Tỷ giá hối đoái & việc áp dụng chế độ tỷ giá ở Việt Nam

lời nói đầu Xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra một cách sâu sắc, toàn diện trên phạm vi toàn thế giới. Nó là quy luật khách quan mà Việt Nam cần sớm nắm bắt và vận dụng. Việc tham gia vào nền kinh tế khu vực và thế giơi sẽ mở ra cho chúng ta nhiều cơ hội đồng thời cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đòi hỏi phải có những chính sách phù hợp. Một hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế là ngoại thương. Nhân tố quyết định tới sự thành công hay thất bại củ

doc49 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1620 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tỷ giá hối đoái & việc áp dụng chế độ tỷ giá ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a chính sách kinh tế đối ngoại phải kể đến vai trò quan trọng của chế độ tỷ giá hối đoái của mỗi quốc gia. Chúng ta chưa quên sự can thiệp bất thành của 15 ngân hàng Trung ương trước sự sụp đổ của hệ thống tỷ giá hối đoái Châu Âu những năm 90; sự phá giá bất ngờ của đồng bảng Anh tháng 9/1992 trước sự tấn công của những kẻ đầu cơ, mặc dù đã có sự can thiệp tích cực cuả Ngân hàng Trung ương Đức và Anh với khối lượng 15 tỷ bảng Anh; hay hai sự kiện làm rung chuyển thế giới chỉ trong một thời gian ngắn. Đó là: Sự khủng hoảng của đồng Pê-sô (Mêhicô) tháng 12/1994 và sự mất giá kỷ lục trong năm 1995, rồi lại sự lên giá đột biến của USD năm 1996. Là một nước đang đi những bước đầu tiên tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn, hơn bao giờ hết việc nghiên cứu tỷ giá hối đoái đang trở thành vấn đề cấp bách đặt ra cho chúng ta. Xuất phát từ thực tế khách quan đó, trong bài viết này, em xin đề cập tới vấn đề: "Tỷ giá hối đoái và việc áp dụng chế độ tỷ giá ở Việt Nam." Cấu trúc bài viết gồm 3 chương: Chương I: Tổng quan về tỷ giá hối đoái. Chương II: Thực trạng tỷ giá hối đoái ở Việt Nam trong những năm gần đây. Chương III: Một số giải pháp góp phần bổ xung, hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam. Tỷ giá hối đoái là vấn đề mới mẻ và rất phức tạp. Hơn nữa, trong quá trình nghiên cứu, những khiếm khuyết và hạn chế là khó tránh khỏi. Vì vậy, em rất mong được các thầy cô góp ý phê bình để những bài viết sau đạt chất lượng tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn! chương I: Tổng quan về tỷ giá hối đoái. I. Khái niệm tỷ giá: Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, vai trò của thương mại quốc tế ngày càng được nâng cao, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà phân công lao động quốc tế đã đạt đến giai đoạn cao và mang tính toàn cầu, thương mại quốc tế trở thành vấn đề mang tính chất sống còn đối với mỗi quốc gia và là mối quan tâm hàng đầu của mọi tổ chức kinh tế trên thế giới. Các quan hệ thương mại , tín dụng , đầu tư, khoa học kỹ thuật ... đều có giá cả , biểu hiện bằng những đồng tiền khác nhau của những nước khác nhau. Do hệ thống tiền tệ và chính sách giá cả mỗi nước một khác, nên việc thanh toán giữa các nước đòi hỏi phải so sánh giá trị , sức mua của các đồng tiền khác nhau, và thanh toán với nhau không theo giá cả của từng nước mà theo giá cả quốc tế( còn gọi là giá ngoại thương). Từ đó xuất hiện khái niệm tỷ giá hối đoái. Như vậy : Tỷ giá hối đoái theo cách hiểu thông thường là sự so sánh giá trị giữa đơn vị tiền tệ khác nhau của các nước có quan hệ với nhau.Hay nói cách khác : Tỷ giá hối đoái là giá chuyển đổi từ một đơn vị tiền tệ nước này sang thành những đơn vị tiền tệ nước khác. Ví dụ, trên thị trường hối đoái Việt Nam ngày30/06/2000 là 14087 VND/USD thì đó là tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam so với đô la Mỹ. Trên phương diện kinh tế, tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế vốn có cuả nền sản xuất hàng hoá, nó cho thấy sức mua đối ngoại thực tế của một đồng tiền trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, không phải đồng tiền quốc gia nào cũng được nhận để thanh toán bên ngoài quê hương của nó. Để chuyển đổi ra nội tệ của nước nào đó, nó phải được ngân hàng nước đó thu mua. Trên thế giới hiện nay có một số ngoại tệ mạnh được sử dụng rộng rãi, phổ biến như: USD(Mỹ), JPY(Nhật), Bảng (Anh)... II.Lịch sử hình thành và phát triển của tỷ giá hối đoái. 1. Thời kỳ lưu thông tiền vàng và tiền đúc : Từ trước công nguyên, sau cuộc phân công lao động xã hội lần thứ 2, vàng và bạc đúc thành thỏi đã trở thành đồng tiền ngự trị các loại tiền khác như : ốc , vỏ sò , da thú... và dần chiếm vị trí độc tôn trên thị trường hàng hoá tiền tệ.Tuy nhiên do việc dùng vàng thỏi tính theo trọng lượng đã gây rất nhiều khó khăn cho trao đổi , nên tiền đúc đã ra đời . Bắt đầu từ cuộc phân công lao động lần thứ 3 , trong lưu thông đã xuất hiện loại tiền đúc của các lái buôn giàu có ( khắc tên người phát hành vàng và trọng lượng vàng ) về sau do thương nghiệp mở rộng thì tiền đúc không còn do các thương nhân, nhà thờ đúc mà do nhà nước . Mỗi nước tuỳ theo phong tục của mình đã đưa ra những đồng tiền riêng mang dấu ấn quốc gia và khác với đòng tiền các quốc gia khác về trọng lượng và đơn vị đồng tiền , với đơn vị tiền vàng khác nhau, dẫn đến xu hướng người dân nước nào sử dụng đồng tiền nước đó. Trong quan hệ ngoại giao, việc xác định tỷ giá trao đổi hoàn toàn giản đơn, chỉ việc so sánh trọng lượng kim loại thực tế của hai đồng tiền với nhau. 2. Chế độ bản vị vàng và vàng - hối đoái : Trong chế độ này, việc xác định tỷ giá giữa các đồng tiền vẫn là việc so sánh trọng lượng vàng mà mỗi đơn vị tiền giấy làm đại biểu , hay có thể nói là việc so sánh hàm lượng vàng chứa đựng trong mỗi đơn vị tiền tệ của mỗi nước. Tỷ giá hối đoái trong giai đoạn này giao động xung quanh điểm vàng. Điểm vàng là ngang giá vàng của các đồng tiền cộng ( hoặc trừ) chi phí vận chuyển vàng( phí vận tải , phí bảo hiểm, phí đóng góp và thủ tục phí) giữa các nước hữu quan. Khi tỷ giá vượt điểm vàng thì nước mắc nợ sẽ không dùng tiền quốc gia mình để mua ngoại tệ dùng vào việc trả nợ, mà họ sẽ chuyển vàng ra nước ngoài để trả nợ. Với đặc trưng này chế độ bản vị vàng là một chế độ ổn định , sức mua của đồng tiền rất ít khi bị biến động. Trong giai đoạn đầu của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa , chế độ này đã tỏ ra có nhiều ưu điểm. Nó có khả năng điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông một cách tự phát không cần đến sự can thiệp của nhà nước theo cơ chế: sự tăng giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông luôn tỷ lệ nghịch với sự tăng giảm dự trữ vàng trong nền kinh tế. Do đó , việc lựa chọn phương hướng xử lý tỷ giá rất ít khi phải đặt ra. Tuy có nhiều ưu điểm làm cho chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng trong giai đoạn đầu, nhưng chế độ bản vị vàng không tồn tại được lâu. Nguyên nhân chính là do trong nền kinh tế thế giới có sự phát triển không đồng đều giữa các nước, dẫn đến một hiện tượng tất yếu là những nước giàu tích trữ được nhiều vàng, còn những nước nghèo thì tiền dấu hiệu tràn lan và họ cũng không có khả năng đúc vàng vì lượng vàng dự trữ đã cạn kiệt. Để đối phó với tình hình này, chính phủ ở các nước nghèo đã ngăn cấm việc xuất khẩu vàng tự do.Như vậy, trong quan hệ giữa các nước chế độ bảo vệ mậu dịch tự do đã thay thế cho chế độ mậu dịch tự do,vàng không còn được lưu thông giữa các nước- chế độ bản vị vàng bắt đầu tan giã vào đầu chiến tranh thế giới thứ nhất. Đến năm 1924, nước Anh chuyển chế độ bản vị vàng sang chế độ giấy bạc ngân hàng được chuyển đổi ra vàng không đầy đủ: Không lưu hành tiền đúc bằng vàng, tiền giấy chỉ được đổi lấy vàng thoi( chế độ bản vị vàng thoi- mỗi thoi nặng 12,444kg vàng ). Khi đó bảng Anh (GBP) là loại ngoại tệ mạnh chủ chốt trong thanh toán quốc tế, dự trữ quốc tế. Tiền giấy của các nước tuy không đổi được lấy vàng nhưng có thể đổi lấy bảng Anh. Chế độ tiền