Vai trò của bảo hiểm tiền gửi

Tài liệu Vai trò của bảo hiểm tiền gửi: ... Ebook Vai trò của bảo hiểm tiền gửi

doc26 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1835 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của bảo hiểm tiền gửi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay, vấn đề về hoàn thiện và củng cố hệ thống tín dụng ngân hàng là một vấn đề hết sức quan trọng. Mặc dù đã có những bước chuyển biến rất tích cực trong một số năm gần đây nhằm nâng cao chất lượng hoạt động nhưng những ”rủi ro” tín dụng mất khả năng thanh toán, rủi ro lãi suất, rủi ro tỉ giá hối đoái…vẫn có thể xảy ra bất cứ lúc nào gây tổn thất thậm chí dẫn đến phá sản cho tổ chức tín dụng. Để khắc phục những rủi ro trên có rất nhiều các biện pháp khác nhau nhưng biện pháp tốt nhất vẫn là bảo hiểm, nghĩa là chuyển rủi ro mà mình có thể gặp phải cho tổ chức bảo hiểm. Ở Việt Nam, Bảo hiểm tiền gửi đã được công khai với việc thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (7/7/2000). Mặc dù mới chỉ đi vào hoạt động được hơn 7 năm, nhưng những vai trò to lớn mà nó đem lại cho nền kinh tế nói chung, cho mỗi doanh nghiệp, mỗi cá nhân là vô cùng to lớn. Bảo hiểm tiền gửi bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp cho người gửi tiền, duy trì sự ổn định của các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng. Trong bài đề án môn học này em chỉ xin được đề cập vai trò của bảo hiểm tiền gửi dưới góc độ là hàng hóa công. Do nguồn tài liệu còn hạn chế, khả năng phân tích vấn đề chưa thực sự sắc bén nên bài viết còn nhiều thiếu sót. Kính mong cô giáo xem xét và góp ý để bài viết của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn cô. NỘI DUNG I. Khái quát về hàng hóa công. 1.Khái niệm Trong bất cứ nền sản xuất nào, hàng hoá cung cấp cho xã hội được phân chia thành hai nhóm cơ bản là hàng hoá phục vụ nhu cầu chung của xã hội và hàng hoá phục vụ nhu cầu của cá nhân. Sự phân biệt này tạo ra hai phạm trù : - Hàng hoá tư nhân là hàng hoá và dịch vụ sản xuất ra để đáp ứng nhu cầu cá nhân. Đây là hàng hoá và dịch vụ mà người này sử dụng thì người khác không thể sử dụng được nữa. Với một người này dùng nhiều thì người khác sẽ tiêu dùng ít đi. Ở chừng mực nhất định, tiêu dùng của người này ảnh hưởng trực tiếp đến tiêu dùng của người khác.Ví dụ việc sở hữu và sử dụng xe ô tô, xe máy …, với một số lượng người nhất định đã mua và sở hữu ô tô, xe máy thì những người khác không thể mua và sử dụng chiếc xe ấy nữa. -Hàng hoá công là hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra nhằm đáp ứng nhu cầu của trong xã hội có thể sử dụng các hàng hoá dịch vụ này chung với nhau, việc sử dụng của người này không ảnh hưởng đáng kể đến việc sử dụng của người khác.Ví dụ đường sá, an ninh quốc phòng …, mọi người đều có thể đi qua con đường, hay được đảm bảo an ninh quốc phòng mà không ảnh hưởng đáng kể đến nhau. 2. Đặc điểm của hàng hoá công . Một là, không có tính loại trừ trong tiêu dùng. Nó không phải được dành riêng cho ai, không ai có quyền sở hữu cá nhân về hàng hoá ấy.Thật khó để buộc mọi người phải trả tiền trực tiếp khi sử dụng hàng hoá mà không dành riêng cho mình, bởi vì nếu không trả tiền trực tiếp, họ vẫn có thể hưởng thụ hàng hoá ấy . Hai là, không có tính cạnh tranh trong tiêu dùng:Việc