơ bản, có ý nghĩa quyết định. 1.1.3. Trách nhiệm pháp lý của công chức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay 1.1.3.1. Khái niệm trách nhiệm pháp lý của công chức Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước có trách nhiệm phục vụ nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về toàn bộ hoạt động của mình. Để thực hiện được trọng trách nặng nề đó Nhà nước đặt ra chế độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, cơ quan nhà nước, đồng thời quy định cụ thể trách nhiệm pháp lý của công chức trong thực hiện nhiệm vụ công vụ. Vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để tạo ra trong đội ngũ công chức sự nhận thức thống nhất, đầy đủ trách nhiệm đó, đồng thời có những biện pháp hữu hiệu thực hiện nghiêm các quy định pháp luật về chế độ trách nhiệm của công chức, giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của bộ máy nhà nước. ở nước ta, sự đa dạng của các chức năng hoạt động của công chức đòi hỏi phải thiết lập trật tự, kỷ luật trong hoạt động quản lý nhà nước. Công chức được trao những quyền hạn cần thiết để thực hiện nhiệm vụ được giao phó, nên vi phạm pháp luật của họ có thể gây ra những thiệt hại đáng kể cho Nhà nước, cho nhân dân. Vì vậy, pháp luật đặt ra nhiều quy định nhằm đảm bảo trật tự, kỷ luật trong hoạt động công vụ. Trách nhiệm pháp lý của công chức đồng nghĩa với trách nhiệm pháp lý mà chủ thể chịu trách nhiệm là công chức khi tham gia hoạt động công vụ. Do đó, việc tìm hiểu khái niệm trách nhiệm pháp lý của công chức cần thiết phải đi từ khái niệm trách nhiệm pháp lý. Khi nghiên cứu trách nhiệm pháp lý, các nhà khoa học pháp lý đã gắn nó với một khái niệm lớn hơn đó là trách nhiệm xã hội. Từ chỗ xác định quan hệ của trách nhiệm pháp lý với trách nhiệm xã hội để tìm hiểu những thuộc tính nội tại của trách nhiệm pháp lý. Trong lĩnh vực hoạt động xã hội, chính trị, thuật ngữ "trách nhiệm" được hiểu theo khía cạnh tích cực - đó là bổn phận, thái độ tích cực đối với công việc được giao. Nếu "thiếu trách nhiệm" thì sẽ bị cộng đồng xã hội đánh giá xấu và lên án - đó là cách hiểu theo nghĩa tiêu cực [49, tr. 417-418]. Trong khoa học pháp lý, trách nhiệm pháp lý cũng được hiểu dưới hai giác độ: 1) trách nhiệm tích cực thể hiện trong quyền và nghĩa vụ; 2) trách nhiệm tiêu cực thể hiện trong việc áp dụng các biện pháp xử lý những chủ thể vi phạm các quyền và nghĩa vụ [153, tr. 177]. Khái niệm "trách nhiệm" theo nghĩa tích cực là việc thực hiện chức trách, công việc được giao, nó bao gồm cả quyền và nghĩa vụ được pháp luật quy định. Chủ thể của trách nhiệm có bổn phận, thái độ tích cực thực hiện những quyền và nghĩa vụ được nhà nước giao phó. Khái niệm "trách nhiệm" theo nghĩa tiêu cực là hậu quả bất lợi (sự phản ứng mang tính chất trừng phạt của nhà nước) mà cá nhân hoặc tổ chức phải gánh chịu khi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền và nghĩa vụ được giao phó, tức là khi vi phạm "trách nhiệm" theo nghĩa tích cực, khi thực hiện vi phạm pháp luật. Đây là khái niệm trách nhiệm truyền thống trong khoa học pháp lý - trách nhiệm pháp lý - trách nhiệm chỉ áp dụng đối với những hành vi đã thực hiện trong quá khứ [153, tr. 418]. Do trách nhiệm pháp lý của công chức là một khái niệm rất rộng, nên trong khuôn khổ luận án này, tác giả luận án chỉ tập trung xem xét trách nhiệm pháp lý của công chức theo nghĩa truyền thống, tức là trách nhiệm tiêu cực phát sinh khi có công chức thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động công vụ. Trách nhiệm pháp lý phát sinh từ yêu cầu khách quan phải phục tùng ý chí chung duy nhất của chủ thể quản lý xã hội là Nhà nước. Để quản lý xã hội, Nhà nước định ra pháp luật, đồng thời buộc mọi cá nhân, tổ chức phải tuân thủ trong mọi hành vi và hoạt động của mình. Như thế, sự tồn tại các quy phạm pháp luật do Nhà nước quy định nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, đáp ứng yêu cầu phục tùng ý chí chung là tiền đề khách quan của trách nhiệm pháp lý. Nhưng đó chỉ là một mặt, mặt khác, sự thực hiện pháp luật còn phụ thuộc vào ý chí của từng cá nhân. Trong những tình huống cụ thể, sự lựa chọn một phương án xử sự của cá nhân bị chi phối mạnh mẽ bởi yếu tố tự do ý chí của cá nhân đó. Đây là tiền đề chủ quan của trách nhiệm pháp lý. Khi cá nhân có thái độ phủ nhận đối với các quy phạm pháp luật, thực hiện hành vi vi phạm pháp luật tất yếu xuất hiện trách nhiệm pháp lý tiêu cực. Trong các trường hợp khác, cá nhân thể hiện rõ quan hệ có trách nhiệm đối với công việc mà Nhà nước và xã hội giao phó, và mong muốn thực hiện nó với kết quả tốt nhất. Đó là trách nhiệm pháp lý tích cực. Pháp luật trong Nhà nước ta thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí, lợi ích, nguyện vọng của toàn thể nhân dân, trở thành tài sản giá trị chung của xã hội. Thực hiện pháp luật trở thành đòi hỏi, động cơ tự giác bên trong của mỗi cá nhân. Đây chính là yếu tố xã hội cho phép mở rộng phạm vi khái niệm trách nhiệm pháp lý, theo đó nó bao gồm cả khía cạnh trách nhiệm pháp lý tiêu cực, và cả khía cạnh trách nhiệm pháp lý tích cực, với xu hướng trách nhiệm pháp lý tích cực ngày càng trở thành phổ biến, chủ đạo. Về thực chất, trách nhiệm pháp lý là một dạng quan hệ pháp luật đặc thù, với nội dung là các quyền và nghĩa vụ do Nhà nước ấn định cho các chủ thể, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh công việc nhất định; và các chế tài thể hiện sự khuyến khích, khen thưởng hay trừng phạt của Nhà nước, tùy thuộc vào chủ thể mối quan hệ pháp luật đó có hành vi tích cực hay tiêu cực trong thực hiện các quyền và nghĩa vụ. Từ quan niệm trách nhiệm pháp lý như trên có thể thấy, trách nhiệm pháp lý của công chức (xem xét dưới giác độ tiêu cực) là trách nhiệm mà chủ thể chịu trách nhiệm là công chức trong hoạt động công vụ. Trong quản lý nhà nước, trách nhiệm pháp lý của công chức là phương tiện bảo vệ trật tự pháp luật, bảo đảm trật tự, kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của bộ máy quản lý. Đây là mục đích chung của trách nhiệm pháp lý của công chức. Bên cạnh đó, trách nhiệm pháp lý của công chức còn có các mục đích cụ thể, trực tiếp, như: giáo dục công chức đạo đức công vụ, ý thức tôn trọng phục vụ nhân dân, thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật, phòng ngừa các vi phạm pháp luật của công chức. Mục đích phòng ngừa bao gồm việc ngăn chặn sự tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm của công chức, răn đe và giáo dục để phòng ngừa các vi phạm đó. Từ những phân tích ở trên cho thấy, trách nhiệm pháp lý của công chức (theo khía cạnh tiêu cực) là hậu quả bất lợi mà Nhà nước áp dụng đối với công chức vi phạm pháp luật trong hoạt động công vụ (trong những trường hợp nhất định còn bao gồm cả việc vi phạm quy tắc đạo đức làm ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan nhà nước hoặc vi phạm điều lệ của tổ chức chính trị) thể hiện sự lên án, phản đối của Nhà nước đối với hành vi vi phạm và người công chức vi phạm. Hay nói cách khác, trách nhiệm pháp lý của công chức là một loại quan hệ pháp luật đặc thù xuất hiện trong hoạt động công vụ. Trong quan hệ đó, Nhà nước có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế có tính chất trừng phạt được quy định ở các chế tài quy phạm pháp luật đối với công chức vi phạm pháp luật (trong những trường hợp nhất định còn bao gồm cả việc vi phạm quy tắc đạo đức làm ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan nhà nước hoặc vi phạm điều lệ của tổ chức chính trị) và người công chức đó phải gánh chịu hậu quả bất lợi về vật chất, tinh thần tương ứng với tính chất, mức độ nguy hại cho xã hội của hành vi vi phạm do họ gây ra. 1.1.3.2. Đặc điểm trách nhiệm pháp lý của công chức Để làm rõ hơn bản chất trách nhiệm pháp lý của công chức, cần thiết phải làm rõ những đặc trưng cơ bản của trách nhiệm pháp lý của công chức. Ngoài những đặc điểm chung giống như những đặc điểm của trách nhiệm pháp lý nói chung (cơ sở thực tế của trách nhiệm pháp lý là vi phạm pháp luật; cơ sở pháp lý của trách nhiệm pháp lý là quyết định có hiệu lực pháp luật của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền; trách nhiệm pháp lý là sự phản ứng của Nhà nước đối với hành vi vi phạm pháp luật; và liên quan mật thiết với cưỡng chế nhà nước), trách nhiệm pháp lý của công chức còn có những đặc trưng riêng có của nó. Trách nhiệm pháp lý của công chức phụ thuộc vào bản chất của Nhà nước, vào mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân. Như trên đã trình bày, Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Do đó, Nhà nước có trách nhiệm phục vụ nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về toàn bộ hoạt động của mình. Công chức nhà nước như Chủ tịch Hồ Chí Minh khi sinh thời đã dạy: "Đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật" [92, tr. 56]. Vì lẽ đó trách nhiệm pháp lý của công chức có những đặc trưng cơ bản sau đây: - Thứ nhất, chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý chỉ là công chức. Người công chức làm việc trong bộ máy nhà nước, được Nhà nước trao cho những quyền năng nhất định để thực hiện nghĩa vụ phục vụ nhân dân. Đó không chỉ là nghĩa vụ đạo đức, mà trước hết là nghĩa vụ, chức trách, công việc được Nhà nước giao phó. Việc công chức không thực hiện đúng bổn phận, chức trách, vi phạm những điều pháp luật cấm trong hoạt động công vụ thì tất yếu phát sinh trách nhiệm pháp lý. Đặc trưng quan trọng trên của trách nhiệm pháp lý của công chức đã được pháp luật của Nhà nước ta ghi nhận từ rất sớm. Quy chế công chức Việt Nam được ban hành kèm theo Sắc lệnh số 76/SL ngày 20 tháng 5 năm 1950 đã xác định: "Công chức Việt Nam phải phục vụ nhân dân, trung thành với Chính phủ, tôn trọng kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm và tránh làm những việc có hại đến thanh danh công chức hay đến sự hoạt động của bộ máy nhà nước" (Điều 2); Điều 55 quy định: "Công chức chịu trách nhiệm trước cấp trên về cách thừa hành chức vụ của mình". Tinh thần và nội dung đó của Quy chế công chức Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành kèm theo Sắc lệnh trên đã trở thành chế độ hiến định (Hiến pháp 1959), được phát triển và cụ thể hóa trong Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2003). Điều 6 Hiến pháp năm 1959 quy định: "Tất cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Tất cả các nhân viên cơ quan nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng phục vụ nhân dân". Pháp lệnh Cán bộ, công chức (sửa đổi, bổ sung năm 2003), tại Điều 7, Điều 39 đều quy định rõ công chức chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành nhiệm vụ, công vụ của mình và nếu vi phạm các quy định của pháp luật thì phải chịu trách nhiệm pháp