tệ thông qua ngoại tệ mạnh đổi lấy vàng gọi là chế độ bản vị vàng hối đoái ( ở đây là chế độ bản vị bảng Anh). Trong chế độ này bảng Anh được tự do chuyển đổi ra vàng: 1700 GBP = 400 ounce = 12,444 kg vàng. Khi bảng Anh sụp đổ thì cuộc săn vàng lại di chuyển ồ ạt sang Mỹ. USD là loại ngoại tệ mạnh thứ hai trên thế giới lúc bấy giờ. Chính phủ Mỹ vì không muốn dự trữ vàng cạn kiệt nên đầu năm 1934 phải tuyên bố đình chỉ đổi USD ra vàng ở trong nước. Như vậy, từ năm 1934, tạm thời không còn đồng tiền nào có thể đổi ra vàng được nữa. Một lần nữa tiền vàng lại rút khỏi lưu thông và thay thế bằng tiền dấu hiệu. 3. Chế độ tỷ giá cố định - chế độ bản vị USD: Đến năm 1944, tại hội nghị Bretton Woods, quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) ra đời, với điều lệ đầu tiên là xây dựng tỷ giá cố định cho mỗi đồng tiền. Theo chế độ này, các nước phải quy định hàm lượng vàng riêng cho đồng tiền của mình và so sánh với hàm lượng vàng của USD (1 USD = 0,88867 gr vàng nguyên chất ) để có một tỷ giá chính thức. Biên độ giao động của tỷ giá không được vượt quá 1% của tỷ giá chính thức đã được đăng ký tại IMF. Nếu vượt quá biên độ này thì ngân hàng TW phải can thiệp bằng cách mua vào hoặc bán ra một lượng USD nhất định nhằm bảo vệ tỷ giá chính thức với USD. Thông qua tiền tệ sẽ được đổi ra vàng theo giá: 35 USD = 1 ounce vàng. Như vậy về nguyên tắc vàng vẫn đóng vai trò trung tâm để so sánh sức mua của các đồng tiền với nhau thông qua USD. VD: Nội dung vàng của GBP là 2,488281 gr vàng nguyên chất. Như vậy đồng giá vàng của GBP sẽ là : 1 GBP = 2,488281/0,888671=2,8 USD. Như vậy tỷ giá chính thức của 1GBP sẽ là 2,8 USD nếu như không có những yếu tố trên thị trường tác động. Sở dĩ chế độ này có thể tồn tại trong suốt thời gian dài là do lúc đó Mỹ có lượng dự trữ vàng lớn nhất thế giới 24,7 tỷ USD khoảng 20000 tấn vàng, chiếm 70% dự trữ vàng của thế giới tư bản- USD trở thành phương tiện thanh toán và dự trữ quốc tế. Vào những năm 70, tình trạng khủng hoảng USD diễn ra thường xuyên, Mỹ đã phát hành trên 166 tỷ USD tiền giấy, điều này có nghĩa là ngân hàng TW của các nước luôn phải mua USD để bảo vệ tỷ giá.Lượng USD này lại được đổi ở cục dự trữ liên bang Mỹ làm cho kho vàng của Mỹ giảm đi nhanh chóng . Để đối phó với tình ttạng này, ngày 15-08-1971 Mỹ đã phải tuyên bố ngừng chuyển đổi USD ra vàng theo tỷ giá chính thức. Sau đó ngày 18-12-1971 thì tuyên bố phá giá USD ở mức 7,89%. Tới ngày 12-02-1973Mỹ lại phá giáUSD tiếp 10%. Qua 2 lần phá giá liên tiếp, chế độ bản vị USD sụp đổ hoàn toàn. Sau khi chế độ USD sụp đổ thì toàn bộ cơ chế thanh toán quốc tế tư bản chủ nghĩa bị hỗn loạn, USD bị dình chỉ đổi ra vàng. Do đó trong thanh toán quốc tế giữa các nước, người ta đòi hỏi ngày càng nhiều điều kiện đảm bảo bằng vàng. Mặc dù Mỹ đã tìm mọi cách để loại vàng ra khỏi thanh toán quốc tế,nhưng một số nước (như Pháp) lại có xu hướng dùng vàng làm cơ sở cho thanh toán quốc tế Cuộc đấu tranh giữa các nước thông qua vấn đề vai trò của vàng ngày càng mạnh. Tuy nhiên, không có dấu hiệu gì chứng tỏ hệ thống tiền tệ có thể phục hồi được chế độ bản vị vàng và vàng -hối đoái. Các nước tư bản đã có kinh nghiệm không thể sử dụng đồng ngoại tệ mạnh đóng vai trò tiền tệ quốc tế được, bởi vì nhất định nước có đồng ngoại tệ mạnh đó sẽ lạm dụng, làm thiệt hại đến lợi ích của các nước khác 4. Chế độ bản vị SDR (Special Drawing Right). Từ năm 1970, các nước tư bản hội viên của quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đã thành lập một cơ chế tiền tệ – tín dụng mới để điều tiết cán cân thanh toán quốc tế mà không cần đến dự trữ vàng hoặc ngoại hối. SDR không phải là tiền, nên không có nội dung vật chất, hình dáng, mầu sắc cụ thể, mà nó chỉ là một đơn vị thanh toán ghi sổ (chuyển khoản) trên danh nghĩa có nội dung vàng là 0.888671 gr vàng nguyên chất (bằng 1 USD trước đây). IMF mở sổ riêng cho từng nước để theo dõi việc phân phối SDR. Chỉ có những nước bị thiếu hụt trong cán cân thanh toán giữa các nước hội viên của IMF mới được vay để trả nợ. Có thể nói đây là tiền ghi sổ của IMF. Các nước tư bản, thông qua quỹ tiền tệ quốc tế, trong nhiều năm đã cố gắng thực hiện cuộc cải cách tiền tệ quốc tế trên tinh thần học thuyết phi tiền tệ hoá vàng, tức loại bỏ chức năng làm tiền tệ quốc tế của vàng, xây dựng cho được một đồng tiền làm bản vị cho các quốc gia trên thế giới, thay thế cho USD làm chức năng thước đo giá trị, phương tiện chi trả và dự trữ quốc tế, xoá bỏ chế độ công bố nội dung vàng của các đòng tiền quốc gia. SDR là loại vàng giấy thay cho kim loại vàng do IMF phát hành . Các nước phương tây muốn nâng vai trò của vàng lên nhằm mục đích loại bỏ USD ra khỏi vị trí một đồng tiền chủ đạo thao túng các đồng tiền khác trong hệ thống tiền tệ. Như vậy, trong cuộc tranh chấp trên, nhiễm nhiên SDR được cả Mỹ và Tây Âu đưa lên làm phương tiện thanh toán và dự trữ quốc gia, làm thước đo già trị của các đồng tiền khác. Chế độ tiền tệ mới ra đời – chế độ bản vị SDR. Nội dung SDR ngày nay đã được thay đổi, không còn nội dung vàng nữa, mà được tính bằng 16 đồng tiền mạnh nhất thế giới. Hiện nay là 5 đồng tiền mạnh của 5 quốc gia có tiềm lực về kinh tế tài chính. Kể từ khi thực hiên chế độ này, hàm lượng vàng chứa đựng trong mỗi đồng tiền đã mất dần đi ý nghĩa kinh tế của nó. Việc xác định tỷ giá không dựa vào ngang giá vàng như trước đây mà hoàn toàn thả nổi theo quan hệ cung cầu về ngoại hối trên thị trường. Qua đó việc xác định tỷ giá được hợp lí hơn, chính xác hơn. Thông qua việc xác định tỷ giá chéo người ta cũng có được tỉ giá hối đoái của các đồng tiền các nước với nhau. III. Chức năng của tỷ giá hối đoái. Mối quan hệ giữa người sản xuất hàng hoá trong nước với thị trường thế giới đựoc thực hiện thông qua tỷ giá hối đoái – một phạm trù kinh tế vốn có của nền sản xuất hàng hoá. Do đó tỷ giá hối đoái có những chức năng sau: III.1. Chức năng so sánh sức mua Phạm trù tỷ giá hối đoái thể hiện trong mối tương quan sức mua của hai đồng tiền so sánh. Như ta đã biết: khi tiền tệ thực hiện chức năng thước đo giá trị, nó đã biến giá trị của hàng hoá, dịch vụ thành hình thức giá cả. Điều đó chứng tỏ giá cả hàng hoá chính là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Chính vì vậy mà mọi sức tăng giảm của giá cả hàng hoá, dịch vụ trên thị trường cho thấy sức mua của tiền tệ giảm đi hay tăng lên. Nếu như trong đồng ngoại tệ có sức mua cố định trong khi sức mua của đồng nội tệ tăng hay giảm thì tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ với đồng khác cũng tăng hoặc giảm. Giá cả của hàng hoá, dịch vụ trên thị trường nội địa và thị trường thế giới có thể so sánh với nhau thông qua tỷ giá hối đoái. Nhờ đó mà các quốc gia có thể tính toán được mức chênh lệch về năng suất lao động ở trong nước với thế giới như thế nào, tính toán được hiệu quả của các hoạt động kinh tế đối ngoại. Qua chức năng so sánh sức mua của các đồng tiền, tỷ giá hối đoái trở thành một công cụ quan trọng trong việc hoạch định các chiến lược phát trển, các hoạt động ngoại thương, các chính sách kinh tế đối ngoại, các dịch vụ đối ngoại và các hoạt động kinh tế khác ở trong và ngoài nước. III.2. Chức năng điều chỉnh xuất nhập khẩu và thu chi quốc tế . Đây là một chức năng quan trọng nhất của tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế – tài chính, đựơc sử dụng như một công cụ để so sánh về giá trị các chi phí sản xuất của một doanh nghiệp với các giá cả trên thị trường thế giới, nó phản ánh kết quả các hoạt động kinh tế đối ngoại của các nước trọng một thời kì nhất định. Vì thế, thông qua việc biểu hiện tương quan giá trị các đồng tiền của các nước với nhau mà tỷ giá hối đoái có một vai trò quan trọng đối với quá trình trao đổi ngang giá và cùng với nhiều nhân tố khác, tỷ giá hối đoái tác động tương quan giữa giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu cũng như khả năng cạnh tranh của hàng hoá các nước. Trong trường hợp đồng bản tệ xuống giá- Tỷ giá của đồng bản tệ tăng so với đồng ngoại tệ. Giả dụ đầu năm 1USD = 11.000 VNĐ cuối năm 1USD = 13.000 VNĐ, tức là một đơn vị ngoại tệ đổi được nhiều đơn vị bản tệ hơn trước. Để thu được một lượng ngoại tệ như đầu năm, vào cuối năm nhà xuất khẩu đầu tư nước ngoài khi bán hàng vào Việt nam buộc phải tăng giá (Tính theo VNĐ). Bởi nếu nhà sản xuất xuất khẩu không tăng giá thì họ sẽ bị thiệt thậm chí lỗ. Trong khi đó, việc đồng bản tệ xuống giá lại có xu hướng kích thích tăng cường khối lượng đẩu tư xuất khẩu. Bởi vì : cũng là một lượng ngoại tệ thu được do xuất khẩu có thể đổi được nhiều bản tệ hơn. Do vậy, nhà xuất khẩu khi thấy tỉ giá của đồng bản tệ tăng so với đồng ngoại tệ có thể bán hàng ra nước ngoài với gía rẻ hơn vẫn thu được một khoảng lợi nhuận như trước. (Tính theo đồng bản tệ) Tình hình sẽ hoàn toàn ngược lại khi đồng bản tệ lên giá-Tỷ giá của đồng bản tệ giảm so với đồng ngoại tệ. Như vậy, tỷ giá hối đoái có thể điều các hoạt động xuất nhập khẩu về tỷ trọng, khối lượng và cơ cấu mặt hàng…… Ngoài khả năng điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu, tỷ giá hối đoái còn tác động trực tiếp đến các hoạt động kinh tế đối ngoại khác. Trong quan hệ vay nợ quốc tế, khi đồng bản tệ của nước đi vay mất giá, các khoản nợ thực tế của của đồng bản tệ giảm xuống, nhưng gáng nặng nợ nước ngoài tăng lên. Chính vì vậy chúng ta vay nợ nước ngoài với tỷ giá 900đ/1USD mà hiên nay là 15.000đ/1USD . Ngoài ra tỷ giá hối đoái còn ảnh hưởng đến dòng vốn tiền tệ từ những hoạt động mang tính chất phi mậu dich như : Du lịch, kiều hối … Tỷ giá hối đoái còn có chức năng điều tiết mặt bằng giá cả trong nước. Khi giá trị của đồng bản tệ giảm sẽ hạn chế nhập khẩu, song với nhưng mặt hàng thiết yếu phục vụ cuộc sống và yếu cầu phát triển kinh tế thì khi giá cao vẫn phải nhập về, vì thế giá cả của mặt hàng này tất nhiên sẽ tăng do đó ảnh hưởng tới mặt bằng giá cả nói chung. III.3. Chức năng phân phối. Tỷ giá hối đoái thể hiện chức năng phân phối của mình thông qua sự thay đổi thu nhập của các ngành kinh tế đối ngoại nói riêng và các ngành kinh tế quốc dân nói chung. Nhờ có chức năng này, Nhà nước đã sử dụng tỷ giá hối đoái như một công cụ quan trọng điều tiết phân phối lại thu nhập giữa các nước có quan hệ với nhau. Một số nước có quan hệ với nhau. Một số nước đã xử dụng tỷ giá hối đoái như một công cụ lợi hại trong cuộc chiến tranh thương mại, giành giật thị trường. Ví dụ: trong những năm 1994-1996, Mỹ đã kéo dài thời gian không can thiệp vào việc giảm giá USD so voi yên Nhật (JPY). Điều này đã gây khó khăn cho Nhật Bản xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Mỹ, đặc biệt là mặt hàng xe hơi. Đây là đòn kinh tế nặng nề của Mỹ dành cho Nhật Bản. Nó làm giảm thu nhập lớn tới ngành sản xuất xe hơi ở Nhật Bản. IV. Chế độ tỷ giá cố định và thả nổi, nhưng ưu điểm và hạn chế. Đối với mỗi quốc gia và ngay trên phạm vi quốc tế thì việc lựa chọn, áp dụng chế độ tuỷ giá nào là hết sực quan trọng. Bởi vì các chế độ tỷ giá khác nhau sẽ có ảnh hưởng khác sẽ có ảnh hưởng khác nhau đến cân bằng kinh tế đối ngoại (cán cân thanh toán quốc tế), xuất nhập khẩu, tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp …Cho đến nay, chúng ta đã biết đến 3 chế độ tỷ giá cơ bản, đó là : Chế độ bản vị vàng, chế độ tỷ giá cố định và chế độ tỷ giá thả nổi. Trong đó, chế độ tỷ giá thả nổi lại được chia thành : Thả nổi tự do và thả nổi co quản lý. Việc áp dụng chế độ tỷ giá nào của mỗi quốc gia phụ thuộc vào : Trình độ phát triển kinh tế. Tính chất tham gia hợp tác quốc tế. Mức độ mở cửa kinh tế. Tốc độ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp. Trong thực tế, dù áp dụng chế độ tỷ giá nào, đều có những điểm tích cực và hạn chế của chúng. Điều nay đẫ được Samuelson mô tả như sau “Chế độ tỷ giá cố định cung cấp cho ta một cái neo, nhưng con tàu bỏ neo nhiều khi lại nguy hiểm hơn con tàu đang đi và nếu để các đồng tiền theo giá cả thị trường tự do thì chúng ta lang thang, quanh quẩn như vị thuỷ thủ say khướt”. IV.1. Chế độ tỷ giá cố định. Một điều không thể không thừa nhận rằng trong lịch sử tài chính quốc tế, chế độ tỷ giá cố định đã từng đóng một vai trò quan trọng. Có thể nói, sau chiến tranh thế giới thứ II, Châu Âu bị tàn phá nặng nề, nền kinh tế bị kiệt quệ và đình đốn. Trong thời gian chưa đầy một thập kỷ, các nước Châu Âu đã hồi phục được nền kinh tế của mình và đang trên đà phát triển với tốc độ kinh tế ngày càng cao. Một trong những nhân tố quan trọng giúp các nước này và thế giới tư bản nói chung phục hồi và thịnh vượng là nhờ vào việc áp dụng chế độ tỷ giá cố định trên phạm vi quốc tế trong một thời gian dài, mà những nguyên tắc của nó được thể hiên trong hiệp ước Bretton Woods. Những ưu điểm của tỷ giá cố định là : Tỷ giá giữa các đồng tiền được ấn định cố định , không thay đổi cho nên đã khuyến khích được thương mại quốc tế phát triển, phát huy được lợi thế so sánh của mỗi quốc gia trong ngoại thương, thúc đẩy quá tình phân công lao động quốc tế tăng năng suất lao động, giảm thất nghiệp và ổn định giá cả . Tỷ giá cố định đã khuyến khích được sự chung chuyển tư bản giữa các quốc gia.Vốn tư bản được chuyển đến nhiều nghành nhiều quốc gia mà ở đó ầu tư có hiệu quả cao. Nhu vậy, xét trong phạp vi quốc tế thì tổng đầu tư sẽ nhiều hơn ,góp phần tăng cường tiềm lực kinh tế trong mỗi quốc gia. Những hạn chế : Chế độ tỷ giá cố định là chế độ tỷ giá được hình thành không do ảnh hưởng của quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối mà bằng sự ấn định chủ quan mang tính chất áp đặt của chính phủ. Vì tỷ giá là một công cụ tài chính hết sức nhậy cảm và quan trọng, chịu tác động bởi nhiều yếu tố kinh tế vĩ mô, như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế, thất nghiệp, lạm phát lãi suất…Cho nên sự biến động thường xuyên của nó với mức độ khác nhau là điều khó tránh khỏi. Do đó, việc tỷ giá công bố (cố định) tách rời khỏi giá trị thực của đồng tiền là tất yếu. Nhìn chung, khi một đồng tiền được định giá thấp thì chính phủ đễ duy trì nó hơn la khi nó được định giá cao. Những quố gia có đồng tiền định giá cao phải bán nguồn dự trữ ngoại tệ của mình trên thị trường hối đoái, nhưng điều này là có giới hạn vì nó còn phụ thuộc vào nguồn dự trữ ngoại tệ của chính phủ. Ngược lại, những quốc gia có đồng tiền định giá thấp, chỉ cần bán đồng tiên của mình trên thị trường hối đoái là dự trư ngoại tệ sẽ tăng lên. Về khả năng thực hiên biện phấp này đối với chính phủ là không hạn chế, song điều này sẽ gây lạm phát trong nước. Chính hạn chế này đã khiến hệ thống Bretton Woods sụp đổ là một tất yếu. IV.2. Chế độ tỷ giá thả nổi. Sau khi hên thống Bretton Woods sụp đổ hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thả nổi tỷ giá. Tuy nhiên, thả nổi tỷ giá cũng được chia làm hai loại: Thả nổi tự do và thả nổi có quản lý. Chế độ thả nổi tự do là chế độ mà tỷ giá hối đoái không có sự can thiệp nào của chính phủ, hoàn toàn do quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định. Chế độ tỷ giá này chỉ áp dụng ở các nước có nền kinh tế phát triển cao. Chế độ thả nổi có quản lý là chế độ mà về nguyên tắc, việc hình thành tỷ giá hối đoái cũng do quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định, nhưng không phải hoàn toàn. Trong những trường hợp cần thiết chính phủ sẽ có những biên pháp can thiệp để dữ vững sức mua của đồng tiền trong nước. Chế độ tỷ giá thả nổi đã được sử dụng hơn 20 năm nay cho ta thấy những ưu điểm và hạn chế sau: Ưu điểm: Chế độ tỷ giá này được hình thành dựa trên quan hệ cung cầu về ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, các quan hệ này thường xuyên biến động theo nhiều nhân tố kinh tế. Do đó tỷ giá luôn luôn linh họat. Hạn chế: Tính không ổn định là dặc trưng