Trục lợi bảo hiểm và các biện pháp phòng chống trục lợi bảo hiểm tại Công ty Bảo Việt nhân thọ Thái Bình

Tài liệu Trục lợi bảo hiểm và các biện pháp phòng chống trục lợi bảo hiểm tại Công ty Bảo Việt nhân thọ Thái Bình: ... Ebook Trục lợi bảo hiểm và các biện pháp phòng chống trục lợi bảo hiểm tại Công ty Bảo Việt nhân thọ Thái Bình

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1418 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Trục lợi bảo hiểm và các biện pháp phòng chống trục lợi bảo hiểm tại Công ty Bảo Việt nhân thọ Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trải qua hơn 10 năm hình thành và phát triển, thị trường BHNT đã đạt được nhiều thành tựu góp phần vào tăng trưởng của ngành bảo hiểm nói riêng cũng như nền kinh tế Việt Nam nói chung, đáp ứng được phần nào đó nhu cầu về BHNT của người dân Việt nam. Song bên cạnh đó, các DNBH Việt Nam cũng phải đối mặt với khó khăn chung của ngành BHNT thế giới, đó là trục lợi bảo hiểm. Trục lợi bảo hiểm là một yếu tố làm tăng chi phí của công ty bảo hiểm , ảnh hưởng đến giải quyết quyền lợi và chi trả bảo hiểm cũng như lợi nhuận thu được của công ty bảo hiểm. TLBH ngày càng có xu hướng gia tăng về số lượng cũng như thủ đoạn tinh vi hơn, vì vậy công tác phòng chống TLBH trở nên rất cần thiết và quan trọng với các công ty bảo hiểm. Vấn đề đặt ra cho các công ty BHNT không chỉ là phát triển sản phẩm BHNT mà còn là ngăn chặn hành vi gian lận, trục lợi bảo hiểm để không tồn tại tư tưởng trục lợi trong các đối tượng tham gia bảo hiểm . Trải qua thời gian thực tập tại công ty Bảo Việt nhân thọ Thái Bình , được tiếp xúc với thực tế, thấy được sự hiệu quả trong phòng chống TLBH của công ty và được sự hướng dẫn chỉ bảo của thầy giáo Nguyễn Văn Định, lãnh đạo và cán bộ nhân viên công ty, em đã chọn đề tài : “Trục lợi bảo hiểm và các biện pháp phòng chống trục lợi bảo hiểm tại công ty Bảo Việt nhân thọ Thái Bình”. Đây là một đề tài mới mẻ, nhạy cảm nhưng cũng là vấn đề bức xúc đối với ngành bảo hiểm nói chung, do trình độ và kinh nghiệm thực tế còn nhiều hạn chế nên bài viết của em khó tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong được sự góp ý bổ xung của thầy cô giáo để bài viết của em hoàn thiện hơn. CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ TRỤC LỢI BẢO HIỂM. 1.TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ. 1.1. Sự cần thiết khách quan và tác động của BHNT. 1.1.1. Sự cần thiết của BHNT . Trong cuộc sống hàng ngày con người có thể được hưởng thụ may mắn và suôn sẻ trong sinh hoạt thường nhật hay trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, song đôi khi có những rủi ro tiềm ẩn bất ngờ ập tới mà con người không thể lường trước được nhay cả khi đã luôn cố ý ngăn ngừa và đề phòng làm ảnh hưởng và thiệt hại tới sức khoẻ, sinh mạng và tài sản...v...v. Các rủi ro mà con người có thể gặp phải có nhiều nguyên nhân như: - Do thiên nhiên gây ra: bão, lũ lụt, hạn hán, động đất, sét. sóng thần, dịch bệnh,....làm ảnh hưởng và thiệt hại đến sản xuất, đời sống và đến sinh mạng sức khoẻ của con người. - Do biến động của khoa học công nghệ. Khoa học kĩ thuật và công nghệ ngày càng phát triển làm tăng năng suất lao động, thúc đẩy nền kinh tế phát triển và tạo điều kiện nâng cao đời sống con người. Song bên cạnh đó cũng gây ra những tai nạn bất ngờ và nguy hiểm như: tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tai nạn giao thông...gây ra ảnh hưởng tới sức khoẻ và tính mạng của con người. Dù do nguyên nhân gì thì khi xảy ra rủi ro thường gây ra những tổn thất về người và tài sản mà con người đôi khi không thể kiểm soát được. Từ đó gây ra cho cuộc sống của con người trở nên khó khăn hơn. Làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế -xã hội nói chung, bởi con người là lực lượng sản xuất quan trọng, là nhân tố quyết định chủ yếu đến sự phát triển kinh tế- xã hội.. Trong một gia đình, khi rủi ro xảy ra đối với người trụ cột có thể làm ảnh hưởng lớn đến toàn bộ sinh hoạt, đời sống của họ. Bên cạnh đó, họ sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn trong tương lai như: các khoản chi phí cho việc khắc phục hậu quả của rủi ro gây nên, việc học hành của con cái, và nhiều phát sinh khác trong khi thu nhập lại bị giảm sút hoặc bị mất( nếu chẳng may đó là rủi ro cướp đi sinh mạng). Khi cuộc sống diễn ra suôn sẻ, con người phải lo cho tuổi già của mình, đó là nghỉ hưu hay hết tuổi lao động hoặc khó có thể tiếp tục lao động. Nếu được nhận lương hưu, sẽ thật vất vả bởi những chi phí phát sinh ngày càng có xu hướng tăng cao, lương hưu lại thấp so với thu nhập khi còn lao động. Đó là số ít đối với dân số Việt Nam, trong khi đại bộ phận tầng lớp dân cư về già không có lương hưu hay trợ cấp mà vẫn phải tìm mọi cách để kiếm thêm thu nhập để trang trải chi phí cho cuộc sống, hoặc được con cái phụng dưỡng, nhưng đó sẽ một trách nhiệm khó khăn cho con cái... Bên cạnh đó, cuộc sống luôn chứa đựng những rủi ro mà nó có thể làm con người trở nên bị thương tật, ốm đau, chết chóc; ngày nay, mức độ tai nạn giao thông, tai nạn bệnh nghề nghiệp... càng trở nên phổ biến khiến tử vong và thương tật nặng ở những con số báo động...Rủi ro đó, không ai mong đợi, nhưng nó có thể xảy ra với bất kì ai mà không dự báo trước được. Nếu người gặp rủi ro là một trụ cột kinh tế gia đình, thì không biết hậu quả cả về tinh thần cũng như vật chất sẽ như thế nào?. Trong khi đó, những phát sinh chi phí cho chăm sóc sức khoẻ con người như: dịch vụ chăm sóc khám chữa bệnh, y tế ngày càng đắt đỏ... Trải qua lịch sử hình thành, phát triển và tồn tại của loài người đã có rất nhiều biện pháp khác nhau, cụ thể để đối phó với rủi ro, kiểm soát, ngăn chặn và khắc phục hậu quả của rủi ro như: né tránh rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu tổn thất, tiết kiệm, vay mượn...và bảo hiểm. Bảo hiểm được biết đến là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra có hiệu quả nhất. Theo quan điểm của các nhà quản lí rủi ro, bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Bảo hiểm còn được hiểu là sự phân tán rủi ro cho những người cùng tham gia bảo hiểm... Cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu và đòi hỏi của con người ngày càng tăng, đời sống vật chất tinh thần ngày càng cao dẫn đến đòi hỏi nhu cầu bảo hiểm ngày càng hoàn thiện hơn. Mặc dù BHXH và BHYT đã ra đời và đáp ứng phần nào nhu cầu đó. Song nó mới chỉ đáp ứng được ở phần nào đó cho người lao động...BHTM đã ra đời như một tất yếu, trong đó BHNT đã hình thành và càng khẳng định sự cần thiết của mình đối với mọi tầng lớp dân cư trong xã hội... BHNT là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định trước xảy ra (người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến một thời điểm nhất định), còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. BHNT là quá trình bảo hiểm các rủi ro liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người. Đối tượng tham gia BHNT rất rộng, bao gồm mọi người, ở mọi lứa tuổi khác nhau...tuỳ theo thoả thuận và hợp đồng bảo hiểm. Như vậy, BHNT đã ra đời để giúp con người an tâm lao động hơn, giúp có biện pháp đối phó với nguy cơ rủi ro có thể xảy ra hiệu quả hơn. Đáp ứng được nhu cầu về tài chính đối với hậu quả do rủi ro để lại. BHNT cũng như hệ thống Bảo hiểm nói chung đã khẳng định vai trò ngày càng thiết thực trong cuộc sống hiện đại và phát triển của con người.... 