Ước tính sơ bộ thiệt hại môi trường do sự cố tràn dầu gây ra tại Cù Lao Chàm và Cửa Đại - Quảng Nam

Tài liệu Ước tính sơ bộ thiệt hại môi trường do sự cố tràn dầu gây ra tại Cù Lao Chàm và Cửa Đại - Quảng Nam: ... Ebook Ước tính sơ bộ thiệt hại môi trường do sự cố tràn dầu gây ra tại Cù Lao Chàm và Cửa Đại - Quảng Nam

doc84 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1464 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Ước tính sơ bộ thiệt hại môi trường do sự cố tràn dầu gây ra tại Cù Lao Chàm và Cửa Đại - Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới PGS.TS Lê Thu Hoa, Khoa Kinh Tế - Quản lý Tài Nguyên Môi Trường và Đô Thị, trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân. Cô đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi suốt quá trình thực hiện đề tài của mình. Tôi xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Đinh Đức Trường – Viện Phó Viện Sinh thái - Môi trường, Hà Nội đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong thời gian tôi thực tập ở đây cũng như trong quá trình tôi thực hiện đề tài này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Kinh Tế, Quản lý Kinh tế Tài nguyên, Môi trường và Đô thị, trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình học tập và thực hiện đề tài. Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè tôi đã chia sẻ và giúp đỡ tôi để tôi hoàn thành tốt chuyên đề này. Tôi xin chân thành cảm ơn! Sinh Viên KTMT 46 Vũ Thị Hoàng Vân LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các kết quả, số liệu nêu trong đề tài là hoàn toàn trung thực và không cắt ghép, sao chép từ báo cáo hoặc luận văn của người khác. Nếu sai, tôi xin chịu kỷ luật với nhà trường. Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2008 Sinh viên Vũ Thị Hoàng Vân MỤC LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt Từ đầy đủ Nghĩa Tiếng Việt TEV Total Economic Value Tổng giá trị kinh tế WB World Bank Ngân hàng thế giới IUCN International Union for the Conservation of Nature and Natural resources. Hội bảo tồn thiên nhiên thế giới ITOPF The International Tanker Owners Pollution Federation Một tổ chức phi lợi nhuận, hoạt động trong lĩnh vực ứng phó với các sự cố tràn dầu, các chất hóa học và các loại chất khác từ các tàu vào môi trường biển. CVM Contingent Valuation Method Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên WTP Willing To Pay Sẵn lòng chi trả WTA Willing To Accept Sẵn lòng chấp nhận TCM Travel cost method Phương pháp chi phí du lịch HEA Habitat Equivalent Analysis Phân tích cư trú tương đương IMER Institute of Marine Environment and Resources Viện tài nguyên và môi trường biển HST Hệ sinh thái TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam DANH MỤC BẢNG BIỂU Tên bảng Trang Bảng 1.1 : Chi phí thay thế, di chuyển và phục hồi loài động vật có vú ở biển và trong đất liền – Kết quả phân tích sự cố tràn dầu Exxon Valdez. 19 Bảng 1.2: Giá trị thay thế cho chim biển và đại bàng – Kết quả vụ tràn dầu Exxon Valdez. (USD 1989) 20 Bảng 1.3 : Khoản đền bù quỹ IOPC nhận được từ Pháp và Tây Ban Nha (theo đồng Euro) cho vụ tràn dầu Prestige 21 Bảng 1.4: Ước lượng tổng giá trị giải trí thiệt hại từ sự cố tràn dầu American Trader 23 Bảng 1.5: Lượng hoá những tổn thất đối với vùng đầm lầy 25 Bảng 1.6: Các khoản đền bù cho sự cố tàu Alambra, Talinn, Estonia 2000 27 Bảng 1.7: Tổng kết kinh nghiệm lượng giá ô nhiễm dầu tràn trên thế giới 28,29 Bảng 1.8: Lựa chọn phương pháp lượng giá thiệt hại môi trường do ô nhiễm dầu tại khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại 32 Bảng 2.1 : Dự báo dân số tỉnh Quảng Nam 42 Bảng 2.2 : Số lượng dầu thu gom và chi phí ứng phó tại các địa phương thuộc đợt 1 47 Bảng 3.1 : Dạng thiệt hại môi trường do dự cố tràn dầu tại khu vực Cù Lao Chàm và Cửa Đại 53 Bảng 3.2: Thiệt hại của các khách sạn do khách hủy đặt phòng và trả phòng sớm 57,58 Bảng 3.3 : Dữ liệu đầu vào để tính chi phí thay thế đối với san hô và cỏ biển 59 Bảng 3.4: Các yếu tố có thể ảnh hưởng đên mức sẵn lòng chi trả (WTP) 64 Bảng 3.5: Tổng hợp thiệt hại môi trường do ô nhiễm dầu tại khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại 67 DANH MỤC HÌNH VẼ Hình 1.1: Sơ đồ TEV 12 Hình 1.2 Cách tiếp cận lượng giá thiệt hại môi trường do tràn dầu gây ra tại khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại (Quảng Nam) 30 Hình 2.1: Bản đồ tỉnh Quảng Nam 39 Hình 3.1: Dòng chi phí vận hành hàng năm đối với 1 ha san hô 60 Hình 3.2: Dòng chi phí vận hành hàng năm đối với cỏ biển 61 Hình 3.3: Cơ cấu các loại thiệt hại đối với hệ sinh thái biển khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại 67 MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Từ 1997, Việt Nam đã xảy ra hơn 50 vụ tràn dầu tại các vùng sông và biển ven bờ gây thiệt hại lớn về kinh tế cũng như ô nhiễm nghiêm trọng và lâu dài cho môi trường biển. Từ phía cơ quan có chức năng, ngày 29/8/2001, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 129/2001/QĐ-TTg phê duyệt quốc gia về ứng phó sự cố tràn dầu 2001-2010. Đến ngày 2/5/2005, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 103/2005/QĐ-TTg về quy chế ứng phó sự cố tràn dầu. Tuy nhiên, việc thực hiện các quyết định này còn gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. Yêu cầu đặt ra trước mỗi sự cố tràn dầu là phải xác định được nguyên nhân, gán trách nhiệm cho chủ thể gây tràn dầu và tiến hành đền bù cho những đối tượng chịu tác động của các vụ tràn dầu đó. Cho đến nay, cơ chế đền bù mới chỉ dựa trên các chi phí trước mắt có thể nhìn thấy được như chi phí làm sạch, những thiệt hại đối với tài sản cá nhân. Tuy nhiên, tác động của tràn dầu không chỉ có trong ngắn hạn mà diễn ra phức tạp trong dài hạn. Đặc biệt là tác động lên môi trường hệ sinh thái, đây là hệ thống hỗ trợ cuộc sống của hệ sinh vật và con người qua nhiều thế hệ. Dựa trên cơ sở lý thuyết của kinh tế học môi trường, một sự lượng giá thiệt hại kinh tế do ô nhiễm môi trường gây ra sẽ góp phần xác định đầy đủ các tác động về kinh tế, môi trường và xã hội của sự cố tràn dầu. Đó là lý do em chọn đề tài: Ước tính sơ bộ thiệt hại môi trường do sự cố tràn dầu gây ra tại Cù Lao Chàm và Cửa Đại (Quảng Nam). Mục tiêu và phạm vi của đề tài Mục tiêu chung Mỗi sự cố tràn dầu diễn ra đều tác động đến cả ba mặt kinh tế, xã hội và môi trường đối với khu vực chịu tác động. Đề tài này đưa ra phân tích nhằm lượng giá thiệt hại từ những tác động môi trường, đặc biệt là tác động đến hệ sinh thái ven biển do tràn dầu gây ra tại khu vực Cù Lao Chàm và Cửa Đại, vùng biển Quảng Nam. Tuy nhiên, đề tài chỉ cố gắng đưa ra được khung lượng giá nói chung đối với thiệt hại môi trường do ô nhiễm dầu tràn và lượng giá một số giá trị đại diện chứ không hy vọng sẽ lượng giá được hết tất cả các thiệt hại từ sự cố. Mục tiêu cụ thể Nghiên cứu, lựa chọn các phương pháp khoa học phù hợp để đánh giá thiệt hại môi trường do ô nhiễm dầu tại khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại. Xây dựng một mô hình tính toán cụ thể lượng giá thiệt hại môi trường do ô nhiễm dầu tại khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại. Phân biệt các tác động ngắn hạn và tác động dài hạn của ô nhiễm môi trường do tràn dầu gây ra và lượng hóa chúng. Sử dụng mô hình tính toán và các số liệu liên quan, tiến hành ước tính thiệt hại môi trường do ô nhiễm dầu tại khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại. Đưa ra một số kiến nghị, giải pháp để hạn chế tối đa thiệt hại do ô nhiễm tràn dầu. Phạm vi đề tài: Về không gian: Đề tài chỉ lượng giá thiệt hại kinh tế do ô nhiễm môi trường trong khu vực Cù Lao Chàm, phường Cửa Đại, Cẩm An, thị xã Hội An thuộc vùng biển Quảng Nam. Về thời gian: Đề tài lượng hoá thiệt hại môi trường từ thời điểm diễn ra sự cố (tháng 1 năm 2007) đến thời điểm nghiên cứu (tháng 3 năm 2008). Đồng thời cũng lượng hoá thiệt hại trong dài hạn đối với môi trường (cụ thể là đối với các hệ sinh thái) khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại. Kết cấu đề tài Đề tài này gồm bốn chương: Chương I: Sự cố tràn dầu và lượng giá thiệt hại môi trường do tràn dầu gây ra. Chương II: Thực trạng sự cố tràn dầu tại vùng biển Quảng Nam (1/2007). Chương III: Ước tính sơ bộ thiệt hại môi trường do sự cố tràn dầu gây ra tại khu vực biển Quảng Nam. Chương IV: Kiến nghị, giải pháp. Phương pháp nghiên cứu Đây là một đề tài rất mới và khó trong lĩnh vực lượng giá thiệt hại môi trường, vì vậy tác giả đã tham khảo nhiều tài liệu lượng giá ô nhiễm dầu trên thế giới để rút ra phương pháp nghiên cứu. Để có được đầy đủ số liệu phục vụ cho việc lượng giá này không phải là việc đơn giản, các số liệu thứ cấp rất hạn chế về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian và nguồn lực, nghiên cứu vẫn thu thập và sử dụng nhiều dữ liệu thuộc loại này. Số liệu thứ cấp được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau như: Số liệu điều tra của trường Đại học kinh tế - Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Dữ liệu của Ban Tràn dầu - Uỷ ban Quốc gia Tìm kiếm Cứu nạn, Dữ liệu trong các báo cáo lượng giá tác động của các sự cố tràn dầu quy mô trên thế giới, Kết quả nghiên cứu khoa học của Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh (Trung tâm nghiên cứu và bảo tồn San hô tại Cù Lao Chàm) về tác động ô nhiễm nói chung tới san hô, cỏ biển và rừng ngập mặn tại Cửa Đại, Cù Lao Chàm. Đánh giá về sự cố tràn dầu của Chính quyền địa phương, lãnh đạo cơ quan quản lý tài nguyên, du lịch, đặc biệt là đánh giá của lực lượng chính tham gia xử lý ô nhiễm dầu tràn đầu năm 2007. Bên cạnh đó tác giả cũng tham khảo nhiều sách và ấn phẩm về kiến thức chuyên ngành kinh tế môi trường đồng thời lấy các ý kiến các chuyên gia khoa học môi trường, kinh tế môi trường... để phục vụ cho nghiên cứu này. Số liệu sau khi được thu thập được tác giả xử lý bằng các phần mềm Excel, SPSS. Tác giả cũng dùng phương pháp phân tích tổng hợp đưa ra mô hình lượng giá và phân tích kết quả trong nghiên cứu. CHƯƠNG I: SỰ CỐ TRÀN DẦU VÀ LƯỢNG GIÁ THIỆT HẠI MÔI TRƯỜNG DO TRÀN DẦU GÂY RA SỰ CỐ TRÀN DẦU Khái niệm sự cố tràn dầu Tràn dầu là một sự cố xảy ra khi có một hành động vô tình hoặc có chủ đích làm thoát dầu ra môi trường, thông qua các hoạt động của con người như khoan tìm dầu, sản xuất, dự trữ, vận chuyển dầu và quản lý chất thải từ dầu. Đặc tính của dầu tràn Khi dầu tràn ra khỏi tàu, chúng vẫn còn ấm và dễ dàng nổi trên bề mặt nước, chỉ có một số ít là tan ra, còn lại sẽ lạnh đi cho đến khi bằng với nhiệt độ của nước. Sau đó chúng đông đặc dần dần thành các “quả bóng hắc ín” (tar balls) có kích thước rất nhỏ hoặc chìm vào các cột nước hoặc nổi lên trên mặt nước. Nếu không có vật cản hoặc rào chắn, dầu sẽ nhanh chóng lan rộng. Dầu càng nhẹ hoặc càng ít đậm đặc thì lan càng nhanh và hình thành lớp mỏng, óng ánh trên mặt nước. Dòng nước hoặc gió càng mạnh càng làm cho vết dầu loang lan càng nhanh. Nhiệt độ cũng ảnh hưởng đến khả năng lan dầu, dầu lạnh sẽ phân tán nhanh hơn dầu nóng. Loại dầu khác nhau thì có phản ứng khác nhau trong nước. Các loại dầu nhẹ như dầu hoả, dầu diezen thì bay hơi tương đối nhanh, chỉ tồn tại trong môi trường một vài ngày nhưng dễ gây cháy, nổ. Các loại dầu này gây nguy hiểm khi con người hít phải chúng hoặc đưa lên da, đồng thời chúng có thể gây tổn hại hoặc giết chết nhiều loài động, thực vật khi tiếp xúc với chúng. Ít độc hơn là các loại dầu nặng như dầu than được dùng làm nhiên liệu cho tàu. Với đặc điểm là dầy, đen và dính, chúng bay hơi chậm, tồn tại trong nhiều tuần, nhiều