cơ bản của chế độ tỷ giá thả nổi. Mặc dù có một số quan điểm ủng hộ cho chế độ tỷ giá này và cho rằng biến động của tỷ giá chỉ ở trong một giới hạn nhất định, phản ánh mức độ khác nhau trong lạm phát giữa các quỗc gia và coi đó như là một công cụ bù trừ trong điều chỉnh những thay đổi thực tế của các yếu tố kinh tế. Trong thực tế, tính không ổn định của chế độ thả nổi tỷ giá thể hiên ở chỗ : tỷ giá biến động một cách thường xuyên, không thể dự đoán được chiều hướng tăng hay giảm của nó trong thời gian tới. Không ổn định về tỷ giá sẽ dẫn tới không ổn định về thị trường ngoại tệ và thị trường hàng hoá. Chế độ thả nổi là một trong những nguyên nhân làm tăng tốc độ lạm phát. Thực tế đã chứng minh được rằng việc áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi đã gây ra lạm phát ở hầu hết các quỗc gia, với tốc độ ngày càng cao. Tỷ giá của một đồng tiền giảm xuống đã trở thành nguyên nhân lạm phát trong nền kinh tế, do giá cả hàng hoá nhập khẩu tăng lên. Vì vậy, chế độ tỷ giá thả nổi trong một số trường hợp không những không kiềm chế được lạm phát mà còn làm cho lạm phát diễn ra ngày càng nhanh hơn. Qua việc phân tích hoạt động của các chế độ tỷ giá và phân tích hạn chế của chúng, chúng ta thấy rằng: Để ổn định (đối nội và đối ngoại) và phát triển kinh tế mỗi quốc gia, thì ổn định tỷ giá hối đoái đóng vai trò quan trọng, ổn định không có nghĩa là cố định tỷ giá mà là chủ động điều chỉnh (can thiệp) tỷ giá đi theo những chiều hướng có lợi trong những điều kiện cụ thể theo những mục tiêu đề ra. Ngày nay, để đạt được sự ổn định trong lĩnh vực tỷ giá thì ngoài những cố gắng, lỗ lự của mỗi quốc gia còn đặt ra yêu cầu khách quan không thể phủ nhận, đó là hợp tác có hiệu quả giữa các quốc gia trong lĩnh vực này. V. Các nhân tố ảnh hưởng và một số biện pháp chủ yếu điều chỉnh tỷ giá hối đoái. V.1 Các nhân tố ảnh hưởng. Là một phạm trù kinh tế phức tạp, tỷ giá hối đoái của một đồng tiền ổn định hay thường xuyên biến động là do có sự tác động của nhiều nhân tố. Sau đây là một số nhân tố ảnh hưởng chủ yếu: Tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế, tốc độ lạm phát có ảnh hưởng lớn đến tỷ giá hối đoái. Sự trênh lệch về tốc độ lạm phát của một nước so với một số nước khác sẽ làm cho tỷ giá hối đoái của đồng tiền nước đó so với đồng tiền nước ngoài bị biến động. Một nước có mức lạm phát cao hơn các nước khác thì sức mua của đồng tiền nước đó sẽ thấp hơn các nước khác. Khi đó thì tỷ giá hối đoái của đồng tiền xẽ thấp hơn so với đồng tiền các nước khác và ngược lại. Tình hình về quan hệ cung cầu về ngoại tệ trên thị trường hối đoái : tại một thời điểm nào đó, nếu cung về ngoại tệ lớn hơn cầu về ngoại tệ thì tỷ giá ngoại tệ sẽ bị sụt mạnh, tỷ giá tiền trong nước sẽ được nâng lên và ngược lại, tình trạng này giống như quan hệ về cung cầu về hàng hoá trên thị trường. Sự tác động của các giao dịch trên thị trường hối đoái và các hoạt động đầu cơ ngoại tệ (chủ yếu trên thị trường tư nhân) làm cho tỷ giá biến động. Sự tăng truởng hay suy thoái của nền kinh tế cũng là một nguyên nhân ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Mức độ tăng, giảm GDP thực tế cũng sẽ làm tăng hay giảm nhu cầu về ngoại tệ, từ đó làm cho tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ tăng lên hay giảm đi. Mức chênh lệch lãi suất giữa các nước cũng ảnh hưởng rất lớn tới tỷ giá hối đoái. Khi lãi suất thực tế trong nước tăng làm cho nhu cầu về nội tệ để đầu tư tăng do đó làm tăng sức mua của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ, làm tăng tỷ giá của đồng nội tệ và ngược lại. Lãi xuất tiền gửi bằng ngoại tệ tăng làm cho lượng ngoại tệ vào nhiều làm dịu nhu cầu về ngoại tệ làm cho tỷ giá đồng nội tệ tăng lên… Ngoài ra sự biến động của tỷ giá hối đoái có thể do tác động của các sự kiện kinh tế xã hội, do ảnh hưởng của chiến tranh, thiên tai … V.2 Một số biện pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái: Ngày nay, dấu hiệu giá trị cũng như các phương tiện lưu thông hiện đại được sử dụng rất phổ biến. Trong điều kiện ấy, vấn đề tỷ giá hối đoái và cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái ở cả tầm vi mô và vĩ mô đều thực sự trở thành vấn đề lớn trong chính sách tiền tệ của bất cứ quốc gia nào. Việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái có thể sử dụng 1 số biện pháp sau: Điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu: 1 trong số những biện pháp mà ngân hàng Trung ương sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái là biện pháp điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu, nhằm thay đổi quan hệ cung cầu về ngoại tệ trong nước. Khi tỷ giá hối đoái trong nước bị giảm thấp đi, nếu NHNN tăng lãi suất tái chiết khấu thì những nguồn ngoại tệ sẽ chảy vào trong nước góp phần làm dịu bớt căng thẳng về ngoại tệ, do đó làm cho tỷ giá hối đoái của đồng tiền trong nước nâng dần lên và ngược lại.Tuy nhiên, chính sách lãi suất tái chiết khấu cũng có những hạn chế nhất định, vì quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá chỉ là quan hệ tác động qua lại một cách gián tiếp, chứ không phải quan hệ trực tiếp nhân quả.Các yếu tố để hình thành lãi suất và tỷ giá không giống nhau, do đó biến động của lãi suất không nhất thiết phải kéo theo biến động của tỷ giá. Lãi suất cao có thể thu hút vốn ngắn hạn từ nước ngoài, nhưng nếu tình hình kinh tế chính trị xã hội không ổn định thì khó có thể thực hiện được vì vấn đề an toàn vốn phải đặt lên trên hết. Khủng hoảng 1971-1973 ở Mỹ là một ví dụ. Mặc dù lãi suất trên thị trường New- York cao gấp rưỡi thị trường London, gấp 3 thị trường Frankfurk nhưng vốn ngắn hạn không được chuyển vào Mỹ mà lại được đưa đến Tây Đức và Nhật Bản. Can thiệp ngoại hối: Thông qua việc áp dụng biện pháp điều chỉnh này, NHNN trực tiếp can thiệp vào thị trường hối đoái bằng các hoạt động mua bán vàng và ngoại tệ nhằm điều chỉnh quan hệ cung cầu về hàng và ngoại tệ trên thị trường, từ đó tỷ giá hối đoái của đồng tiền trong nước được điều chỉnh.Tuỳ điều kiện quốc gia mà việc tổ chức thực hiện nghiệp vụ này có sự khác nhau về phạm vi, quy mô tác động. Với những nước có nền kinh tế phát triển cao, các nghiệp vụ thị trường hối đoái được thực hiện trên quy mô rộng lớn. đôi khi mở ra trên phạm vi cả một khu vực, thậm chí thế giới.Điều chỉnh tỷ giá theo phương pháp này, Chính phủ thường gặp phải phản ứng ngược chiều nhau của các doanh nghiệp cũng như các tầng lớp dân cư trong xã hội bắt nguồn từ lợi ích kinh tế. Những mâu thuẫn này thường xảy ra giữa những nhà xuất khẩu và nhập khẩu, giữa những người đang nắm trong tay lượng ngoại tệ lớn và những người trong túi chỉ có nội tệ. Để thực hiện có hiệu quả biện pháp này, Chính phủ cần có lượng dự trữ ngoại tệ đủ lớn để can thiệp vào thị trường khi cần thiết. Điều đó có nghĩa là cần lập quỹ dự trữ bình ổn hối đoái. Nguồn vốn để hình thành quỹ này là : -Phát hành trái phiếu kho bạc bằng tiền nội tệ. -Sử dụng vàng để lập quỹ bình ổn hối đoái. Hạn chế của công cụ này là nó chỉ tác động lớn khi khủng hoảng tiền tệ ít nghiêm trọng. Hơn nữa, việc lập quỹ bình ổn hối đoái đòi hỏi các quốc gia phải có một thực lực nhất định về kinh tế. Phá giá tiền tệ: Phá giá đồng tiền là việc Nhà nước chính thức hạ thấp sức mua của đồng tiền nước mình so với các ngoại tệ hay là việc nâng cao tỷ giá hối đoái của ngoại tệ.Kết quả của phá giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ giá hối đoái. Đây là điểm giống nhau giữa phá giá đồng tiền và điều chỉnh tỷ giá hối đoái, nhưng không phải không có sự khác biệt. Điều chỉnh tỷ giá hối đoái là việc làm thường xuyên, liên tục của Nhà nước nhằm điều chỉnh,duy trì sự ổn định tỷ giá hối đoái, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế, đẩy lùi lạm phát. Tỷ giá hối đoái được điều chỉnh theo nguyên tắc duy trì biên độ dao động cho phép tăng hoặc giảm một tỷ lệ nhất định so với tỷ giá hối đoái chính thức. Nó khác hẳn với phá giá đồng tiền- một biện pháp bất đắc dĩ của Nhà nước, chỉ áp dụng trong những trường hợp hết sức cần thiết khi sức mua của đồng nội tệ thường xuyên bị sụt thấp so với ngoại tệ. Tuy phá giá tiền tệ chỉ là biện pháp tình thế nhưng nếu được sử dụng đúng đắn nó cũng phát huy những tác dụng nhất định: -Kích thích ._.các hoạt động xuất khẩu, từ đó góp phần tăng thu ngoại tệ, hạn chế nhập khẩu, giảm chi ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. -Khuyến khích nhập khẩu vốn, kiều hối, hạn chế xuất khẩu vốn cũng như các hoạt động chuyển ngoại tệ ra nước ngoài, làm tăng khả năng cung ngoại tệ, kết quả làm cho sức mua đối ngoại của tiền trong nước sẽ tăng dần lên. -Khuyến khích các hoạt động du lịch vào trong nước và hạn chế du lịch ra nước ngoài, kết quả làm cho quan hệ cung cầu về ngoại tệ bớt căng thẳng. chương II: thực trạng tỷ giá hối đoái ở việt nam trong những năm gần đây. Tỷ giá hối đoái đóng vai trò là một trong những công cụ quan trọng không thể thiếu của chính sách tiền tệ mà quá trình điều hành nền kinh tế vĩ mô cần phải sử dụng như một chi tiết trong cỗ máy khi đưa vào vận hành. chính vì lẽ đó, yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải dấnh giá hợp lý hệ thống tỷ giá hiện nay. Việc làm này không thể tiến hành một cách riêng rẽ, đơn lẻ, phiến diện mà phải thực hiện trong mối quan hệ nhiều mặt của nền kinh tế xã hội Việt Nam đã và đang trải qua đồng thời phải căn cứ vào nhiều yếu tố khác nhau trong đó có yêu cầu về một hệ thống tỷ giá hợp lý. Kể từ sau những cải cách lớn bắt đầu từ tháng 3/ 1989, hệ thống tỷ giá hối đoái ở Việt Nam đã trải qua nhiều bước thăng trầm với nhiều đột biến có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các hoạt động kinh tế nói chung, cũng như hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Diễn biến phức tạp của tỷ giá trong thời gian qua chính là tấm gương phản chiếu mọi hoạt động cuả đời sống kinh tế xã hội và là căn cứ thực tế cho việc thực hiện tốt yêu cầu trên. I. tình hình tỷ giá hối đoái trong những năm vừa qua: Lựa chọn chế độ tỷ giá nào luôn là bài toán hóc búa đối với mọi quốc gia. Thực tế đã chứng minh đó là cả một nghệ thuật. Trong lịch sử, nhiều quốc gia đã thành công trong việc lựa chọn chế độ tỷ giá thích hợp. Bên cạnh đó, không ít quốc gia đã phải trả giá đắt cho việc sai lầm khi lựa chọn chế độ tỷ giá. Để có được chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp với nền kinh tế thị trường góp phần ổn định phát triển nền kinh tế, Thủ tướng chính phủ đã cho phép áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có sự quản lý của nhà nước. Đây là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam trong tiến trình đổi mới kinh tế vì nó cho phép chúng ta thực hiện một chính sách tiền tệ độc lập vừa tuân theo quy luật cung cầu thị trường vừa phát huy vai trò quản lý điều tiết linh hoạt của Nhà nước để thực hiện được mục tiêu, yêu cầu phát triển kinh tế.Với chủ trương này,Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã phối hợp cùng các bộ ngành thuộc lĩnh vực kinh tế như: Bộ Tài Chính- Bộ Thương Mại - Bộ Kế Hoạch & Đầu Tư trong việc đề ra chính sách cũng như các biện pháp thực thi. Trong quá trình thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái NHNN đã thường xuyên phối hợp với các ngành hữu quan trong việc phát hiện những bất hợp lý của chế độ tỷ giá hiện hành để đề xuất những giải pháp sửa đổi, bổ xung, giúp cho chính sách tỷ giá ngày càng hoàn thiện hơn. Nhờ vậy, NHNN luôn nhận được sự ủng hộ từ các ngành liên quan trong quá trình hoạch định cũng như tổ chức thực hiện chính sách tỷ giá. Đây là nguyên nhân cho sự tồn tại một cách vững chắc chế độ tỷ giá hiện hành. Đó là một chế độ tỷ giá linh hoạt, năng động và có khuôn khổ, là một chế độ tỷ giá thả nổi có sự quản lý của nhà nước. Mục tiêu hàng đầu của chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam là góp phần ổn định sức mua của đồng tiền Việt Nam. Kết quả của việc điều hành chính sách tỷ giá hối đoái của Nhà nước ta trong thời gian qua đã và đang nhận được sự đồng tình của dư luận trong và ngoài nước. Những thành quả mà chúng ta đã đạt được đó là: Góp phần giữ vững sức mua của đồng Việt Nam, kìm hãm và đẩy lùi lạm phát, đảm bảo thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế. Góp phần tăng cường tính ổn định của môi trường kinh tế cũng như giải pháp để duy trì, mở rộng và phát triển các hoạt động kinh tế đối ngoại, đặc biệt là thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Bảo vệ lợi ích của các thành viên trong xã hội, kể cả những người cư trú và không cư trú. Củng cố lòng tin của mọi người vào đồng Việt Nam. Đây là một yếu tố tâm lý đóng vai trò quyết định trong việc duy trì sự ổn định đời sống kinh tế, chính trị xã hội. Nó khơi dậy , kích thích và thúc đẩy mọi tầng lớp dân cư,mọi thành phần kinh tế đầu tư vốn để phát triển sản xuất kinh doanh, làm thay đổi nhanh chóng, làm lành mạnh hoá bộ mặt kinh tế của đất nước. Để có căn cứ đánh giá chính xác chính sách tỷ giá hối đoái của nước ta trong những năm qua và xây dựng các quan điểm điều hành tỷ giá hối đoái trong thời gian tới, ta cần điểm qua các giai đoạn hình thành và phát triển của chính sách tỷ giá hối đoái ở nước ta. Trước năm 1988, từ ngày 25/11/1955 tỷ giá chính thức giữa đồng Việt Nam và đồng Nhân dân tệ (NDT) của Trung Quốc là : 1NDT = 1.470 VND; 1Rup (Liên Xô) = 0,5 NDT, tỷ giá chéo là 735 VND= 1 Rup. Sau đổi tiền ( 1959) tỷ giá VND so với Rúp và NDT thay đổi. Đến năm 1977 các nước XHCN thoả thuận thanh toán với nhau bằng đồng Rúp chuyển nhượng (RCN). Mỗi RCN có hàm lượng vàng là 0,98712 gr. Bên cạnh tỷ giá trên, Nhà nước còn dùng tỷ giá thanh toán nội bộ để thanh toán giữa các tổ chức và các đơn vị có thu chi ngoại tệ với ngân hàng ngoại thương, tính thu chi ngân sách Nhà nước khi nhận viện trợ bằng đồng Rúp và cấp phát cho các tổ chức kinh tế để thanh toán với các đơn vị ngoại thương. Tỷ giá hối đoái nội bộ được điều chỉnh như sau: Năm 1958: 1 Rúp = 5,64 VND. Năm 1986: 1 Rúp = 18 VND. Năm 1987: 1 Rúp = 150 VND. Năm 1988: 1 Rúp = 700 VND. Đến tháng 3/1989 chế độ kết toán nội bộ bị huỷ bỏ. Trong giai đoạn trước 1988, với chế độ độc quyền ngoại thương và ngoại hối, Nhà nước trực tiếp can thiệp vào việc xác định tỷ giá, không xét tới quan hệ cung cầu thực tế trên thị trường ngoại hối. Nhà nước đã thi hành chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ giá. Quan hệ thương mại của chúng ta chủ yếu là với các nước trong khối SEV với hình thức phổ biến là hàng đổi hàng theo một tỷ giá cố định đã được thoả thuận theo hiệp ước song phương và đa phương giữa các chính phủ. Các doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu hàng hoá hạch toán theo tỷ giá kết toán nội bộ mà thực chất là một hình thức bù lỗ có tính chất bao cấp thông qua tỷ giá. Trong giai đoạn này, tỷ giá hối đoái chỉ đóng vai trò thuần tuý là phương tiện ghi chép thụ động của ngân hàng trong lĩnh vực xuất nhâp khẩu hàng hoá. Vai trò công cụ quản lý vĩ mô, để thực hiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ của tỷ giá hối đoái bị gạt bỏ hoàn toàn.Việc xác lập tỷ giá hối đoái duy ý chí, không tuân thủ các quy luật kinh tế , các quy trình kinh tế ngay cả với kinh tế kế hoạch, gạt bỏ cả yếu tố lạm phát đã không chỉ cản trở các quan hệ kinh tế của ta với khối SEV mà còn gây nhiều khó khăn trong thanh toán nội bộ, trong công tác quản lý điều hành của Nhà nước,thủ tiêu động lực đối với hoạt động xuất khẩu. Ngoài ra, việc sử dụng tỷ giá kết toán nội bộ trong quản lý ngân sách Nhà nước nên việc tính toán và phản ánh thu chi ngân sách nhà nước bị sai lệch nghiêm trọng, làm giảm hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân sách Nhà nước, đặc biệt là khâu quản lý và sử dụng vốn. Hơn nữa, VND được đánh