Tỷ giá hối đoái và đổi mới chính sách quản lý tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay

Lời nói đầu. Để thoát khỏi tình trạng nền kinh tế trì trệ, Việt Nam đã thực hiện cải cách kinh tế bắt đầu bằng công cuộc Đổi Mới vào năm 1986. Từ năm 1990, công cuộc Đổi Mới được đẩy mạnh hơn với chủ trương và phát tiển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, công cuộc Đổi Mới cũng được tiến hành đồng thời với việc phát triển kinh tế đối ngoại, hợp tác và hội nhập, phù hợp với xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế thế giới ngày càng mạnh

doc47 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1215 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tỷ giá hối đoái và đổi mới chính sách quản lý tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mẽ. Trong nền kinh tế mở, tỷ giá hối đoái (TGHĐ) được coi như là trung tâm của chính sách tiền tệ ở mọi quốc gia. ảnh hưởng to lớn của TGHĐ đối với mọi hoạt động kinh tế trong nền kinh tế quốc dân thể hiện ở chỗ: nó vừa là công cụ điều tiết hết sức có hiện quả cho việc can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế, còn là mục tiêu điều chỉnh quan trọng mà mỗi chính phủ đều phải đặc biệt quan tâm.Trong xu hướng toàn cầu hóa, quốc tế hóa đời sống kinh tế, nhất là trong lĩnh vực tài chính tiền tệ,Việt Nam tham gia vào quá trình hội nhập này là một tất yếu.Tuy nhiên, với những diễn biến hết sức phức tạp thất thường khó lường như những năm gần đây, với nền kinh tế mở thì tác động của tình hình kinh tế tài chính thế giới qua con đường tỷ giá, chế độ tỷ giá diễn ra rất mạnh, có ảnh hưởng đồng thời đến chiến lược mở cửa, phát triển kinh tế, thu hút vốn và đầu tư nước ngoài. Hơn nữa, Việt Nam đang đi những bước đi đầu tiên trên cả lý luận và thực tiễn trong vấn đề tỷ giá và quản lý ngoại hối. Do đó, việc nghiên cứu TGHĐ, thị trường ngoại tệ đối với Việt Nam là điều cần thiết. Đề tài “Tỷ giá hối đoái và đổi mới chính sách quản lý tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay” xuất phát từ nhu cầu thực tiễn trên, phấn đấu cố gắng đưa ra những nhận xét chung, nhất về thực tiễn điều hành tỷ giá ở Việt Nam, kết hợp tìm hiểu một số chính sách tỷ giá và kinh nghiệm của các quốc gia khác. Đề tài được kết cấu gồm phần nội dung với 3 chương như sau: Chương I : Cơ sở lý luận về tỷ giá hối đoái. Chương II : Thực trạng điều chỉnh chính sách tỷ giá hối đoái trong quá trình đổi mới ở Việt Nam. Chương III : Định hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế điều chỉnh tỷ giá hối đoái ở Việt Nam. Quá trình nghiên cứu do còn hạn chế về năng lực và kinh nghiệm, nên đề án này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. em rất mong nhận được những góp ý của các thầy cô giáo để nhận thức vấn đề của em được hoàn thiện hơn, kiến thức được mở rộng, em xin cảm ơn. Sinh viên thực hiện Phoung Chan Sophat Phần nội dung: Chương I: Cơ sở lý luận về Tỷ giá hối đoái. 1.1. Khái niệm Tỷ giá hối đoái. 1.1.2. Định nghĩa. - Về hình thức: Tỷ giá hối đoái là giá cả đơn vị tiền tệ của một quốc gia được biểu hiện qua các đơn vị tiền tệ của quốc gia kia, là hệ số của một đồng tiền này sang đồng tiền khác, được xác định bởi mối quan hệ cung - cầu trên thị trường tiền tệ. - Về nội dung: Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế bắt nguồn từ nhu cầu trao đổi hàng hoá, dịch vụ phát sinh trực tiếp từ tiền tệ, quan hệ tiền tệ giữa các quốc gia. Ví dụ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng của đồng Việt Nam (VND) với USD áp dụng cho ngày 25-2-2003 là: 1 USD = 15.395,00 VND 1.1.2. Các loại Tỷ giá hối đoái. a. Căn cứ nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối, ta có: - Tỷ giá mua vào-Bid Rate: là tỷ giá mà tại đó ngân hàng yết giá sẵn sàng mua vào đồng tiền yết giá. - Tỷ giá bán ra-Ask (or Offer) Rate: là tỷ giá mà tại đó ngân hàng yết giá sẵn sàng bán ra đồng tiền yết giá. - Tỷ giá giao ngay-Spot Rate: là tỷ giá được thỏa thuận ngày hôm