tháng và thậm chí là nhiều năm. Chúng đặc biệt có hại đối với chim nước và một số loài chim khác. Nằm giữa hai loại trên là dầu trung bình, chúng tồn tại trong môi trường trong những khoảng thời gian khác nhau với nhiều mức độ độc khác nhau. Dầu ở đây cũng được hiểu là các loại nguyên liệu khác nhau như dầu thô, sản phẩm hoặc bán sản phẩm dầu tinh chế, đồ phế thải có dầu, dầu lẫn trong chất thải, bỏ bì chứa dầu. Sự cố tràn dầu và tác động của nó khác nhau do phụ thuộc vào chủng loại và lượng dầu tràn ra. Nguyên nhân gây ra sự cố tràn dầu Dầu bị tràn ra khi ống dẫn dầu bị vỡ, giếng dầu phun trào, các tàu va chạm hoặc chạy vòng quanh, các thùng ngầm chứa dầu bị rò rỉ hoặc liên quan đến các thiết bị lọc. Tràn dầu cũng có thể xảy ra do lỗi của con người, tính bất cẩn, làm vỡ thiết bị, hoặc cố ý (ví dụ: thuỷ thủ các tầu cố ý bơm nước bẩn ở đáy tàu ra biển), do hành động phá hoại của bọn khủng bố, khi đất nước có chiến tranh, do thiên tai như lốc, bão hay do dầu tự nhiên thấm qua tầng đáy đại dương. Gây được sự quan tâm nhất của cộng đồng và giới truyền thông là các vụ tràn dầu từ tầu chở dầu. Chúng thải đồng thời một lượng lớn các hydrocacbon vào trong nước và thường gây thiệt hại trên diện rộng đối với các loài động vật hoang dã. Tuy nhiên, vì không xảy ra thường xuyên nên các vụ tràn dầu lớn chỉ chiếm khoảng 5% lượng ô nhiễm dầu ở biển. Thường các nguồn nhỏ lại gây ô nhiễm nhiều hơn, như nước nhiễm dầu từ trên đường hoặc từ các bãi đỗ xe. Theo Smithsonian Institution, các nguồn chính gây ô nhiễm dầu trong môi trường, được xếp theo thứ tự sau: Dầu động cơ và nước nhiễm dầu chảy ra từ đất và chất thải công nghiệp. Các hoạt động trên tàu như rửa đáy tàu Ô nhiễm trong không khí Rò rỉ tự nhiên Các vụ tràn dầu lớn Các hoạt động khoan dầu ngoài khơi. Các tác động của tràn dầu Tràn dầu là một loại sự cố môi trường do thiên nhiên hoặc con người (do lỗi vô ý hoặc cố ý) gây ra. Cũng giống nhiều loại thiên tai (bão, lũ, sóng thần…), sự cố tràn dầu tác động đến cả ba mặt: kinh tế, môi trường và xã hội. Tuy nhiên cách phân chia các loại tác động này không tuyệt đối vì cả ba mặt có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động đến một mặt sẽ ảnh hưởng đến các mặt còn lại. Tác động môi trường Tác động môi trường của sự cố tràn dầu được xem xét dưới hai khía cạnh là tác động sinh học và tác động địa chất. Tác động sinh học Tràn dầu xảy ra thường gây tác động lên động vật hoang dã, các loài thuỷ, hải sản và hệ sinh thái ven biển. Sinh vật phù du Sinh vật phù du đóng một vai trò quan trọng đối với sức sản xuất của các đại dương, là nơi tạm trú cho trứng và ấu trùng của các loài cá, động vật có vú, động vật đáy biển và các sinh vật ven bờ. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng chính ảnh hưởng gây độc của sự cố tràn dầu đối với chức năng của sinh vật phù du đã để lại những thiệt hại môi trường trong dài hạn. Chim biển Chim biển là một trong những loài dễ bị tác động nhất khi sự cố tràn dầu xảy ra vì chúng thường lặn xuống biển kiếm thức ăn hoặc tụ tập với số lượng đông trên mặt biển. Mặc dù dầu đi vào cơ thể loài động vật này do chúng rỉa lông để tự làm sạch nhưng nguyên nhân chủ yếu gây chết là do chúng bị ướt, đói và mất thân nhiệt vì lông bị dính dầu. Mặc dù đã cố gắng làm sạch cơ thể và phục hồi sau mỗi sự cố tràn dầu nhưng chỉ một phần ít các loài chim bị dính dầu có thể sống khi đã lau sạch dầu và càng hiếm con có thể sinh đẻ trở lại. Chim cánh cụt là một ngoại lệ vì chúng có sức đề kháng tốt hơn các loài chim khác. Nhiều loài cá còn bị thu hút do dầu có màu giống thức ăn trôi nổi. Điều này gây nguy hiểm đối với nhiều loại chim biển vì dầu thu hút từng đàn cá và chim biển sẽ lặn qua vết dầu loang đó để bắt cá. Chim biển bị chết nhiều trong các vụ tràn dầu và số lượng con sinh đẻ cũng giảm đáng kể. Nhiều loài trong số đó phản ứng lại sự suy giảm này bằng cách đẻ nhiều trứng hơn, đẻ thường xuyên hơn và tham gia đẻ sớm hơn. Mặc dù quá trình phục hồi mất một vài năm và phụ thuộc vào các yếu tố khác như nguồn thức ăn nhưng sự phản ứng trên cũng hỗ trợ phần nào cho quá trình phục hồi. Động vật có vú Cá voi, cá heo và hải cẩu ở ngoài biển thường không gặp nguy hiểm khi sự cố tràn dầu xẩy ra. Tuy nhiên, nhiều loài thường đẻ trên bờ (như chó biển và rái cá) lại dễ gặp phải dầu tràn. Các loài động vật điều tiết nhiệt độ cơ thể nhờ bộ lông sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất vì nếu lông bị phủ dầu, chúng có thể chết do nhiệt độ cơ thể quá thấp hoặc quá cao tùy vào từng mùa. Động vật ven bờ So với các bộ phận khác của môi trường biển, bờ biền thường chịu nhiều tác động nhất của sự cố tràn dầu vì đây là nơi dầu thường tích tụ lại. Tuy nhiên, nhiều loài động, thực vật ven bờ lại thường rất cứng do chúng phải đối diện với những đợt sóng mạnh, đợt gió khô, nhiệt độ cao, mưa to và nhiều áp lực khác từ thiên nhiên. Chính sự chịu đựng này đã mang lại cho sinh vật ven biển khả năng chống chịu và phục hồi cao từ những tác động của dầu tràn. Các loài cá trưởng thành sống gần bờ và cá còn nhỏ sống ở vùng nước sâu thường gặp nguy hiểm hơn đối với ô nhiễm từ dầu hoà tan. Hệ sinh thái ven biển Tràn dầu tác động đến cửa sông, rặng san hô, cỏ biển và rừng ngập mặn, đây đều là nơi cư trú của nhiều loại cá, loài giáp xác. Ở vùng nhiệt đới, các đầm lầy với loại cây đước vừa cung cấp nơi cư trú cho nhiều loài sinh vật vừa có chức năng bảo vệ vùng ven biển. Loài cây đước tạo thành một khung chắn đôi lúc làm nhiều loài cư trú bị chết do dầu tràn. Thiệt hại sẽ nghiêm trọng hơn khi dầu làm nghẹt thở các rễ cây hoặc loại dầu có tính độc thẩm thấu qua lớp trầm tích. Điều này khiến cây đước chết nhiều, đặc biệt là những cây trên 50 năm tuổi thì phải mất đến hàng chục năm mới khôi phục lại được tính đa dạng và năng suất như ban đầu. Tác động địa chất Dầu tích tụ trên bờ biển không dễ bị di chuyển bởi sóng biển và thuỷ triều. Những môi trường năng lượng thấp (đầm lầy, thềm sóng) dễ bị ảnh hưởng nhất đối với những thiệt hại dài hạn còn những vùng biển nhiều đá chắn sóng thì thường ít bị tác động hơn. Mặc dù nhẹ hơn nước, nhưng dầu có thể chìm xuống đáy thông qua các loài sinh vật hoặc thiết bị khai thác khoáng sản. Các khoáng chất có đất sét mà hút hydro cacbon sẽ giữ dầu và được dòng nước mang đi. Do đó, ô nhiễm đáy biển có thể vượt quá diện tích dầu tràn ban đầu. Hơn nữa, những chất lắng cặn chứa dầu tồn tại trong thời gian dài vì dầu thường rất ổn định trong môi trường này. Tác động kinh tế Tràn dầu thường tạo ra những tác động kinh tế nghiêm trọng đối với các hoạt động vùng biển và các đối tượng khai thác tài nguyên của biển. Do tính đa dạng, dễ biến đổi và rất nhạy cảm đối với ô nhiễm dầu của hệ sinh vật, các hợp chất hoá học của dầu dễ gây ảnh hưởng có tính phá huỷ lên sinh vật ven biển. Khi xảy ra tràn dầu, nhiều loài cá và sinh vật sống ở biển sẽ chết và do đó tác động đến ngành hải sản. Nhiều ngư dân không bán được cá buộc lòng phải dời đi nơi khác kiếm kế sinh nhai. Tràn dầu có thể gây mất lòng tin vào thị trường do người dân trong vùng không sẵn lòng mua hải sản nữa bất chấp hải sản vùng đó có thực sự bị hư hại do tràn dầu hay không. Thậm chí khi xẩy ra tràn dầu thì có thể còn cấm các hoạt động đánh bắt, thu hoạch các loại sản phẩm từ biển vừa để duy trì lòng tin vào thị trường vừa bảo vệ thiết bị và con người khỏi ô nhiễm dầu. Điều này có thể hạn chế đầu vào của một số ngành liên quan khác. Ngoài ra việc gây ô nhiễm các bờ biển đẹp cũng là một trong những đặc điểm chung của các vụ tràn dầu, điều này ngăn cản các hoạt động giải trí như tắm nắng, đi thuyền, câu cá hay lặn dưới biển. Các chủ nhà hàng, khách sạn và những người có nguồn thu nhập từ các dịch vụ du lịch cũng bị tạm thời bị tác động. Mọi sự xáo trộn đối với cuộc sống và nhu cầu giải trí khu vực ven biển chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, nhưng khi bờ biển đã được làm sạch thì vấn đề là làm thế nào để lấy lại lòng tin của người dân. Đặc biệt là đối với các ngành hoạt động dựa vào nguồn nước sạch sẽ bị ảnh hưởng bất lợi do tràn dầu. Các nhà máy điện và nhà máy khử muối cần một lượng lớn nước làm đầu vào nên đặc biệt gặp nguy hiểm, nhất là ống dẫn nước vào mà càng gần mặt nước biển thì càng dễ hút vào lượng dầu trôi nổi. Hoạt động của các ngành công nghiệp ven biển khác như đóng tàu, cảng biển và bến tàu cũng có thể bị tác động bởi tràn dầu và các hoạt động làm sạch sau đó. Một sự cố tràn dầu có thể trực tiếp gây tổn hại đến tàu, thuyền và các dụng cụ đánh bắt và thu hoạch các loài động, thực vật biển. Các dụng cụ nổi hay cố định trên mặt biển sẽ bị ô nhiễm bởi dầu trôi nổi, còn các loại lưới, giỏ, dây câu do nằm phía dưới mặt nước nên ít bị ảnh hưởng. Tuy nhiên chúng đôi khi chịu tác động của dầu chìm hoặc dầu tản mạn. Nguyên nhân chung dẫn đến các thiệt hại kinh tế đối với ngư dân là do sự gián đoạn mà dầu tràn cũng như các hoạt động làm sạch gây ra. Tác động xã hội Do dầu tràn có tác động khá nghiêm trọng lên môi trường và nhiều hoạt động kinh tế ven biển nên gây ra những hậu quả về xã hội như: ảnh hưởng đến sinh kế, thu nhập của người dân chài ven biển. Nhiều người phải rời đi nơi khác để kiếm sống, cuộc sống của họ bị xáo trộn cùng với sự đi xuống của nhiều ngành kinh tế ven biển đã trực tiếp tác động lên sự ổn định kinh tế, xã hội. Nhiều bãi biển đẹp, thậm chí là các danh lam, di tích lịch sử bị mất hình ảnh do ô nhiễm dầu, gây ảnh hưởng không nhỏ đến giá trị văn hoá địa phương. Nghiêm trọng hơn nữa là các tác động của tràn dầu đối với sức khoẻ của con người. Điều này tạo nên khoản chi phí lớn đối với xã hội. Ô nhiễm đối với các loại dầu đốt có thể gây ra chứng viêm da, tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư da. Ăn cá, tôm cua bị nhiễm dầu dễ gây rối loạn đường ruột và một số bệnh khác. Mùi độc có thể gây các bệnh về mắt, mũi, miệng và phổi. Các thành phần nhẹ hơn của xăng là benzen, toluene thì độc hơn nhưng dễ bay hơi và biến mất rất nhanh. Chúng gây hại đối với các mô máu của con người. Các thành phần nặng hơn của dầu thô như hydrô thơm nhiều nhân (PHAs – Polynuclear Aromatic Hydrocarbon) thì ít độc hơn, tồn tại trong môi trường lâu hơn các thành phần dễ bay hơi nhưng chúng lại có tác hại lớn nhất. Tác động của một sự cố tràn dầu phụ thuộc vào các yếu tố sau: Loại dầu Nhìn chung, các loại dầu tinh chế (xăng, diezel) và dầu thô có tính chất nhẹ thường tồn tại trên mặt biển trong thời gian ngắn do chứa nhiều thành phần dễ bay hơi. Chúng thường phân tán và biến mất một cách tự nhiên. Trong khi đó, những loại dầu thô nặng và dầu nhiên liệu nặng lại tồn tại rất lâu do chứa phần lớn thành phần không bay hơi. Những loại dầu này dễ phân tán rộng hơn từ điểm xảy ra sự cố và vì vậy việc làm sạch loại dầu nặng trên phạm vi rộng sẽ khó khăn và tốn kém hơn nhiều so với dầu nhẹ. Thiệt hại do tràn dầu gây ra cũng khác nhau đối với từng loại dầu. Những sản phẩm dầu tinh nhẹ thường tạo nguy cơ cháy, nổ cao khi sự cố xảy ra trong ranh giới nhất định và có thể gây thiệt hại cho nhiều đối tượng, ví dụ như khu vực cảng hay các ngành gần ranh giới đó. Những loại dầu này thường độc hơn dầu nặng. Nhiều loài động thực vật biển bị chết do nước biển chứa nồng độ dầu nhẹ quá cao. Tuy nhiên, những tác động này mang tính cục bộ và ngắn hạn vì thành phần độc trong dầu nhẹ thường bay hơi rất nhanh. Dầu thô và dầu nhiên liệu nặng thường ít độc hơn nhưng cũng đe doạ các loài chim biển và nhiều động vật hoang dã khác. Các khu vực giải trí, phương tiện ngành thuỷ sản và nhiều đối tượng khác có thể