1.1.2. Tác dụng của BHNT. Là một bộ phận trong Bảo hiểm, BHNT có những tác dụng nói chung của bảo hiểm cũng như có những đặc trưng riêng của mình. - Thứ nhất, góp phần ổn định đời sống nhân dân, là cho dựa tinh thần cho người được bảo hiểm. Mặt trái của sự tiến bộ khoa học công nghệ, kỹ thuật chính là những rủi ro mà nó mang lại sẽ gây ra những hậu quả tổn thất lớn như : tai nạn ôtô, xe máy,...dù các biện pháp an toàn lao động vẫn luôn được đề cập song những rủi ro bất ngờ vẫn có thể xảy ra. Thực tế cho thấy, nhiều cá nhân, gia đình trở nên túng quẫn khi có một thành viên trong gia đình bị chết hoặc bị thương tật vĩnh viễn, nhất là điều đó nếu xảy ra với người là trụ cột trong gia đình. Hậu quả mà họ phải gánh chịu đó là các khoản chi phí cho: mai táng, nằm viện, thuốc men,...và các chi phí mà người bị thương tật vĩnh viễn cần tới trong tương lai. Nhưng thực sự là gánh nặng lớn nếu các nghĩa vụ mà người chết chưa kịp hoàn thành như: trả nợ, nuôi dạy con cái,...hay chăm sóc bố mẹ khi tuổi già..v.v. Dù rằng đã có các chương trìng ủng hộ hay “ Quỹ tấm lòng vàng”, có sự giúp đỡ của Nhà nước, các cơ quan Đoàn thể, tập thể, hàng xóm láng giềng, người thân...song đó cũng chỉ mang tính tạm thời, không bảo đảm được về lâu dài. Bên cạnh đó người lao động không có được quyền lợi từ BHXH khi về già hoặc hết tuổi lao động sẽ phải đối mặt với nhiều nguy cơ rủi ro trong khi đó thu nhập của họ đã bị giảm sút hoặc mất. Họ sẽ phải tính toán để có thể nhận một khoản tiền hàng tháng cho cuộc sống về già của mình.. Tham gia BHNT sẽ phần nào giải quyết được những khó khăn đó. - Thứ hai,góp phần ổn định tài chính và sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp, tạo lập mối quan hệ gắn bó giữa người lao động và người sử dụng lao động. Đây là điều đang được khuyến khích cho các doanh nghiệp, khi họ mua bảo hiểm sinh mạng cho người lao động của mình nhất là đối với các lao động quan trọng chủ chốt sẽ giúp sự gắn bó giữa người lao động và chủ sử dụng trở nên sâu sắc hơn. Bên cạnh đó nếu chẳng may xảy ra rủi ro dẫn đến tử vong hay thương tật vĩnh viễn đối với người lao động thì thông qua bảo hiểm các doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được chi phí trong việc giải quyết quyền lợi cho người lao động.. Việc doanh nghiệp mua bảo hiểm cho nhân viên của mình cũng là một chính sách giữ chân nhân viên hiệu quả, nhất là nhân viên chủ chốt quan trọng. Đó cũng là động lực để nhân viên an tâm làm việc cũng như họ sẽ trung thành với doanh nghiệp hơn....Qua đó không chỉ vấn đề tài chính của doanh nghiệp mà còn là mối quan hệ với người lao động được tạo lập và có tính vững chãi... - Thứ ba, thông qua dịch vụ BHNT, một dịch vụ có đối tượng tham gia rất rộng, đông đảo, các nhà bảo hiểm thu được phí để hình thành quỹ bảo hiểm, quỹ này được sử dụng chủ yếu vào mục đích chi trả và dự phòng. Khi nhàn rỗi, nó sẽ là nguồn vốn đầu tư hữu ích góp phần phát triển và tăng trưởng kinh tế. Vốn đầu tư của các công ty BHNT mang tính dài hạn, do đó nguồn vốn BHNT cung cấp cho thị trường cũng là vốn dài hạn, thường là 10 năm trở lên. Nếu được đầu tư phát triển các vùng kinh tế chiến lược, xây dựng cơ sở hạ tầng sẽ rất phù hợp và có hiệu quả. - Thứ tư, BHNT còn là một công cụ hữu hiệu để huy động những nguồn tiền mặt nhàn rỗi nằm ở các tầng lớp dân cư trong xã hội để thực hành tiết kiệm chống lam phát. Nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân ngày càng cao sẽ xuất hiện nhu cầu tiết kiệm hay đầu tư số tiền nhàn rỗi. BHNT đã ra đời giúp các tổ chức và cá nhân thực hiện nhu cầu một cách có hiệu quả. Do đối tượng rông, lại vừa mang tính tiết kiệm, vừa mang tính rủi ro, hơn nữa do cơ chế và cách thức đóng phí thuận lợi, cho nên BHNT có nhiều ưu điểm hơn hẳn gửi tiền tiết kiệm. Do đó việc tiết kiệm chi tiêu trong gia đình để mua BHNT sẽ dễ dàng hơn... - Thứ năm, BHNT còn đóng góp cho Ngân sách Nhà nước thông qua thuế. Các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động sẽ phải tham gia nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho Nhà nước. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, ngành bảo hiểm thì BHNT cũng ngày càng phát triển do đó việc các doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh có lợi nhuận là điều dễ dàng đạt được. Không chỉ là phương thức huy động vốn đầu tư trở lại nền kinh tế, BHNT còn là lĩnh vực kinh doanh đem lại nguồn thu, lợi ích cho Ngân sách... - Thứ sáu, BHNT còn góp phần vào giải quyết một số vấn đề về mặt xã hội như: Tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động như: đại lí bảo hiểm. kế toán. vi tính,...; tăng vốn đầu tư giáo dục cho con cái, tạo ra một nếp sống đẹp, tiế kiệm có kế hoạch..v.v. Tóm lại, tác dụng của ngành bảo hiểm nói chung BHNT nói riêng là rất dễ nhận biết. Cùng với sự phát triển của mỗi quốc gia BHNT ngày càng thể hiện tác dụng ưu việt của mình. 1.2. Các loại hình BHNT cơ bản. BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau. Mục đích chính của những người tham gia là để bảo vệ con cái và những người ăn theo tránh khỏi những nỗi bất hạnh về cái chết bất ngờ của họ hoặc tiết kiệm để đáp ứng các nhu cầu về tài chính trong tương lai...Do vậy, các nhà bảo hiểm thực hiện đa dạng hoá sản phẩm BHNT nhằm đáp ứng và thoả mãn mọi nhu cầu của người tham gia bảo hiểm. Trong thực tế, có 3 loại hình BHNT cơ bản: - Bảo hiểm trong trường hợp sống; - Bảo hiểm trong trường hợp tử vong; - Bảo hiểm hỗn hợp. Bên cạnh đó, người bảo hiểm còn áp dụng các điều khoản bổ sung cho các loại hợp đồng BHNT như: - Bảo hiểm tai nạn; - Bảo hiểm sức khoẻ;..v.v. 1.2.1. Bảo hiểm trong trường hợp tử vong. 1.2.1.1. Bảo hiểm tử kì ( còn được gọi là bảo hiểm tạm thời hay bảo hiểm sinh mạng có thời hạn). Loại hình này được kí kết bảo hiểm cho cái chết xảy ra trong thời gian đã quy định của hợp đồng. Nếu cái chết không xảy ra trong thời gian đó thì người được bảo hiểm không nhận được bất kì một khoản hoàn phí nào từ số phí bảo hiểm đã đóng. Điều đó cũng có nghĩa là công ty bảo hiểm không phải thanh toán STBH cho người được bảo hiểm . Ngược lại, nếu cái chết xảy ra trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng, thì công ty bảo hiểm phải có trách nhiệm thanh toán STBH cho người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm được chỉ định trong hợp đồng. * Đặc điểm của loại hình BHNT này là: - Thời hạn bảo hiểm xác định. - Trách nhiệm và quyền lợi mang tính tạm thời. - Mức phí bảo hiểm thấp vì không phải lập nên quỹ tiết kiệm cho người được bảo hiểm. * Mục đích: - Đảm bảo các chi phí mai táng chôn cất. - Bảo trợ cho các gia đình và người thân trong một thời gain ngắn. - Thanh toán các khoản nợ nần về những khoản vay hoặc thế chấp của người được bảo hiểm. Bảo hiểm tử kì còn được đa dạng hoá thành các loại hình sau: + Bảo hiểm tử kì cố định: có mức phí bảo hiểm và STBH cố định, không thay đổi trong suốt thời gian có hiệu lực của hợp đồng. Mức phí thấp nhất và người bảo hiểm không thanh toán khi hết hạn hợp đồng. Hợp đồng hết hiệu lực nếu sau ngày gia hạn hợp đồng không nộp phí bảo hiểm. Loại này chủ yếu nhằm thanh toán cho các khoản nợ tồn đọng trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong. + Bảo hiểm tử kì có thể tái tục: Loại này có thể được tái tục vào ngày kết thúc hợp đồng và không yêu cầu có thêm bằng chứng nào về sức khoẻ của người được bảo hiểm, nhưng có sự giới hạn về độ tuổi (thường độ tuổi tối đa là 65). Tại lúc tái tục, phí bảo hiểm tăng lên vì độ tuổi của người được bảo hiểm lúc này tăng lên. + Bh tử kì có thể chuyển đổi: Đây là loại hình bảo hiểm tử kì cố địng nhưng cho phép người được bảo hiểm có sự lựa chọn chuyển đổi một phần hay toàn bộ hợp đồng thành một hợp đồng BHNT trọn đời hay BHNT hỗn hợp tại một thời điểm nào đó khi hợp đồng đang còn hiệu lực. Phí bảo hiểm được tính dựa trên hợp đồng BHNT trọn đời hay hỗn hợpi mới theo độ tuổi của người có hợp đồng. Loại hợp đồng này phát hành như một sự bảo chứng cho khoản tiền vay. Đồng thời nó còn nhằm thực hiện yếu tố tiết kiệm trong tương lai của người được bảo hiểm. + Bảo hiểm tử kì giảm dần: Đây là loại hình bảo hiểm mà có một bộ phận của STBH giảm hàng năm theo một mức quy định. Bộ phận này giảm tới 0 vào cuối kì hạn hợp đồng. Đặc đỉem của loại này là: . Phí bảo hiểm giữ ở mức cố định. . Phí thấp hơn bảo hiểm tử kì cố định. . Giai đoạn nộp phí ngắn hơn toàn bộ thời