lý. Đặc biệt Bộ luật hình sự năm 1985 và năm 1999 đều dành một chương quy định tội phạm về chức vụ, trong đó xác định chỉ người có chức vụ là chủ thể của tội này, người dân không phải là công chức thì không là chủ thể của tội phạm có chức vụ. Phạm vi chủ thể là công chức phải chịu trách nhiệm pháp lý trước Nhà nước khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động công vụ được Pháp lệnh Cán bộ, công chức xác định và được quy định cụ thể tại Điều 2 Nghị định số 117/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước (đã được trình bày cụ thể tại điểm 1.1.2, chương 1 luận án). - Thứ hai, cơ sở phát sinh trách nhiệm pháp lý của công chức hiểu theo nghĩa tiêu cực là hành vi vi phạm pháp luật của công chức trong hoạt động công vụ. Đó là các vi phạm nghĩa vụ công chức, vi phạm các điều pháp luật cấm, vi phạm do giải quyết kéo dài các vấn đề đã chín muồi hoặc hoàn toàn có đủ khả năng của cá nhân để giải quyết, ra những quyết định không có căn cứ dẫn đến hậu quả gây tổn hại cho Nhà nước và cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Theo quy định của pháp luật hiện hành, công chức phải chịu trách nhiệm kỷ luật khi vi phạm các quy định tại các điều 6, 7, 8 và các điều khác của chương III Pháp lệnh Cán bộ, công chức, phải chịu trách nhiệm vật chất khi làm mất mát, hư hỏng trang bị, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của Nhà nước (khoản 4, 5 Điều 39 Pháp lệnh Cán bộ, công chức), chịu trách nhiệm hành chính khi thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động công vụ hoặc thực hiện hành vi mại dâm, cờ bạc, ma túy, rượu chè bê tha (Nghị định số 53-CP năm 1994), chịu trách nhiệm hình sự khi thực hiện tội phạm trong hoạt động công vụ (Bộ luật hình sự năm 1999). Bên cạnh những căn cứ nêu trên, trong những trường hợp nhất định, công chức còn phải chịu trách nhiệm pháp lý khi thực hiện hành vi vi phạm các quy tắc đạo đức, vi phạm Điều lệ của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội gây tổn hại cho cơ quan nhà nước (Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Pháp lệnh Chống tham nhũng, Pháp lệnh Cán bộ, công chức, Pháp lệnh Thực hành chống lãng phí,...). Từ những phân tích ở trên cho thấy, trách nhiệm pháp lý của công chức gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi công chức trong hoạt động công vụ. Cơ sở trách nhiệm pháp lý của công chức là hành vi vi phạm pháp luật của công chức trong hoạt động công vụ, trong những trường hợp nhất định còn là việc vi phạm các quy tắc đạo đức, điều lệ của tổ chức chính trị, chính trị - xã hội. Những hành vi vi phạm này của công chức phá vỡ trật tự hoạt động công vụ, làm tổn hại đến mục đích của nền công vụ. Đây cũng chính là căn cứ để phân biệt cơ sở trách nhiệm pháp lý của công chức với trách nhiệm pháp lý của công dân. - Thứ ba, việc xử lý công chức vi phạm pháp luật trong hoạt động công vụ theo nguyên tắc bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật. Người công chức vi phạm khi bị truy cứu trách nhiệm pháp lý hoàn toàn không có bất cứ đặc quyền, đặc lợi nào, thậm chí trong những._.7, tr. 12], ngày 08 tháng 9 năm 1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 71/1998/NĐ-CP về quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan. Đây là văn bản có tính pháp lý nhằm xác định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia vào hoạt động của cơ quan, xác định nội dung dân chủ trong các quan hệ cơ bản: giữa thủ trưởng và cán bộ, công chức, giữa cơ quan cấp trên và cơ quan cấp dưới, giữa cơ quan, cán bộ, công chức với công dân... nhằm tạo ra một cơ chế hoạt động dân chủ, đồng bộ trong cơ quan nhà nước, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc thực hiện tốt quy chế thực hiện dân chủ trong cơ quan sẽ giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện được những nhiệm vụ phức tạp là xây dựng cơ quan nhà nước trong sạch, vững mạnh, có đội ngũ cán bộ, công chức tận tụy, đủ phẩm chất, năng lực, hoạt động có hiệu quả, ngăn chặn và chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, gây phiền hà sách nhiễu, giữ gìn kỷ luật công vụ. Ngoài ra, theo quan điểm của chúng tôi, các cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình triển khai Quy chế dân chủ cần phải nghiêm túc kiểm điểm việc thực hiện Quy chế, xử lý nghiêm kỷ luật đối với những trường hợp công chức vi phạm Quy chế (thông qua kiểm tra phát hiện hoặc được đơn thư tố cáo của nhân dân). 8. Đẩy mạnh công tác đấu tranh chống vi phạm pháp luật nói chung, vi phạm của công chức nói riêng. Thu hút mọi tầng lớp nhân dân lao động tham gia vào cuộc đấu tranh đó. Kết hợp sức mạnh của pháp chế với sức mạnh của dư luận quần chúng, công khai hóa hơn nữa việc xử lý vi phạm pháp luật. Việc xử lý những vụ vi phạm pháp luật điển hình cần được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng. Chính vì vậy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII chỉ rõ: "Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật với các đoàn thể nhân dân và các phương tiện thông tin đại chúng trong việc phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tội phạm và những hành vi vi phạm pháp luật" [33, tr. 32]. Những công việc trên sẽ góp phần tích cực đến việc nâng cao và hoàn thiện nhận thức và tình cảm của nhân dân, công chức đối với các văn bản pháp luật về trách nhiệm pháp lý nói riêng, nâng cao và hoàn thiện ý thức pháp luật nói chung. Bên cạnh những giải pháp kể trên, theo chúng tôi còn một vấn đề nữa đặt ra góp phần ngăn ngừa và hạn chế vi phạm pháp luật của công chức trong hoạt động công vụ, đó là việc kết hợp giữa trách nhiệm pháp lý với các biện pháp tác động xã hội khác, như việc thông báo về địa phương, gia đình của công chức vi phạm. Đồng thời, quan tâm hơn nữa trong việc giải quyết chế độ chính sách cho công chức nhà nước nhằm nâng cao đời sống vật chất cho họ, như tăng lương, bố trí nhà ở... Đây đang là những vấn đề hết sức thời sự và là một trong những nội dung cơ bản của Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 -2010. 