bị nhiễm dầu do tính tồn tại lâu trên mặt nước của chúng. Hơn nữa, với mật độ lớn, dầu nặng dễ chìm và gây ô nhiễm dài hạn đối với đáy biển. Lượng dầu tràn Lượng dầu tràn rõ ràng là một yếu tố quyết định mức độ tác động của sự cố. Do đo, nếu các yếu tố khác không đổi, 100.000 tấn dầu tràn sẽ tác động lớn hơn, gây thiệt hại nhiều hơn và tạo chi phí cao hơn nhiều so với 10.000 tấn. Các đặc tính về vật lý, sinh học và kinh tế của khu vực bị dầu tràn Tất cả các loại dầu, khi tồn tại trên biển đủ lâu, chúng sẽ tự biến mất qua các quá trình tự nhiên. Khi sự cố tràn dầu xảy ra tại khu vực cách xa bờ biển thì dễ dàng kiểm soát được sự di chuyển và biến mất của nó, do đó đưa ra được những biện pháp ứng phó kịp thời. Nhưng cũng loại dầu và lượng dầu tương tự bị tràn ra gần khu vực bờ biển nhạy cảm sẽ có tác động đáng kể lên các hoạt động du lịch, thuỷ sản và nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên môi trường khác. Khi đó, tổng thiệt hại từ sự cố cao hơn nhiều. Các đặc tính vật lý tại nơi diễn ra sự cố tràn dầu (kiểu gió phổ biến, biến thiên của thuỷ triều, dòng chảy và độ sâu của nước..) cũng quyết định một phần đối với ô nhiễm bờ biển. Các yếu tố kinh tế - xã hội và nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng chịu tác động của sự cố tràn dầu khác nhau trong một nước và giữa các nước với nhau. Nhiều khu vực được đánh giá là có tầm quan trọng quốc gia, thậm chí là quốc tế về ngành thuỷ hải sản, về du lịch hoặc về các hoạt động bảo tồn trong khi một số khu vực chỉ có tầm quan trọng địa phương. Thời điểm trong năm Mùa khác nhau cũng khiến cho các nguồn tài nguyên thiên nhiên có độ nhạy cảm khác nhau đối với tác động của ô nhiễm dầu tràn. Do đó, thiệt hại về kinh tế và môi trường cũng có sự khác nhau. Tính hiệu quả của các biện pháp làm sạch Các hoạt động làm sạch cần phải được đánh giá trước khi tiến hành để đảm bảo rằng chúng không gây ra sự thay đối lớn đối với khu vực chịu tác động của dầu tràn. Trên thực tế, nhiều hoạt động tỏ ra không hiệu quả, còn gây thêm thiệt hại đối với nguồn tài nguyên thiên nhiên, hoặc chi phí làm sạch vượt quá lợi ích của hoạt động. Các bãi biển giải trí ngay trước và trong mùa du lịch cần phải được làm sạch nhanh chóng để tối thiểu hoá tổn thất về thu nhập của các chủ khách sạn và các đối tượng hoạt động du lịch khác. Mặt khác, những khu vực như đầm lầy, rừng ngập mặn có giá trị sinh thái cao thì việc để chúng làm sạch tự nhiên sẽ tốt hơn bởi chúng thường rất nhạy cảm với những ảnh hưởng của hoạt động làm sạch. LƯỢNG GIÁ THIỆT HẠI KINH TẾ DO Ô NHIỄM HAY SỰ CỐ MÔI TRƯỜNG Lượng giá thiệt hại kinh tế do ô nhiễm hay sự cố môi trường cũng chính là việc lượng giá giá trị kinh tế của các hàng hoá, dịch vụ môi trường bị suy giảm (mất đi) do chịu tác động của ô nhiễm hay sự cố môi trường đó. Khái niệm về giá trị kinh tế Giá trị kinh tế của một tài sản tự nhiên hay nhân tạo hoặc dịch vụ/chức năng mà tài sản đó cung cấp là tổng lợi ích hiện tại và tương lai của tài sản đó (hoặc dịch vụ/chức năng của nó). Tuy nhiên, nhiều hàng hoá và dịch vụ nói trên không được trao đổi, mua bán trong nền kinh tế thị trường (không có giá). Giá trị kinh tế có thể được dùng để nhận dạng và đo lường giá trị. Mặc dù nhiều loại giá trị khác cũng rất quan trọng nhưng giá trị kinh tế thường được cân nhắc nhiều nhất khi đưa ra các lựa chọn về kinh tế liên quan đến sự đánh đổi trong việc phân bổ nguồn tài nguyên. Tổng giá trị kinh tế là khái niệm được xây dựng trên cơ sở nhìn nhận một cách toàn diện về giá trị hàng hoá môi trường mà sự nhìn nhận đó không chỉ bao gồm những giá trị trực tiếp có thể lượng hoá được mà còn cả những giá trị gián tiếp - những giá trị ẩn khó nhìn thấy nhưng lại rất có ý nghĩa về mặt kinh tế xã hội. Các nhà khoa học đã phân tích TEV theo nhiều cách khác nhau. Callan (2000) cho rằng: Tổng giá trị = Giá trị sử dụng + Giá trị tồn tại (trực tiếp và gián tiếp) (tiêu dùng của người khác và giữ gìn cho thế hệ tương lai) Theo Tom Tietenberg: TEV = UV + OV + NUV Trong đó: UV là giá trị sử dụng OV là giá trị tuỳ chọn NUV là giá trị không sử dụng Như vậy, các nhà kinh tế học môi trường đã làm được rất nhiều khi phân loại giá trị kinh tế trong mối quan hệ của chúng với môi trường thiên nhiên. Tuy vấn đề thuật ngữ vẫn chưa được thống nhất hoàn toàn, nhưng nhìn chung họ đều dựa trên cơ sở sự tương tác giữa con người (người định ra giá trị) và môi trường (vật được đánh giá). Theo nguyên tắc, để đo lường TEV các nhà kinh tế học bắt đầu bằng việc phân biệt giữa giá trị sử dụng và giá trị không sử dụng, và TEV đã được khái quát hoá bằng công thức sau: TEV = UV + NUV = (DUV + IUV + OV) + (BV + EXV) TEV NUVNUVUV UV UV DUV IUV OV BV EXV Hình 1.1: Sơ đồ TEV Trong đó: - TEV (Total economic values) là tổng giá trị kinh tế. - UV (Use values) là giá trị sử dụng. - DUV (Direct use values) là giá trị sử dụng trực tiếp. - IUV (Indirect use values) là giá trị sử dụng gián tiếp. - OV (Option values) là giá trị tuỳ chọn. - NUV (Nonuse values) là giá trị không sử dụng. - BV (Bequest values) là giá trị tuỳ thuộc hay giá tị để lại. - EXV (Existen values) là giá trị tồn tại. Giá trị sử dụng hình thành từ việc thực sự sử dụng môi trường, trên thực tế nó bao gồm: Giá trị sử dụng trực tiếp là các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ trực tiếp cung cấp mà chúng ta có thể tính được về giá cả và khối lượng trên thị trường. Giá trị sử dụng gián tiếp là những giá trị chủ yếu dựa trên chức năng của hệ sinh thái, có ý nghĩa về mặt sinh thái và môi trường, hay nói cách khác đây là các chức năng môi trường cơ bản gián tiếp hỗ trợ cho hoạt động kinh tế và và lợi ích của mọi người. Giá trị tuỳ chọn là lượng mà mỗi cá nhân sẵn sàng chi trả để bảo tồn nguồn lực hoặc một phần sử dụng nguồn lực đó, để sử dụng cho tương lai. Đây là giá trị do nhận thức, lựa chọn của con người đặt ra trong hệ sinh thái. Giá trị này không có tính thống nhất chung và cũng phải được tính về mặt tiền tệ theo tính chất lựa chọn của nó. Tuy nhiên trong một số trường hợp ranh giới giữa giá trị tuỳ chọn và giá trị không sử dụng là không rõ ràng. Giá trị không sử dụng thể hiện các giá trị phi phương tiện nằm trong bản chất của sự vật, không liên quan đến việc sử dụng thực tế hoặc thậm chí việc lựa chọn sự vật này. Tuy nhiên, thay vào đó, những giá trị này thường liên quan nhiều về lợi ích của con người. Giá trị không sử dụng bao gồm: Giá trị tuỳ thuộc (giá trị để lại) phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong một hàm nhiều biến và có thể có sự thay đổi trên cơ sở phát hiện của khoa học cũng như nhận thức của con người. Một số người biệt hoá giá trị tuỳ thuộc là giá trị của việc để lại các giá trị sử dụng và phi sử dụng cho con cháu. Những người khác đưa cả giá trị tuỳ chọn và giá trị tồn tại vào trong dạng giá trị này. Giá trị tồn tại: xuất phát từ nhận thức của con người về tài nguyên và môi trường mà người ta cho rằng sự tồn tại của một cá thể hay một giống loài nào đó có ý nghĩa về mặt kinh tế không chỉ trước mắt mà kể cả lâu dài buộc người ta phải duy trì giống loài đó bằng mọi giá. Trong việc tính toán giá trị này thì việc xác lập tiền tệ là khó khăn nhưng sự xác lập nhận thức về mặt giá trị rất dễ dàng. Như vậy, trong giá trị của một hệ sinh thái ngoài những giá trị trực tiếp và giá trị gián tiếp có thể nhìn thấy thì đối với giá trị tuỳ chọn, giá trị tuỳ thuộc và giá trị tồn tại đòi hỏi chúng ta phải có những cách nhìn nhận hết sức nhạy cảm và linh hoạt, phụ thuộc vào ý nghĩa của những giá trị này đối với con người, đối với hoạt động kinh tế. Đó là lý do các nhà kinh tế học môi trường không ngừng hoàn thiện về phương pháp luận và phương pháp tiếp cận để nhìn một cách toàn diện TEV của một khu rừng, một hệ sinh thái. Từ đó tư vấn chính xác cho các nhà hoạch định chính sách phương án sử dụng hợp lý. Lý thuyết về lượng giá kinh tế dựa trên sự ưa thích và lựa chọn cá nhân. Mọi người thường biểu lộ sự ưa thích của mình thông qua việc đưa ra những lựa chọn và đánh đổi với sự ràng buộc về thu nhập hoặc thời gian. Mục đích của lượng giá kinh tế môi trường Mục đích của lượng giá hàng hoá môi trường (EEV) là nhằm tăng cường mối liên kết giữa môi trường và kinh tế. Trước đây nếu kinh tế và môi trường được xem là tách biệt, riêng rẽ thì giờ đây, chúng dường như có mối quan hệ qua lại khá chặt chẽ với nhau. Phát triển bền vững về sinh thái đòi hỏi phải có sự lồng ghép các vấn đề về môi trường, kinh tế và xã hội. Việc áp dụng lượng giá kinh tế cho các tài sản môi trường thông qua các kỹ thuật kinh tế khác nhau là một trong những cách thức nhằm tăng cường việc lồng ghép này. Lượng giá các giá trị môi trường (thể hiện bằng đơn vị tiền tệ) có thể được sử dụng nhằm: Lập luận và quyết định phân bổ nguồn tài chính công cho việc bảo tồn,._. dự trữ hoặc phục hồi môi trường, So sánh lợi ích của các dự án thay thế được đề xuất; và Tối đa hoá lợi ích môi trường trên một đồng chi phí. Sơ lược về các phương pháp lượng giá Phương pháp giá thị trường (Market price method) Phương pháp giá thị trường ước lượng giá trị kinh tế các hàng hoá hoặc dịch vụ môi trường được mua bán, trao đổi trên thị trường. Phương pháp này dựa trên việc quan sát sự thay đổi trong giá của hàng hoá, dịch vụ được trao đổi trên thị trường với một sự thay đổi trong chất lượng môi trường. Ví dụ như sự thay đổi năng suất của thuỷ, hải sản do có sự thay đổi của chất lượng nước. Phương pháp giá thị trường cũng có thể dựa trên phương pháp phụ thuộc vào hàm sản xuất (production-based method) hoặc phương pháp phụ thuộc vào chi tiêu (expenditure-based method). Phương pháp vốn con người và phương pháp liều lượng-đáp ứng (Dose-response and human capital methods) Phương pháp liều lượng đáp ứng được sử dụng để xác định sự thay đổi trong giá trị bằng tiền do sự thay đổi trong hàng hoá môi trường, ví dụ như tổn thất trong sản xuất do thuỷ, hải sản bị tác động của ô nhiễm nước. Phương pháp vốn con người xác định trước những khoản thu nhập và chi phí sức khoẻ để lượng giá thiệt hại môi trường, như tác động của ô nhiễm không khí lên sức khoẻ. Phương pháp chi phí phòng ngừa và phương pháp chi phí thay thế (Preventive cost, replacement cost methods) Phương pháp chi phí phòng ngừa và chi phí thay thế nhằm lượng giá giá trị của dịch vụ sinh thái dựa trên chi phí để tránh những thiệt hại do mất đi dịch vụ sinh thái, chi phí thay thế các dịch vụ sinh thái hoặc chi phí để cung cấp các dịch vụ thay thế khác. Các phương pháp này không cung cấp những biện pháp đo lường giá trị kinh tế dựa trên sự sẵn lòng chi trả của con người cho một hàng hoá, dịch vụ mà dựa trên giả thiết rằng nếu người dân phải chịu chi phí để tránh những tổn thất do mất dịch vụ sinh thái hoặc chi phí để thay thế các dịch vụ đó, thì các dịch vụ đó đáng giá ít nhất bằng khoản chi phí mà người đó phải bỏ ra kể trên. Do đó, các phương pháp này được áp dụng thích hợp nhất trong trường hợp thực sự đã có biện pháp phòng ngừa thiệt hại hoặc thực tế đã chi tiêu để thay thế dịch vụ. Các trường hợp đó bao gồm: Lượng giá chất lượng nước được cải thiện thông qua việc đo lường chi phí kiểm soát lượng phát thải; Lượng giá các dịch vụ chống xói mòn đất của một khu rừng hoặc đất ngập nước bằng việc đo lường chi phí di chuyển đất bồi lắng khỏi khu vực hạ nguồn; Lượng giá dịch vụ lọc nước của đất ngập nước bằng cách đo lường chi phí lọc và xý lý nước bằng phương pháp hoá học; Lượng giá tổn thất đối với nơi cư trú bằng cách thiết lập nơi cư trú mới ở khu vực khác; Lượng giá nơi cư trú của cá và dịch vụ nuôi trồng