hạn hợp đồng. + Bảo hiểm tử kì tăng dần: Loại này được phát hành nhắm giúp người tham gia bảo hiểm có thể ngăn chặn được yếu tố lạm phát của đòng tiền. Có nghĩa là STBH thực trong hợp đồng bị giảm do đồng tiền sụt giá. Loại hợp đồng này phí bảo hiểm sẽ tăng dần theo STBH và phải dựa trên tuổi tác của người được bảo hiểm khi tái tục hợp đồng. + Bảo hiểm thu nhập gia đình: Loại hình bảo hiểm này nhằm đảm bảo thu nhập cho 1 gia đình khi không may người trụ cột trong gia đình bị chết. Quyền lợi bảo hiểm mà gia đình nhận được sau cái chết của người trụ cột có thể: . Nhận được toàn bộ. . Nhận được từng phần dần dần cho đến khi hết hạn hợp đồng. Nếu người được bảo hiểm còn sống đến hết hạn hợp đồng, gia đình sẽ không nhận được bất kì một khoản thanh toán nào từ công ty bảo hiểm. + Bảo hiểm thu nhập gia đình tăng lên: Loại hình bảo hiểm này cũng nhằm tránh yếu tố lạm phát của đồng tiền. Đảm bảo các khoản thanh toán của công ty bảo hiểm cho gia đình không may có người được bảo hiểm bị chết, tương ứng với STBH khi mới kí hợp đồng. + Bảo hiểm tử kì có điều kiện: Điều kiện ở đây là: Việc thanh toán trợ cấp chỉ được thực hiện khi người được bảo hiểm bị chết , đồng thời người được thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm hoặc chỉ định trong hợp đồng phải còn sống. 1.2.1.2. Bảo hiểm nhân thọ trọn đời ( Bảo hiểm trường sinh). Loại hình bảo hiểm này cam kết chi trả cho người thụ hưởng bảo hiểm một STBH đã được ấn định trên hợp đồng, khi người được bảo hiểm chết vào bất cứ lúc nào kể từ ngày kí hợp đồng. Phương châm của công ty bảo hiểm ở đây là: “Bảo hiểm đến khi chết”. Ngoài ra, có một số trường hợp loại hình bảo hiểm này còn đảm bảo chi trả cho người được bảo hiểm ngay cả khi họ sống đén 100 tuổi. * Đặc điểm: - STBH trả một lần khi người được bảo hiểm bị chết. - Thời hạn bảo hiểm không xác định. - Phí bảo hiểm có thể đóng 1 lần hoặc đóng định kì và không thay đổi trong suốt quá trình bảo hiểm. - Phí bảo hiểm cao hơn so với bảo hiểm tử kì, vì rủi ro chết chắc chắn sẽ xảy ra, nên STBH chắc chắn phải chi trả. - BHNT trọn đời là loại hình bảo hiểm dài hạn, phí đóng định kì và không thay đổi trong suốt quá trình bảo hiểm, do đó đã tạo nên một khoản tiết kiệm cho người thụ hưởng bảo hiểm vì chắc chắn công ty bảo hiểm sẽ chi trả STBH. * Mục đích: - Đảm bảo các chi phí mai táng, chôn cất. - Bảo đảm thu nhập để ổn định cuộc sống gia đình. - Giữ gìn tài sản , tạo dựng và khởi nghiệp kinh doanh cho thế hệ sau. Loại hình bảo hiểm này thường có các loại hợp đồng sau: + BHNT trọn đời phi lợi nhuận: Loại này có mức phí và STBH cố định suốt đời. Vì vậy, khi thanh toán STBH cho người thụ hưởng không có khoản lợi nhuận được chia. + BHNT trọn đời có tham gia chia lợi nhuận: Loại hợp đồng này cũng tương tự như loại trên, nhưng khi thanh toán STBH , được chia thêm một phần lợi nhuận như đã thoả thuận trong hợp đồng. + BHNT trọn đời đóng phí liên tục: Loại này yêu cầu người được bảo hiểm phải đóng phí liên tục cho đến khi chết. Vì đóng phí liên tục nên số phí phải đóng hằng năm sẽ thấp hơn so với các loại hợp đồng khác và mức phí này bằng nhau giữa các năm. + BHNT trọn đời phí đóng một lần: Đây là loại hình bảo hiểm mà người được bảo hiểm chỉ đóng phí bảo hiểm một lần khi kí hợp đồng, còn công ty bảo hiểm phải đảm bảo chi trả bất cứ lúc nào khi cái chét của người được bảo hiểm xuất hiện. Khoản phí đóng một lần là khá lớn nên người tham gia hạn chế. + BHNT trọn đời quy định số lần đóng phí bảo hiểm : Loại này không đòi hỏi người được bảo hiểm phải đóng phí liên tục hay 1 lần, mà quy định rõ số năm đóng phí bảo hiểm. 1.2.2. Bảo hiểm trong trường hợp sống ( còn gọi là bảo hiểm sinh kì). Với loại hình bảo hiểm này công ty bảo hiểm cam kết chi trả những khoản tiền đều đặn trong một khoảng thời gian xác định hoặc trong suốt cuộc đời người tham gia bảo hiểm. Nếu người được bảo hiểm chết trước ngày đến hạn thanh toán thì sẽ không được chi trả bất kì một khoản tiền nào. * Đặc điểm của loại hình này là: - Trợ cấp định kì cho người được bảo hiểm trong thời gian xác định hoặc cho đến khi chết. - Phí bảo hiểm đóng một lần. - Nếu trợ cấp định kì đến khi chết thì thời gian không xác định. * Mục đích: - Đảm bảo thu nhập cố định sau khi về hưu hay cao tuổi sức yếu. - Giảm bớt nhu cầu phụ thuộc vào phúc lợi xã hội hoặc con cái khi tuổi già. - Bảo trợ mức sống trong những năm tháng còn lại của cuộc đời. Loai hình bảo hiểm này rất phù hợp với những người khi về hưư hoặc không được hưởng tiền trợ cấp hưu trí từ BHXH đến độ tuổi tương ứng với số tuổi về hưu đăng kí tham gia, để được hưởng những khoản trợ cấp định kì hàng tháng.... 1.2.3. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp. Thực chất đây là loại hình bảo hiểm cả trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong hay còn sống. Yếu tố tiệt kiệm vả rủi ro đan xen nhau. * Đặc điểm: - STBH được trả khi: Hết hạn hợp đồng hoặc người được bảo hiểm bị tử vong trong thời hạn bảo hiểm. - Thời hạn bảo hiểm xác định: 5 năm, 10 năm...v.v. - PHÍ bảo hiểm thường đóng định kì và không thay đổi, - Có thể được chia lãi thông qua đầu tư phí bảo hiểm và cũng có thể được hoàn lại phí bảo hiểm khi không có điều kiện tiếp tục tham gia. * Mục đích: - Đảm bảo ổn định cuộc sống gia đình và người thân. - Tạo lập quỹ giáo dục, hưu trí, trả nợ. - Dùng lam vật thế chấp vay vốn hoặc khởi nghiệp kinh doanh.... 2. TRỤC LỢI TRONG BHNT. 2.1. Khái niệm, nguyên nhân và hậu quả của TLBH. 2.1.1. Khái niệm: Song song với doanh thu kinh doanh thì các công ty bảo hiểm luôn phải có những biện pháp tiết kiệm các khoản chi một cách hợp lí nhất, trong đó nhức nhối đối với các công ty bảo hiểm nói chung đó là trục lợi bảo hiểm, bởi nó đã và đang trở thành những vấn nạn đối với mọi công ty bảo hiểm Vậy trục lợi bảo hiểm là gì? Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về vấn đề này. Như: Trục lợi bảo hiểm là "hành vi cố ý lừa dối của tổ chức, cá nhân nhằm thu lợi bất chính khi tham gia bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm và giải quyết khiếu nại bảo hiểm" (TT31/2004TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 118 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm). Theo hiệp hội bảo hiểm Canada: “Trục lợi bảo hiểm là một hành vi cố tình gian dối, lừa đảo có thể có chủ ý ngay từ khi tham gia bảo hiểm hoặc phát sinh sau khi đã xảy ra rủi ro cho đối tượng bảo hiểm nhằm chiếm đoạt một số tiền từ công ty bảo hiểm”. Dẫu vậy, Trục lợi bảo hiểm, hiểu một cách đơn giản, là tìm cách để kiếm lợi bất hợp pháp trong kinh doanh bảo hiểm và tham gia bảo hiểm; thường được biểu hiện mà đáng lí ra họ không được hưởng...” Bên cạnh đó khái niệm” gian lận bảo hiểm “ có thể được hiểu tương tự như là trục lợi bảo hiểm: Gian lận bảo hiểm (GLBH) là hành vi gian dối không trung thực được thực hiện nhằm chống lại doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) để thu lợi bất chính. Hành vi gian lận bảo hiểm có thể được thực hiện trong quá trình tiến hành bảo hiểm bởi các bên khác nhau, bao gồm chủ sở hữu hợp đồng bảo hiểm/đơn bảo hiểm, bên thứ ba đòi doanh nghiệp bảo hiểm chi trả bồi thường, môi giới bảo hiểm, đại lý bảo hiểm, các tổ chức và cá nhân chuyên cung cấp các dịch vụ tư vấn đòi bồi thường bảo hiểm…   Tính chất của hành vi gian lận bảo hiểm có thể rất khác nhau: từ việc khai tăng giá trị của một yêu cầu đòi chi trả, bồi thường hoàn chỉnh về những thiệt hại rủi ro chưa hề xảy ra trên thực tế hoặc những rủi ro đã xảy ra nhưng được biến theo 1 kịch bản nào đó nhằm thu lợi... Như vậy từ xu hướng gian lận và trục lợi bảo hiểm ngày càng biểu lộ rõ chung một mục đích từ một phía nào đó. Hành vi này ngày càng tăng về số lượng, hình thức thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn, sắc sảo hơn. Nó làm phát sinh rất nhiều chi phí của các doanh nghiệp bảo hiểm cho công tác khắc phục vấn đề này. Trên thực tế, nghiệp vụ nào cũng có hành vi trục lợi bảo hiểm, mỗi nghiệp vụ có những hành vi, hình thức TLBH khác nhau như: - Thay đổi tình tiết vụ tai nạn... - Tạo hiện trường giả.. - Giấu bệnh khi khai báo sức khoẻ... - Khai báo rủi ro không trung thực... - Khai giảm tuổi so với tuổi thực...