9. Những người làm công tác cán bộ giữ yếu tố quyết định trong việc triển khai thực hiện thành công chính sách cán bộ của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc hoàn thiện trách nhiệm pháp lý của công chức không thể không gắn liền với việc kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức cán bộ ở các bộ ngành, địa phương và các ban của Đảng. Cần bố trí những công chức mẫn cán, trung thành, tận tụy, có tinh thần đổi mới và phẩm chất đạo đức tốt làm công tác này. Kết luận chương 3 Nhu cầu hoàn thiện trách nhiệm pháp lý của công chức bắt nguồn từ yêu cầu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách hành chính, hội nhập quốc tế, khu vực, thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm pháp lý của công chức. Việc hoàn thiện trách nhiệm pháp lý của công chức trong điều kiện hiện nay phải bảo đảm các mục tiêu và phương hướng hoàn thiện. Căn cứ nhu cầu, phương hướng hoàn thiện, giải pháp hoàn thiện về trách nhiệm pháp lý của công chức đã được cụ thể hóa thành hai nhóm giải pháp: nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật và nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện. Việc tiến hành một cách mạnh mẽ và đồng bộ các giải pháp này là cơ sở cho việc hoàn thiện trách nhiệm pháp lý của công chức ở nước ta hiện nay. Kết luận Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về từng bước xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhiệm vụ đặt ra phải đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp và hoạt động lập pháp, trong đó vấn đề cốt lõi đặt lên hàng đầu là công tác cán bộ. Để làm tốt điều này đòi hỏi phải thiết lập chế độ trách nhiệm chặt chẽ, nâng cao vai trò của trách nhiệm pháp lý nói chung và trách nhiệm pháp lý của công chức trong hoạt động công vụ nói riêng. ở nước ta, chế định trách nhiệm pháp lý với tư cách là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến việc xử lý các vi phạm pháp luật của công chức được hình thành từ những năm đầu thành lập nước, đã đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ trật tự quản lý, duy trì hoạt động của nền công vụ. Từ năm 1998, đặc biệt từ thời điểm ban hành Pháp lệnh Cán bộ, công chức, Pháp lệnh Chống tham nhũng tới nay, chế định này đã từng bước phát triển, tuy còn nhiều vấn đề cần đặt ra. Cơ sở pháp lý của trách nhiệm pháp lý của công chức là sự thực hiện bởi chủ thể (công chức) hành vi vi phạm pháp luật. Vi phạm pháp luật của công chức trong hoạt động công vụ có thể khái quát thành bốn loại vi phạm và tương ứng với chúng là bốn hình thức trách nhiệm (kỷ luật, hình sự, hành chính, vật chất). Trách nhiệm pháp lý của công chức có nét đặc thù riêng, đây chính là căn cứ để phân biệt trách nhiệm pháp lý của công chức với các dạng trách nhiệm pháp lý khác: 1) Công chức là chủ thể trách nhiệm pháp lý của công chức; 2) Cơ sở của trách nhiệm pháp lý của công chức là vi phạm pháp luật trong hoạt động công vụ. Trong những trường hợp nhất định, việc vi phạm đạo đức, vi phạm điều lệ của tổ chức chính trị cũng là cơ sở của trách nhiệm pháp lý của công chức; 3) Mức độ trách nhiệm pháp lý của công chức nặng hơn so với công dân bình thường nếu họ thực hiện cùng một vi phạm pháp luật với tính chất và mức độ như nhau (nguyên tắc trách nhiệm tăng nặng); 4) Công chức lãnh đạo phải chịu trách nhiệm liên đới về hành vi vi phạm pháp luật của công chức thuộc quyền quản lý; và 5) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm dụng chức vụ quyền hạn để vi phạm. Giữa trách nhiệm pháp lý của công chức với các dạng trách nhiệm xã hội khác (trách nhiệm chính trị, trách nhiệm đạo đức) của công chức có mối quan hệ mật thiết với nhau. Pháp luật về trách nhiệm hình sự và hành chính về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu quản lý. Tuy nhiên, pháp luật về trách nhiệm kỷ luật và vật chất còn nhiều tồn tại, cần thiết phải có sự điều chỉnh chi tiết hơn đối với sự vi phạm kỷ luật nhiều lần và tái phạm kỷ luật, cũng như sự chi tiết hóa các hành vi vi phạm kỷ luật cụ thể và tương ứng với nó là các biện pháp trách nhiệm kỷ luật. Pháp luật nước ta về trách nhiệm kỷ luật và còn thiếu vắng các quy định về trách nhiệm của người đứng đầu để xảy ra tiêu cực, tham nhũng tại cơ quan, đơn vị mình phụ trách, trách nhiệm liên đới của Thủ trưởng cơ quan, trách nhiệm pháp lý tập thể, trách nhiệm của người tham mưu và người ra các quyết định hành chính sai trái; còn nặng chú trọng hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý dưới giác độ tiêu cực, mà ít chú trọng đến việc hoàn thiện và kiểm tra thực hiện trách nhiệm pháp lý dưới giác độ tích cực Về mặt thực hiện trách nhiệm pháp lý của công chức, khâu yếu nhất vẫn là tổ chức thực