bằng việc đo lường chi phí của chương trình dự trữ và nuôi cá. Phương pháp giá hưởng thụ (Hedonic pricing method) Phương pháp này sử dụng phân tích thống kê của giá thị trường để suy ra giá chất lượng môi trường. Phương pháp giá hưởng thụ ước lượng giá trị kinh tế cho hệ sinh thái hay dịch vụ môi trường trực tiếp ảnh hưởng đến giá thị trường. Nó thường được áp dụng đối với sự thay đổi trong giá nhà, phản ánh giá trị các thuộc tính môi trường của địa phương. Ví dụ, có thể so sánh giá nhà của hai khu phố tương tự nhau ngoại trừ mức độ ô nhiễm không khí. Phương pháp giá hưởng thụ cũng được sử dụng để ước lượng chi phí, lợi ích kinh tế liên quan đến: chất lượng môi trường, bao gồm ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước hoặc ô nhiễm tiếng ồn tiện nghi môi trường, như cảnh đẹp mỹ quan hoặc ưa thích các khu vực giải trí. Phương pháp chi phí du lịch (Travel cost method) Phương pháp chi phí du lịch được sử dụng để lượng giá giá trị sử dụng trực tiếp của hệ sinh thái hoặc của một khu vực giải trí. Phương pháp này được sử dụng để lượng giá chi phí và lợi ích kinh tế do: thay đổi trong chi phí để đi tới khu vực giải trí xoá bỏ khu vực giải trí hiện tại thêm một khu giải trí khác thay đổi chất lượng môi trường của khu vực giải trí. Bản chất của phương pháp chi phí du lịch là sử dụng các chi phí của khách du lịch làm đại diện cho giá. Mặc dù chúng ta không quan sát được con người mua chất lượng hàng hoá môi trường nhưng chúng ta lại quan sát được cách họ đi du lịch để hưởng thụ tài nguyên môi trường. Đi du lịch là tốn tiền và cũng tốn thời gian. Các chi phí du lịch này có thể làm đại diện cho cái giá mà con người phải trả để hưởng thụ được cảnh quan môi trường, do vậy có thể sử dụng phương pháp chi phí du lịch để xây dựng đường cầu cho các cảnh quan môi trường này. Bằng cách thu thập số liệu về chi phí du lịch và một số yếu tố khác có liên quan (thu nhập, số lần đến thăm…), chúng ta có thể ước lượng được tổng giá trị của những cảnh quan môi trường cụ thể. Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (Contingent valuation method) Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên nhằm lượng giá giá trị kinh tế cho tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ môi trường và sinh thái. Nó được sử dụng để đánh giá cả giá trị sử dụng và phi sử dụng, nhưng áp dụng rộng rãi hơn đối với giá trị phi sử dụng. Bằng cách xây dựng một thị trường ảo, người ta xác định được hàm cầu về hàng hoá môi trường thông qua sự sẵn lòng chi trả của người dân (WTP) hoặc sự sẵn lòng chấp nhận khi họ mất đi hàng hoá đó (WTA), đặt trong một tình huống giả định. CVM được áp dụng cho rất nhiều yếu tố môi trường như chất lượng không khí, giá trị cảnh quan, giá trị giải trí của bãi biển, bảo tồn các loài động vật hoang dã, hoạt động câu cá và săn bắn, phát thải chất độc hại… Phương pháp mô hình lựa chọn riêng biệt (Discrete choice modelling method) Phương pháp mô hình lựa chọn riêng biệt nhằm lượng giá các hàng hoá, dịch vụ môi trường bằng cách hỏi người dân để họ bộc lộ được sự ưa thích về một nhóm các dịch vụ/đặc tính môi trường ở một mức giá (chi phí) đối với cá nhân người đó và một nhóm dịch vụ môi trường khác với một mức giá khác. Do phương pháp này tập trung vào sự đánh đổi giữa các kịch bản với các đặc tính khác nhau nên nó phù hợp với các quyết định về chính sách khi mà một tập hợp các giải pháp có thể tạo ra những tác động khác nhau lên tài nguyên thiên nhiên hoặc dịch vụ môi trường. Ví dụ, cải thiện chất lượng nước hồ sẽ cải thiện chất lượng các dịch vụ mà hồ cung cấp, như cung cấp nước sạch, câu cá, bơi và đa dạng sinh học. Ngoài ra, khi lựa chọn riêng biệt có thể sử dụng để ước lượng giá trị tiền tệ thì kết quả có thể được dùng để xếp thứ tự các lựa chọn. Phương pháp chuyển giao lợi ích ( Benefit transfer method) Phương pháp chuyển giao lợi ích được sử dụng để ước lượng giá trị kinh tế của dịch vụ sinh thái bằng cách chuyển giao các thông tin sẵn có từ các nghiên cứu đã hoàn thành ở một địa điểm khác hoặc một bối cảnh khác. Ví dụ, giá trị của dịch vụ câu cá giải trí ở một vùng nhất định có thể được lượng giá bằng cách áp dụng giá trị của dịch vụ này từ một nghiên cứu được tiến hành trong khu vực khác. Phương pháp này thường được sử dụng khi không đủ kinh phí hoặc thời gian để tiến hành một nghiên cứu lượng giá. Điều cần lưu ý là chuyển giao lợi ích chỉ có thể chính xác như nghiên cứu ban đầu khi các điều kiện ở hai địa điểm/bối cảnh là tương tự nhau. KINH NGHIỆM LƯỢNG GIÁ THIỆT HẠI MÔI TRƯỜNG DO SỰ CỐ TRÀN DẦU GÂY RA Sự cố Exxon Valdez Sự cố tràn dầu ExxonValdez xảy ra ở Vịnh Alaska vào 24/3/1989 được xem là một trong những thảm hoạ tràn dầu tồi tệ nhất trong lịch sử nước Mỹ: hơn 1.300km bờ biển bị tác động và gần 23.000 con chim bị chết. Sau sự kiện này, Bang Alaska đã yêu cầu phải tiến hành nhiều cuộc điều tra khác nhau nhằm xác định thiệt hại vật lý đối với nguồn tài nguyên thiên nhiên, đánh giá thiệt hại kinh tế như việc giảm doanh thu của ngành thủy sản và du lịch và lượng giá thiệt hại môi trường do vụ tràn dầu gây ra. Theo báo cáo thường niên của Hội đồng Uỷ thác vụ tràn dầu Exxon Valdez thì năm 2004 còn rất nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên và các dịch vụ của con người vẫn đang trong quá trình khôi phục hoặc chưa khôi phục sau vụ tràn dầu này. Carson và Hanemann (1992) đã ước lượng tác động của vụ tràn dầu Exon Valdez đến dịch vụ câu cá giải trí bằng cách sử dụng phương pháp đánh giá ngẫu nhiên và phương pháp chi phí du lịch. Thiệt hại ước tính là khoảng 31 triệu đôla Mỹ. Brown (1992) thì tính toán chi phí thay thế của các loài chim và động vật có vú do có sự cố tràn dầu. Bốn cách tiếp cận để lượng giá chi phí của việc di chuyển, thay thế và phục hồi đối với những con động vật bị thương là: (1) thay thế - chi phí để nuôi con vật cho đến khi chúng lớn, (2) chi phí của việc di chuyển những con trưởng thành, (3) chi phí phục hồi, (4) chi phí khôi phục và đẩy mạnh dự án. Mỗi phương pháp đều lại có ưu điểm và hạn chế riêng. Theo tính toán, chi phí thay thế của một con rái cá nằm trong khoảng 1.500 đến 50.000 USD, và dựa vào giả thiết giá đưa ra là 20.000USD. Trong khi đó giá trị của cá heo trong khoảng 50.000 đến 1.000.000 USD. Bảng 1.1 : Chi phí thay thế, di chuyển và phục hồi loài động vật có vú ở biển và trong đất liền – Kết quả phân tích sự cố tràn dầu Exxon Valdez USD 1989 Dãy giá trị/con Uớc lượng tốt nhất (giá/con) Rái cá biển 1.500 – 50.000 20.000 (11.500) Cá heo 50.000 – 1.000.000 300.000 (50.000) Sư tư biển 4.000 – 10.000 20.000 (5.000) Hải cẩu 500 – 1.200 700 Cá voi lưng gù 100.000 100.000 Hươu (đuôi trắng) 125 – 250 125 – 250 Gấu nâu 300 – 500 300 - 500 Gấu đen 150 – 300 150 – 300 Rái cá sông 81 – 700 390 Chồn vizon 300 - 400 300 - 400 Nguồn : Brown (1992) Lưu ý : Số liệu trong dấu ngoặc đơn áp dụng đối với các loài động vật đã chết. Các ước lượng dựa vào chi phí thay thế thông qua việc mua, vận chuyển các con vật của vùng bị ảnh hưởng hoặc thông qua việc phục hồi sức khỏe cho các con vật bị thương. Carson và các đồng sự (1992) đã thấy được những thách thức trong việc xác định giá trị phi sử dụng của nguồn tài nguyên thiên nhiên bị tác động bởi sự cố tràn dầu. Những tác động đó bao gồm: bờ biển bị nhiễm dầu, chim và các loài động vật có vú bị chết, ảnh hưởng đến cá biển. Phương pháp Đánh giá ngẫu nhiên (CV) sử dụng một bảng hỏi gồm 3 phần. Phần thứ nhất mô tả về các dịch vụ cần được lượng giá và những tình huống giả thiết. Phần hai đưa ra những câu hỏi nhằm tìm ra giá trị mà người được hỏi đặt cho các dịch vụ trên. Phần cuối cùng là phần thu thập thông tin cá nhân người được hỏi (như tuổi và thu nhập). Giá trị của dịch vụ sinh thái được đo lường thông qua sự sẵn lòng chi trả (WTP) hoặc sẵn lòng chấp nhận (WTA). Việc lựa chọn cách nào phụ thuộc vào việc xác định quyền tài sản. Về lý thuyết, Carson cho rằng WTA là phương pháp chính xác đo lường giá trị nguồn tài nguyên mà xã hội sẵn lòng chịu mất đi. Tuy nhiên, nếu dựa trên bảng hỏi thì rất khó xác định mức WTA vì người đươc hỏi thường cho rằng các kịch bản WTA thường không có thật. Vì vậy, do hạn chế về mặt thực tế nên việc lượng giá thường dựa trên WTP. Do vậy, nhóm Carson sử dụng mức WTP và xác định giá trị phi sử dụng của nguồn tài nguyên bị tác động là 2,8 triệu USD. Bảng 1.2: Giá trị thay thế cho chim biển và đại bàng – Kết quả vụ tràn dầu Exxon Valdez. (USD 1989) Murres, Vịt trời, Chim cốc, Procellarids, Marbelled, Chim hải âu và Murrelets 300 Chim lặn gavia 400 Chim ưng 2000 (con đực) & 6000 (con cái) Đại bàng 22 000 Nguồn : Brown (1992) Sự cố tràn dầu Exxon là một trong những ví dụ khá điển hình vì các khoản đền bù đã được chi trả thỏa đáng, giúp thiết lập một số khung lý thuyết và phương pháp vẫn còn được sử dụng đến ngày nay, nhằm lượng hóa thành tiền những thiệt hại đối với tài nguyên thên nhiên, trong đó có cả giá trị sử dụng trực tiếp như cá và giá trị phi sử dụng đối với tài sản thuộc sở hữu công cộng như vùng ven biển. Sự cố The Prestige Vào 13/11/2002, một chiếc tàu thủy thân đơn 25 tuổi thuộc công ty tầu đóng tầu của Hy Lạp chở dầu của Nga từ Latvia tới Singapore đã bị nứt gãy, gây rò rỉ từ bờ biển Finisterre, Galicia một quãng 50km. Vào ngày 15 cùng tháng, trong khi chiếc tầu này đang được kéo đi, nó đã vỡ một nửa và chìm xuống 220km về phía Tây Cies Isles. Tàu chìm đã làm tràn gần 64.000 tấn dầu xuống biển gây thiệt hại đối với ngành thủy sản, du lịch và khu vực di sản thiên nhiên dọc theo 3.000 km đường bờ biển. 30.000 ngư dân đã bị tác động trực tiếp do dầu tràn. Báo cáo thường niên của quỹ IOPC từ năm 2005 đã chi tiết hóa các khoản bồi thường thiệt hại cho sự cố tràn dầu Prestige. Số liệu tổng hợp từ Pháp và Tây Ban Nha là gần một tỷ Euro (bảng 4). Khoản đền bù này bao gồm chi phí làm sạch, ứng phó và thiệt hại kinh tế liên quan đến giá trị sử dụng trực tiếp của nguồn tài nguyên thiên nhiên và tài sản cá nhân. Tổng thiệt hại kinh tế, bao gồm hàng hóa, dịch vụ môi trường thường cao hơn nhiều so với số liệu trong bảng 4. Viện kinh tế Barrie de la Maza có trụ sở tại Galicia đã tính toán riêng tổng chi phí làm sạch dầu tràn vào khoảng 2.8 tỷ USD. ‘Galicia’ – một kế hoạch đặc biệt – do Tây Ban Nha thiết lập nhằm hỗ trợ nền kinh tế địa phương với tổng số vốn hỗ trợ là 12.5 tỷ Euro. Nếu không có sự cố tràn dầu xảy ra, số vốn này sẽ được đầu tư cho các hoạt động tạo hiệu quả như giáo dục, y tế hay đầu tư cơ sở hạ tầng. Rõ ràng, quỹ này đã đưa nguồn lực vào trong nền kinh tế địa phương và trong ngắn hạn, tiêu dùng và đầu tư sẽ tăng lên. Tuy nhiên đây chỉ là nguồn thu trong ngắn hạn. Nguồn lực được bơm vào khu vực này sẽ tạo ra một chi phí lớn làm giảm tăng trưởng kinh tế của Pháp và Tây Ban Nha, cũng như nền kinh tế Châu Âu và toàn cầu trong tương lai. Bảng 1.3 : Khoản đền bù quỹ IOPC nhận được từ Pháp và Tây Ban Nha (theo đồng Euro) cho vụ tràn dầu Prestige Tây Ban Nha Pháp Tổng Thiệt hại tài sản 2.714.188 87.772 2.801.960 € Làm sạch 4.335.197 10.572.270 14.907.467 Nuôi trồng thuỷ, hải sản 15.435.172 1.754.274 17.189.446 Đánh bắt tôm, cua, cá 136.290.816 116.810 136.407.626 Tàu đánh cá 1.594.131 1.594.131 Du lịch 688.303 24.326.451 25.014.754 Ngành chế biến cá 19.595.273 301.446 19.896.719 Hỗn hợp 1.463.152 899.561 2.362.713 Chính phủ các nước 653.499.285 67.499.154 720.998.439 Tổng 834.021.386 107.151.869 941.173.255 Nguồn: IOPC (2005) Nhiều nhà sinh thái học chỉ ra rằng môi trường tự nhiên có khả năng phục hồi khi có các chấn động mạnh như bão hay thậm chí là tràn