nay, nhưng việc thanh toán xảy ra trong vòng 2 ngày tiếp theo. - Tỷ giá kỳ hạn-Forward Rate: là tỷ giá được thỏa thuận ngày hôm nay, nhưng việc thanh toán xảy ra sau đó từ 3 ngày trở lên. - Tỷ giá tiền mặt-Bank Note Rate: là tỷ giá tiền mặt áp dụng cho ngoại tệ tiền kim loại, tiền giấy, séc du lịch và thẻ tín dụng. - Tỷ giá chuyển khoản-Transaction Rate: Tỷ giá này áp dụng cho giao dịch mua bán ngoại tệ là các khoản tiền gửi tại ngân hàng. - Tỷ giá mở cửa-Opening Rate: là tỷ giá áp dụng cho hợp đồng giao dịch đầu tiên trong ngày. - Tỷ giá đóng cửa-Closing Rate: là tỷ giá áp dụng cho hợp đồng cuối cùng được giao dịch trong ngày. - Tỷ giá chéo-Crosed Rate: là tỷ giá giữa hai đồng tiền được suy ra từ đồng tiền thứ ba (còn được gọi là đồng tiền trung gian). b. Căn cứ cơ chế điều chỉnh chính sách tỷ giá, ta có: - Tỷ giá chính thức-Official Rate: là tỷ giá do NHTW công bố, nó phản ánh chính thức về giá trị đối ngoại của đồng nội tệ. Tỷ giá này được áp dụng để tính thuế xuất nhập khẩu và một số hoạt động khác liên quan đến tỷ giá chính thức. - Tỷ giá chợ đen-Black Market Rate: là tỷ giá được hình thành bên ngoài hệ thống ngân hàng, do quan hệ cung cầu trên thị trường tự do quyết định. - Tỷ giá cố định-Fixed Rate: là tỷ giá do NHTW công bố cố định trong một biên độ dao động hẹp. Dưới áp lực cung cầu của thị trường, để duy trì tỷ giá cố định, buộc NHTW phải thường xuyên can thiệp, do đó làm cho dự trữ ngoại hối quốc gia thay đổi. - Tỷ giá thả nổi hoàn toàn: là ty giá được hình thành hoàn toàn theo quan hệ cung cầu trên thị trường, NHTW không hề can thiệp. - Tỷ giá thả nổi có điều tiết: là tỷ giá được thả nổi, nhưng NHTW tiến hành can thiệp để tỷ giá biến động có lợi cho nền kinh tế. 1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của Tỷ giá hối đoái. 1.2.1. Thời kỳ lưu thông tiền vàng và tiền đúc. Từ trước công nguyên, sau cuộc phân công lao động xã hội lần thứ 2, vàng bạc đúc thành thỏi đã trở thành đồng tiền ngự trị. Các loại tiền khác như: vỏ ốc, vỏ trai, dao, vải... và dần dần chiếm vị trí độc tôn trên thị trường hàng hoá tiền tệ. Tuy nhiên, do việc dùng vàng thỏi tính theo trọng lượng gây nhiều khó khăn cho trao đổi nên tiền đúc đã ra đời. Bắt đầu từ cuộc phân công lao động lần thứ 3, đã xuất hiện tiền đúc của các lái buôn giàu có. Về sau khi thương nghiệp mở rộng, tiền đúc không chỉ do thương nhân, nhà thợ đúc mà là do Nhà nược đúc, mỗi nước theo phong tục của mình đã đưa ra những đồng tiền riêng, mang dấu ấn quốc gia và khác với đồng tiền của các quốc gia khác về trọng lượng và đơn vị tiền. 1.2.2. Hệ thống Tỷ giá hối đoái trong điều kiện chế độ bản vị vàng. Trong chế độ bản vị vàng, cơ sở để định ra tỷ giá hói đoái là đồng giá vàng. Đồng giá vàng hay gọi là ngang giá hàm lượng vàng là tỷ lệ của một đồng tiền so với ngoại tệ khác trên cơ sở hàm lượng vàng ngang nhau. Hàm lượng vàng là khối lượng vàng do luật pháp qui định lấy làm đơn vị tiền tệ của một nước. 1 GBP = 2,13287 gram vàng nguyên chất 1 USD = 0,818512 gram vàng nguyên chất Như vậy, đồng giá vàng của một bảng Anh so với đô-la Mỹ là 2,64. Trong điều kiện của chế độ bản vị vàng còn tồn tại thì sự biến động của tỷ giá xoay quanh đồng giá vàng không giống như giá cả xoay quanh giá trị ở chỗ tỷ giá biến động lên xuống trong một giới hạn nhất định. Giới hạn cao nhất và thấp nhất của những biến động của tỷ giá gọi là điểm vàng. Điều kiện giữ cho tỷ giá không thể lên xuống qua điểm vàng đó là: - Tự do đổi giấy bạc ra vàng. - Tự do xuất vàng ra nước ngoài. Chế độ bản vị vàng có đủ hai điều kiện đó là: Điểm vàng cao nhất = đồng giá vàng + chi phí chuyển vàng. Điểm vàng thấp nhất = đồng giá vàng - chi phí chuyển vàng. 1.2.3. Hệ thống tỷ giá cố định Bretton Woods. Để thiết lập một hệ thống tiền tệ và thanh toán chung cho quốc tế nhằm tạo đà ổn định cho sự phát triển của thương mại quốc tế sau chiến tranh, tháng 7 năm 1944, Hội nghị Bretton Woods đi đến 3 thỏa thuận chủ yếu là: - Các nước thành