giá cao một cách giả tạo so với USD cũng như một số ngoại tệ khác. Thị trường ngoại hối chợ đen tồn tại như một tất yếu khách quan. Sau khi có chủ trương thu hút vốn nước ngoài (1985) và thông qua luật đầu tư nước ngoài (1987) luồng ngoại tệ bằng USD lần lượt vào Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta chỉ dùng tỷ giá chính thức do Ngân hàng Trung ương áp đặt nên vẫn còn khoảng cách khá xa so với sức mua thực tế của USD và thị trường chợ đen. Đơn vị tính: VND/USD. Năm Tỷ giá chính thức Tỷ giá thị trường 1985 15 115 1986 80 425 1987 368 1270 1988 3000 5000 1989 3900 4100 Tuy nhiên mức chênh lệch giữa 2 loại tỷ giá tính theo tỷ lệ % cũng dần giảm rõ rệt ( năm 1985 là 666,67% năm 1989 chỉ còn 5,12%). Từ khi chúng ta xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ giá với những điều chỉnh mang tính hành chính này không còn phù hợp với quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta nữa. Việc từ bỏ chế độ này là một xu thế tất yếu khi chúng ta mở cửa và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Từ những năm 1989- 1990 khi quan hệ ngoại thương được bao cấp với thị trường truyền thống Đông Âu và Liên Xô cũ bị gián đoạn khiến chúng ta phải chuyển sang buôn bán với khu vực thanh toán bằng USD. Kể từ đó, cơ chế tỷ giá cố định đã được thay thế dần bằng cơ chế điều tiết của Nhà nước theo tín hiệu thị trường. Tuy nhiên để đi đến một chính sách tỷ giá tự chủ,có thể kiểm soát được các biến động thị trường, cơ chế quản lý ngoại tệ nói chung và cơ chế quản lý hối đoái nói riêng đã trải qua những điều chỉnh lớn. Có thể chia thành những giai đoạn như: Giai đoạn thả nổi tỷ giá hối đoái 1989- 1992: Trong giai đoạn này, tỷ giá giữa VND/USD biến động mạnh theo hướng tăng liên tục kèm theo các cơn sốt, các đột biến lớn. Thời kỳ này tỷ giá danh nghĩa tăng từ 4.200đ/1USD tới 12.720đ/USD. Theo thống kê của tạp chí ngân hàng, tỷ giá hối đoái giữa VND/USD từ 1989-1992 biến động như sau: Bảng 1: Tỷ giá danh nghĩa giữa USD/VND: Năm Điạ điểm Tháng 1 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 1989 Ngân hàng 3.500 4.200 4.350 4.100 4.200 Tư nhân 5.200 5.350 4.400 4.225 4.575 1990 Ngân hàng 4.300 4.300 4.800 5.750 6.650 Tư nhân 4.650 4.450 5.600 6.300 7.050 1991 Ngân hàng 7.000 7.400 8.300 10.700 12.720 Tư nhân 7.400 7.900 8.830 11.050 12.550 1992 Ngân hàng 11.880 11.550 11.285 10.950 10.720 Tư nhân 12.200 11.550 11.290 10.980 10.650 Số liệu trên cho thấy sự biến động mạnh của tỷ giá VND/USD từ năm 1990 trở đi. Đỉnh cao của mức tăng giá USD là cuối năm 1991. Ngày 4/12/1991 giá USD trên thị trường tư nhân tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là 14.450 VND/USD và 14.580 VND/USD. Giá USD trong tháng 12/1990 đã tăng từ 60% đến 80% so với mức giá đầu năm. Mặc dù trong giai đoạn 1989-1992 chính sách quản lý của nhà nước đã có nhiều thay đổi, như chuyển từ hình thức quản lý theo tỷ giá kết toán nội bộ bình quân cho tất cả các nhóm hàng sang tỷ giá theo nhóm hàng hoá và duy trì tương đối ổn định các tỷ giá này, hoặc nếu có thay đổi thì cũng ở mức độ nhỏ nhằm duy trì ổn định hệ thống giá vật tư và xuất khẩu, nhập khẩu nên tỷ giá công bố vẫn xa mức tỷ giá hình thành trên thị trường. Hơn nữa phần ngoại thương ngoài kế hoạch ngày càng lớn khiến cho thị trường ngoại tệ ngầm ngày càng phát triển và có xu hướng phản ánh tương quan giá trị thực giữa đồng nội tệ với đồng ngoại tệ. Tình trạng leo thang của giá đồng USD đã kích thích tâm lý dự trữ USD, nhằm mục đích đầu cơ ăn chênh lệch giá. Ngoại tệ vốn đã khan hiếm lại không được dùng cho hoạt động xuất nhập khẩu mà còn bị buôn bán vòng vèo giữa các tổ chức trong nước. Mọi cố gắng quản lý ngoại tệ của chính phủ ít đem lại kết quả, thậm chí có những quyết định của chính phủ về quản lý ngoại tệ đã bị mất hiệu lực ngay khi vừa mới công bố.Giai đoạn này ngân hàng không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ. Qua kiểm tra 26 đơn vị sử dụng ngoại tệ ở Thừa Thiên Huế thấy tất cả đều có sai phạm: Bán USD ra thị trường: 996,682 USD. Cho vay lấy lãi : 102,694 USD. Chuyển nhượng cho nhau hơn 2 triệu USD lấy chênh lệch 3,5 tỷ USD. Tình trạng tỷ giá hối đoái bị thả nổi thời kỳ này có nguyên nhân do cơ chế quản lý ngoại tệ chậm sửa đổi,không theo kịp bước chuyển của nền kinh tế thị trường. Nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là do những khó khăn trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Do mất nguồn nhập siêu từ Liên Xô cũ nên đất nước thiếu ngoại tệ nghiêm trọng.Điều này dẫn đến tình trạng phải mua USD để trả nợ đến hạn do đó đã dẫn đến "cơn sốt" USD theo chu kỳ vào cuối quý, cuối năm trong các năm 1990- 1991. Tình trạng leo thang giá USD đã thúc đẩy lạm phát do đồng Việt Nam bị mất giá mạnh và do giá hàng nhập khẩu tăng nhanh. Trước tình hình đó từ năm 1992 chính phủ đã chọn con đường thay đổi cách quản lý ngoại tệ, đổi mới chính sách và cơ chế điều hành tỷ giá theo hướng: Thay thế biện pháp hành chính, bắt buộc các đơn vị kinh tế quốc doanh có ngoại tệ phải bán cho Ngân hàng theo tỷ giá ấn định bằng biện pháp kinh tế như: mở trung tâm giao dịch ngoại tệ để cho các doanh nghiệp và ngân hàng trao đổi mua bán ngoại tệ với nhau theo thoả thuận. Thay đổi cách quản lý ngoại tệ , đổi mới cơ chế quản lý ngoại hối, bãi bỏ hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh toán ngoại thương giữa Ngân sách với các tổ chức kinh tế tham gia xuất nhập khẩu. Thay vào đó, trên cơ sở tỷ giá hình thành tại các phiên giao dịch ngoại tệ, Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá chính thức. Cơ chế hình thành và quản lý tỷ giá mềm dẻo như trên cộng với sự điều tiết của Ngân hàng Nhà nước đối với lượng ngoại tệ mua bán tại các phiên giao dịch đã phá được tâm lý đầu cơ ngoại tệ ngăn chặn được xu hướng tăng giá quá mức của USD trên thị trường. Từ tháng 3/1992, giá USD bắt đầu giảm. Tỷ giá VND/USD vào thời điểm cuối năm 1991 tại các thị trường tư nhân Hà Nội có lúc lên tới 14.500 VND/1USD, đến tháng 3/1992 chỉ còn 11.550 VND/1USD đến cuối năm còn 10.650 VND/1USD và còn tiếp tục giảm tới cuối năm 1992. Giai đoạn 1993-1996: Trong dịp Tết Nguyên Đán Nhâm Thân 1993, có khoảng 60000 Việt kiều về ăn Tết mang theo lượng ngoại tệ 300-400 triệu USD dẫn tới cung USD tăng, đồng USD giảm nhanh.Có ngày giá USD giảm xuống còn 9.950 VND/USD tại Hà Nội, 9.750 VND/USD tại Hồ Chí Minh ( 13/01/1993). Việc tăng giá đồng nội tệ góp phần quyết định chuyển xuất siêu sang nhập siêu vì vậy Nhà nước phải can thiệp nhằm nâng giá USD. Từ tháng 3/1993, USD đã lên giá dần và duy trì hướng lên giá một cách ổn định. Từ cuối năm 1994, USD liên tục mất giá so với các đồng tiền chủ chốt khác, đặc biệt so với đồng Yên( Nhật Bản). Tuy nhiên, trên thị trường Việt Nam., giá USD vẫn tương đối ổn định. Tuy chỉ tăng 1,7% trong năm 1994 và 0,4% trong quý I năm 1995 nhưng đã tạo điều kiện cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu, phù hợp với chiến lược kinh tế hướng ngoại Giai đoạn 1997-2000: Từ năm 1997- 1998, chênh lệch lãi suất giữa VND và USD giảm dần, cuộc khủng hoảng tài chính khu vực bùng nổ làm cho giá trị đồng tiền của các nước trong khu vực giảm nhanh( Đồng Rupiah Inđônêxia mất giá 130%, đồng Baht Thái Lan mất giá 100%, đồng Ringgit Ma-lai-xi-a mất giá 60%... Đồng thời lượng vốn đầu tư vào Việt Nam giảm mạnh. Xu hướng của các nhà đầu tư và dân chúng là rut VND để chuyển sang ngoại tệ tăng lên. Hơn nữa do năm 1996, khối lượng L/C trả chậm khá lớn và phần lớn đến hạn trả là năm 1997,do vậy làm tăng nhu cầu mua ngoại tệ trong nước để trả nợ đến hạn.Tất cả những điều kiện trên gây áp lực giảm giá VND.Trước tình trạng đó Chính phủ đã thực hiện hai lần tăng giá từ 11.113đ/ 1 USD năm 1996 lên 13.908đ/1USD năm 1998. Việc điều chỉnh giá lần này là một quyết định kịp thời. Trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, việc cố định