dầu. Underwood (2002) cho rằng sự ô nhiễm nơi cư trú thường xuyên, dài hạn lại gây ra tác động xấu hơn về mặt môi trường. Garcia (2003) chỉ ra rằng Galicia là nơi đã xảy ra 5 vụ tràn dầu lớn nhất trong 30 năm qua, trong đó Pretige là vụ nghiêm trọng nhất. Pearce (1989), Deutch (2002) cùng các đồng sự tỏ ra la ngại rằng nếu những vụ tràn dầu tiếp tục tạo ra những áp lực lên dải ven biển thì sẽ tác động lên hệ sinh thái khu vực, khiến nó biến đổi nguyên trạng ban đầu. Điều này đỏi hỏi phải phát triển cơ chế đền bù đối với các vụ tràn dầu. Ở một khu vực như Galicia nơi thường xuyên xảy ra sự cố tràn dầu thì vấn đề là làm thế nào để thiết lập một mức chuẩn đối với các thiệt hại hoặc đánh giá các thiệt hại như thế nào? Đây là một vấn đề nan giải vì hệ sinh thái vốn rất phức tạp và tương ứng với nó việc cố gắng tách những tác động của các nhân tố khác nhau lên hệ sinh thái cũng rất phức tạp. Underwood (2002) cho rằng ‘để thấy được tác động (của sự cố tràn dầu) là rất phức tạp và con số các loài động, thực vật luôn luôn thay đổi thất thường hoặc phục hồi rất nhanh sau những tác động trong ngắn hạn. Đây là một đặc tính hệ sinh thái của các loài cư trú ven biển. ‘Việc phục hồi’ sau sự cố tràn dầu diễn ra rất nhanh nếu các tác động không phá hủy khả năng chống chịu của hệ sinh thái. Tuy nhiên, rõ ràng là với một sự thay đổi trong một hệ sinh thái từ trạng thái này sang trạng thái khác là một thiệt hại đáng kể đối với năng suất và phá hủy các giá trị lựa chọn, giá trị sử dụng gián tiếp và giá trị phi sử dụng. Điều này gây thiệt hại dài hạn và phức tạp đối với cá nhân và các ngành hoạt động dựa vào các loài sinh vật ven biển (thủy sản hoặc du lịch). Sự cố American Trader Vụ American Trader do Chapman và Hanemann (2001) nghiên cứu được xem là một trong số rất ít những vụ tràn dầu bị đưa ra tòa. Năm 1990, tàu chở dầu American Trader đã làm tràn 1,6 triệu lít dầu thô ra vùng cách bờ biển Hungtington, California vài km. Mấy năm sau, một phiên tòa kéo dài 10 tuần đã kết thúc với lời tuyên án đối với người ‘gây ô nhiễm’ một khoản tiền là 18 triệu USD. Đây là một vụ việc đáng xem xét vì không giống các vụ khác, nó bị đưa ra tòa, công chúng thấy được sự tranh luận của các bên và phân tích của các chuyên gia khiến vụ việc được cân nhắc chi tiết. Chapman and Hanemann (2001) đã chỉ ra một số điểm thú vị từ vụ việc, đó là việc thỏa thuận giữa hai bên, bị đơn (người gây ô nhiễm) và nguyên đơn (nhà nước) về lý thuyết kinh tế xung quanh việc lượng giá các giá trị giải trí bị thiệt hại. Phiên tòa thì dựa trên phương pháp chi phí du lịch và phương pháp đánh giá ngẫu nhiên. Mặc dù có sự thoả thuận dựa trên lý thuyết kinh tế cơ bản về lượng giá, song vẫn còn sự không thống nhất giữa các giá trị được áp dụng. Ví dụ bên nguyên đơn thì cho rằng tràn dầu đã làm giảm 618.000 chuyến đi tới bờ biển bị ô nhiễm trong khi bên bị đơn thì lập luận rằng chỉ giảm có 264.000 chuyến tàu thôi. Bên nguyên đơn thì khẳng định rằng mỗi chuyến đi có giá trị là 15 USD và có thể lên tới 23 USD, nhưng bên bị đơn thì cho rằng những chuyến đi này không quá 2,3USD. Đây chính là khó khăn khi sử dụng phương pháp đánh giá ngẫu nhiên trong bối cảnh pháp lý – tính chính xác và tính phức tạp của kết quả phân tích tạo nên một dãy lớn giá trị không chắc chắn. Bảng 1.4: Ước lượng tổng giá trị giải trí thiệt hại từ sự cố tràn dầu American Trader Thiệt hại về giá trị giải trí Thiệt hại trong thời gian bị ô nhiễm Số lần Thiệt hại/1 lần (USD) Tổng thiệt hại (USD ) Giải trí bờ biển nói chung bị mất 389580 15 5.843.700 Số lần chơi lướt ván bị mất 28290 19 530.438 Số lần lướt ván chuyển sang địa điểm khác 280148 12 337776 Giải trí bờ biển nói chung và lướt ván trong điều kiện xấu 119135 3 357405 Chuyến tàu cá nhân bị mất 13074 40 522960 Số lần câu cá giải trí bị mất 1860 83 154380 Xem cá voi và đi tham quan chuyển địa điểm 7090 12 85080 Thiệt hại ròng sau khi hoạt động trở lại, trong tháng 3 Số lần giải trí bãi biển bị mất 147064 15 2205960 Số lần lướt ván bị mất 12901 19 241894 Số lần lướt ván chuyển địa điểm 12901 12 154812 Giải trí bờ biển nói chung và lướt ván trong điều kiện xấu 212878 3 638634 Thiệt hại ròng trong tháng 4 Giải trí bờ biển nói chung và lướt ván trong điều kiện xấu 370000 3 1110000 Tổng thiệt hại 1342921 236 12183038 Nguồn: Hanemann (1997) Sự cố Lake Barre Rất nhiều nghiên cứu đã được tiến hành nhằm đánh giá tác động kinh tế và xã hội của sự cố dầu tràn ở Hồ Barre, Louisiana. Vào tháng 5/1997, một ống dẫn dầu Texaco đã làm tràn 1,25 lít dầu thô vào hồ Barre. Theo luật ô nhiễm dầu của Mỹ (USA’s Oil Pollution Act) năm 1990, chủ thể được uỷ thác trông nom tài nguyên thiên nhiên do chính phủ và nhà nước chỉ định phải xác định, phục hồi những thiệt hại đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên bao gồm đại dương, vùng ven biển, các loài động, thực vật. Đối với sự cố tràn dầu này, việc đánh giá thiệt hại không dựa vào các giá trị sử dụng trực tiếp mà dựa trên thiệt hại nguồn tài nguyên thiên nhiên. Với phương pháp này, bước đầu phải xác định những thiệt hại đối với Hồ Barre; những thiệt hại này được xem là sẽ tác động đến môi trường ngay cả khi có những biện pháp ứng phó sau đó. Tiếp đến phải xác định thiệt hại đối các vùng đầm lầy, tôm cá bị chết hoặc chim bị dính dầu. Việc lượng giá các thiệt hại này rất phức tạp và bao quát, đòi hỏi phải có nhiều phương pháp khoa học. Thiệt hại đối với vùng đầm lầy ven biển được chia làm bốn mức độ; dầu tràn nhẹ và khả năng khôi phục nhanh, dầu tràn nặng với khả năng khôi phục trung bình, dầu tràn nặng với khả năng khôi phục trung bình chậm, dầu tràn nặng với khả năng khôi phục chậm. Kết quả được thể hiện ở bảng sau: Bảng 1.5: Lượng hoá những tổn thất đối với vùng đầm lầy Mức độ thiệt hại Diện tích bị tác động (ha) Thiệt hại dịch vụ ban đầu (%) Thời gian khôi phục hoàn toàn Thiệt hại dịch vụ qua các năm được chiết khấu dầu tràn nhẹ và khả năng khôi phục nhanh 1685.0 10 4 tháng 17.0 dầu tràn nặng với khả năng khôi phục trung bình 62.2 40 2 năm 10.7 dầu tràn nặng với khả năng khôi phục trung bình chậm 3.3 75 2 năm 1.9 dầu tràn nặng với khả năng khôi phục chậm 0.11 100 20 năm 1.0 Nguồn: Penn, T. and Tomasi, T. (2002) Thiệt hại đối với các loài động vật nước cũng được lượng giá qua một mô hình (mô hình đánh giá thiệt hại tài nguyên thiên nhiên đối với các loài cư trú vùng biển và ven biển - 2.4 năm 1996) nhằm xác định tỷ lệ chết và thiệt hại trong tăng trưởng loài. Mô hình này đã ước tính có khoảng 7.5 tấn tôm, cua, cá và các loài không xương sống khác bị chết và tỷ lệ tăng trưởng giảm do tràn dầu. Ước tính có khoảng 330 kg chim biển chết trực tiếp do dầu. Thiệt hại đối với chim và các loài động vật dưới nước sau đó được chuyển đổi sang giá trị tương đương là 13,7 dịch vụ-ha-năm. Phạm vi khôi phục được xác định qua phương pháp Phân tích cư trú tương đương (HEA-Habitat Equivalent Analysis); đây là khung lý thuyết được áp dụng nhằm xác định nguồn tài nguyên và dịch vụ bị mất và nguồn tài nguyên và dịch vụ được phục hồi. Kết quả cho thấy 7,5 ha đầm lầy được trồng đã đem lại lợi ích cho 15,9 ha khác thông qua sự mở rộng sinh trưởng cho tổng diện tích 23 ha vùng đầm lầy. Penn và Tomasi (2002) khẳng định rằng vùng diện tích được khôi phục này cho thấy 1,2 triệu lít dầu tràn chỉ gây ra thiệt hại đối với 96% khu vực bị tác động. Phương pháp được sử dụng trong trường hợp Hồ Barre là một ví dụ sử dụng đền bù đa dạng sinh học. Một trong những ưu điểm của việc áp dụng việc đền bù đa dạng sinh học là tránh được vấn đề phải tiền tệ hoá những nguồn tài nguyên và dịch vụ thiên nhiên phi thị trường, thay vào đó sử dụng đơn vị có thể so sánh được – đơn vị tính là đa dạng sinh học. Sự cố Alambra 2000 Tàu chở dầu Alambra của Maltese (75366 GT) chở hàng hoá với nguyên liệu dầu nặng tại Cảng Muuga, Tallinn (Estonia). 300 tấn hàng đã rò rỉ từ một vết nứt từ đáy tàu, 80.000 tấn hàng còn lại được rời đi an toàn và sau đó chiếc tàu đã rời khỏi Estonia và không được sử dụng nữa. Bằng chứng của Forensic được sử dụng nhằm truy ra dầu của tàu Alambra được làm sạch trên bờ biển Thuỵ Sĩ. Người ta suy đoán rằng dầu đã trôi dạt qua biển Baltic khi tàu này được kéo vào đất liền ở Fårö and Gotska sandön, đến phía Bắc Gotland biển Baltic và một vài đảo trên quần đảo Stockholm. Những khu vực có dầu tràn được chỉ ra trong bảng 6. Khoản đền bù cho nhà nước Estonia, theo IOPC (2005) nhiều hơn khoản phí và không liên quan đến thiệt hại kinh tế do tràn dầu. Swedish Coast Guard, Cơ quan Cứu hộ Thuỵ Sĩ cũng như chính quyền địa phương cũng tham gia vào quá trình làm sạch và ứng phó với dầu tràn vào bờ biển và các đảo. Chi phí của những quá trình này là 647.500 USD. Cơ quan Cứu hộ Thuỵ Sĩ cũng đưa ra mức phạt do ô nhiễm môi trường nước là 56.000 USD. Khoản đền bù này là còn quá ít so với thiệt hại đối với giá trị sử dụng trực tiếp, giá trị sử dụng gián tiếp và giá trị phi sử dụng của hàng hoá dịch vụ hệ sinh thái. Thiệt hại đối với ngành thuỷ sản, du lịch và một số giá trị sử dụng trực tiếp khác chưa được tính đến đầy đủ mặc dù có nhiều tuyên bố không chính xác về “tác động môi trường đáng kể ” của sự cố tràn dầu. Thiếu sự xem xét trên là do tác động khuếch tán lên thuỷ sản và các bờ biển, thiếu năng lực và nguồn lực về mặt pháp lý. Bảng 1.6: Các khoản đền bù cho sự cố tàu Alambra, Talinn, Estonia 2000. Các hoạt động nhận được đền bù Khoản tiền (USD) Làm sạch - Estonia 620.000 Làm sạch - Sweden 647.500 Nhà nước Estonia - Phạt ô nhiễm 655.000 Cơ quan Cứu hộ Thuỵ Sĩ - Phạt ô nhiễm 56.000 Điều hành thuê tàu - Estonia 100.000 Điều hành cảng (mất thời gian khi neo tàu) - Estonia 2.240.000 Người đấu thầu chở dầu Estonia (mất thời gian làm việc ) 733.000 Tổng 4.995.500 Nguồn: Báo cáo thường niên của IOPC 2005 Tổng kết kinh nghiệm lượng giá thiệt hại kinh tế do môi trường và thực tiễn Việt Nam Tổng kết kinh nghiệm lượng giá thiệt hại Kinh nghiệm lượng giá của các nước trên thế giới cho thấy, hầu hết các nghiên cứu lượng giá ô nhiễm dầu tràn đều dựa trên việc mất đi hoặc suy giảm các thành phần thuộc tổng giá trị kinh tế của hàng hóa, dịch vụ môi trường. Thiệt hại đối với giá trị sử dụng trực tiếp thường được đánh giá thông qua thiệt hại về thu nhập của các ngành như thuỷ sản, du lịch với các phương pháp được sử dụng như phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM), phương pháp chi phí du lịch (TCM) hoặc phương pháp chi phí trực tiếp. Đối với giá trị sử dụng gián tiếp, lượng suy giảm hay mất đi của các dịch vụ hàng hoá môi trường được xác định thông qua phương pháp phân tích cư trú tương đương (HEA) và được lượng giá thông qua một số phương pháp như phương pháp chi phí thay thế đối với các loài động vật có vú. Còn phương pháp phổ biến được các nước sử dụng để lượng giá thiệt hại đối với giá trị phi sử dụng là phương pháp đánh giá ngẫu nhiên. Tuy nhiên, một số trường hợp cũng cho thấy thiệt hại đối với tài nguyên môi trường không được lượng hoá đầy đủ và do đó cơ chế đền bù chỉ dựa trên chi phí ứng phó, chi phí làm sạch dầu tràn hoặc những khoản phạt do ô nhiễm môi trường. Bảng 1.7: Tổng kết kinh nghiệm lượng giá ô nhiễm dầu tràn trên thế giới Giá trị sử dụng Giá trị phi sử dụng Giá trị sử dụng trực tiếp Giá trị sử dụng gián tiếp Giá trị lựa chọn Giá trị tồn tại Sự cố Exxon Valdez Câu cá giải trí, - Thiệt hại: 31 triệu USD (1989) - Phương pháp: CVM - Thiệt hại: 300 USD (1989)đối với một con gấu trắng đến 100.000 USD (1989) đối với một con cá voi - Phương pháp: Chi phí thay thế đối với các loài động vật có vú - Thiệt hại: 2,8 tỷ USD (1992) - Phương pháp: CVM Sự cố The Prestige Thiệt hại ngành thủy sản: 156 triệu Eurro do mất thu nhập Tổng thiệt hại: 5 tỷ Euro (đánh giá nhanh của Thomas- Höfer, Thời báo Môi trường) Sự cố American Trader - Giá trị giải trí bãi biển bị mất - Thiệt hại: 12 triệu USD - Phương pháp: TCM và CVM Sự cố Lake Barre - Thiệt hại: 13,7 dịch vụ-ha-năm - Phạm vi khôi phục được xác định thông qua phương pháp HEA Sự cố Alambra 2000 Không tính đến những thiệt hại đối với giá trị hàng hóa, dịch vụ môi trường Nguồn: Viện nghiên cứu môi trường Thụy Điển (2006) Thực tiễn ở Việt Nam Từ 1997, Việt nam đã xảy ra hơn 50 vụ tràn dầu tại các vùng sông và biển ven bờ gây thiệt hại lớn về kinh tế cũng như ô nhiễm nghiêm trọng và lâu dài cho môi trường biển. Điển hình là các sự cố tàu Formosa One Liberia đâm vào tàu Petrolimex 01 của Việt Nam tại vịnh Giành Rỏi - Vũng Tàu (tháng 9/2001) làm tràn ra môi trường biển ven bờ khoảng 1.000m3 dầu diezel, gây ô nhiễm nghiêm trọng một vùng rộng lớn biển Vũng Tàu. Ba năm sau, tại khu vực biển Quảng Ninh - Hải Phòng, sự cố đắm tàu Mỹ Đình, chứa trong mình khoảng 50 tấn dầu DO và 150 tấn dầu FO, trong khi đó ta chỉ xử lý được khoảng 65 tấn, số dầu còn lại hầu như tràn ra biển. Đầu năm ngoái, chính xác là từ 28 -29 tháng 1 đến 15 tháng 3 t các tỉnh từ Hà Tĩnh đến Quảng Ngãi đã có hiện tượng dầu trôi dạt vào biển. Sự cố dầu tràn vào biển này là rất nghiêm trọng, lượng dầu trôi dạt vào bờ lớn, số lượng dầu đã phong hoá, vón cục, đóng thành bánh phải thu gom lẫn cát và rác thải lớn (gần 1.000 tấn) gây ảnh hưởng trên diện rộng, chưa đánh giá hết được mức độ thiệt hại về kinh tế, xã hội và môi trường. Tiếp tục sau đó, từ ngày 9 đến 12 tháng 3 năm 2007, dọc các bờ biển tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xuất hiện váng dầu và nhiều mảng dầu màu đen, trôi dạt từ ngoài khơi vào bờ, làm ô nhiễm các bãi tắm và nước biển ven bờ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh tế của tỉnh, đặc biệt là du lịch. Gần đây nhất là vụ tàu Ðức Trí chở 1.700 tấn dầu FO đã bị chìm tại vùng biển Bình Thuận vào đêm 2/3/2008, đến sáng 13/3, dầu tiếp tục tràn vào Bãi Sau (TP Vũng Tàu), từ Khu du lịch Paradise đến dốc Nghinh Phong. Rõ ràng các vụ tràn dầu xảy ra với mật độ ngày càng cao và để lại nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và hoạt động kinh tế của các vùng chịu ảnh hưởng. Tuy nhiên, nhiều sự cố tràn dầu cho đến nay vẫn chưa xác định được nguyên nhân, đồng thời việc gắn trách nhiệm cho người gây ô nhiễm và đền bù cho đối tượng chịu tác động còn rất hạn chế. Cũng như nhiều nước trên thế giới, ở Việt Nam, cơ chế đền bù mới chỉ dựa trên chi phí ứng phó, làm sạch dầu tràn. Khoản đền bù này là còn quá ít so với thiệt hại đối với tài sản môi trường, đặc biệt là các giá trị sử dụng trực tiếp, giá trị sử dụng gián tiếp và giá trị phi sử dụng của hàng hoá dịch vụ hệ sinh thái. Ở Việt Nam, mới chỉ có một số nghiên cứu tác động của mức độ tràn dầu lên hệ sinh thái chứ chưa có nghiên cứu lượng giá nào được tiến hành để đánh giá thiệt hại môi trường do ô nhiễm dầu gây ra. LƯỢNG GIÁ THIỆT HẠI MÔI TRƯỜNG DO SỰ CỐ TRÀN DẦU GÂY RA TẠI KHU VỰC CÙ LAO CHÀM VÀ CỬA ĐẠI Cách tiếp cận Từ cơ sở lý luận cùng với kinh nghiệm lượng giá thiệt hại kinh tế do ô nhiễm dầu tràn gây ra, đề tài đưa ra cách tiếp cận lượng giá thiệt hại môi trường do tràn dầu gây ra tại khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại (Quảng Nam) như sau: Sự cố tràn dầu tháng 1/ 2007 tại vùng biển Quảng Nam Xác định phạm vi tác động của sự cố tràn dầu Xác định các tác động môi trường do ô nhiễm dầu tràn Xác định các thiệt hại kinh tế do ô nhiễm dầu tràn Lượng giá thiệt hại kinh tế do ô nhiễm dầu tràn Tổng thiệt hại bằng tiền do ô nhiễm dầu tràn tràn dầu Xác định sự cố môi trường và phạm vi tác động của nó Liên kết giữa tác động môi trường và thiệt hại kinh tế Thông tin làm đầu vào cho quá trình ra quyết định Hình 1.2 Cách tiếp cận lượng giá thiệt hại môi trường do tràn dầu gây ra tại khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại (Quảng Nam) Phạm vi tác động về không gian và thời gian của sự cố tràn dầu Các thành phần MT và mức độ chịu tác động của ô nhiễm dầu tràn Các giá trị bị thiệt hại trong tổng giá trị kinh tế của hàng hoá, dịch vụ MT Như vậy hướng tiếp cận của đề tài là xuất phát từ sự cố tràn dầu cuối tháng 1 năm 2007 tại vùng biển Quảng Nam, sau đó đề tài xác định phạm vi tác động của sự cố tràn dầu về._.n dầu tại khu vực biển Quảng Nam. Tương tự đối với giá trị du lịch, chuyên đề chỉ tính thiệt hại do thu nhập của các khách sạn bị giảm đi do sự cố tràn dầu (phía cung du lịch) chứ không tính được thiệt hại đối với khách du lịch (phía cầu du lịch). Đối với nhóm giá trị sử dụng gián tiếp, đề tài đánh giá thiệt hại đối chức năng của hệ sinh thái do sự cố tràn dầu tác động làm mất nơi cư trú của các sinh vật ven biển. Đối với nhóm giá trị phi sử dụng, do các hệ sinh thái ven biển khu vực Cù Lao Chàm và Cửa Đại bị tác động làm suy giảm đa dạng sinh học nên thiệt hại chính đối với nhóm giá trị phi sử dụng là thiệt hại về đa dạng sinh học. Các dạng thiệt hại được tóm tắt ở bảng sau: Bảng 3.1 : Dạng thiệt hại môi trường do dự cố tràn dầu tại khu vực Cù Lao Chàm và Cửa Đại Giá trị Dạng thiệt hại Giá trị sử dụng trực tiếp (C1) Giảm thu nhập của đối tượng đánh bắt ven bờ (D1) Giảm thu nhập của các khách sạn khu du lịch (K1) Giá trị sử dụng gián tiếp (C2) Chi phí thay thế san hô (S) Chi phí thay thế cỏ biển (B) Giá trị phi sử dụng (C3) Suy giảm đa dạng sinh học Nguồn: Tác giả tự xử lý (2008) Thông tin liên quan Cách tiếp cận tổng giá trị kinh tế cho ta một cái nhìn rất rõ ràng về thiệt hại đối với từng nhóm giá trị của các hệ sinh thái môi trường ven biển. Tuy nhiên, do các tác động môi trường diễn ra trong khoảng thời gian khác nhau nên thiệt hại cũng khác nhau về mức độ và thời gian kéo dài. Trong trường hợp nghiên cứu này, thiệt hại do giảm thu nhập của đối tượng đánh bắt ven bờ là khác nhau. Trong quá trình điều tra các đối tượng này được hỏi là thu nhập của anh/chị giảm đi bao nhiêu? trong thời gian bao lâu? do sự cố tràn dầu. Kết quả điều tra cho thấy thời gian giảm thu nhập tối đa là 12 tháng và tối thiểu là 2 tháng. Dù vậy thì những thiệt hại này cũng được tính cho cùng thời điểm xảy ra sự cố là năm 2007. Tương tự với đối tượng là khách sạn khu du lịch. Số lượng khách hoãn đặt phòng và trả phòng sớm hơn dự kiến nhiều nhất vào tháng 2, tháng 3 và tháng 4 năm 2007; vì vậy coi thiệt hại đối với đối tượng khách sạn chỉ diễn ra vào thời điểm năm 2007. Thiệt hại đối với giá trị sử dụng gián tiếp chỉ tính đối với hệ sinh thái san hô, cỏ biển, còn rừng ngập mặn khu vực này có diện tích rất nhỏ nên giả thiết là chịu tác động không đáng kể. Để khôi phục lại nơi cư trú của sinh vật ven biển cần trồng lại san hô, cỏ biển. Công việc này đòi hỏi một thời gian dài và khác nhau đối với mỗi loại. Với san hô, phải mất 10 năm sau khi trồng nó mới khôi phục được chức năng như ban đầu và với cỏ biển là 3 năm. Trong chuyên đề này, giả thiết được đặt ra là việc trồng lại diễn ra ngay trong năm 2007 và chi phí vận hành hàng năm cũng được quy về cùng thời điểm. Việc phục hồi lại đa dạng sinh học cùng đòi hỏi một khoảng thời gian khá dài. Trong trường hợp nghiên này, việc đánh giá thiệt hại đối với giá trị phi sử dụng dựa trên sự sẵn lòng đóng góp cho quỹ bảo tồn đa dạng sinh học. Người dân được yêu cầu đóng góp một lần để phục hồi lại đa dạng sinh học nên tổng giá trị mà họ chi trả chính là tổng thiệt hại đối với giá trị phi sử dụng của hệ sinh thái ven biển. ĐÁNH GIÁ THIỆT HẠI MÔI TRƯỜNG Mỗi thành phần trong tổng giá trị kinh tế của hệ sinh thái đều có thể dùng nhiều phương pháp để lượng hoá chúng. Tuy nhiên, dựa vào phân tích ở trên cũng như điều kiện về nguồn số liệu, đề tài lựa chọn những phương pháp sau cho tính toán thiệt hại : Thiệt hại đối với nhóm giá trị sử dụng trực tiếp (C1) Phương pháp lượng giá Như đã phân tích ở trên, với trường hợp nghiên cứu này, thiệt hại đối với giá trị sử dụng trực tiếp là thiệt hại trong thu nhập của các đối tượng đánh bắt ven bờ, và thu nhập giảm đi của khách sạn, nhà nghỉ (cung du lịch.). C1 = D1 + K1 D1: thu nhập giảm đi của lực lượng đánh bắt ven bờ (toàn khu vực); K1: thu nhập giảm đi của các khách sạn (toàn khu vực). Tính D1: D1 = Với Nvenbo: Số hộ đánh bắt ven bờ có thu nhập giảm (của tổng thể). nvenbo : Số hộ đánh bắt ven bờ có thu nhập giảm (của mẫu). : Tổng thu nhập giảm của các hộ đánh bắt ven bờ (của mẫu). Số hộ tổng thể (toàn khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại) là N = 3000 (hộ) Tính K1 Thu nhập của các khách sạn giảm đi do 2 lý do chính: khách huỷ đặt phòng và khách trả phòng trước dự kiến. Theo như điều tra, sự cố tràn dầu tác động đến các khách sạn khu du lịch trong 3 tháng: tháng 2, tháng 3 và tháng 4. Trong số 15 khách sạn của mẫu, chỉ có 8 khách sạn, nhà nghỉ được điều tra là có khách hủy và trả phòng trong 3 tháng: 2, 3, 4 (đây là thời gian chịu ảnh hưởng nhiều nhất do sự cố tràn dầu). Tính toán thiệt hại của khu vực khách sạn (chỉ xét trường hợp khách hủy đặt phòng và trả phòng trước sự kiến) theo công thức sau: K1 = Trong đó: NKS: Số khách sạn bị hủy đặt phòng và trả phòng sớm (của tổng thể). NKS = = 38 (khách sạn) nKS: Số khách sạn bị hủy đặt phòng và trả phòng sớm (của mẫu): nKS = 8 (khách sạn) - : Tổng thiệt hại do các khách sạn bị hủy, trả phòng (của mẫu). = ( x x ) + ( x x ) : Số phòng bị hủy của khách sạn i; : Số phòng bị trả trước dự kiến của khách sạn i; : Số ngày bị hủy (trung bình); : Số ngày bị trả (trung bình) : Giá mỗi phòng (trung bình) của khách sạn i. Kết quả Tính D1 Theo kết quả điều tra, trong 300 hộ của mẫu, số hộ đánh bắt hải sản tự nhiên ven bờ là 93 hộ, trong đó chỉ có 28 hộ có thu nhập giảm do tràn dầu, ta có: nvenbo = 28 (hộ). Theo đó, ta cũng tính được số hộ đánh bắt ven bờ có thu nhập giảm của tổng thể: Nvenbo = = 280 (hộ) Theo tính toán, tổng thu nhập giảm đi của các hộ đánh bắt ven bờ là: = 39.912.500 (đồng). Suy ra, thu nhập giảm đi của lực lượng đánh bắt ven bờ toàn khu vực là: D1 = = 390.912.500 (đồng). Tính K1 Dựa vào công thức trên, quá trình tính toán cho kết quả như sau: Bảng 3.2: Thiệt hại của các khách sạn do khách hủy đặt phòng và trả phòng sớm. Tên Khách Sạn Loại Khách Số phòng bị hủy Tổng số phòng bị huỷ/trả Giá phòng (nghìn đồng) Số ngày TB Thiệt hại (nghìn đồng ) Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 USD -VND Exchange = 16 Victoria Hoi An Khách huỷ phòng Nội địa 0 0 1 23 $219 VND 3,504 5 402,960 Quốc tế 7 5 10 Khách trả phòng sớm Nội địa 0 0 2 22 3 231,264 Quốc tế 5 4 11 Hội an Beach Resort Khách huỷ phòng Nội địa 9 10 7 126 $150 VND 2,400 5 1,512,000 Quốc tế 25 40 35 Khách trả phòng sớm Nội địa 9 10 7 45 3 309,600 Quốc tế 4 6 7 Họa My Khách huỷ phòng Nội địa 0 0 0 6 $180 VND 2,880 5 86,400 Quốc tế 2 2 2 Khách trả phòng sớm Nội địa 0 0 0 6 3 51,840 Quốc tế 2 2 2 Vĩnh Hưng Khách huỷ phòng Nội địa 2 1 1 30 $180 VND 2,880 5 432,000 Quốc tế 2 2 22 Khách trả phòng sớm Nội địa 1 1 1 8 3 69,120 Quốc tế 2 2 1 Nhà khách thành ủy Hội An Khách huỷ phòng Nội địa 0 0 0 0 $150 VND 2,400 5 0 Quốc tế 0 0 0 Khách trả phòng sớm Nội địa 20 10 30 60 3 432,000 Quốc tế 0 0 0 Thiên Nga Khách huỷ phòng Nội địa 0 0 0 0 $20 VND 320 5 0 Quốc tế 0 0 0 Khách trả phòng sớm Nội địa 1 2 0 9 3 8,640 Quốc tế 2 1 3 Cửa Đại Khách huỷ phòng Nội địa 0 0 0 18 $40 VND 640 5 57,600 Quốc tế 6 6 6 Khách trả phòng sớm Nội địa 0 0 0 3 3 5,760 Quốc tế 1 1 1 Đồng Khánh Khách huỷ phòng Nội địa 0 0 0 48 $200 VND 3,200 5 768,000 Quốc tế 0 0 48 Khách trả phòng sớm Nội địa 0 0 0 0 3 0 Quốc tế 0 0 0 Nguồn: Đại học kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội (2008) Suy ra, = 4.367.184 (nghìn đồng) hay 4.367.184.000 (đồng) K1 = = 20.744.124.000 (đồng) C1 = D1 + K1 = 390.912.500 + 20.744.124.000 = 21.135.036.500 (đồng) Vậy thiệt hại đối với giá trị sử dụng trực tiếp của hệ sinh thái khu vực Cù Lao Chàm và Cửa Đại là : 21.135.036.500 (đồng) Thiệt hại đối với giá trị sử dụng gián tiếp (C2) Phương pháp lượng giá Phương pháp chi phí thay thế được sử dụng để lượng giá thiệt hại môi trường tại khu vực Cù Lao Chàm và Cửa Đại do sự cố tràn dầu tháng 1/2007 gây ra. Chi phí thay thế bao gồm chi phí trồng lại san hô và chi phí trồng lại cỏ biển. Bảng 3.3 : Dữ liệu đầu vào để tính chi phí thay thế đối với san hô và cỏ biển San hô Cỏ biển USD VNĐ USD VNĐ Chi phí đầu tư ban đầu (chi phí mua và trồng mới) 18.000/ha 99.630.000/ha 250.000/ha 1.303.750.000/ha Chi phí vận hành hàng năm (chi phí chăm sóc) 1.800/ha/năm 9.963.000/ha/năm 25.000/ha/năm 130.375.000/ha/năm Diện tích cần trồng lại 13,5ha 60ha Số năm phục hồi 10 năm 3 năm Tỷ lệ chiết khấu 12,0 %/năm Nguồn: IMER, 12/2007 Với 1 USD = 5,535 VNĐ (PPP, Huệ - 2005) Ta có công thức tính chi phí trồng lại san hô: S = S0 + x 13,5 Trong đó: S0: Chi phí đầu tư ban đầu Si: Chi phí vận hành hằng năm (= 10% S0) Công thức tính chi phí trồng lại 1 ha cỏ biển: B = B0 + x 60 Trong đó: B0: Chi phí đầu tư ban đầu Bj: Chi phí vận hành hàng năm (= 10% B0) Kết quả Chi phí trồng lại san hô (S) Chi phí đầu tư ban đầu S0 = 99.630.000 VNĐ/ha Chi phí vận hành hàng năm đối với 1 ha san hô được biểu diễn theo sơ đồ sau: Hình 3.1: Dòng chi phí vận hành hàng năm đối với 1 ha san hô 7.901.466.6 VNĐ 2008 2016 2007 2010 2009 Năm 9.963.000 VNĐ 8.895.535,7 VNĐ 7.942.442,6 VNĐ 3.207.819,36 VNĐ …… …… …….. …… …… …….. = 63.048.352,68/ha Như vậy để phục hồi lại hệ sinh thái san hô cần trồng lại 1125ha san hô với chi phí trồng lại là S = (99.630.000 + 63.048.352,68) x 13,5 = 2.196.157.761,18 VNĐ Chi phí trồng lại cỏ biển (B) Chi phí đầu tư ban đầu B0 = 1.303.750.000 VNĐ/ha Chi phí vận hành hàng năm: Hình 3.2: Dòng chi phí vận hành hàng năm đối với cỏ biển 2007 2009 2008 130.375.000 VNĐ Năm 116.406.250 VNĐ 103.934.151,8 VNĐ = 350.715.401,8VNĐ/ha Như vậy để phục hồi lại hệ sinh thái cỏ biển cần trồng lại 60ha cỏ biển bị chết với chi phí trồng lại là: B = (1.303.750.000 + 350.715.401,8) x 60 = 99.267.924.108 VNĐ Suy ra, thiệt hại đối với giá trị sử dụng gián tiếp là C2 = S + B = 2,196,157,761.18 + 99.267.924.108 = 101,464,081,869.18 VNĐ Thiệt hại đối với giá trị phi sử dụng (C3). Thiệt hại đối với giá trị phi sử dụng chính là giá trị bị mất đi do suy giảm tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái. Khoản tiền để khôi phục lại sự đa dạng sinh học của khu vực, đồng thời khắc phục và đề phòng những sự cố tương tự xảy ra chính là khoản thiệt hại đối với giá trị phi sử dụng khu vực chịu tác động của dầu tràn. Phương pháp lượng giá Chọn mẫu và điều tra Việc chọn mẫu tại điểm khảo sát theo phương pháp chọn ngẫu nhiên, sử dụng danh sách hộ gia đình do chính quyền địa phương cung cấp, chọn bước nhảy (khoảng 1/10) lấy tên hộ cần điều tra: Phường Cẩm An 100 hộ Phường Cửa Đại 100 hộ Xã Cẩm Thanh là 50 hộ Cù lao Chàm 50 hộ (chọn ngẫu nhiên tại 4 thôn gồm: bãi Hương, bãi Làng, thôn Cấm, thôn Bãi Ông). Như vậy tổng mẫu điều tra là 300 hộ trên 3000 hộ của tổng thể. Thu thập thông tin qua bảng hỏi. Phần đánh giá trị phi sử dụng trong bảng hỏi được bắt đầu bằng đoạn mô tả những giá trị phi sử dụng của hệ sinh thái của khu vực Cù Lao Chàm và Cửa Đại đang chịu những tác động của vụ tràn dầu tháng 1/2007. Điều tra viên sẽ đọc cho người dân những thông tin sau: “Theo các nhà khoa học, Cù lao Chàm có 135 loài san hô, trong đó có 6 loài lần đầu tiên ghi nhận ở vùng biển Việt Nam. Cù lao Chàm cũng có 947 loài sinh vật sống trên các vùng nước quanh đảo, trong đó có 178 loài sinh vật biển, hơn 50 loại cá, 56 loài thân mềm như ốc, ngọc trai, nhiều loại nằm trong sách đỏ của Việt Nam. Sự cố dầu tràn Tháng 1/2007 đã ảnh hưởng lớn tới đời sống kinh tế xã hội của người dân tại Cửa Đại và Cù Lao Chàm, giảm năng suất đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản, gây thiệt hại nặng nề cho các hoạt động du lịch, có ảnh hưởng tiêu cực tới đa dạng sinh học, hệ sinh thái san hô và cỏ biển của khu vực.” Sau đó, một tình huống giả định được đưa ra là địa phương sẽ xây dựng một Quỹ bảo tồn trong đó huy động sự tham gia đóng góp về tài chính của người dân nhằm phục hồi lại sự đa dạng sinh học của khu vực sau sự cố dầu tràn, khắc phục và đề phòng những sự cố tương tự xảy ra. Khoản tài chính này sẽ được sử dụng hoàn toàn với mục đích bảo tồn và phục hồi lại toàn bộ hiện trạng giá trị đa dạng sinh học tại khu vực Cửa Đại/Cù Lao Chàm như trước khi xảy ra sự cố. Bằng cách hỏi người dân sẵn lòng đóng góp tiền ở mức nào sẽ cho phép tìm ra tổng WTP để bảo tồn đa dạng sinh học. Đây chính là giá trị mất đi do suy giảm đa dạng sinh học hay chính là thiệt hại đối với các giá trị phi sử dụng. Phần thứ ba trong bảng hỏi liên quan đến phần giá trị phi sử dụng là thông tin về cá nhân người được hỏi, bao gồm tuổi, giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nhân khẩu, thu nhập. (Trường hợp này các thông tin về người được hỏi nằm trong phần đầu bảng hỏi). Đây đều là những yếu tố ảnh hưởng đến WTP của người được hỏi. Chúng sẽ được đưa vào hàm hồi quy, bằng phần mềm SPSS để phân tích tác động của các yếu tố đến WTP của người dân. Quy trình tính toán và phân tích: Tất cả thông tin thu thập được đều được nhập vào một worksheet của Excel. Các quy trình tính toán sẽ được thực hiện bằng công cụ Excel và SPSS. Tính tổng WTP: =N x Trong đó: N: Tổng số hộ của mẫu. N = 3000 (hộ). : Mức sẵn lòng chi trả trung bình của mẫu. = WTPi x pi WTPi: Mức sẵn lòng đóng góp i (bidi); pi : Xác suất lựa chọn mức giá i. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến WTP: Bảng 3.4: Các yếu tố có thể ảnh hưởng đên mức sẵn lòng chi trả (WTP) Các yếu tố ảnh hưởng Mô tả 1. Thu nhập (I) Thu nhập được xem là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến mức sẵn lòng chi trả (đóng góp) của người được hỏi. Khi thu nhập cao hơn thông thường mọi người sẽ chi trả nhiều hơn cho hàng hóa, dịch vụ môi trường 2. Trình độ học vấn (E) Khi trình độ học vấn cao, mọi người có nhận thức tốt hơn về tác động của dầu tràn cũng như giá trị của hàng hóa, dịch vụ môi trường nên họ có xu hướng chi trả nhiều hơn. 3. Giới tính (G) Theo lý thuyết thì mức sẵn lòng chi trả của nam thường cao hơn của nữ. 4. Tuổi (A) Nghề nghiệp và tuối tác ảnh hưởng không rõ ràng đến WTP do chịu nhiều sự chi phối của các yếu tố khác như thu nhập hay trình độ học vấn 5. Nghề nghiệp (O) 6. Nhân khẩu (D) Người được hỏi đại diện cho gia đình để đưa ra mức sẵn lòng chi trả nên cũng ảnh hưởng nhiều bởi các yếu tố khác. Ví dụ gia đình đông người nhưng thu nhập thấp thì có thể chi trả ít hơn gia đình ít người nhưng có thu nhập cao… Từ bảng trên, ta có mô hình phương trình WTP như sau: WTP = a0 + a1G + a2E + a3O + a4A + a5D + a6I Trong đó: a0: hệ số chặn a1, a2, a3, a4, a5, a6 : hệ số hồi quy. Kết quả WTP của mẫu Kết quả điều tra cho thấy trong 300 hộ được điều tra có 20 hộ đưa ra câu trả lời Protest bids, như vậy chỉ có 280 hộ đưa ra các mức giá từ 0 đến 100.000 với xác suất lựa chọn các mức giá như sau: WTPi 0 5.000 10.000 15.000 20.000 25.000 30.000 3.5000 40.000 50.000 100.000 pi (%) 7.5 9.29 29.29 5.36 18.21 3.21 8.57 0.36 2.5 12.14 3.57 Từ đây, ta tính được = 2.198.214,29 (đồng/hộ) Hồi quy WTP theo các biến giải thích: Sử dụng SPSS cho 6 dãy dữ liệu: WTP (biến phụ thuộc), A, G, E, I, O, D (biến độc lập). Mức ý nghĩa chọn là 90%. Kết quả thu được như sau: Model Summary Model R Square Adjusted R Square Std. Error of the Estimate 1 .49 .203 18732.283 a Predictors: (Constant), thu nhap, nghe nghiep, tuoi, nhan khau, gioi tinh, trinh do gd ANOVA(b) Model Sum of Squares df Mean Square F Sig. 1 Regression 13597604507.237 6 2266267417.873 6.458 .000(a) Residual 97549763913.816 278 350898431.345 Total 111147368421.053 284 a Predictors: (Constant), thu nhap, nghe nghiep, tuoi, nhan khau, gioi tinh, trinh do gd b Dependent Variable: san long chi tra Coefficients(a) Model Unstandardized Coefficients Standardized Coefficients t Sig. B Std. Error Beta B Std. Error 1 (Constant) 16506.404 8354.477 1.976 .049 gioi tinh -1887.310 2676.167 -.043 -.705 .038 trinh do gd 1948.368 1480.583 .088 1.316 .043 nghe nghiep -540.203 344.244 -.094 -1.569 .118 tuoi -58.265 106.528 -.035 -.547 .585 nhan khau 467.842 722.704 -.037 -.647 .074 thu nhap .002 .000 .299 5.064 .000 Dependent Variable: san long chi tra Các nhân tố ảnh hưởng đến WTP được biểu diễn trong hàm sau: WTP = 16506,4 + (-188,3)G + 1948,37E + (-540,2)O + + (-58,3)A + 467,8D + 0,002I Dựa vào bảng kết quả, ta đưa ra một số nhận xét như sau: P- value của F - Statistic = 0.000 < mức ý nghĩa, vì vậy hàm trên là hoàn toàn phù hợp. R2 = 0,49 tức là các biến độc lập giải thích được khoảng 49% sự biến động của biến phụ thuộc (WTP). P – value của các nhân tố I (thu nhập theo tháng), G (giới tính), E (trình độ học vấn) và D (nhân khẩu) đều nhỏ hơn mức ý nghĩa. Do vậy, các yếu tố này được xem là ảnh hưởng có nghĩa đến WTP của người được hỏi. Đặc biệt, P – value của I bằng 0.000 nhỏ hơn rất nhiều so với mức ý nghĩa chứng tỏ thu nhập ảnh hưởng rất lớn đến WTP. P – value của tuổi (A), nghề nghiệp (O) lớn hơn mức ý nghĩa. Điều này kết luận là tuổi và nghề nghiệp của người được hỏi ảnh hưởng không có ý nghĩa đến WTP của họ. Hệ số chặn bằng 16506.4 chứng tỏ: nếu A, E, I, D, O đều bằng 0 thì WTP vẫn giữ ở mức là 16.506 đồng. Điều này cho thấy hẳn là có một số những nhân tố khác cũng chi phối WTP (theo chiều thuận) làm cho nó cao hơn mức bình thường, ví dụ như thái độ của người đó với môi trường, sở thích, công việc… Hệ số của nhân khẩu và thu nhập cùng dấu với WTP nên hai nhân tố này có ảnh hưởng thuận chiều lên WTP. Nếu nhân khẩu trong gia đình tăng hoặc thu nhập hộ gia đình tăng thì WTP cũng tăng và ngược lại. Dấu hệ số của giới tính ngược chiều với dấu của WTP, (do trong tính toán code nam = 0, nữ = 1), điều này cho thấy, nam giới có mức sẵn lòng chi trả cao hơn nữ giới. Và trung bình một nam giới trả cao hơn nữ giới 188,3 đồng. a2 = 1948,37 được giải thích là khi trình độ học vấn tăng lên một bậc (ví dụ như từ Trung học cơ sở lên Trung học phổ thông/Trung học chuyên nghiệp) thì WTP tăng lên 1948,37 đồng. a5 = 467,8 nghĩa là khi hộ gia đình nhiều hơn một người thì mức sẵn lòng chi trả của họ tăng lên 467,8 đồng. a6 = 0.002 cho thấy thu nhập tăng thêm 1đồng/tháng thì WTP tăng 0.002 đồng, có nghĩa là để WTP tăng thêm khoảng 1000 đồng thì thu nhập của người đó phải tăng thêm 500.000 đồng/tháng. Tổng WTP Từ kết quả tính toán trên, mức sẵn lòng chi trả của toàn khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại sẽ là: = 3.000 x 2.198.214,29 = 6.594.642.857,14 (VNĐ) Như vậy, thiệt hại đối giá trị phi sử dụng khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại là: C3 = 6.594.642.857,14 (VNĐ) Bảng 3.5: Tổng hợp thiệt hại môi trường do ô nhiễm dầu tại khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại Giá trị Thiệt hại (VNĐ) Giá trị sử dụng trực tiếp (C1) 21.135.036.500 Giá trị sử dụng gián tiếp (C2) 101,464,081,869.18 Giá trị phi sử dụng (C3) 6.594.642.857,14 Tổng 129.193.761.226,32 Tổng thiệt hại môi trường do ô nhiễm dầu tràn