viên cùng kí tên trong thỏa thuận đồng ý sẽ cố gắng giữ tỷ giá giữa đồng tiền nước mình với đồng tiền các nước khác ổn định. Các nước sẽ có những biện pháp can thiệp cần thiết để giữ cho tỷ giá chỉ dao động 1% so với tỷ giá cố định. - Các nước thành viên đồng ý góp vốn để thành lập Qũy Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund) nhằm mục đích cho các nước thành viên vay vốn khi cần thiết để can thiệp giữ cho đồng tiền nước mình không biến động quá mức tiêu chuẩn qui định. - Tỷ giá cố định giữa đồng tiền các nước được tính thông qua bản vị vàng thế giới và giá vàng được chuẩn hóa và cố định. Cụ thể là tỷ giá hối đoái chính thức của các nước được hình thành trên cơ sở so sánh với hàm lượng vàng chính thức của đồng đô-la Mĩ (0,888671g). Vàng được bán đi mua lại hoặc vay mượn lẫn nhau giữa ngân hàng trung ương các nước để có thể bán ra hoặc mua vào trong thị trường nội địa kịp thời nhằm giữ giá đồng tiền không đổi. 1.2.4. Hệ thống tỷ giá thả nổi có quản lý. Khi đề cập đến tỷ giá thả nổi, chúng ta cần phân biệt 2 loại: thả nổi tự do và thả nổi có điều chỉnh. Tỷ giá thả nổi tự do là một loại tỷ giá được hình thành do quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối quyết định, không có bất cư sự can thiệp nào của chính phủ. Khi Chính phủ can thiệp vào thị trường hối đoái để tác động đến tỷ giá hối đoái thì tỷ giá này được gọi là tỷ giá thả nổi có điều chỉnh. Từ năm 1973, sau khi hệ thống tỷ giá cố định Bretton Woods bị sụp đổ, hầu hết các đồng tiền đều thả nổi, nhưng thả nổi không hoàn toàn. Nhiều quốc gia, kể cả Mỹ, từng thời kì đều phải can thiệp vào thị trường ngoại hối để tác động đến tỷ giá đồng tiền của mình. 1.3. Các phương pháp tiếp cận và xác định Tỷ giá hối đoái. 1.3.1. Phương pháp tiếp cận Tỷ giá hối đoái. a. Tiếp cận bằng thị trường hàng hoá: Phương pháp này, tồn tại dưới hai hình thức: Hình thức tuyệt đối và hình thức tương đối: - Hình thức tuyệt đối, coi như giá cả phải cân bằng nếu hai nước sản xuất một hàng hóa như nhau, không phụ thuộc vào nước nào sản xuất. Giả sử Mỹ và Nhật đều sản xuất thép, thép ở Mỹ giá 100USD/tấn và thép ở Nhật giá 10000Yên/tấn với cùng một loại thép giống nhau: như vậy tỷ giá hối đoái giữa USD và Yên sẽ là 1USD=100Yên. Nếu tỷ giá tăng lên 1USD=200Yên thì thép Nhật sẽ phải bán với giá 50USD tại Mỹ và thép Mỹ sẽ bán với giá 20000 Yên tại Nhật. Như vậy thép Mỹ sẽ trở nên đặt hơn ở cả hai thị trường làm cầu thép Mỹ giảm. Để giải quyết phần cung vượt quá cầu này của thép Mĩ, tỷ giá hối đoái sẽ dần bị đẩy trở về mức cân bằng 1USD= 100Yên. - Hình thức tương đối, coi mức giá cả cân bằng về hệ số biến động, áp dụng cho các loại hàng hóa khác nhau. Nếu cơ cấu tiêu dùng ở các nước giống nhau thì sẽ có sự ngang giá sức mua giữa các nước. Lúc đó tỷ giá hối đoái chỉ phản ánh chênh lệnh về tốc độ lạm phát ở mỗi nước và chi phí vận chuyển hàng hóa giữa các quốc gia. Hình thức này của quy luật một giá được phát triển thành Thuyết ngang giá sức mua (PPP). Theo thuyết này, tỷ giá giữa bất kỳ hai đồng tiền sẽ điều chỉnh để phản ánh những thay đổi trong mức giá của mỗi nước. Theo ví dụ trên giá của thép Nhật tính bằng Yên tăng 10% (11000Yên/tấn) so với thép Mỹ vẫn ở mức 100USD/tấn thì theo quy luật của giá lúc đó phải là 1USD ăn 110 Yên. b. Tiếp cận bằng thị trường tiền tệ: Hướng tiếp cận này dựa trên cơ sở của cán cân thanh toán và các đại lượng tiền tệ danh nghĩa khác. Đại diện cho hướng tiếp cận này là nhà kinh tế Cassel (1921), theo ông này thì tỷ giá hối đoái được quyết định bởi giá trị hay sức mua thực tế của mỗi đồng tiền. Nếu một đồng tiền bị đánh giá thấp hơn sức mua thực của nó thì nhu cầu đổi các đồng tiền khác ra đồng tiền này sẽ tăng lên và tỷ giá của nó sẽ tăng. Những tác động này xuất phát từ chính sách tiền tệ và các công cụ của chính sách tiền tệ của mỗi quốc gia. Đặc biệt sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ thì các công cụ chính sách tiền tệ mỗi quốc gia ngày càng được