một tỷ giá được coi là cao hơn so với tỷ giá thực là một rủi ro quá lớn cho nền kinh tế Việt Nam, không những nó cản trở xuất nhập khẩu mà còn hạn chế " khả năng đề kháng" của nền kinh tế Việt Nam. Nhiều chuyên gia tài chính ngân hàng cho rằng mức tỷ giá hiện nay chính là thời điểm dừng thích hợp. Việc tăng tỷ giá đã góp phần giảm nhập siêu 20,3% năm 1997 xuống còn 17,6% năm 1998. Trong năm 1999, với cơ chế điều hành tỷ giá mới, chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của nhà nước ở nước ta hiện nay càng có cơ hội phát huy hiệu quả. Nếu trước tháng 2 năm 1999, cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt Nam là cơ chế can thiệp trực tiếp bằng cách ấn định tỷ giá chính thức với biên độ giao dịch ở thời điểm tương ứng có khi lên đến ±10% thì từ ngày 25/02/1999 NHNN Việt Nam đã công bố 2 quyết định mới về tỷ giá: Quyết định số 64/1999/QĐ-NHNN7 về việc công bố tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam với các ngoại tệ. Quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 về việc quy định nguyên tắc xác định giá mua bán ngoại tệ của các tổ chức được phép kinh doanh ngoại tệ. Từ ngày 26/2/1999, NHNN chỉ công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên cơ sở tỷ giá thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ( TTNTLNH) của ngày giao dịch gần nhất trước đó. Căn cứ vào đó các ngân hàng thương mại được phép kinh doanh ngoại tệ xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ giao ngay không vượt quá 0,1% so với tỷ giá này. Việc điều chỉnh tỷ giá này nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu Việt Nam; giảm bớt sự mất cân bằng của đồng Việt Nam so với USD, dịch chuyển tỷ giá dần tới trạng thái cân bằng của nó. Nhờ cơ chế điều hành tỷ giá mới, tình hình tỷ giá hối đoái ở Việt Nam rất ổn định, không biến động nhiều lắm, tỷ giá giữa VND và USD giao động trong khoảng 14.000 - 14.014 đ/ 1 USD. Trong năm 2000, từ ngày 5/9, cơ chế tỷ giá trong kinh doanh ngoại tệ của các NHTM được thực hiện theo quyết định số 289/2000?QĐ-NHNN7 ngày 30/8/2000 của Thống đốc NHNN quy định mới về nguyên tắc xác định tỷ giá của các giao dịch hối đoái kỳ hạn , hoán đổi của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ. Còn nguyên tắc xác định tỷ giá giao ngay vẫn được thực hiện theo quyết định số 65/1999/QD-NHNN7. Trong quyết định số 189, Thống đốc NHNN quy định đối với giao dịch giữa VND và USD, mức tỷ giá áp dụng cho từng kỳ hạn cụ thể tối đa không quá trần của tỷ giá giao ngay áp dụng tại thời điểm ký kết hợp đồng dài hạn, hoán đổi( tỷ giá giao dịch do NHNN công bố cộng0,1%) cộng với mức gia tăng cho phép( tỷ lệ % của mức giá giao ngay) quy định đối với từng kỳ hạn cụ thể như sau:0,2% của trần tỷ giá giao ngay đối với kỳ hạn 30 ngày, 0,25% đối với kỳ hạn 31- 44 ngày, 0,4% đối với kỳ hạn từ 45 ngày đến 59 ngày; ... 1,48% đối với kỳ hạn từ 165 ngày đến 179 ngày, và 1,5% đối với kỳ hạn 180 ngày. Nếu trong năm 1999, đồng Việt Nam chỉ giảm 1% thì hết tháng 9 năm 2000 đã giảm 1,33% so với cuối năm 99 và đến cuối tháng 10 năm 2000 đã giảm 2,2% so với USD. Đặc biệt, trong tháng 10, VND đã giảm trung bình 8đ/ngày. Nhìn chung, trong năm 2000, VND đã giảm giá 2,3% trong khi đồng tiền của các nước trong khu vực châu á liên tục mất giá so với USD ở mức giảm từ 8-25%.Hiện tượng giảm giá VND liên tục trong thời gian qua là do ảnh hưởng của : - Biến động ngược chiều về xu hướng lãi suất ở Mỹ , châu Âu và châu á gây ảnh hưởng đến tỷ giá USD/VND. Sau 3 lần tăng lãi suất trong năm 1999, từ đầu năm 2000 tới nay, Cục dự trữ Liên bang Mỹ tiếp tục 3 lần tăng lãi suất, đưa lãi suất của Mỹ lên mức cao nhất kể từ năm 1991.Với lãi suất Mỹ tăng cao, có tác dụng thu hút các luồng vốn ngắn hạn bằng USD đổ vào Mỹ, khiến USD ngày càng có giá, cầu về USD trên bình diện quốc tế ngày càng gia tăng. Vì vậy mà tỷ giá USD so với các đồng tiền khác đều tăng. - Giá dầu trên thị trường quốc tế tăng cao, trong khi giá cà phê, gạo ngày càng giảm gây sức ép đối với cán cân thương mại và tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam. - Các đồng tiền trong khu vực mất giá so với USD gây ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái của VND. Trong khi lãi suất tại Mỹ và châu Âu có xu hướng tăng thì lãi suất tại khu vực Đông á và Việt Nam lại có xu hướng giảm sau khi tăng cao theo chương trình chống khủng hoảng trong hai năm 1997,1998. Hai xu hướng biến động ngược chiều này đã gây sức ép lớn làm giảm giá các đồng tiền trong khu vực kể cả đối với VND.So với thời điểm đầu năm, các đồng tiền trong khu vực đã mất giá từ 5-32% trong khi đó VND chỉ mất giá trên 2%, khiến cho khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu của Việt Nam có thể bị xói mòn nếu VND không giảm giá theo. Tình hình trên khiến cho Việt Nam muốn duy trì khả năng cạnh tranh, cải thiện cán cân thương mại thì phải để cho VND giảm giá. Trong 7 tháng đầu năm 2001, kể từ đầu tháng 5- 25/6 , việc tỷ giá hối đoái của USD so với VND tăng liên tục trong nhiều tuần trên cả thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường tự do đã tạo ra những phản ứng rất khác nhau.Tính từ đầu năm đến tháng 7/2001, đồng USD lên giá chừng 3,7% so với VND trong khi lên tới 12% so với đồng Euro và 4% so với đồng Baht ( Thái Lan). Có thể nhận thấy tỷ giá USD có biểu hiện nóng lên "đột ngột" kể từ cuối năm 2000, nhưng đã phần nào dịu xuống trong tháng 3/2001 khi ảnh hưởng giảm lãi suất của đồng USD ( do sự đảo chiều trong chính sách tiền tệ của FED trước nguy cơ suy thoái của nền kinh tế Mỹ) thực sự tác động đến Việt Nam. Nhưng kể từ tháng 5/2001, tỷ giá tăng liên tục qua từng tuần và nhiều khi qua từng ngày trên cả hai thị trường chính thức và tự do. Trên thị trường liên ngân hàng, tỷ giá tăng khoảng 96đ/USD trong tháng 5 và kể từ giữa tháng 6 tỷ giá tăng liên tục từ 8- 14đ/ USD mỗi ngày. Tỷ giá USD trên thị trường tự do cũng có những biến động tương tự nhưng với mức giao động cao hơn và chênh lệch tỷ giá tại hai thị trường có xu hướng dãn rộng. Diễn biến tỷ giá USD trong năm 2000 và nửa đầu năm 2001: Trong năm 2000 1/2001 2/2001 3/2001 4/2001 5/2001 62001 Tỷ giá liên ngân hàng 14..022- 14.501 14.543 14.558 14.573 14.595 14.696 14.865 Tăng so với tháng trước(%) 33 24 15 22 101 169 Tỷ giá thị trường tự do (VND/1 USD) 14.160- 14.540 14.630 14.680 14.730 14.790 14.910 15.050 Tăng so với tháng trước (VND/ 1 USD) 90 50 50 60 120 140 Mặc dù tỷ giá có những biến động có vẻ như "bất thường" nhưng NHNN không áp dụng những biện pháp can thiệp thị trường mạnh hoặc sử dụng trở lại các biện pháp hành chính (như tăng tỷ lệ kết hối). Điều này khẳng định thêm việc quyết tâm theo đuổi chính sách điều hành tỷ giá hối đoái linh hoạt theo cung cầu thị trường của NHNN. Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu kinh tế thì sự biến động tỷ giá một cách bất thường này là do các nguyên nhân: Do thực hiện chủ trương kích cầu, chúng ta liên tục hạ lãi suất VND trong khi đó lãi suất USD trên thị trường quốc tế lại liên tục tăng dẫn tới lãi suất USD trên thị trường Việt Nam buộc phải tăng theo và đã có lúc lãi suất 2 đồng tiền USD và VND cân bằng nhau. Hậu quả là đã có sự chuyển dịch từ VND sang USD làm cho nhu cầu USD tăng lên và cung về USD giảm đi đáng kể. Thêm vào đó, chênh lệch lãi suất tiền gửi của USD tại Việt Nam với thị trường quốc tế khá lớn cũng ảnh hưởng tới sự biến động tỷ giá. Do ảnh hưởng của tình hình cán cân thanh toán sau khi tổng hợp cán cân thương mại, cán cân vốn và tài chính vãng lai của nước ta trong thời gian qua. Thị trường Việt Nam có đặc điểm mang tính truyền thống là chuộng USD, thể hiện qua tình trạng khá phổ biến là ngoại tệ được sử dụng trong thanh toán trong dân cư dưới hình thức tiền mặt , gửi vào ngân hàng dưới dạng tiết kiệm và ít được chuyển ra VND ngay cả khi không có chênh lệch lớn về lãi suất giữa hai đồng tiền. II. Đánh giá việc điều hành tỷ giá hối đoái ở việt nam trong những năm vừa qua: Qua quá trình điều hành tỷ giá hối đoái và thực trạng nền kinh tế nước ta, chúng ta có thể khẳng định tính hợp lý về chính sách tỷ giá và cơ chế điều hành trong thời gian qua là phù hợp với quá trình vận động, phát triển của nền kinh tế Việt Nam và diễn biến trên thị trường tiền tệ thế giới. Nhưng điều đó cũng chỉ có ý nghĩa tương đối, chính sách tỷ giá của chúng ta không vì thế mà không có những hạn chế nhất định cần phải được đánh giá và sửa đổi. II.1 Những kết quả đạt được: Thực tế trong giai đoạn vừa qua, tỷ giá hối đoái đã phản ánh tương đối khách quan sức mua của đồng Việt Nam và quan hệ cung cầu về ngoại tệ của nền kinh tế. Ngân hàng Nhà nước đã dần nới lỏng đối với cơ chế điều hành tỷ giá,biên độ giao dịch cho các ngân hàng thương mại đã dần được mở rộng liên tục so với tỷ giá chính thức. Chính cơ chế điều hành tỷ giá dựa trên tỷ giá chính thức đã tạo điều kiện cho NHNN dễ dàng kiểm soát và điều tiết thị trường ngoại hối. Việc dao động trong một biên độ nhất định đối với tỷ giá hối đoái chính thức đã giúp cho tỷ giá hối đoái có được sự ổn định tương đổi trong thời gian qua, góp phần không nhỏ để đạt mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế. Đồng thời thông qua xu hướng tỷ giá của các ngân hàng thương mại, NHNN có thể nắm bắt diễn biến của cung cầu ngoại tệ thực tế trong nền kinh tế, nhận biết được xu hướng vận động của tỷ giá hối đoái để có kế hoạch điều chỉnh kịp thời, tránh được những đột biến và những cú sốc có thể xảy ra đối với nền kinh tế. Việc điều hành tỷ giá trong một biên độ dao động nhất định đã hạn chế đầu cơ tỷ giá của các ngân hàng và các cá nhân( vì chênh lệch giữa giá mua vào và bán ra đã được giới hạn tối đa). Cơ chế tỷ giá thống nhất cũng tạo điều kiện cho việc hướng dẫn và vận hành thành công guồng máy ngân hàng, tránh được các rủi ro cũng như ảnh hưởng tiêu cực của tỷ giá hối đoái đối với nền kinh tế đang chuyển đổi, tạo điều kiện chắc chắn cho các hoạt động của nền kinh tế. Phương án điều hành hiện tại cũng cho phép các ngân hàng thương mại tự do xác định tỷ giá trong một biên độ mềm dẻo phối hợp, tạo cho các hoạt động kinh doanh tiền tệ được tiến hành trên cơ sở khách quan tương đối, tôn trọng quy luật giá trị, quy luật cung cầu thực tế của nền kinh tế, đem lại lợi nhuận nhiều hơn cho các doanh nghiệp trong quan hệ mua bán ngoại tệ với các ngân hàng thương mại. Việc chủ động điều chỉnh tăng tỷ giá USD/VND là một việc làm đúng hướng để hỗ trợ xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, góp phần cải thiện tình hình thâm hụt cán cân thương mại và sức ép tiếp tục tăng giá USD. Việc điều chỉnh này cũng góp phần giảm bớt lỗ trong hoạt động giao dịch ngoại tệ.Đồng thời với việc thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt đã giúp các nhà hoạch định xác định được sức mua thực tế của VND góp phần phòng ngừa lạm phát có hiệu quả. Nhờ ổn định tỷ giá hối đoái mà chúng ta đã tạo môi trường đầu tư tương đối ổn định, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, bảo vệ lợi ích các thành viên trong xã hội. III.2. Những mặt hạn chế: Trước những biến động của thị trường, việc thay đổi tỷ giá chính thức sở dĩ ở một chừng mực nào đó không giải quyết được ngay lập tức tạo biên độ đủ cho các ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh vì nếu thay đổi tỷ giá chính thức lớn hơn sẽ gây ra những yếu tố tâm lý sai lệch về chính sách tỷ giá của NHNN tạo những hoạt động đầu cơ gây xáo trộn thị trường. Sự khác biệt giữa tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại và thị trường tự do đã gây hạn chế rất lớn trong vai trò điều tiết lợi nhuận thu được từ hoạt động xuất nhập khẩu. Chênh lệch này tạo ra sự bất bình đẳng trong quan hệ thương mại, một số trường hợp không tạo được lợi thế cạnh tranh đối ngoại và khuyến khích xuất khẩu. Trong thời gian qua, những biến động bất thường của tỷ giá gây tâm lý lo ngại, không tin tưởng vào đồng tiền Việt Nam. Sự dịch chuyển tỷ giá nhanh hơn trong thời gian qua cũng gây sức ép lớn đến thị trường ngoại tệ. Tính nhạy cảm của công chúng đối với sự dao động của tỷ giá rất lớn. Tỷ giá tăng lên làm sự bất ổn trên thị trường ngầm tăng lên. Khi tỷ giá USD/VND tăng sẽ làm cho giá hàng nhập khẩu tính bằngVND tăng lên tương ứng. Mà phần lớn hàng nhập khẩu của Việt Nam đều là vật tư nguyên liệu tiêu dùng cho sản xuất trong nước; vì vậy,sẽ làm đội giá thành các loại sản phẩm hàng hoá dịch vụ, mà các yếu tố đầu vào phải nhập khẩu từ bên ngoài. Điều này làm cho giá cả sản phẩm hàng hoá dịch vụ gia tăng, lạm phát sẽ có cơ hội để bộc phát. III. Điều hành tỷ giá ở một số nước: III.1.Tình hình tỷ giá hối đoái trên thế giới: Ngược dòng thời gian tìm hiểu về mô hình tỷ giá trong thập kỷ trước đây ta nhận thấy rằng sau khi hệ thống tỷ giá cố định Bretton Woods sụp đổ , phần lớn các nước đang phát triển tiếp tục cố định các đồng tiền của họ với một đồng tiền chủ chốt, đa số là USD hoặc FRF hay một rổ tiền tệ. Tuy nhiên vào cuối những năm 70, một số nước đang phát triển đã bắt đầu từ bỏ cơ chế này. Trước hết, chuyển từ việc cố định với đồng tiền duy nhất sang cố định với các rổ tiền tệ, chẳng hạn SDR hoặc linh hoạt có giới hạn so với một đồng tiền duy nhất.Sau đó vào những năm 80, đã có sự thay đổi rõ rệt theo hướng thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt hơn. Cụ thể là trong những năm 70,hầu hết các nước áp dụng tỷ giá cố định( năm 1975, có tới 87% các nước đang phát triển áp dụng tỷ giá cố định) dưới hình thức này hay hình thức khác. Tuy nhiên, đến giữa những năm 90, hầu hết các nước đã chính thức áp dụng chế độ tỷ giá linh hoạt. Do chi phí quản lý chế độ tỷ giá linh hoạt đã giảm dần theo thời gian nên mặc dù trong năm 1995, các nước đang phát triển áp dụng chế độ tỷ giá cố định chiếm 70% trong khi các nước áp dụng chế độ tỷ giá linh hoạt chỉ chiếm 8% thì đến năm 1996 tình hình đã thay đổi rõ rệt theo chiều hướng ngược lại. Những giao động mạnh trong giá trị của các đồng tiền của các nước công nghiệp chủ chốt từ đầu những năm 80 và hàng loạt cơn sốc từ bên ngoài tác động đến các nền kinh tế đang phát triển là những nguyên nhân làm tăng chi phí chính trị của việc duy trì tỷ giá cố định. Trong môi trường ngày nay khi mà lượng vốn khổng lồ có thể luân chuyển trong một thời gian tương đối ngắn, nguy cơ tiềm ẩn những cơn sốc sẽ lớn hơn và các quốc gia theo chế độ tỷ giá cố định càng có ít thời gian để điều chỉnh sự biến động của tỷ giá. Các nhà hoạch định chính sách buộc phải chuyển sang chế độ tỷ giá linh hoạt hơn, giúp họ có thể điều chỉnh những thay đổi của tỷ giá một cách dễ dàng và kịp thời hơn.Tuy nhiên ta không thể nói một cách chung chung rằng chế độ tỷ giá này là tốt hơn so với chế độ tỷ giá kia vì còn phải căn cứ vào tình hình và điều kiện cụ thể của từng nước. Dù rằng các quốc gia áp dụng tỷ giá cố định thường có tỷ lệ lạm phát ổn định và thấp hơn so với các nước áp dụng chế độ tỷ giá linh hoạt, tỷ giá thực lại ít bị biến động hơn nhưng tốc độ tăng trưởng lại không có sự khác biệt lớn ở các chế độ tỷ giá. Tuy vậy, điều này không có nghĩa là tỷ giá linh hoạt luôn gắn liền với lạm phát cao và biến động nhiều hơn trong tương lai. Thực tế nhiều năm qua, lạm phát ở các nước có tỷ giá cố định thường thấp hơn các nước áp dụng chế độ tỷ giá linh hoạt. Tuy vậy vẫn chưa có mối quan hệ rõ ràng giữa chế độ tỷ giá với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đa số các nhà kinh tế cho rằng, tăng trưởng kinh tế nhanh ở các nền kinh tế thị trường mới nổi, về dài hạn sẽ dẫn đến việc tăng tỷ giá. Mối tương quan này xuất phát từ xu hướng năng lực sản xuất trong khu vực sản xuất hàng hoá ngoại thương tăng nhanh hơn khu vực sản xuất hàng hoá ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0593.doc
Tài liệu liên quan