để được giảm phí trong BHNT... - v.v. 2.1.2. Nguyên nhân của TLBH: TLBH có thể khẳng định là một hành vi xấu trong xã hội, vi phạm chuẩn mực đạo đức con người cũng như đã vi phạm vào tinh nhân đạo đặc trưng của bảo hiểm, đó cũng là hành vi vi phạm pháp luật. Mà nguyên nhân dẫn tới TLBH có lẽ xuất phát chính từ lòng tham của con người cùng với nhiều yếu tố khác khiến TLBH ngày càng tinh vi hơn... 2.1.2.1. Nguyên nhân khách quan: Đây là yếu tố không thuộc kiểm soát của các doanh nghiệp bảo hiểm. Mà đó là những yếu tố luật pháp, thị trường, nhận thức của người dân về bảo hiểm..v.v: - Pháp luật còn lỏng lẻo, nhiều kẽ hở, thiếu tính tổng quát dễ bề kẻ xấu lợi dụng. Dẫu cho luật kinh doanh bảo hiểm có hiệu lực từ 2001 song nó vẫn chưa có những quy định rõ ràng cụ thể về xử phạt những người bị phát hiện có hành vi trục lợi. Bên cạnh đó dù đã có các nghị định 42, 43 và được thay thế bằng nghị định 45, 46 nhưng vẫn chưa thực sự chi tiết và đủ mạnh cho các chế tài bảo hiểm. Cho dù Nghị định 118 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm được ban hành và có hiệu lực song chế tài xử lý các hành vi TLBH còn quá thiếu. Theo nghị định về xử phạt hành chính, hành vi TLBH chỉ bị cảnh cáo hoặc phạt tối đa 10 triệu đồng. Bộ luật Hình sự chưa có điều luật nào quy định cụ thể về tội TLBH. Kẻ TLBH chỉ bị xử với các tội danh liên quan như tham ô, hối lộ, chiếm đoạt tài sản... Chính vì hành lang pháp lý chưa đầy đủ nên nhiều vụ TLBH chưa được điều tra và xét xử nghiêm khắc, do vậy không có tính răn đe. Mặt khác do mải chạy theo cạnh tranh trên thị trường, các công ty bảo hiểm cố gắng đơn giản hoá các thủ tục hành chính, các quy tắc bảo hiểm chưa được chặt chẽ càng tạo điều kiện cho ý định trục lợi thành hiện thực, tạo đièu kiện cho kẻ xấu có cơ hội lợi dụng dễ dàng hơn... - Do đặc điểm kinh doanh của ngành, là ngành kinh doanh dịch vụ rất phức tạp và khó khăn trong quản lí, qua nhiều khâu, thời gian dài,...khiến cho xác suất xảy ra cao, mức độ kiểm soát kiểm tra về người tham gia bảo hiểm, người thụ hưởng khó, nhất là thời hạn của hợp đồng BHNT thường rất lâu từ 5 năm trở nên đến trọn đời, do đó sự thay đổi, yếu tố hành vi gian lận TLBH là rất dễ xảy ra. - Có sự cấu kết, sắp đặt trước của các bên có liên quan trong quá trình đánh giá rủi ro như: cán bộ công an, cán bộ y tế, đại lí...người tham gia bảo hiểm , người được thụ hưởng bảo hiểm... - Địa hình, địa lí nơi xảy ra rủi ro phức tạp cũng là nguyên nhân dẫn đến TLBH. Đôi khi tai nạn xảy ra ngoài tầm kiểm soát của các công ty bảo hiểm làm cho công tác giám định trở nên khó khăn hơn và khó có thể xác minh được thực tế. Cung với đó có những sự kiện rủi ro xảy ra mà cán bộ nhân viên bảo hiểm khó có thể có mặt ngay mà thông qua các báo cáo từ các cán bộ của ngành y tế, công an, địa phương...Đó là kẽ hở lớn, nhất là khi có sự cấu kết, mua chuộc... - Bên cạnh đó, nhận thức của người dân về pháp luật, về bảo hiểm còn rất hạn chế. Họ coi bảo hiểm như là một tổ chức phúc lợi xã hội, có sự hiểu nhầm giữa BHTM với BHXH...Chưa nhận thức được tính nhân văn của bảo hiểm, chưa thấy được quy luật “ số đông bù số ít” trong bảo hiểm. Trong quá trình tham gia bảo hiểm, còn che giấu nhiều thông tin quan trong như: giấu bệnh, khai báo sai thông tin cá nhân, hay cố tình che đậy thông tin về bản thân... Đôi khi tham gia bảo hiểm vì 1 lí do mang tính nể vị,...không xuất phát từ mục đích sâu xa của bảo hiểm để rồi rất dễ dẫn đến nảy sinh ý định hành vi xấu nhằm được hưởng quyền lợi bảo hiểm khi xảy ra rủi ro... Và có nhiều nguyên nhân khác mà bản thân người dân nghĩ mình làm đúng nhưng thực ra vô tình đã vi phạm pháp luật như: làm chứng cho hiện trường giả,..v.v. 2.1.2.2. Nguyên nhân chủ quan: - Sự non kém, thiếu kinh nghiệm thực tế, nhất là đối với nhiều hình thức, sản phẩm bảo hiểm mới, khai thác trên thị trường mới..v.v sẽ rất khó đối phó với nhiều mánh khoé tinh vi của đối tựơng trục lợi. Từ khâu tiếp nhận đơn yêu cầu bảo hiểm của khách hàng đến đánh giá rủi ro, chấp nhận bảo hiểm, kiểm tra thông tin và đánh giá rủi ro và giải quyết quyền lợi khách hàng bảo hiểm chỉ cần có sự thiếu sót yếu kém, thiếu đồng bộ và sơ suất có thể sẽ là cơ hội tốt để kẻ xấu trục lợi..-Không xác định được việc khách hàng tự kê khai giấy yêu cầu hay đại lý kê khai hộ khách hàng. - Không xác định được tình trạng sức khỏe ban đầu của khách hàng. Chẳng hạn, không xác định được khách hàng có đủ tay, chân, mắt hay không. - Không các định được chữ ký của khách hàng là thật hay giả cũng như không rõ mặt khách hàng để trả tiền. Khi trả tiền bảo hiểm cho khách hàng, các nhà bảo hiểm thường yêu cầu khách hàng xuất trình chứng minh thư, hộ chiếu… Tuy nhiên do kích cỡ ảnh trong chứng minh thư khá nhỏ và thường rất mờ (do thời gian) nên việc kiểm tra đôi khi gặp khó khăn. - Có sự thông đồng, giữa cán bộ làm bảo hiểm với đối tượng trục lợi . Đây là hành vi rất nguy hại cho công ty bảo hiểm bởi nhân viên công ty hiểu rõ nhất về công ty, những yếu điểm và biết cách để tiến hành các hoạt động nhằm trục lợi. Nhân viên hoặc đại lý bảo hiểm thông đồng với khách hàng trục lợi bảo hiểm. Họ có thể đánh giá mức độ tổn thất cao hơn thực tế hoặc vạch “đường đi nước bước” cho khách hàng lợi dụng kẽ hở về giấy tờ, thủ tục giám định để trục lợi... Bên cạnh đó, việc các đại lí mải chạy theo hoa hồng, thiên về số lượng hợp đồng mà mình đạt được đôi khi bỏ qua những yếu tố có nguy cơ dẫn đến trục lợi hoặc đôi khi có thể đại lí tham gia thực hiện quá trình cùng khách hàng để TLBH cũng là một trong những yếu tố làm tăng nguy cơ trục lợi, đây không chỉ là nguy hại mà còn làm chất lượng uy tín của công ty bảo hiểm ngày càng giảm sút... - Các doanh nghiệp bảo hiểm cũng chịu sức ép về thời hạn giải quyết bồi thường dẫn đến không có đủ thời gian và nguồn lực cần thiết để điều tra đầy đủ về những vụ có dấu hiệu trục lợi hoặc có nghi vấn trước khi quyết định việc trả tiền bảo hiểm - Dưới sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ, nhất là cuộc cạnh tranh về thông tin giữa các doanh nghiệp bảo hiểm vô hình chung biến họ thành những kẻ có quá it thông tin trao đổi với nhau trên con đường kinh doanh bảo hiểm. Để rồi cam kết giữ kín thông tin khách hàng đôi khi là kẻ hở lớn cho những kẻ trục lợi về bảo hiểm trùng. bồi thương bên thứ ba,...chết do mắc bệnh hiểm nghèo..v..v. - Công tác tuyển dụng, đào tạo, quản lý đại lý, cán bộ còn bị buông lỏng; quy trình kiểm tra, kiểm soát nội bộ; các quy trình nghiệp vụ, quy trình ra quyết định kinh doanh, quản lý tài chính, hạch toán, kế toán, đầu tư, giải quyết bồi thường v.v. chưa chặt chẽ và còn có những lỗ hổng có thể bị kẻ xấu lợi dụng. Đôi khi các vụ phát hiện trục lợi thì các công ty cũng có thể chọn giải pháp xử lí êm thấm do lo sợ nhiều nguyên nhân như: + Sợ khách hàng biết sẽ ảnh hưởng tới giữ chân khách hàng cũng như thu hút thêm khách hàng mới, chưa kể tiền lệ sẽ có nhiều người học theo để trục lợi... Có thể là sự cả nể đối với những khách hàng lớn, hoặc như khách hàng thân quen, khách hàng có vị thế ... Làm cho việc xử phạt vi phạm càng trở nên lỏng lẻo hơn chưa đủ sức đe doạ với những kẻ xấu khác cũng như làm tỉnh lòng tham của kách hàng.. + Xuất phát từ chế tài xử phạt của luật, nghị định còn nhẹ, khiến nhiều doanh nghiệp bỏ qua yếu tố kiện cáo, mà chỉ quan tâm đến việc ngăn chặn được trục lợi của bản thân công ty mình... Để rồi khó có thể khẳng định hành vi trục lợi đó bị ngăn chặn ở 1 công ty sẽ được nhiều công ty học hỏi kinh nghiệm hay hành vi gian lận đó sẽ được thử ở công ty khác... Với những kẻ hở, thiếu chế tài mạnh và được đà thì TLBH ngày càng tăng về số lượng, tinh vi về thủ đoạn, sắc sảo và móc ngoặc. Bên cạnh đó đạo đức xã hội ngày càng có xu hướng đi xuống, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức kinh doanh và trì._.nh độ của cán bộ nhiều ngành liên quan: công an, y tế, ...ngày càng khiến cho kinh doanh bảo hiểm phải đối mặt với thách thức gian lận và TLBH . Việc ngăn chặn hành vi TLBH không dễ dàng cho mỗi công ty bảo hiểm. Nó đòi hỏi 1 hành lang pháp lí thông nhất chặt chẽ, cụ thể và hiệu quả, đủ sức răn đe; sự phối hợp đồng bộ, trung thực với các cơ quan có chức năng liên quan...Muốn kinh doanh có hiệu quả, muốn cạnh tranh có hiệu quả, có uy tín trên thị trường, nhất là trong giai đoạn khi chúng ta chính thức vào WTO, nhiều công ty nước ngoài được vào hoạt động tịa Việt Nam thì đòi hỏi các công ty bảo hiểm trong nước có những biện pháp quản lí tài chính chặt chẽ hiệu quả và nhất là ngăn chặn tốt TLBH ... 