sử dụng linh hoạt và mạnh mẽ hơn. Một sự suy giảm thu nhập quốc gia hay tăng lên về khối lượng tiền cung ứng sẽ trực tiếp ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái. Ví dụ, khi lượng tiền cung ứng của nước A tăng lên trong khi lượng tiền cung ứng của nước B không thay đổi, cung tiền A tăng lên sẽ gây ảnh hưởng tới lạm phát và giá trị tương đối của đồng tiền A làm cho giá trị của đồng tiền B tăng lên so với đồng tiền A. Chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền cũng gây ảnh hưởng trực tiếp tới tỷ giá hối đoái, lãi suất một nước tăng tạo chênh lệch lãi suất với nước khác, khi đó sẽ dần tới hiện tượng “nhập khẩu tiền tệ” làm tăng cung ứng tiền tệ. c. Tiếp cận bằng thị trường tài chính: Hướng tiếp cận thông qua thị trường tài chính dựa trên cơ bản nền tảng của Thuyết lượng cầu tài sản đối với tài sản tài chính. Có nghĩa là, trên cơ sở nghiên cứu cung cầu giữa các tài sản tài chính dưới danh nghĩa các đồng tiền khác nhau, tỷ giá hối đoái được hình thành từ quan hệ cung cầu các đồng tiền cất trữ các tài sản đó. Những ảnh hưởng của việc chuyển đổi thu nhập từ nước này sang nước kia, hay chuyển vốn đầu tư sang các tài sản ở nước ngoài có tác động lớn đến tỷ giá hối đoái. Giả sử người dân Việt Nam có nhu cầu cất trữ tài sản bằng đồng tiền, cầu tiền đồng Việt Nam sẽ tăng lên, hoặc các tài sản chính như trái phiếu, cổ phiếu ở Mỹ có giá trị ổn định và nguồn thu nhập cao thì nhu cầu quốc tế về các tài sản đó sẽ tăng, dẫn đến các đồng tiền ngoài nước Mỹ chuyển sang các tài sản định giá bằng đô-la Mỹ lớn. d. Xác định Tỷ giá hối đoái qua rổ tiền tệ. Trong phương pháp tỷ giá hối đoái theo rổ tiền tệ là một phương pháp sử dụng tỷ trọng các đồng tiền trên cơ sở cơ cấu đồng tiền thanh toán đối ngoại (thương mại, xuất nhập, luồng vốn đầu tư, vay nợ viện trợ) và dự trữ ngoại tệ của mỗi quốc gia. Phương pháp này trung hòa tác động của các ngoại tệ đối với đồng bản tệ của quốc gia từ diễn biến tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền đó trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên vấn đề xác định một tỷ giá tương đối xác thực làm cơ sở và tỷ trọng hợp lý các đồng tiền trong rổ là những vấn đề khó, tỷ giá cơ sở và tỷ trọng các đồng tiền phải được xác định thông qua nhiều hướng tiếp cận khác nhau phối hợp, được kiểm chứng qua cả một thời kỳ kinh tế ổn định. Ví dụ dưới đây minh hoạt cho phương pháp xác định tỷ giá này: Xác định tỷ giá USD/VND dựa trên cơ sở tỷ giá cơ sở, giả sử: 1USD = 11.000VND(= 100JPY; = 1,500DEM; = 5,000FRF) Tỷ trọng rổ đồng tiền VND xác định được giả sử la: VND = 90%USD + 5%DEM +2,5%JPY + 2,5%FRF Trên cơ sở tỷ lệ trên xác định được: 11.000VND= 1USD= 0,9USD+ 0,05USD+ 0,025USD+ 0,025USD (hay)=0,9USD+0,05 x kiểm tra chất lượng toàn diện 1,5DEM +0,025 x 100JPY+0,025 x 5FRF = 0,9USD + 0,075DEM + 2,5JPY + 0,125FRF Tại thời điểm cần tính tỷ giá hối đoái USD/VND, tỷ giá trên thị trường thế giới (giả sử tại Mỹ) như sau: 1USD = 90JPY = 1,6DEM = 4,5FRF 11.000VND= 0,9+ 0,075/1,6+ 2,5/90+ 0,125/4,5(USD)= 1,0015USD ==> 1USD = 11.000/1,0015 =10.983,52VND 1.3.2. Phương pháp tính toán và xác định tỷ giá. Cũng với sự phát triển của lịch sử, tỷ giá hối đoái từ khi hình thành đến nay đã trái qua nhiều hình thức tính toán và xác định, từ những hình thức đơn giản ban đầu như ngang giá cho đến cách tính toán và xác định hệ thống tỷ giá hối đoái ngày nay. Tỷ giá hối đoái có nhiều hình thức biểu hiện. Vì thế, có rất nhiều cách tính khác nhau cho những hình thức TGHĐ khác nhau. Sau đây là một số cách tính cơ bản cho những hình thức tỷ giá hối đoái thường gặp. a. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa và Tỷ giá hối đoái thực tế. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là tỷ giá hối đoái được thể hiện ở thị trường, được hình thành trên thị trường. Trong khi đó, tỷ giá hối đoái thực tế là quan hệ sức mua thực của hai đồng tiền trên thị trường quốc tế. (1+Chỉ số giá nước phát hành) (1+Chỉ số giá trong nước) TGHĐ thực tế (ngoại tệ/bản tệ) TGHĐ danh nghĩa (ngoại tệ/bản tệ) = x Tỷ giá hối đoái danh nghĩa đã loại trừ ảnh hưởng giá cả trong nước và quốc tế. Công thức này đặc biệt thích hợp cho việc tính tỷ giá thực tế trung bình cho một thời kỳ. Khi đó, tỷ giá danh nghĩa là tỷ giá danh nghĩa trung bình của thời kì và các chỉ số giá là chỉ số giá tính cho thời kì đó. Trong việc ổn định sức mua của tiền tệ ở thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế, TGHĐ thực tế rất quan trọng. b. Ngang giá vàng. Ngang giá vàng là phương pháp xác định Tỷ giá hối đoái cổ xưa nhất. Nó được áp dụng trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định lấy vàng làm bản vị (gọi tắt là chế độ bản vàng). Hàm lượng vàng trong 1 đồng ngoại tệ Tỷ giá hối đoái (ngoại tệ/bản tệ) Hàm lượng vàng trong 1 đồng bản tệ = c. Đồng giá sức mua. Giá hàng hóa tính theo bản tệ Tỷ giá hối đoái (ngoại tệ/bản tệ) Giá hàng hóa tính theo ngoại tệ = Đây là cách làm mà Việt Nam đã sử dụng vào những năm 1950, khi bắt đầu có quan hệ thanh toán quốc tế. Khi đó Việt Nam đã lấy một rổ hàng hóa xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Liên Xô đem tính theo giá bằng Rúp của Liên Xô và bằng Đồng của Việt Nam để có tỷ giá hối đoái mậu dịch. Cũng vì “đồng giá sức mua” mà trong một số văn bản của ngân hàng trung ương đã ghi một cơ sở lí luận để xác định tỷ giá hối đoái là “Cân bằng sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ”. 1+lạm phát trong nước Xem xét lý thuyết đồng sức mua của Ricardo và Cassel, chúng ta còn có cách tính tỷ giá hối đoái theo thời gian: Tỷ giá hối đoái (ngoại tệ/bản cuối kì) Tỷ giá hối đoái (ngoại tệ/bản tệ đầu kì) = 1+lạm phát ngoài nước = d. Xác định tỷ giá theo phương pháp đường chéo. Giả sử 3 đồng tiền A, B, C * Xác định tỷ giá hối đoái của 2 đồng tiền yết giá trực tiếp. + Tỷ giá hối đoái đã biết: A/C, B/C + Tỷ giá hối đoái cần tính: A/B Tỷ giá Mua A/B = (Bán A/C)/(Mua B/C) Tỷ giá Bán A/B = (Mua A/C)/(Bán B/C) * Xác định tỷ giá hối đoái của 2 đồng tiền yết giá gián tiếp: + Tỷ giá hối đoái đã biết: C/A, C/B + Tỷ giá hối đoái cần tính: A/B Tỷ giá Mua A/B = (Bán C/B)/(Mua C/A) Tỷ giá Bán A/B = (Mua C/B)/(Bán C/A) * Xác định tỷ giá của 2 đồng tiền có 2 cách yết giá khác nhau: + Tỷ giá hối đoái đã biết: A/C, C/B + Tỷ giá hối đoái cần tính: A/B Tỷ giá Mua A/B = (Bán A/C) x (Bán C/B) Tỷ giá Bán A/B = (Mua A/C) x (Mua C/B) Chúng ta cần lưu ý rằng, vế phải của các đẳng thức cần được hiểu là hành vi của khách hàng ngân hàng trong khi vế trái của các đẳng thức cần được hiểu là hành vi của ngân hàng. 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến Tỷ giá hối đoái. Tỉ giá chịu sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau, các nhân tố này vừa mang tính chất kinh tế tài chính vừa mang tính chất tâm lý chủ quan, các nhân tố đó có thể kể đến như sau: 1.4.1. Cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ. Vì tỷ giá hối đoái là giá cả của các đồng tiền nên nó được quyết định bởi cung cầu của những đồng tiền có liên quan. Trong vài năm gần đây, nguồn ngoại tệ (chủ yếu là Đô-La Mỹ) không ngừng chảy vào Việt Nam theo nhiều con đường mậu dịch (như đầu tư nước ngoài trực tiếp, gián tiếp…), phi mậu dịch (như du lịch, kiều hối…). Vì vậy, khối lượng cung ngoại tệ tăng lên trong khi nhu cầu sử dụng ngoại tệ tăng lên không đáng kể. Số tiền gửi ngoại tệ của các đơn vị kinh tế ở các ngân hàng thường xuyên lên trên 700 tiệu USD. Trong khi đó, việc sử dụng nguồn vốn này rất hạn chế (Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước tháng 7-1993). Đây là một trong những nguyên nhân làm đồng tiền Việt Nam lên giá so với USD và các ngoại tệ khác. Như vậy, yếu tố cung cầu trên thị trường chính thức và cả không chính thức đã tác động trực tiếp tới sức mua bản tệ hay tỷ giá hối đoái của đồng bản tệ với các ngoại tệ khác. Mặt khác, khối lượng tiền mặt trong lưu thông là một bộ phận quan trọng trong M1. Về nguyên tắc hoạt động của