tại khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại. Xét cơ cấu ba dạng thiệt hại đối với ba nhóm giá trị hệ sinh thái khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại ta thu được kết quả như hình 3.1. Trong đó, thiệt hại đối với giá trị sử dụng gián tiếp là lớn nhất, chiếm 79% tổng giá trị (do giá cỏ biển và san hô rất lớn), còn thiệt hại đối với giá trị phi sử dụng chiếm ít nhất là 5% tổng thiệt hại môi trường (điều này có thể giải thích là vì phụ thuộc phần lớn vào thu thập nên mức sẵn lòng chi trả của người dân thấp). CHƯƠNG IV: KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ Tổng thiệt hại môi trường mà đề tài đưa ra là xấp xỉ 130 tỷ VNĐ, đây là một con số không hề nhỏ. Uỷ ban Quốc gia Tìm kiếm Cứu nạn đã thống kê tổng chí phí ứng phó, thu gom, xử lý, và thiệt hại về kinh tế, môi trường do ô nhiễm dầu tràn cho 20 tỉnh trong đợt tràn dầu kéo dài từ 28/1 đến 4/5 năm ngoái ước tính là 213.179.966.000 đồng. Trong đó: Kinh phí ứng phó, thu gom, vận chuyển và xử lý là 8.606.692.000 đồng Thiệt hại về kinh tế và môi trường là 204.573.304.000 đồng gồm: + Thiệt hại về thuỷ sản: 138.002.250.000 đồng + Thiệt hại về du lịch: 58.829.249.000 đồng + Thiệt hại về nông nghiệp: 3.398.650.000 đồng + Thiệt hại về sức khoẻ cộng đồng: 34.085.000 đồng + Thiệt hại về môi trường: 4.238.400.000 đồng + Thiệt hại khác: 70.670.000 đồng Nếu lấy con số mà đề tài tính toán được làm đại diện về thiệt hại môi trường cho tỉnh Quảng Nam thì nó cũng lớn hơn tổng chi phí cho 20 tỉnh mà cơ quan này thống kê (213.179.966.000 đồng) và gấp khoảng 7,5 lần con số thiệt hại về môi trường (4.3238.400.000 đồng). Như vậy nếu lượng giá đầy đủ, thì riêng thiệt hại môi trường không thôi cũng là con số rất đáng kể. Từ đó thấy được các giá trị mà hàng hoá, dịch vụ môi trường cung cấp là rất lớn. Do đó, phải đánh giá đầy đủ thiệt hại để giúp nhà nước có được những quyết định về chính sách đúng đắn. Sự cố tràn dầu diễn ra vào đầu tháng 1/2007, nhưng đến tháng 1/2008 mới có một cuộc khảo sát được Viện Tài nguyên Môi trường biển và trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc Gia Hà Nội tiến hành. Số liệu về tác động cũng như thiệt hại môi trường, do đó, không được thu thập một cách đầy đủ, gây khó khăn trong việc lượng giá. Vì vậy, cần phải tiến hành điều tra, đánh giá thiệt hại của tràn dầu ngay sau khi sự cố xảy ra. Bên cạnh đó phải tiến hành theo dõi liên tục, định kỳ để đánh giá tác động lâu dài của ô nhiễm dầu tràn. GIẢI PHÁP Thiệt hại chung từ ô nhiễm dầu tràn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó không chỉ có các yếu tố như tính chất, mức độ của sự cố, mà còn do năng lực về thể chế, chính sách, tổ chức, kỹ thật, về tài chính, truyền thông hay hợp tác quốc tế...Vì vậy để hạn chế đến mức tối đa thiệt hại của tràn dầu, để xây dựng được cơ chế đền bù, gắn trách nhiệm sau sự cố thì cần phải kết hợp các giải pháp sau: Giải pháp về mặt thể chế, chính sách Hiện nay, Việt Nam mới đưa ra được các văn bản pháp luật liên quan đến công tác ngăn ngừa và ứng phó với sự cố tràn dầu. Cần phải hoàn thiện hơn nữa khung chính sách bao gồm cả việc lượng giá đầy đủ thiệt hại về kinh tế, xã hội và môi trường để có cơ chế đền bù thoả đáng đối với các đối tượng chịu tác động và đưa ra các quyết định sách hợp lý khác. Giải pháp về mặt tổ chức và quản lý Về mặt tổ chức, nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong tổ chức và quản lý các sự cố liên quan đến bảo vệ môi trường biển và dầu tràn, như đã thành lập Uỷ ban quốc gia về Tìm kiếm và Cứu nạn, đã xây dựng 3 trung tâm cứu hộ dầu đặt ở 3 miền Bắc, Trung, Nam với đầu đủ trang thiết bị kỹ thuật nhằm đảm bảo giải quyết sự cố kịp thời và hiệu quả nhất. Tuy nhiên cần bổ sung các tổ chức có khả năng: Quan trắc để phát hiện kịp thời sự cố khi đám dầu còn ở xa bờ và dự báo khả năng lan truyền để có biện pháp ứng cứu kịp thời Thu thập mẫu vật môi trường tự nhiên và sinh học biển nhằm đánh giá tác động thiệt hại kịp thời ngay khi xảy ra sự cố. Các tổ chức có chức năng bảo vệ và phục hồi nguồn lợi cũng cần được huy động đầy đủ và rộng rãi hơn nữa nhằm cứu hộ, thậm chí di chuyển kịp thờicác loài quý hiếm đi lơi khác. Cơ quan có năng lực về lượng giá đầy đủ nguồn tài nguyên, thiên nhiên để đánh giá chính xác nhất tổng thiệt hại do sự cố tràn dầu Giải pháp về mặt kỹ thuật Để thực hiện tốt các giải pháp phòng tránh và khắc phục sự cố, các phương tiện kỹ thuật sau cần sẵn sàng: Phao quây chống lan (Boom) Bơm hút (skimmer) Tàu cứu hộ (oilspill response vessels) Tàu chứa dầu (tank vessels) Xe téc chứa dầu (Vaccuum Trucks/Trailers) Kho bãi di động (portable storage) Các bơm hút vận chuyển khác (Product tranfer pump) Đội cứu hộ (personels) Trực thăng (helicopter) Nếu công tác ngăn ngừa, khắc phục sự cố được tiến hành hiệu quả sẽ giúp giảm bớt tác động của tràn dầu lên môi trường, các hoạt động kinh tế, xã hội của con người và qua đó, giảm được thiệt hại mà sự cố gây ra. Giải pháp truyền thông Tuyên truyền tác hại của dầu tràn lên các lĩnh vực kinh tế và sinh thái biển nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng góp phần ngăn ngừa tối đa các tai nạn và huy động được tối đa lực lượng ứng cứu và giải quyết sự cố. Việc bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, sự cố (như tràn dầu) chính là bảo vệ lợi ích kinh tế của các tổ chức kinh tế và cộng đồng dân cư. Vì vậy, cần thường xuyên có công tác tuyên truyền, kêu gọi để nhận được sự đóng góp tối đa về kinh phí, nhân lực từ cộng đồng để sẵn sàng phòng tránh, ứng cứu và khắc phục sự cố. Giải pháp tài chính Thiết lập các quỹ thường trực từ các nguồn ngân sách, tài trợ, đóng góp, thuế môi trường, các khoản phạt từ các vụ vi phạm... để có thể giải quyết khẩn cấp các hoạt động ứng cứu cấp bách sau sự cố. Ngoài ra, nguồn tài chính cần được cung cấp kịp thời, đúng việc để các hoạt động ứng cứu, xử lý, quan trắc và thu thập mẫu đánh giá tác động lên các HST biển đạt hiệu quả tốt nhất. Như trong đề tài đã phân tích, mức thu nhập ảnh hưởng rất có ý nghĩa đến mức sẵn lòng chi trả của người dân để phục hồi môi trường nên việc lập quỹ với mức đóng góp khác nhau sẽ đạt được kết quả tốt phục vụ cho việc khắc phục sự cố tràn dầu. Giải pháp hợp tác quốc tế Cần mở rộng hợp tác quốc tế để thu thập kinh nghiệm cũng như các giải pháp kỹ thuật mới nhất trong phòng tránh và khắc phục sự cố tràn dầu. Ngoài ra, hợp tác quốc tế còn nhằm trao đổi các thông tin từ hệ thống vệ tinh, từ các trạm quan trắc xuyên biên giới về các yếu tố môi trường và sinh thái, và các thông tin về sự cố xuất phát từ ngoài quốc gia và có thể gây ảnh hưởng xuyên biên giới. KẾT LUẬN Tràn dầu là một vấn đề môi trường hết sức nghiêm trọng trên quy mô toàn cầu, ở tất cả các nước có biển trong đó có Việt Nam. Tác hại của tràn dầu đã được biết đến rất nhiều do sự thiệt hại của các ngành kinh tế biển liên quan đến dầu như vận chuyển, khai thác, du lịch, dịch vụ và chi phí làm sạch môi trường,...Tuy vậy, chúng ta chưa có một quy trình ứng xử phù hợp với điều kiện Việt Nam. Nhiều vụ việc còn chưa xác định được nguyên nhân, chủ thể gây ô nhiễm cũng như việc tiến hành đền bù còn rất hạn chế. Việc đánh giá thiệt hại không đầy đủ sẽ dẫn đến những quyết định sai trong phân bổ nguồn lực của các cơ quan có trách nhiệm. Đề tài được tiến hành dựa trên cơ sở lý thuyết kinh tế môi trường và kinh nghiệm các nước, đã cố gắng đưa ra những ước tính sơ bộ về thiệt hại môi trường do tác động của tràn dầu. Tuy nhiên, do hạn chế về năng lực, thời gian và tài chính, nên đề tài có một số hạn chế như đề tài mới chỉ lượng giá được thiệt hại đối với các khách sạn, còn nhiều loại hình dịch vụ du lịch khác chưa được tính tới do không đủ dữ liệu. Mới tính được tiệt hại phía cung du lịch, bỏ qua những lợi ích bị mất đi của khách du lịch - cầu du lịch (Giá trị này có thể rất đáng kể nếu tính toán đầy đủ). Tuy nhiên kết quả hy vọng là sẽ có ích cho các phân tích sau này. Tài liệu tham khảo Tài liệu tiếng Việt Barry Field & Nancy Olewiler. ‘Kinh tế môi trường’ GS. TS Đặng Như Toàn, PGS Nguyễn Thế Chinh, Lê Trọng Hoa, ‘Bài giảng Kinh tế môi trường’, Khoa Kinh tế - Quản lý Môi trường và Đô thị, trường Đại học Kinh tế quốc dân, 1998 PGS. TS. Nguyễn Thế Chinh, ‘Giáo trình Kinh tế và quản lý môi trường’. NXB Thống kê, 2003 Trần Ngọc Vũ, ‘Hướng dẫn sử dụng SPSS’ ‘Báo cáo tình hình thực hiện phát triển kinh tế - xã hội năm 2007 và định hướng phát triển năm 2008’, UBND tỉnh Quảng Nam, 2007 ‘Báo cáo tổng hợp về tình hình diễn biến sự cố tràn dầu trôi dạt vào bờ tại bờ biển các tỉnh miền Trung, miền Nam Việt Nam từ cuối thang 1/2007 đến nay’, Uỷ ban quốc gia Tìm kiếm Cứu Nạn 2007 ‘Kết quả khảo sát tác động của dầu tràn tại tỉnh Quảng Nam’, Viện Tài nguyên Môi trường biển Hải Phòng 2007 ‘Kỷ yếu hội thảo khoa học’, Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, ĐH Kinh tế Quốc dân, Mạng lưới giáo dục môi trường Việt Nam. ‘Niên giám thống kê Quảng Nam năm 2005’. Chi cục Thống kê Quảng Nam Tài liệu tiếng Anh Andrea Bigano, Mariaester Cassinelli, Anil Markandya, Fabio Sferra, ‘Risk Aversion, Lay Risk Assessment and Oil Spill Externalities’ Bill Mundy, MAI, PhD, and David McLean, ‘Using the Contingent Value Approach for Natural Resource and Environmental Damage Applications’, NOAA Edward B Barrier, Mike Acreman and Duncan Knowler, ‘Economic Valuation of wetlands’, IUCN 1997 François Bonnieux, ‘Economic assessment of market & non-market damages of oil spills’, Unite D’economie Et Sociologie Rurales I.C. White và F.C. Molloy, ‘Factors that determine the cost of oil spills’, The International Tanker Owners Pollution Federation Limited, 2003 Katherine Bolt, Giovanni Ruta, Maria Sarraf, ‘Estimating the cost of environmental degradation’, The World Bank 2005 Loureiro, M. L., J.B. Loomis and M.X. Vázquez, ‘Estimating the Non-Market Environmental Damages caused by the Prestige Oil Spill’, IDEGA-Universidade de Santiago de Compostela, 2007 Mark Sanctuary, Jonas Fejes, ‘What’s missing from measures of Oil Spill Damages?’, Swedish Environmental Research Institute 2006 Panay & Guimaras, ‘A discussion guide on oil spill disaster 2006’, 2006 Richard T. Carson, Robert C. Mitchell, Micheal Hanemann, Raymond J. Kopp, Stanley Pressers và Paul A. Ruud3, ‘Contingent Valuation and Lost - Passive Use: Damages from the Exxon Valdez Oil Spill’, Kluwer Academic Publishers. 2003 Sara Sundberg, ‘Replacement costs as economic values of environmental change: A review and an application to Swedish sea trout habitats’, Beijer International Institute of Ecological Economics, The Royal Swedish Academy of Sciences ‘Financial consequences of oil spills’, International Oil Pollution Compensation Funds, 2006 ‘Introduction to environmental economic valuation and its relationship to environmental impact assessment’, Environmental Protection Agency –Queensland Parks and Wildlife Services ‘Oil spill effects on fisheries’, ITOPF ‘Prestige oil spill –Who foots the bill?’ Friends of the Earth 2002 ‘Techniques for environmental economic valuation’, Environmental Protection Agency – Queensland Parks and Wildlife Services Các trang web PHỤ LỤC 1. Các hình ảnh về hoạt động làm sạch dầu trôi dạt vào ven biển các tỉnh miền Trung 2. Thiệt hại đối với môi trường Chim biển bị dính dầu Động vật biển bị chết Hệ sinh thái biển bị tác động 3. Thiệt hại đối với kinh tế 4. Một sô thiết bị ứng phó cần thiết Phao quây Thiết bị hút dầu Chất làm phân tán dầu ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28498.doc
Tài liệu liên quan