2.1.3. Hậu quả của TLBH . TLBH là hành vi nhằm thu lợi bất chính, do đó sẽ có chủ thể bị thiệt hại do hành vi trên gây ra. 2.1.3.1. Đối với doanh nghiệp: Doanh nghiệp bất lợi Có quan điểm sai trái cho rằng gian lận bảo hiểm là một tội hình sự “không có nạn nhân” hoặc là một tội hình sự “khó phát hiện”. Thực ra, gian lận bảo hiểm đánh vào túi tiền của tất cả mọi người. Gian lận bảo hiểm dẫn đến: + Phí bảo hiểm cao hơn và giá hàng hoá và dịch vụ cao hơn : Số tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm phải bỏ ra để đấu tranh chống gian lận bảo hiểm và chi trả các khoản tiền gian lận sẽ dồn lên vai cộng đồng bảo hiểm dưới hình thức phí bảo hiểm cao hơn. Gian lận bảo hiểm cũng dẫn đến giá cả hàng hoá và dịch vụ cao hơn bởi vì doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá và dịch vụ chuyển chi phí mua bảo hiểm cao hơn vào tài sản và hàng hoá họ bán cho khách hàng. + Giảm khả năng cung cấp dịch vụ bảo hiểm : Các doanh nghiệp bảo hiểm có thể áp đặt các yêu cầu cao hơn khi khai thác bảo hiểm và thu hẹp phạm vi bảo hiểm để giảm bớt thiệt hại do gian lận bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm thường từ chối bảo hiểm đối với những lĩnh vực khó chống lại gian lận bảo hiểm. Đối với DNBH, khoản thu chính vẫn là từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm, chi cũng chủ yếu: chi trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường, hoa hồng...TLBH sẽ gây ra những ảnh hưởng đễn doanh thu và chi phí của DNBH, cùng với đó trong quá trình giám định bồi thường và đánh giá rủi ro bị gián đoạn, kéo dài do công tác điều tra chống gian lận trục lợi, đôi khi đó còn là cản trở đối với những khách hàng trung thực..Từ đó sẽ là nguy cơ xấu cho hình ảnh uy tín của doanh nghiệp trong khách hàng...làm giảm số lượng hợp đồng mới doanh thu và thị phần giảm.. TLBH còn ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí của DNBH như sau: + Phải bỏ thêm 1 khoản chi phí phát sinh để điều tra xác minh về đối tượng bồi thường, chi trả. + Nếu không phát hiện ra gian lận mà thực tế là TLBH thì rõ ràng các khoản chi trả bồi thường của doanh nghiệp tăng, lợi nhuận giảm... Như vậy rõ ràng lợi nhuận của DNBH bị giảm sút. Nếu duy trì dài có thể sẽ làm hình ảnh uy tín cũng như khả năng và sức mạnh tài chính của DNBH suy giảm từ đó lại gây ra hiệu ứng khách hàng sụt giảm niềm tin...Đó sẽ là những hậu quả không DNBH nào muốn, do đó hậu quả mà DNBH nhận được do hành vi trục lợi gây ra là rất lớn. 2.1.3.2. Đối với xã hội. - Trước hết, hành vi gian lận và trục lợi bảo hiểm là hành vi bị xã hội lên án, nó vi phạm vào đạo đức, chuẩn mực xã hội, làm cho tính nhân đạo cộng đồng của bảo hiểm bị suy thoái..Gây ảnh hưởng xấu đến kỉ cương, vi phạm pháp luật, làm ảnh hưởng xấu đến môi trương kinh doanh lành mạnh, khiến thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ trở thành một điểm đến có sự dè dặt trong sân chân chung của kinh tế thế giới.. - TLBH vô hình chung đã khiến sự đóng góp của các DNBH vào ngân sách sụt giảm, sự làm ăn kém hiệu quả sẽ khiến các DNBH khó có thể tham gia các chương trình từ thiện quốc gia, các nguồn hỗ trợ cho phúc lợi xã hội vô tình bị giảm... - TLBH nếu không ngăn chặn, xử lí nghiêm, sẽ dẫn đến thành thói quen xấu của người dân, đôi khi dễ rơi vào một làn sóng phong trào tham gia bảo hiểm với mục đích trục lợi. Từ đó hình thành nên 1 xã hội thiếu lành mạnh, thiếu tinh thần lao động và sáng tạo. Theo ông Lai (Vụ phó Vụ Bảo hiểm, Bộ Tài chính) các vi phạm trục lợi trong BHNT thể hiện dưới các hình thức như người mua BHNT cố tình che giấu, không khai báo trung thực về tình trạng sức khỏe của mình; các đại lý BHNT cố tình chiếm đoạt phí bảo hiểm thu được; đại lý BHNT thông đồng với người mua là người thân trong gia đình để lừa công ty BHNT... Cũng theo ông Lai, điều đáng lo ngại là tình trạng này đang tăng lên trong thời gian gần đây, nếu không kịp thời có các biện pháp phòng chống hiệu quả, mức độ vi phạm sẽ ngày càng tăng Các hành vi gian lận, trục lợi trong bảo hiểm là hành vi phạm pháp, có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của thị trường bảo hiểm, quyền và lợi ích chính đáng của những người tham gia bảo hiểm chân chính, góp phần dẫn đến những bất ổn trong đời sống xã hội.lên. (Ông Lê Quang Bình, Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm, Bộ Tài chínhTLBH TLBH là một hiện tượng toàn cầu và đang gây ra những thiệt hại vô cùng to lớn. "Nếu tập hợp các hành vi TLBH trên toàn thế giới vào một doanh nghiệp thì doanh thu của doanh nghiệp này sẽ lớn hơn tổng doanh thu của 500 doanh nghiệp lớn nhất thế giới mà Tạp chí Fortune bình chọn hằng năm", ông Lê Song Lai, Phó Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm (Bộ Tài chính) ví von như vậy. Rõ ràng, những hành vi gian dối, trục lợi bảo hiểm của một số người không chỉ làm ảnh hưởng tới uy tín cho các công ty BHNT và sự phát triển của thị trường BHNT, mà còn xâm phạm đến lợi ích của những khách hàng trung thực khác. Bởi chính những khách hàng chân chính này sẽ phải chia sẻ một phần trách nhiệm tài chính của mình (qua việc đóng phí) cho những khách hàng gian dối nếu các công ty BHNT không phát hiện ra các bằng chứng của sự gian dối và chấp nhận đền bù. 2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến trục lợi BHNT. BHNT là một trong những loại hình bảo hiểm có rất nhiều đặc thù riêng, do liên quan đến sinh mạng và tuổi thọ của con người cũng như có thời hạn hợp đồng khá dài, ngày càng đáp ứng được nhiều mục đích của người tham gia bảo hiểm vì thế mà bên cạnh những yếu tố tích cực nó cũng tiềm ẩn những yếu tố rủi ro và khe hở dẫn đến sự trục lợi của những kẻ xấu coi bảo hiểm như một nguồn quỹ phúc lợi...Các yếu tố cơ bản có thể ảnh hưởng đến TLBH trong BHNT như sau: 2.2.1. Đặc điểm của sản phẩm BHNT. 2.2.1.1. BHNT vừa mang tính tiết kiệm, vừa mang tính rủi ro. Đây là đặc điểm khác nhau cơ bản giữa BHNT với bảo hiểm phi nhân thọ. Mỗi người tham gia BHNT sẽ định kì nộp một khoản tiền nhỏ (phí bảo hiểm) cho công ty bảo hiểm , ngược lại công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả một số tiền lớn (gọi là STBH) cho người hưởng quyền lợi bảo hiểm như đã thoả thuận từ trước khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra. STBH được trả khi người được bảo hiểm đạt đến một độ tuổi nhất định và được ấn định trong hợp đồng. Hoặc được trả cho thân nhân và gia đình người được bảo hiểm khi người này không may bị chết sớm ngay cả khi họ mới tiết kiệm được một khoản tiền rất nhỏ qua việc đóng phí bảo hiểm. Số tiền này giúp những người còn sống trang trải những khoản chi phí cần thiết như: thuốc men, mai táng, trả nợ.... Đó chính là tính chất tiết kiệm, lại vừa mang tính rủi ro của BHNT. Nội dung tiết kiệm khi mua BHNT khác với các hình thức tiết kiệm khác ở chỗ, công ty bảo hiểm đảm bảo trả cho người tham gia bảo hiểm hay người thân của họ một khoản tiền rất lớn ngay cả khi họ mới tiết kiệm được một khoản tiền nhỏ. Khi người được bảo hiểm không may gặp rủi ro, trong thời hạn bảo hiểm đã được ấn định, những người thân của họ sẽ nhận được những khoản trợ cấp hay STBH từ công ty bảo hiểm. Tuy nhiên, đây cũng là một yếu tố có thể lạm dụng để trục lợi, bởi yếu tố rủi ro trong BHNT mang tính thời gian dài, thông thường hợp đồng BHNT dài ít nhất 5 năm, có những hợp đồng trọn đời, khiến cho những yếu tố thay đổi bên ngoài hợp đồng có lợi cho người tham gia mà công ty chưa kịp bổ sung trong hợp đồng theo luật định. Bên cạnh đó, với số tiền phí mới đóng, còn rất nhỏ mà khi gặp rủi ro vẫn được hưởng chi trả hay STBH lớn khiến nhiều kẻ có ý định xấu tận dụng nhằm thu lợi cá nhân. Tận dụng nét đặc trưng cơ bản này của BHNT mà nhiều kẻ xấu đã lợi dụng để có thể trục lợi, nhất là yếu tố thời gian, khác biệt hẳn với bảo hiểm phi nhân thọ thường chỉ là một năm hợp đồng... 2.2.1.2. BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm . Mục đích của bảo hiểm phi nhân thọ chủ yếu là đáp ứng nhu cầu khắc phục hậu quả khi đối tượng tham gia bảo hiểm gặp sự cố thì của BHNT đáp ứng được nhiều mục đích hơn qua từng hợp đồng. BHNT hưu trí sẽ đáp ứng được nhu cầu tài chính trong tương lai, giúp họ nhận được một khoản tiền hàng tháng như lương hưu công chức hay trợ cấp BHXH; hợp đồng BHNT tử vong sẽ giúp người được bảo hiểm để lại cho người cón sống một số tiền khi họ chẳng may bị rủi ro, từ số tiền này giúp những người còn sống rất nhiều việc... Bên cạnh đó hợp đồng BHNT đôi khi còn được sử dụng như vật thế chấp để người tham gia bảo hiểm có thể vay vốn hay BHNT tín dụng thường được bán để các đối tượng đi vay mua xe hơi, đồ dùng...v.v. Như vậy hợp đồng BHNT đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau của con người. Song chính những mục đích ấy có thể trở thành chỗ để nhiều kẻ xấu lợi dụng. Ví dụ như: một người tham gia bảo hiểm họ sử dụng hợp đồng BHNT của mình để vay vốn, họ vừa được vay vốn để có thể mang đi đầu tư kiếm lợi nhuận cao hơn lãi phải trả, trong khi đó họ vẫn có thể được hưởng quyền lợi bảo hiểm nếu xảy ra rủi ro theo hợp đồng...Việc đáp ứng nhiều mục đích sẽ có nguy dẫn đến gian lận, TLBH cao hơn và khó có thể kiểm soát hết mục đích thực sự của khách hàng... 2.2.1.3. Các loại hợp đồng trong BHNT rất đa dạng và phức tạp Tính đa dạng và phức tạp của trong hợp đồng thể hiện rất rõ qua các sản phẩm của BHNT. Mỗi sản phẩm lại có nhiều loại hợp đồng khác nhau về: số năm hợp đồng, STBH, phí, độ tuổi, .v.v. Trong mỗi hợp đồng BHNT lại có nhiều bên tham gia: người bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm, người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm. Do đó, tuỳ vào khả năng, mục đích của khách hàng mà tính đa dạng và phức tạp của hợp đồng BHNT lại càng rõ rệt hơn, bên cạnh đó lại có kèm điều khoản bổ sung...Vì thế, nếu xuất phát từ ý định gian lận, TLBH của những kẻ xấu để tham gia BHNT với mục đích và sự chuẩn bị sẵn thì rõ ràng thật khó có thể nhận dạng ngay được ý đồ đó... 2.2.1.4. Phí BHNT chịu tác động tổng hợp của nhiều nhân tố. Vế cơ bản phí BHNT phụ thuộc vào những yếu tố: Độ tuổi của người được bảo hiểm. Tuổi thọ bình quân của con người. STBH , Thời hạn tham gia bảo hiểm , Phương thức thanh toán, Lãi suất đầu tư, lạm phát...v. v.v... Như vậy việc định phí bảo hiểm là vô cùng phức tạp, khi khách hàng có ý đồ TLBH, sẽ cân nhắc để nộp phí bảo hiểm ít nhất mà lại có thể hưởng quyền lợi bảo hiểm cao hoặc sử dụng các biện pháp khai báo sai sự thật như: khai tuổi thấp để có thể đóng phí thấp... 2.2.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng khác - Chỉ dựa trên các đặc điểm của BHNT thì khó có thể nhận biết ngay sự ảnh hưởng của chúng tới TLBH. Bên cạnh đó yếu tố pháp lí có ảnh hưởng không nhỏ tới xu hướng TLBH bởi nếu luật pháp không thực sự mạnh, hiệu quả và cụ thể hay đủ sức răn đe và phòng ngừa gian lận trong bảo hiểm thì hiển nhiên những kẽ hở đó sẽ được lợi dụng mà không hề lo sợ. Một chế tài xử phạt mạnh sẽ giúp ngăn chặn hơn nữa nguy cơ TLBH. - BHNT ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, đặc biệt nền kinh tế- xã hội phải phát triển. Do vậy với những nền kinh tế- xã hội còn đang phát triển, có thể vô hình chung việc TLBH cũng là một cách để nhiều kẻ coi là một cách để tăng thu nhập,... 2.2.2. Kênh phân phối của BHNT Kênh phân phối truyền thông của BHNT vẫn là đại lí. Đại lí bảo hiểm là tổ chức, các nhân được doanh nghiệp bảo hiểm uỷ quyền trên cơ sở hợp đồng đại lí bảo hiểm để thực hiện hoạt động đại lí bảo hiểm theo qui định của pháp luật. Đại lí bảo hiểm có thể được DNBH uỷ quyền tiến hành các hoạt động sau: - Giới thiệu, chào bán bảo hiểm; - Thu xếp việc giao kết hợp đồng; - Thu phí bảo hiểm; - Thu xếp giải quyết bồi thường, trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm; - Thực hiện các hoạt động khác có liên quan... Hoa hồng chính là thu nhập của đại lí do DNBH trả dựa trên một tiêu chí cam kết theo hợp đồng như: số hợp đồng khai thác mới, tỷ lệ duy trì hợp đồng ...Bên cạnh đó, đại lí có thể được thưởng, thăng tiến hoặc cũng có thể bị xử phạt thậm chí đuổi việc theo luật và hợp đồng đại lí bảo hiểm. Ngoài ra, các công ty bảo hiểm có thể bán sản phẩm của mình thông qua các hình thức khác như: quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, kèm một dịch vụ liên kết( liên kết ngân hàng để bán sản phẩm..),...v..v. Đối với BHNT, kênh phân phối hiệu qủa và truyền thống vẫn là đại lí bảo hiểm. Đại lí là người đại diện cho công ty tiếp xúc trực tiếp với khách hàng từ khi khách hàng biết đến sản phẩm của công ty đến tìm hiểu và có nhu cầu mua bảo hiểm. Đại lí thu xếp gặp gỡ khách hàng, trao đổi và qua đó hiểu được nhu cầu của khách hàng, đưa ra đánh giá rủi ro ban đầu về tình hình sức khoẻ và khả năng tài chính của khách hàng. Đưa ra các lựa chọn thích hợp để khách hàng lựa chọn tham gia bảo hiểm...Từ đó đại lí thu xếp để khách hàng tham gia kí hợp đồng BHNT dựa trên sự hiểu biết về quyền lợi và nghĩa vụ trách nhiệm của mình. Đại lí cũng là nhân viên thu phí bảo hiểm từ khách hàng cho công ty... Như vậy rõ ràng vai trò của đại lí là rất lớn trong khâu khai thác hợp đồng bảo hiểm mới và ngăn chặn TLBH. Bởi đại lí thông qua tiếp xúc trực tiếp với khách hàng có thể hiểu rõ khách hàng về nhiều mặt từ đó có thể nhận diện mục đích của khách hàng khi tham gia bảo hiểm. Đại lí thường xuyên tiếp xúc chăm sóc và trao đổi thông tin với khách hàng cũng như có những mối quan hệ nào đó với khách hàng... Tuy nhiên, do xuất phát từ hoa hồng, từ mục tiêu số lượng và một vài mục đích khác...mà các đại lí thường bỏ qua những giai đoạn cần thiết và quan trọng để xác minh rõ đối tượng tham gia bảo hiểm. Do đó, không ít trường hợp các khách hàng tham gia bảo hiểm đã gian lận mà vẫn được các đại lí chấp thuận để tham gia ki kết hợp đồng trong khi các nhân viên của công ty không nắm rõ được. Đôi khi bản thân các đại lí cũng là nhân tố tham gia gian lận TLBH... Vì để tiến hành hợp đồng một cách nhanh chóng, các đại lí có thể tự tay làm giúp các khách hàng trong quá trình tìm hiểu sản phẩm bảo hiểm, dẫn đến khi xảy ra rủi ro khách hàng có thể vô tình rơi vào TLBH mà không hề hay biết và khi bị vi phạm sẽ không được hưởng quyền lợi. Như vậy yếu tố đại lí có ảnh hưởng lớn đến khả năng TLBH cũng như ngăn chặn gian lận của khách hàng. Một đại lí trung thành, xuất sắc luôn khai thác được nhiều hợp đồng mà vẫn có thể giúp DNBH tránh được các khách hàng xấu có ý TLBH hoặc lôi cuốn được nhiều khách hàng thân thiện. Các kênh phân phối khác cũng có thể gặp phải gian lận, trục lợi trong quá trình khai thác do những nét đặc trưng cơ bản của BHNT. Do vậy, đòi hỏi kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm hiệu quả và uy tín sẽ giúp tránh được gian lận, trục lợi cho công ty. 2.2.3. Khách hàng. * Khách hàng là yếu tố không thể thiếu của mọi hợp đồng kinh doanh. Trong BHNT khách hàng (hay là bên được bảo hiểm) có nét đặc trưng riêng biệt. Khách hàng không thể hiểu đơn thuần là người mua hàng như các lĩnh vực sản xuất thông thường. Khách hàng trong BHNT có thể chia làm 3 loại trong hợp đồng BHNT như sau: - Người được bảo hiểm: là sinh mạng và cuộc sống của họ được bảo hiểm theo các điều kiện của hợp đồng. Người được bảo hiểm có thể là những người đã trưởng thành, có đủ năng lực pháp lí hoặc có thể là những người chưa đủ tuổi thành niên. - Người tham gia bảo hiểm: là người đứng ra yêu cầu bảo hiểm, thoả thuận và kí kết hợp đồng. Người tham gia bảo hiểm phải đảm bảo quy định của pháp luật về năng lực pháp lí. - Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm: là người được nhận STBH hoặc các khoản trợ cấp do công ty bảo hiểm thanh toán theo hợp đồng cam kết. Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm do người tham gia bảo hiểm chỉ định trong hợp đồng. Nếu việc chỉ định không rõ ràng, STBH được giải quyết theo luật thừa kế. Như vậy, yếu tố khách hàng trong hợp đồng BHNT rất phức tạp, do vậy nó cũng có những tác động không nhỏ tới mục đích trục lợi, làm nảy sinh những ý đồ xấu, lòng tham... * Trình độ dân trí: có lẽ đây không chỉ là điều mà nhiều lĩnh vực kinh doanh phàn nàn, mà nó đang trở thành cái cớ để người ta nói đến khi sự vi phạm của người dân xảy ra. Bởi thực tế trình độ hiểu biết về bảo hiểm của người dân Việt Nam nói chung còn mù mờ, đôi khi chưa phân biệt rõ được các loại bảo hiểm. Là một tỉnh nông nghiệp, đa số là nông dân, việc tiếp cận thông tin đại chúng còn nhiều hạn chế nên việc không nắm bắt tốt thông tin, không hiểu rõ về quy định, quy tắc, điều khoản, hợp đồng bảo hiểm cũng là điều dễ hiểu. Song lại có ý kiến: “Theo TS Phạm Duy Nghĩa, Chủ nhiệm bộ môn Luật kinh tế, Đại học quốc gia Hà Nội, kiêm Trọng tài viên Trọng tài quốc tế Việt Nam, những người tham gia BHNT không phải là người có thu nhập thấp mà là người có thu nhập tương đối cao và ổn định, phần lớn trong số họ là công chức nhà nước. Nhận thức của họ về pháp luật cũng rất khá, vì vậy không thể coi nguyên nhân chính dẫn đến gian lận, lừa đảo trong bảo hiểm là do họ không hiểu biết về pháp luật”. Như vậy, đó chính là biểu hiện của chủ ý TLBH chư không đơn thuần là trình độ dân trí nữa. Mà những đối tượng trên thực sự có thể sử dụng các thủ đoạn tinh vi mà các công ty bảo hiểm không thể chứng minh là trục lợi được, để rồi: “Ở chừng mực nào đó, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm rơi vào tình thế đơn thương độc mã trong những nghi vấn của mình. Nghi vấn chứ chưa chứng minh được người ta có trục lợi bảo hiểm hay không", TS Nghĩa nói thêm. Bên cạnh đó, thực tế đã có một bộ phận người tham gia bảo hiểm không ý thức được trách nhiệm đạo đức và pháp lý của mình nên đã cố tình kê khai khống mức độ thiệt hại, hay lợi dụng những kẽ hở trong hợp đồng bảo hiểm hay quy trình nghiệp vụ của doanh nghiệp bảo hiểm để thu lợi bất chính. Tóm lại, TLBH chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, và nó cũng dễ trở thành mục tiêu của nhiều kẻ xẫu luôn coi bảo hiểm như là quỹ phúc lợi xã hội. Do đặc thù riêng mà kinh doanh BHNT ngày càng phải đối mặt với nguy cơ gia tăng về trục lợi, các hành vi lừa dối ngày càng được dàn xếp va chuẩn bị tinh vi hơn. Đòi hỏi các công ty bảo hiểm phải dựa trên nguyên nhân, các nhân tố ảnh hưởng để đưa ra biện pháp ngăn chặn và xử lí kịp thời TLBH. CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG TLBH VÀ PHÒNG CHỐNG TLBH TẠI CÔNG TY BẢO VIỆT NHÂN THỌ THÁI BÌNH. 2.1. V ài nét về công ty Bảo Việt nhân thọ Thái Bình. 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển. 2.1.1.1. Sơ bộ về Tổng công ty Bảo Việt Việt Nam. Bảo Việt là tên gọi tắt của công ty bảo hiểm Việt Nam theo quyết định số 179/CP ngày 1/12/1964 của Chính phủ và chính thức đi vào hoạt động ngày 15/01/1965, với sự khởi đầu 20 cán bộ nhân viên. Khi mới thành lập Bảo Việt lúc đó chỉ có trụ sở chính tại Hà Nội và một chi nhánh tại Hải Phòng hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu và bảo hiểm tàu biển. Đến năm 1980 Bảo Việt đã không ngừng lớn mạnh khi có mạng lưới cung cấp dịch vụ trên khắp cả nước. Năm 1989, theo quyết định của Bộ Tài chính, công ty bảo hiểm Việt Nam được chuyển đổi thành Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam ngày nay. Năm 1992, trong xu thế mở rộng và hội nhập khu vực quốc tế, Bảo Việt chính thức thành lập công ty BAVINA tại Anh quốc thực hiện các dịnh vụ tái bảo hiểm với thị trường quốc tế. Năm 1996, Bảo Việt được chính phủ xếp hạng là Doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt. Đồng thời cũng trong năm này, thực hiện quyết định số 281/TC-TCNH ngày 20/03/1996 của Bộ trưởng Bộ tài chính về việc triển khai Bảo Hiểm nhân thọ, Bảo Việt là người tiên phong cung cấp ra thị trường Việt Nam các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ. Từ đó, Bảo Việt có doanh thu tăng trưởng liên tục trên 20%/năm. Hơn 10 năm qua, Bảo Việt nhân thọ đã có những bước phát triển ổn định, vững chắc và hiệu quả, đã kí trên 4 triệu hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, tổng số tiền chi trả 5.000 tỷ đồng. Trong đó với hợp đồng hết thời hạn 3.300 tỷ và giải quyết quyền lợi bảo hiểm rủi ro 1.700 tỷ. Năm 1999, Bảo Việt thành lập công ty chứng khoán đầu tiên: công ty chứng khoán Bảo Việt đánh dấu một mốc son mới trên chặng đường phát triển của mình. Bảo Việt không chỉ kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm mà còn trở thành một trong những địa chỉ đáng tin cậy về đầu tư tài chính. Ngày 28/11/2005 Bảo Việt trở thành tập đoàn tài chính Bảo hiểm hàng đầu Việt Nam kinh doanh trên cả 3 lĩnh vực: bảo hiểm, chứng khoán, tư vấn và đầu tư tài chính. Và định hướng phát triển tập đoàn kinh doanh đa ngành khép kín lớn nhất tại Việt Nam. Với sự ra đời tương lai gần của Ngân hàng Bảo Việt và kinh doanh bất động sản. Bảo Việt là một trong 5 tập đoàn ra đời đầu tiên tại Việt Nam. Ở Việt Nam hiện nay có các tập đoàn như: Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam, Tập đoàn dầu khí Việt Nam, Tập đoàn than và khoáng sản Việt Nam... Trải qua hơn 40 năm phát triển và lớn mạnh. Bảo Việt tự hào được chính phủ xếp hạng doanh nghiệp đặc biệt. Là 1 trong 25 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, lâu đời nhất. Là doanh nghiệp bảo hiểm duy nhất kinh doanh Bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ tại Việt Nam. Với hơn 60 loại sản phẩm bảo hiểm khác nhau, Bảo Việt có một thế mạnh hơn hẳn các doanh nghiệp cùng ngành trong việc đáp ứng nhu cầu bảo hiểm đa dạng cả về số lượng cũng như chất lượng của hầu hết các đối tượng khách hàng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Bảo Việt là doanh nghiệp số 1 khi có mạng lưới phân phối rộng khắp toàn quốc với: 125 công ty bảo hiểm thành viên 500 phòng giao dịch 1 công ty chứng khoán 1 trung tâm đào tạo 1 trung tâm đầu tư vốn 1 trung tâm thông tin 1 công ty đại lý bảo hiểm BAVINA tại Anh Quốc Đây là những thế mạnh của Bảo Việt mà không có doanh nghiệp bảo hiểm nào ở Việt Nam có được cả trong hiện tại cũng như trong tương lai. Bảo Việt đã thiết lập các mối quan hệ quốc tế rộng lớn với nhiều quốc gia trên thế giới như: Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Hà Lan, Trung Quốc...Hiện nay, Bảo Việt có mối quan hệ về tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, đại lý giám định , xét giải quyết bồi thường với hàng trăm công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm trên thế giới. Bảo Việt có một tiềm lực tài chính vững chắc. Hiện nay, tổng giá trị tái sản Bảo Việt chúng tôi quản lí khoảng 11000 tỷ đồng, doanh thu phí bảo hiểm hàng năm la 7000 tỷ đồng. Ngày 21/08/2001, Bảo Việt là doanh nghiệp đầu tiên nhận chứng chỉ ISO9001. Đây là một bộ tiêu chuẩn quốc tế về quản lý chấtd lượng được áp dụng rộng rãi trong các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ và quản