một hệ thống ngân hàng theo cơ chế thị trường với sự chuẩn hóa dễ dàng giữa tiền mặt, tiền ghi sổ sẽ không có sự khan hiếm tiền mặt một cách giả tạo. Tuy nhiên, ở Việt Nam trong thời gian qua, tình hình khan hiếm tiền mặt trong lưu thong khá phổ biến. Tình trạng khan hiếm này buộc các đơn vị kinh tế phải bán ngoại tệ để thu đồng tiền Việt nam (VND) đáp ứng các nhu cầu chi tiêu tiền mặt của mình. Đây chính là sự khan hiếm tiền mặt một cách gỉa tạo, tác động tiêu cực tới việc xác định tỷ giá hối đoái gây ra những tổn thất cho các doanh nghiệp muốn có nguồn vốn bằng ngoại tệ. Như vậy, cơ chế cung ứng tiền nói chung và cơ chế cung ứng tiền mặt nói riêng sẽ tác động trực tiếp tới việc xác định tỷ giá hối đoái. 1.4.2. Mức lạm phát. Trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh, mức độ lạm phát của hai nước nếu như khác nhau sẽ dẫn đến giá cả hàng hóa ở hai nước đó có sự biến động khác nhau làm cho ngang giá sức mua của hai đồng tiền đó bị phá vỡ, tức là làm thay đổi tỷ giá hối đoái, mức chênh lệch lạm phát càng lớn thì sẽ dẫn đến mức thay đổi của tỷ giá cũng lớn theo. Về lâu dài, mặt bằng giá cả chung của một nước tăng lên tương đối (so với mặt bằng giá cả chung của nước ngoài) sẽ làm cho đồng tiền của nước đó giảm giá và ngược lại. Ngoài ra, mức chênh lệch lạm phát giữa hai nước không chỉ ảnh hưởng đến sự biến động tỷ giá giữa hai đồng tiền đó mà đồng thời còn cho biết mức biến động là bao nhiều. 1.4.3. Lãi suất tiền gửi. Khi nền kinh tế phát triển năng động, lãi suất tiền gửi của đồng nội tệ sẽ tăng lên tương đối so với ngoại tệ (đây là lãi suất thực tế) và ngược lại. Giả sử rằng chúng ta đang sống trong một thế giới mà ở đó có sự lưu thông vốn dễ dàng, tỷ giá hối đoái chỉ phụ thuộc vào nhân tố mà chúng ta đang xem xét. Nếu là lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ cao hơn lãi suất tiền gửi bằng VND thì xu hướng mọi người sẽ không tiếp tục gửi bằng VND mà sẽ chuyển sang gửi bằng ngoại tệ, kéo theo sự gia tăng nhu cầu về ngoại tệ và tỷ giá hối đoái của nội tệ có xu hướng tăng lên (đồng tiền VND mất giá). Tương tự như vậy, khi lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ có xu hướng giảm xuống (đồng tiền VND tăng giá). Trong điều kiện nền kinh tế giữa hai nước ổn định tương đối, lãi suất của nước nào cao hơn thì vốn tiền tệ từ nước kia sẽ tràn vào. Nhờ đó, cầu đồng bản tệ trên thị trường ngoại hối sẽ tăng lên và đồng bản tệ lên giá. Khi đồng bản tệ của một quốc gia đang bị xuống giá thì việc tăng lãi suất chính là một biện pháp kìm giữ sự xuống giá của đồng bản tệ. Chính vì lãi suất và tỷ giá hối đoái đều có tính chủ quan và lại liên hệ chặt chẽ với nhau như thế nên chính phủ thường lấy lãi suất làm biện pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái. 1.4.4. Năng suất lao động. Năng suất lao động trong nước đóng một vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái của đồng bản tệ. Nếu năng suát lao động trong nước tăng lên tương đối so với nước ngoài, đồng nghĩa với việc các nhà kinh doanh có thể hạn được giá thành của các sản phẩm, dịch vụ của mình tương đối so với hàng ngoại nhập dẫn tới sự gia tăng mức cầu của hàng nội địa so với hàng ngoại. Do đó, việc tăng năng suất lao động tương đối so với nước ngoài làm cho hàng nội địa vẫn được bán tốt khi giá đồng bản tệ tăng lên (tỷ giá hối đoái giảm xuống) và ngược lại, hay nói cách khác, sự gia tăng hay giảm tương đối của năng suất lao động trong nước so với nước ngoài sẽ tác động tương ứng làm giảm hay tăng tỷ giá hối đoái của đồng bản tệ. Thực tế trên thị trường thế giới, tỷ giá hối đoái của đồng tiền các nước phụ thuộc rát khăng khít vào năng suất lao động tương đối của nước đó. Một nền kinh tế phát triển, có năng suát lao động cao hơn trong thời kì nào đó thường sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng giá của đồng tiền nước đó. 1.4.5. Tình trạng cán cân thanh toán quốc tế. Cán cân thanh toán quốc tế là bảng đối chiếu giữa các