hiện. Có nhiều nguyên nhân nhưng trong đó phải kể đến công tác thanh tra, kiểm tra việc xử lý còn yếu, ý thức pháp luật của công chức về trách nhiệm pháp lý chưa cao, đạo đức nghề nghiệp công chức chưa được tôn vinh, công tác thống kê vi phạm chưa thực hiện thường xuyên, thủ tục hành chính rườm rà, sự phối kết hợp giữa các cơ quan trong quá trình xử lý công chức vi phạm còn yếu,... Từ những vấn đề lý luận về trách nhiệm pháp lý của công chức, thực trạng quy định pháp luật và thực hiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của công chức ở nước ta hiện nay, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế và khu vực, cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền, vấn đề đặt ra cần phải hoàn thiện trách nhiệm pháp lý của công chức cả về mặt thể chế lẫn tổ chức thực hiện. Việc thực hiện tốt 8 giải pháp về thể chế và 9 giải pháp về tổ chức thực hiện, nêu tại chương 3 luận án là cơ sở để hoàn thiện quy định pháp luật và thực hiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của công chức trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những CÔNG Trình Của Tác Giả LIÊN QUAN Đến Đề Tài Đã Được CÔNG bố Ngô Hải Phan (1997), "Cơ sở trách nhiệm kỷ luật của công chức trong hoạt động quản lý nhà nước", Nhà nước và pháp luật, 4(108), tr. 17-22. Ngô Hải Phan (1997), "Quan hệ giữa trách nhiệm kỷ luật của công chức với các loại trách nhiệm pháp lý khác", Nhà nước và pháp luật, 9(113), tr. 16-22. Ngô Hải Phan (2002), "Mối quan hệ giữa trách nhiệm kỷ luật với các dạng trách nhiệm pháp lý khác của công chức", Quản lý nhà nước, 4(74), tr. 17-20. Ngô Hải Phan (2003), "Tìm hiểu pháp luật hiện hành về thẩm quyền xử lý kỷ luật công chức", Tổ chức nhà nước, (4), tr. 22-23; 47. Ngô Hải Phan (2003), "Cơ sở và đặc điểm trách nhiệm kỷ luật của công chức ở Việt Nam", Dân chủ và pháp luật, 4(133), tr. 6-8. Ngô Hải Phan (2004), " Mấy suy nghĩ về đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam", Tổ chức nhà nước, 4, tr. 13-14. Ngô Hải Phan (2004), "Trách nhiệm pháp lý của công chức trong nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa", Lý luận chính trị, 4, tr. 45-50. Danh Mục tài liệu tham khảo Nguyễn Hoàng Anh (1998), Vấn đề hoàn thiện pháp luật công chức ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội. Nguyễn Hoàng Anh (2002), Chế định trách nhiệm vật chất trong Luật hành chính Việt Nam và một số vấn đề cần hoàn thiện. Nhà nước và pháp luật Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Ban Cán sự Đảng Chính phủ (2003), Báo cáo về việc kiểm tra đầu tư xây dựng và quản lý sử dụng đất đai, (số 22/BCS ngày 7 tháng 3). Ban Chỉ đạo Cải cách hành chính của Chính phủ (2004), Báo cáo kết quả nghiên cứu về cải cách hành chính tại Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapo, Hà Nội. Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ (1993), Chế độ công chức và luật công chức ở một số nước trên thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ (1993), Tài liệu nghiên cứu về chế độ công chức các nước, Hà Nội. Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ (1995), "Những khái niệm chủ yếu của nền công vụ (xếp theo chữ chính)", Dịch từ cuốn: Nền công vụ từ A đến Z của Cộng hòa Liên bang Đức. Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ (1999), Thông tư số 05/1999/TT-TCCP ngày 27/3 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 97/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của Chính phủ về xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất đối với công chức, Hà Nội. Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ (1999), Báo cáo về thực trạng đội ngũ và tình hình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước hiện nay, Hà Nội. Ban Tổ chức Trung ương (2002), Quy định, hướng dẫn cụ thể thi hành Điều lệ Đảng, Hà Nội. Phạm Tuấn Bình (2003), Tìm hiểu các tội phạm về chức vụ, Nxb Lao động, Hà Nội. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (2001), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Bộ Lao động và Thương binh xã hội (1970), Thông tư số 11-LĐ/TT ngày 14/7 hướng dẫn thêm một số điểm về thủ tục thi hành kỷ luật công nhân, viên chức, Hà Nội. Bộ Nội vụ (2003), Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001- 2010 và những văn bản liên quan, Hà Nội. Bộ Nội vụ (2004), Thông tư số 09/2004/TT-BNV ngày 19/2 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 117/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước, Hà Nội. Bộ Tài chính (1998), Thông tư số 38/1998/TT-BTC ngày 30/3 hướng dẫn việc lập dự toán, sử dụng và quyết toán ngân sách nhà nước cho bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng, Hà Nội. Bộ Tư pháp (1998), "Số chuyên đề về luật hình sự của một số nước trên thế giới", Dân chủ và pháp luật. Chính phủ (1994), Nghị định số 53-CP ngày 28/6 quy định các biện pháp xử lý đối với cán bộ, viên chức nhà nước và những người có hành vi liên quan đến mại dâm, ma túy, cờ bạc và say rượu bê tha, Hà Nội. Chính phủ (1996), Nghị định số 101/2001/NĐ-CP ngày 25/6 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, Hà Nội. Chính phủ (1997), Nghị định số 47/CP ngày 3/5 về giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền tố tụng gây ra, Hà Nội. Chính phủ (1998), Nghị định số 64/1998/NĐ-CP ngày 17/8 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Chống tham