lý hành chính. Năm 2003, Bảo Việt vinh dự nhận giải thưởng “Sao Vàng Đất Việt” về dịch vụ tài chính có chất lượng cao. Năm 2004 được nhận Huân chương Độc lập hạng Ba. Ngày 31/01/2007, được nhận Bằng Khen của Bộ trưởng Bộ tài chính vì: “ Đã có thành tích xuất sắc trong hoạt đông kinh doanh bảo hiểm”. Bảo Việt cùng TW Đoàn TNCSHCM sáng lập ra “Giải thưởng Kim Đồng” dành cho các em chỉ huy đội xuất sắc và giải thưởng “Tuổi trẻ Dũng Cảm” biểu dương các em có hành động dũng cảm cứu người, cứu tài sản. Cùng Quỹ bảo trợ trẻ em Việt Nam lập quỹ “Học bổng An Sinh Giáo Dục” mỗi năm trên 1.000 suất học bổng,, Tài trợ chương trình thủ khoa Việt Nam. Đó chính là quá trình hình thành và phát triển nói chung của tổng công ty Bảo Việt . Là một chi nhánh của Bảo Việt, công ty Bảo Việt nhân thọ Thái Bình cũng có những đóng góp vào sự phát triển chung của tổng công ty. 2.1.1.2.Quá trình hình thành và phát triển của công ty Bảo Việt nhân thọ Thái Bình . Cùng với sự phát triển của Bảo Việt nhân thọ Việt Nam. Bảo Việt nhân thọ Thái Bình đã cung cấp sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đầu tiên trên thị trường bảo hiểm Thái Bình từ năm 1997. Bảo Việt nhân thọ Thái Bình chính thức được thành lập theo quyết định số 197/2000/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ tài chính. Trên cơ sở tách ra từ công ty bảo hiểm Thái Bình. Về mặt tổ chức là 1 doanh nghiệp nhà nước, có tư cách pháp nhân, với nhiệm vụ cung cấp dịch vụ bảo hiểm nhân thọ, dịch vụ tài chính và phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế của địa phương. Về tổ chức Đảng là tổ chức cơ sở Đảng, thuộc Đảng bộ khối doanh nghiệp. Về công đoàn là tổ chức công đoàn cơ sở thuộc công đoàn viên chức tỉnh. Ngay từ khi thành lập, tập thể cán bộ nhân viên công ty đã không ngừng có những đóng góp vào thành tựu và phát triển chung của tổng công ty cũng như phát triển kinh tế địa phương. Trụ sở chính của công ty hiện nay là toà nhà 5 tầng ngã tư đường Lê Lợi- Phố Lê Quý Đôn- Phường Đề Thám- Thành phố Thái Bình. Năm 2007 vừa qua, bảo hiểm nhân thọ Thái Bình đã kỉ niệm 10 năm hoạt động, 10 năm ngày phát hành hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đầu tiên tại Thái Bình với chủ đề: “10 năm xây dựng phát triển và cảm ơn khách hàng Bảo Việt nhân thọ”. Trong 10 năm hoạt động của mình, công ty Bảo Việt nhân thọ Thái Bình đã đạt được những thành tựu chung sau: - Tổng doanh thu đạt gần: 300 tỷ đồng. - Tỷ lệ duy trì hợp đồng hàng năm đạt mức 97% trở lên. - Phục vụ gần 100.000 lượt khách hàng với mức trách nhiệm gần 1.000 tỷ đồng. - Đã chi trả hợp đồng hết thời hạn bảo hiểm từ năm 2001 là hơn 10.000 khách hàng với số tiền trên 100 tỷ đồng. - Việc giúp khách hàng giải quyết những khó khăn tài chính tạm thời cũng được công ty quan tâm và giúp đỡ. Với 4.342 trường hợp khách hàng vay theo hợp đồng, với tổng số tiền cho vay: 14,164 tỷ đồng. - Giải quyết lợi bảo hiểm: 584 trường hợp khách hàng không may mắn gặp rủi ro với tổng số tiền chi trả trên: 2,2 tỷ đồng; miễn đóng phí bảo hiểm: 137 khách hàng với tổng số tiền 1,5 tỷ đồng. - Giải quyết chế độ bảo hiểm với hàng trăm khách hàng mắc bệnh hiểm nghèo và điều khoản riêng,, số tiền trên 100 triệu đồng. - Song song với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao . Công ty phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc: tinh thần tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách. Vận động cá nhân đóng góp vì sự phát triển chung của cộng đồng xã hội. Như ủng hộ các quỹ: + Đền ơn đáp nghĩa. + Xây dựng nhà tình nghĩa, + Quỹ bảo trợ trẻ em Việt Nam, + Quỹ ủng hộ nạn nhân chất độc màu da cam, + Quỹ vì người nghèo, + Tặng xe lăn cho trẻ em khuyêt tật, Học bổng An sinh giáo dục cho học sinh nghèo hiếu học. + Thăm hỏi và tặng quà nhân ngày 27/7 với gia đình liệt sỹ và thương bệnh binh. Tặng quà thiếu nhi nhân ngày 1/6 và tập thể cá nhân bị thiên tai mỗi năm hàng chục triệu đồng. Công ty luôn thực hiện tốt các chương trình mà Tổng công ty Bảo Việt đã đề ra. Tập thể ban lãnh đạo, cán bộ nhân viên luôn đoàn kết nỗ lực, phấn đấu thi đua, nâng cao chất lượng dịch vụ, mang lại sự hài lòng đến khách hàng và đưa tới những sản phẩm mới nhất, hấp dẫn nhất. Bảo Việt nhân thọ Thái Bình hiểu được rằng: “ Không có khách hàng thì không có doanh nghiệp”. Bảo Việt nhân thọ và khách hàng luôn là những người bạn đồng hành chung thuỷ. Kết quả 10 năm, chặng đường xây dựng và phát triển của Bảo Việt nhân thọ Thái Bình với sự đóng góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế của địa phương đã được ghi nhận. Tập thể được Chính phủ trao tặng cờ: “thi đua chính phủ” và Bằng khen. Được Bộ Tài chính và UBND tỉnh Thái Bình tặng cờ, bằng khen và bằng ghi công. Được Bảo Việt tặng cờ và giấy khen. Về tổ chức Đảng, nhiều năm liên tục được công nhận “Trong sạch vững mạnh xuất sắc”. Về tổ chức đoàn thể đạt dang hiệu “ Vững mạnh xuất sắc”. Nhiều cá nhân được nhận bằng khen của Chính phủ, của Bộ tài chính, của UBND tỉnh và danh hiệu chiến sỹ thi đua các cấp. Đến nay, tổ chức bộ máy của công ty có 1 Giám đốc, 1 phó Giám đốc các phòng nghiệp vụ tại văn phòng công ty, 8 phòng dịch vụ khách hàng tại các huyện, với trên 300 cán bộ quản lí, tư vấn và thu ngân. Với phương châm hoạt động: “Phục vụ khách hàng tốt nhất để phát triển”. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty. Vì là công ty con thuộc Tập đoàn Bảo Việt, lại kinh doanh trên thị trường còn nhỏ, cũng như doanh thu của công ty so với nhiều chi nhánh khác còn ở mức thấp nên hiện nay cơ cấu tổ chức bộ máy cơ bản của công ty như sau: Ban Gi¸m §èc Phßng qu¶n lÝ & ph¸t triÓn ®¹i lÝ Phßng kÕ to¸n tæng hîp Phßng nghiÖp vô b¶o hiÓm Chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các phòng ban công ty như sau: * Phòng kế toán - tổng hợp: + Chức năng: - Quản lí hoạt động kinh tế, kế toán trong toàn công ty, điều hành các hoạt động đầu tư, tổ chức hạch toán theo các chế độ kế toán của Nhà nước quy định. - Thống kê, báo cáo các hoạt động của công ty - Phối hợp hoạt động, tham mưu về quản lí và kinh doanh. - Tổ chức lao động, tiền lương, thi đua, khen thưởng, đôn đốc các phòng thực hiện nhiệm vụ mà công ty đặt ra. + Nhiệm vụ: - Theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra giám sát hoạt động thu chi và tình hình hạch toán, báo số của các phòng trực thuộc. - Quản lí việc sử dụng và quyết toán ấn chỉ trong toàn công ty. - Tham mưu vào quá trình xét duyệt chi trả bảo hiểm theo quy trình và phân cấp. - Xây dựng kế hoạch tài chính năm - Quản lí tiền mặt và các chứng từ có giá trị - Quản lí sổ sách kế toán, toàn bộ vốn và tái sản của công ty. - Lập báo cáo kế toán tài chính định kì. - Cung cấp các số liệu báo cáo phục vụ hoạt động kinh doanh cho công ty - Lập phương án sử dụng quỹ lương, quỹ thưởng. * Phòng quản lí và phát triển đại lí: + Chức năng và nhiệm vụ: - Căn cứ vào nhu cầu của khách hàng, xu hướng của thị trường và tình hình hoạt động của công ty để đề xuất với giám đốc chiến lược, quy mô tuyển dụng đại lí, tư vấn viên. - Tổ chức thi tuyển, tuyển dụng đại lí, tư vấn viên ở tất cả các phòng. - Kiểm tra doanh thu, giám sát hoạt động của các đại lí, tư vấn viên. - Phối hợp các phòng để hoàn thành quy trình nghiệp vụ bảo hiểm theo quy chế và phân công giám đốc của công ty . - Thực hiện việc chi trả hoa hồng cho các đại lí, tư vấn viên theo doanh thu + Quyền hạn: - Kiến nghị với giám đốc về việc đình chỉ công tác hoạt động của các cá nhân, bộ phận khi cần thiết nhằm thực hiện tốt mục tiêu của công ty đề ra. *. Phòng nghiệp vụ bảo hiểm: Đây chính là nơi thực hiện các nghiệp vụ cơ bản về kinh doanh bảo hiểm của công ty như: - Phát hành và quản lí hợp đồng… - Giải quyết quyền lợi khách hàng. - Giải quyết các thủ tục liên quan đến khách hàng như: đáo hạn, hủy bỏ hợp đồng… Vì là chi nhá._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24722.doc
Tài liệu liên quan