khoản tiền thu được từ nước ngoài với các khoản tiền trả cho nước ngoài của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Cán cân thanh toán của một quốc gia tong một thời kì nhất định cho ta thấy một cách tổng hợp kết quả của các hoạt động đối ngoại của quốc gia đó. Nó có thể cân bằng (thu=chi), có thể bội thu (thu>chi), hoặc có thể bội chi (thu<chi). Các trường hợp bội chi hoặc bội thu sẽ dẫn đến hệ quả là tài sản ngoại hối của quốc gia có thể tăng thêm nhờ các nguồn ngoại hối vào hoặc giảm do ngoại hối chạy ra. Như vậy, cán can thanh toán quốc tế phản ánh thực trạng kinh tế, chính trị của quốc gia. Tình trạng mất cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế sẽ ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu ngoại hối trên thị trường do đó sẽ ảnh hưởng ngay đến tình hình biến động của tỷ giá hối đoái của quốc gia đó. Nếu cán cân thanh toán quốc tế của một quốc gia dư thừa (bội thu), khả năng cung cấp ngoại hối lớn hơn nhu cầu về ngoại hối (do xuất khẩu lớn) làm cho đồng bản tệ sẽ lên giá hay tỷ giá hối đoái (bản tệ/ngoại tệ) sẽ giảm xuống. Ngược lại, cán cân thanh toán quốc tế thiếu hụt (bội chi), tức là phản ánh nguồn chi ngoại hối của cán cân thanh toán lớn hơn nguồn thu nhập của quốc gia đó, nhu cầu ngoại hối lớn hơn khả năng cung cấp ngoại hối, tỷ giá hối đoái (bản tệ/ngoại tệ) sẽ tăng lên. Tuy vậy, sự tác động của tình trạng cán cân thanh toán quốc tế đối với tỷ giá hối đoái không phải là quan hệ thụ động một chiều, nếu cán cân thanh toán quốc tế của một quốc gia thiếu hụt thì tỷ giá hối đoái (bản tệ/ ngoại tệ) sẽ tăng lên, khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ,… Như thế, tình trạng của cán cân thanh toán quốc tế sẽ được cải thiện. Thật ra, sự chênh lệch giữa cung và cầu, nhữnh sự điều chỉnh làm thay đổi dự trữ ngoại hối, thay đổi những khoản nợ nước ngoài chỉ tồn tại chừng nào mà các nhà cầm quyền duy trì một tỷ giá hối đoái cố định. Nếu tỷ giá hối đoái được phép thả nổi tự do thì các khoản dự trữ ngoại tệ chính thức không cần thiết phải bù đắp những thiếu hụt và tất nhiên, tỷ giá hối đoái sẽ không thay đổi hoàn toàn theo cung cầu thị trường. Ngoài ra, sự biến động của tỷ giá hối đoái còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố khác như tốc độ thanh toán, tiền nóng, sự ưa thích trong tiêu dùng. 1.4.6. Thuế quan và hạn mức nhập khẩu. Thuế quan và hạn mức nhập khẩu là những công cụ kinh tế mà chính phủ dùng để điều tiết và hạn chế công việc nhập khẩu. Chính những công cụ này nhiều hay ít đã tác động và làm tăng mức giá cả của hàng ngoại nhập, làm giảm tương đối nhu cầu đối với hàng nhập khẩu, góp phần bảo hộ và khuyến khích sự tiêu dùng hàng sản xuất trong nước. Do việc tăng thuế quan hay giảm hạn mức nhập khẩu làm cho hàng nội địa vẫn bản tốt ngay cả với một giá trị cao hơn của đồng bản tệ. Có nghĩa là, những công cụ mà chính phủ sử dụng nhằm hạn chế nhập khẩu sẽ ảnh hưởng và làm cho tỷ giá hối đoái của đồng bản tệ (VND) có xu hướng giảm về lâu dài. Điều này được khẳng định trên thực tế 4 năm trên kinh tế đất nước trong giai đoạn (1993–1996), tỷ lệ lạm phát (chỉ số giá cả bình quân) từ năm 1993 đến nay là 37% trong khi tỷ giá của VND so với USD chỉ tăng hơn 2% đã đưa đến một thực tế là mức giá cả tương đối của hàng nội địa thực tế đã tăng lên 30% so với hàng ngoại nhập. Nói cách khác, hàng nội địa đang mất dần khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường. Hàng ngoại nhấp đã trở nên rẻ hơn và đang được nhập vào Việt Nam với số lượng lớn cạnh tranh với hàng nội địa, thể hiện qua sự gia tăng thâm hụt cán cân thương mại quốc tế của Việt Nam trong những năm gần đay, từ nhập siêu 0,5 tỷ USD trong năm 1993 lên 1,8 tỷ USD trong 1994; 2,3 tỷ USD trong năm 1995 và 4 tỷ USD trong năm 1996. Nhưng hiện nay con số này đã giảm đi về số tương đối và số tuyệt đối. 1.4.7. Sự can thiệp của Chính phủ trên thị trường hối đoái. Vấn đề này liên quan đến sự can thiệp của chính phủ vào hệ thống tỷ giá hối đoái nhằm đưa hệ thống này hướng tới mục tiêu phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Ngân hàng Trung ương (NHTW) có thể can thiệp vào thị trường, tác động tới cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Khi chính phủ áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái cố định, cần có biện pháp can thiệp để tránh đồng tiền bản tệ mất giá (bằng cách bán ra dự trữ ngoại hối để lấy bản tệ), hoặc lên giá (dùng bản tệ mua ngoại tệ). Nếu chính phủ áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý, NHTW vẫn có thể can thiệp bằng cách mua hoặc bán ngoại tệ trong trường hợp chính phủ xét thấy tỷ giá hối đoái biến động đến mức cần điều chỉnh. Khi chính phủ chỉ cho phép tỷ giá biến động ở mức hạn chế, sẽ có điểm ngưỡng để NHTW can thiệp vào thị trường thanh toán ngay (để tác động vào tỷ giá hiện hành) hoặc thị trường trả sau (tác động vào tỷ giá trả sau). Trong nhiều trường hợp, sự can thiệp của NHTW có tác động tốt trong việc ổn định hoặc khôi phục tỷ giá. Nhưng sự can thiệp sẽ không thành công nếu đồng bản tệ chịu sự tấn công nặng nề và liên tục của đầu cơ. Nhiều áp lực đầu cơ có thể mạnh hơn nỗ lực của NHTW để chuyển giá trị biến động sang hướng khác. 1.4.8. Yếu tố tâm lý, chính trị. Các nhà kinh doanh trên thị trường tiền tệ và thị trường hối đoái rất nhạy cảm với những phản ứng có tính chất tâm lý, và những phản ứng này có thể nhất thời đảo ngược cả một xu hướng cơ bản, dài hạn của tỷ giá hối đoái. Trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển như hiện nay, các nguồn thông tin kinh tế được phổ biến nhanh chóng. Những sai lệch giữa dự đoán ban đầu với những số liệu thực sự đạt được hiện nay về tình hình thương mại, cán cân thanh toán quốc tế của một quốc gia có thể gây nên những biến động lớn tới hệ thống tỷ giá của quốc gia đó. Điều này giải thích vì sao tỷ giá hối đoái của một đồng tiền lại giảm xuống ngay cả khi sức mua của nó đang giảm sút. Thái độ của một nhà kinh doanh lớn trên thị trường ngoại hối cũng có thể tác động nhất thời đến tỷ giá hối đoái có khi bất chấp đến những thế lực kinh tế có tính chất dài hạn. Nếu nhà kinh doanh đột nhiên mua hoặc bán một đồng tiền nào đó, không cần thiết vì lý do gì, hành vi đó có thể trở thành động lực thúc đẩy một số nhà kinh doanh khác làm theo. Thị trường ngoại hối cũng như tiền tệ rất chạy cảm. Có khi chỉ cần có một sự kí kết thỏa thuận nào đó giữa hai hoặc nhiều NHTW với nhau về vấn đề hợp tác can thiệp hỗ trợ tỷ giá cho nhau hoặc do những sự kiện chính trị cũng đủ gây nên những dự đoán và những phản ứng khác nhau trên thị trường ngoại hối, từ đó làm cho tỷ giá hối đoái giữa những đồng tiền tương ứng biến động lớn. 1.5. Vai trò và các tác động của TGHĐ tới nền kinh tế. Quan hệ kinh tế, chính trị, ngoại giao, giữa các nước trên thế giới đã phát sinh quan hệ thanh toán quốc tế. Mỗi quốc gia đều có một đồng tiền riêng nên trong giao dịch quốc tế phải chuyển đổi đồng tiền nước này sang đồng tiền nước khác theo một tỷ lệ nhất định. Như vậy, mọi hoạt động quan hệ quốc tế đều phải thông qua tiền tệ và TGHĐ có vai trò quan trọng trong việc xác định giá cả đồng tiền. Không những là một công cụ hữu hiệu trong điều hành chính sách tiền tệ quốc gia mà còn là một mục tiêu điều chỉnh cực kì quan trọng của chính sách tiền tệ trong nền kinh tế mở, hội nhập cao, nó cũng là một chỉ số phản ánh thực lực kinh tế tài chính của quốc gia. TGHĐ tác động tới không chỉ những hoạt động thuộc phạm vi kinh tế đối ngoại mà còn cả những hoạt động kinh tế đối nội trong nền kinh tế quốc dân. Có thể phân chia những tác động đó theo các nhóm sau: a. TGHĐ có tác động lớn tới quan hệ ngoại thương, xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ của nước đó với các nước khác. Chẳng hạn, VND mất giá so với USD, tức là phải bỏ ra nhiều VND mới mua được một USD thì hàng hoá nhập khẩu vào Việt N._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV220.doc
Tài liệu liên quan