nhũng, Hà Nội. Chính phủ (1998), Nghị định số 95/1998/NĐ-CP ngày 17/11 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức, Hà Nội. Chính phủ (1998), Nghị định số 96/1998/NĐ-CP ngày 17/11 về chế độ thôi việc đối với cán bộ, công chức, Hà Nội. Chính phủ (1998), Nghị định số 97/1998/NĐ-CP ngày 17/11 về xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất đối với công chức, Hà Nội. Chính phủ (1999), Báo cáo kiểm điểm sự chỉ đạo điều hành năm 1999 và chương trình công tác năm 2000, Hà Nội. Chính phủ (1999), Nghị định số 67/1999/NĐ-CP ngày 7/8 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Khiếu nại, tố cáo, Hà Nội. Chính phủ (2003), Nghị định số 117/NĐ-CP/2003 ngày 10/10 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước, Hà Nội. Chính phủ (2003), Báo cáo số 91/CP-NC ngày 18/10 về tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật quý IV năm 2002 và 8 tháng đầu năm 2003, Hà Nội. Chính phủ (2003), Báo cáo trình bày trước Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 4 ngày 20/10 về tình hình kinh tế - xã hội năm 2003 và nhiệm vụ năm 2004, Hà Nội. Cơ sở lý luận chính trị - hành chính (1998), Nxb Giáo dục, Hà Nội. Cục Kiểm Lâm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2001), Báo cáo thống kê vi phạm pháp luật của công chức ngành kiểm lâm từ năm 1997 đến năm 2001, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1989), Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995) Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nghiêm Đằng, Vũ Văn Uyên (1967), Hành chánh học, Hội nghiên cứu hành chánh Sài Gòn. Bùi Xuân Đính (2003) "Việc tuyển chọn và sử dụng quan lại thời phong kiến Việt Nam", Nhà nước và pháp luật, (7(183), tr. 46-53. Nguyễn Đình Gấm (2003), "Vấn đề nâng cao uy tín cán bộ, công chức nhà nước trong tình hình hiện nay", Nhà nước và pháp luật, 9(185), tr. 41-44. Giáo trình Luật hành chính Việt Nam (2000), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật (2001), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Tô Tử Hạ (1998), Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Thu Hạnh (1998), Vi phạm hành chính và tội phạm những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật -Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội. Hoàng Văn Hảo (1995), Những mặt đối lập với quan niệm Nhà nước pháp quyền. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý, Hà Nội. Hoàng Văn Hảo (1999), "Dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan", Quản lý nhà nước, (3), tr. 6. Hoàng Văn Hảo (2004), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa", Nhà nước và pháp luật, 3(191), tr. 3-10. Hệ thống công vụ các nước ASEAN và Việt Nam (1997), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Học viện Hành chính Quốc gia (1991), Về cải cách bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Học viện Hành chính Quốc gia (1996), Về nền hành chính nhà nước Việt Nam những kinh nghiệm xây dựng và phát triển, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. Học viện Hành chính Quốc gia (1996), Cưỡng chế hành chính nhà nước, Hà Nội. Học viện Hành chính Quốc gia (2003), Kỷ yếu hội thảo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức - một giải pháp quan trọng để tăng cường năng lực quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam, Hà Nội. Hội đồng Bộ trưởng (1983), Nghị định số 46-HĐBT ngày 10/5 quy định việc xử lý bằng biện pháp hành chính các hành vi đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, Hà Nội. Hội đồng Bộ trưởng (1991), Nghị định số 169/HĐBT ngày 25/5 về công chức nhà nước, Hà Nội. Hội đồng Chính phủ (1964), Nghị định số 195-CP ngày 31/12 ban hành điều lệ về kỷ luật lao động trong các xí nghiệp cơ quan nhà nước, Hà Nội. Hội đồng Chính phủ (1968), Nghị định số 49-CP ngày 9/4/1968 ban hành chế độ trách nhiệm vật chất của công dân, viên chức đối với tài sản của nhà nước, Hà Nội. Hội đồng Chính phủ (1979), Nghị định số 217-CP ngày 8/6 ban hành bản quy định về chế độ trách nhiệm, chế độ kỷ luật, chế độ bảo vệ của công dân và chế độ phục vụ nhân dân của cán bộ, nhân viên và cơ quan nhà nước, Hà Nội. Lê Trọng Hùng (2002), "Về vụ tham nhũng ở Công ty du lịch dịch vụ thương mại (DVTM) Thanh Hóa: cơ quan điều tra bỏ lọt người phạm tội?", Báo Pháp luật, 73(1603), tr. 5. Phạm Tuấn Khải (1998), Những vấn đề pháp lý cơ bản của việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Thanh tra Nhà nước Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ Luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Phan Văn Khải (2001), Đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững khi bước vào thế kỷ XXI, Báo cáo tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa X. Phan Văn Khải (2002), Định hướng Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2002-2007, Trình bày tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XI. Phan Văn Khải (2003), Phát biểu tại Hội nghị 4 năm thực hiện Luật Doanh nghiệp, ngày 4/11. Nguyễn Khánh (2003), Đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy và phương hướng hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước các cấp, Nxb Lao động, Hà Nội. Lê Đình Khiên (2002), Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức quản lý hành chính, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (1998), Giáo trình Luật hình sự (phần chung), Hà Nội. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2000), Giáo trình Luật Hành chính, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2000), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Hà Nội. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. Khoa Luật, Trường Đại học Khoa học Xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội (1997), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Hà Nội. Khoa Luật, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (1992), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Hà Nội. Võ Văn Kiệt (1995), "Ngành thanh tra đóng góp tích cực trong việc bảo vệ pháp luật Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân", Thanh tra, Số đặc biệt, (11), tr. 8. Nguyễn Văn Kim - Nguyễn Huy Hoàng (2003), Pháp luật về chống tham nhũng của các nước trên thế giới, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. Nguyễn Ký (2003), "Nhìn lại một năm thực hiện chấn chỉnh kỷ luật hành chính", Quản lý nhà nước, (84), tr. 13-17. J.J. Rousseau (1992), Bàn về khế ước xã hội, Thanh Đạm dịch, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Josef Thesing (2002), Nhà nước pháp quyền (sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. V.I. Lênin (1974), Nhà nước và cách mạng, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 52, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. Hoàng Thế Liên (2004), "Xây dựng Nhà nước pháp quyền từ lý luận đến thực tiễn", Dân chủ và pháp luật, (1). Liên bộ Lao động - Nội vụ (1966), Thông tư số 13-TT/LB ngày 30/8 giải thích và hướng dẫn thi hành điều lệ về kỷ luật lao động trong các xí nghiệp, cơ quan nhà nước, Hà Nội. Liên Bộ Tài chính - Lao động - Tổng Công đoàn (1968), Thông tư số 128/TT-LB ngày 24/7 hướng dẫn việc thi hành chế độ trách nhiệm vật chất của công nhân, viên chức đối với tài sản của nhà nước, Hà Nội. Minh Luận (2002), "Tiêu cực tại Sở Y tế Long An: 3 năm, 26 tỷ đồng đã biến mất", Báo Tuổi trẻ, 210(3640), tr. 4 Dương Thanh Mai (2001), "Bồi thường thiệt hại đối với oan sai trong tố tụng", Nghiên cứu Lập pháp, (6), (7), tr. 67-71. Vũ Văn Mẫu (1968), Dân Luật lược giảng, quyển thứ nhất, Sài Gòn. Vũ Văn Mẫu (1975), Pháp luật cổ Việt Nam và nhận xét Tòa án Sài Gòn, Sài Gòn. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Một số vấn đề về tài phán hành chính ở Việt Nam (1994), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đỗ Mười (1992), Bài phát biểu tại kỳ họp thứ 1 Quốc hội khóa IX. Đỗ Mười (1997), Phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, ngày 9/6, tr. 12. Hoàng Thị Ngân (2001), "Về trách nhiệm pháp lý", Nghiên cứu Lập pháp, (2), (3), tr. 46-50. Hoàng Thị Ngân (2003), "Trách nhiệm về việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật sai trái", Nhà nước và pháp luật, 5(181), tr. 25-28. Nhị Ngọc (2002), "Thuộc cấp thoái hóa - lãnh đạo phải chịu trách nhiệm", Báo Pháp luật, 195(1725), tr. 2. Nhà nước và pháp luật Việt Nam trước thềm thế kỷ 21 (2002), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Cao Xuân Phong - Đỗ Thị Ngọc (2001), "So sánh - đối chiếu mức độ và cách thức bồi thường thiệt hại do cơ quan tiến hành tố tụng gây ra", Lập pháp, (9), (10), tr. 57-66. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự. Quốc hội (1994), Bộ luật Lao động. Quốc hội (1996), Bộ luật Dân sự. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự. Quốc sử quán Triều nguyễn. Đại Nam thực lục chính biên (1966), Tập XIV, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Trương Hữu Quýnh (1995), "Chế độ đào tạo và tuyển chọn công chức ở nước ta thời phong kiến", Tổ chức nhà nước, (9), tr. 16. Đinh Thiện Sơn (1991), "Những vấn đề hoàn thiện luật lệ về công chức ở Việt Nam của", Nhà nước và pháp luật, (3). Võ Kim Sơn (2003), "Bàn về nâng cao năng lực công tác ở nước ta hiện nay", Quản lý nhà nước, (91), tr. 11-14. Nguyễn Văn Tâm (1997). Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về công chức nhà nước ở nước ta, Luận án phó tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Lê Minh Tâm, "Về tư tưởng nhà nước pháp quyền và khái niệm nhà nước pháp quyền", Luật học, (2), tr. 32-38. Nguyên Tấn (2002), "Huyện Phước Long, Bạc Liêu: Nạn chung chi cho Quản lý thị trường", Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, (40 và 43), tr. 4 Phạm Hồng Thái - Đinh Văn Mậu (1996), Giải đáp pháp luật - Luật hành chính Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Phạm Hồng Thái (1998), Mấy vấn đề về công vụ, công chức - Đại hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam và những vấn đề về khoa học nhà nước và pháp quyền, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Phạm Hồng Thái (1999), "Bàn về quy chế trách nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý của cán bộ, công chức nhà nước", Quản lý nhà nước, (3), tr. 10. Duy Thanh (2002), "Nhiều cán bộ Hải quan cửa khẩu Tân Thanh nhận hối lộ trên 7,5 tỷ đồng", Báo Đại đoàn kết, (55), tr. 1; 2. Quách Lê Thanh (2003), "Chống tham nhũng- thước đo phẩm chất người cán bộ đảng viên", Tạp chí Cộng sản, (2). Đoàn Duy Thành (2001), Làm thế nào để thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Thanh tra nhà nước (1998), Báo cáo tổng kết 7 năm thực hiện Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo, Hà Nội. Thanh tra nhà nước (1999), Báo cáo tổng kết công tác thanh tra năm 1999 và nhiệm vụ năm 2000, Hà Nội. Thanh tra nhà nước (2000), Báo cáo tổng kết công tác thanh tra năm 2000, Hà Nội. Thanh tra nhà nước (2002), Báo cáo Tổng kết công tác thanh tra năm 2001 và nhiệm vụ năm 2002, Hà Nội. Lê Thiêm (2002), "Cần xử lý nghiêm các băng nhóm tội phạm và những người tiếp tay cho chúng", Báo Nhân dân, số 17928, tr. 4. Nguyễn Phước Thọ (2003), "Thực trạng và giải pháp nâng cao kỷ luật hành chính trong giai đoạn hiện nay", Nghiên cứu Lập pháp, (12), tr. 59-66. Vũ Thư (1995), "Trách nhiệm pháp lý theo luật Hiến pháp", Nhà nước và pháp luật, (12(188), tr. 33-40. Vũ Thư (1996), Chế tài hành chính - lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội. Chu Thượng (2002), "Đề cao kỷ luật tài chính", Báo Lao động, số 347, tr. 1. Tìm hiểu nhà nước pháp quyền (1992), Nxb Pháp lý, Hà Nội. Tinh Tinh (2002), Cải cách Chính phủ cơn lốc Chính trị cuối thế kỷ XX (sách tham khảo), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Thanh tra Nhà nước (1997), Báo cáo về kết quả giải quyết khiếu kiện hành chính ở một số địa phương, Hà Nội. Trường Đại học Luật Hà Nội (1998), Giáo trình Luật dân sự, Hà Nội. Đoàn Trọng Truyến (1997), Hành chính học đại cương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Vũ Quốc Tuấn (2002), "Vô cảm", Báo Tuổi trẻ, 300(3996), tr. 1; 14. Vũ Quốc Tuấn (2003), "Khâu yếu nhất: tổ chức thực hiện", Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 53(680), tr. 37. Nguyễn Minh Tường (1994), Công cuộc cải cách hành chính dưới triều Minh Mạng, Luận án PTS khoa học Lịch sử, Hà Nội. Đào Trí úc (1997), Đại hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam và những vấn đề cấp bách của khoa học về Nhà nước và pháp luật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. ủy ban Kiểm tra Trung ương (2002), Công tác kiểm tra và việc thi hành kỷ luật trong Đảng, Hà Nội. ủy ban Thường vụ Quốc hội (1989), Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính 1989, Hà Nội. ủy ban Thường vụ Quốc hội (1995), Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội. ủy ban Thường vụ Quốc hội (1998), Pháp lệnh Cán bộ, công chức, Hà Nội. ủy ban Thường vụ Quốc hội (1998), Pháp lệnh chống tham nhũng, Hà Nội. ủy ban Thường vụ Quốc hội (1998), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, Hà Nội. ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Nghị quyết số 388/2002/NQ-UBTVQH về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, Hà Nội. ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội. ủy ban Thường vụ Quốc hội (2003), Pháp lệnh Cán bộ công chức (sửa đổi), Hà Nội. Văn phòng Chính phủ (2002), Báo cáo về tình hình chấp hành kỷ luật kỷ cương hành chính, Hà Nội. Văn phòng Chính phủ (1-2003), Báo cáo chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và một số tình hình kinh tế - xã hội, Hà Nội. Văn phòng Quốc hội (1998), Hiến pháp năm 1946 và sự kế thừa, phát triển trong các hiến pháp Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Văn phòng Trung ương (2003), Thông báo ý kiến kết luận của Bộ Chính trị về việc kiểm tra đầu tư xây dựng và quản lý sử dụng đất đai (Công văn số 108/TB-TƯ ngày 14 tháng 5). Viện Nghiên cứu khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp (1992), Nền công vụ, công chức, Hà Nội. Viện Nhà nước Pháp luật (5-1993), Những vấn đề lý luận về nền chính trị và hệ thống chính trị nước ta. Nguyễn Cửu Việt (1995), "Những vấn đề cơ bản về khoa học quản lý nhà nước", Tập bài giảng, Khoa Luật - Đại học Tổng hợp. Nguyễn Cửu Việt (2002), "Dân chủ trực tiếp và Nhà nước pháp quyền", Nghiên cứu Lập pháp, (2). Võ Khánh Vinh (1996), Tìm hiểu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Vụ Quản lý Tòa án địa phương, Bộ Tư pháp (2002), Báo cáo thống kê vi phạm pháp luật của cán bộ tòa án địa phương từ năm 1994 đến năm 2002. Thanh Xuân, Quang Minh (2002), "Gian lận trong hoàn thuế giá trị gia tăng (GTGT): 80% số vụ vi phạm có sự tiếp tay của cán bộ thuế - hải quan", Báo Thanh niên, 268(2468), tr. 5. Tiếng anh Ministry of Home Affairs of the Socialist Republic of Vietnam & United Nations Development Programme (2002), PAR Master Programme: Result and Learning 2001- 2010 - From step by step to Leaps forword. Tiếng Nga Anrwihl ^.Q. (1966), Ehpuhnjhl`olme nomhgbmdpqbm b QQQP, Igd. Q`o`qmbpimcm rl-q`. C`vhjm I.K. (1977), "Ilpqhqrq mqbeqpqbellmpqh b rno`bjelhh", Qmb. cmprd`opqbm h no`bm, (6), p. 40-45. K`g`oeb B.L. (1966), Qneuhshi` mqbeqpqbellmpqh dmjflmpqlzt jhu. H il.: QQQP - DEP: Dmprd`opqbell`~ pjrfa`, Lmpib`. K`g`oeb B.L. (1981), Cbeuelhe b ilhce: Oo`bmbze mplmbz mqbeqpqbellmpqh b rno`bjelhh b QQQP h DEP, Lmpib`. L`jehl M.Q. (1965), Oo`bml`orwelhe: nml~qhe, nohvhlz, mqbeqpqbellmpqy, Lmpib`. L`jehl M.Q. (1985), Ikruepqbell`~ mqbeqpqbellmpqy prayeiqma rno`bjelh~. H il.: mqbeqpqbellmpqy rno`bjelhh, Lmpib`. M`g`omb C.K. (1981), "N }ohdhvepimk `pneiqe nmghqhblmé pmuh`j{lmé mqbeqpqbellmpqh", Qmb. cmprd`opqbm h no`bm, (10), p. 37. Veoa`t A.I. (1980), Oo`bmb`~ mqbeqpqbellmpqy dmjflmpqlzt jhu `nn`o`q` cmprd`opqbellmcm rno`bjelh~, Jheb. Ehl{ Rt{el Xml (1989), ^ohdhvepi`~ mqbeqpqbellmpq{ jhu `nn`o`q` cmprd`opqbellmcm rno`bjelh~ b QPC, Ehppeoq`uh` l` pmhpi`lhe rvelmé pqenelh i`ldhd`q` }ohuhvepiht l`ri. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan an hoan chinh1.doc
  • docTom tat1.doc
  • docgiai trinh phan bien DL.doc
  • docThong tin len mang.doc