sử dụng này không ảnh hưởng đáng kể dến việc sử dụng của người khác, thêm một người sử dụng hàng hoá công cộng không làm giảm lợi ích tiêu dùng của những ngưòi đang sử dụng. Hàng hoá công chia làm 2 loại : Hàng hoá công thuần tuý và hàng hoá công không thuần tuý. Hàng hoá công thuần tuý có cả 2 thuộc tính trên. Nhiều hàng hoá chỉ có một trong hai thuộc tính trên , ở những mức độ khác nhau được coi là hàng hoá công không thuần tuý .Ví dụ có thể loại trừ được nhưng không muốn loại trừ , hoặc việc loại trừ có thể thực hiện dược nhưng tốn kém. Đó là những hàng hoá và dịch vụ dược cung cấp cho xã hội theo nhiều phương thức khác nhau, có thể do các thành phần kinh tế khác cung cấp. Hình thức khai thác, sử dụng rất khác nhau. II. Bảo hiểm tiền gửi. Khái niệm bảo hiểm tiền gửi: Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) là trách nhiệm của tổ chức tín dụng đối với các khoản tiền gửi có kì hạn hoặc không kì hạn. Như vậy bảo hiểm tiền gửi là một loại hình bảo hiểm mà theo đó khi các tổ chức nhận tiền gửi bị mất khả năng thanh toán, tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ đứng ra thanh toán một số tiền tối đa theo quy định của pháp luật cho người gửi tiền tại tổ chức đó. 1. Những nội dung cơ bản của BHTG. 1.1.Đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi : Là một tổ chức tín dụng huy động tiền gửi. Bảo hiểm chỉ bảo hiểm trách nhiệm của tổ chức tín dụng đối với các khoản tiền gửi của khách hàng, có thể là có kì hạn hoặc không kỳ hạn. Nhưng nhìn chung hiện nay các tổ chức tín dụng trên thế giới chủ yếu bảo hiểm cho các khoản vay có kì hạn vì số tiền này ổn định và dễ tính phí. 1.2.Đối tượng bảo hiểm. Đối tượng bảo hiểm là những tài sản có giá trị được gửi tại các tổ chức tín dụng tham gia bảo hiểm tiền gửi. 1.3.Phạm vi bảo hiểm. 1.3.1.Các rủi ro được bảo hiểm Trong hoạt động ngành bảo hiểm nói chung và bảo hiểm tiền gửi nói riêng, không phải mọi rủi ro đều được bảo hiểm, vì như vậy sẽ dẫn đến tình trạng trục lợi bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm. Để tránh hiện tượng này các tổ chức bảo hiểm đều quy định những rủi ro được bảo hiểm của mình, và rủi ro được bảo hiểm của bảo hiểm tiền gửi bao gồm: -Sự phá sản của tổ chức tín dụng: phá sản là trường hợp tổ chức tín dụng không thể trả nợ một cách đầy đủ hoặc không thể kinh doanh vì bị thiếu vốn. Trong trường hợp này công việc kinh doanh của tổ chức tín dụng phải được giao cho ban thanh lý tài sản các tài sản còn lại theo đúng quy định của luật về phá sản của Nhà nước. - Sự giải thể bắt buộc của tổ chức tín dụng : giải thể bắt buộc là do không tuân thủ các quy tắc, luật lệ của nhà nước hoặc có thể do củ nợ đề nghị toà án ra lệnh tuyên bố giải thể vì quỹ tín dụng từ chối thanh toán và chỉ có cách đó mới hi vọng th hồi được tiền. - Phải chấp hành thanh lý vì một lý do khác với việc phá sản hay mất khả năng thanh toán của tổ chức tín dụng: Trường hợp này xảy ra khi cơ quan có thẩm quyền xét thấy tổ chức tín dụng này mặc dù vẫn có khả năng thanh toán nhưng hoạt động không đúng mục đích đã đề ra , không muốn toà án can thiệp mà quyết định thanh lý quỹ không cho tiếp tục hoạt động. Trong trường hợp này bảo hiểm sẽ giải quyết bồi thường cho người gửi tiền nhưng sẽ thế quyền để được hưởng sè tiÒn thanh lý tµi s¶n hay ®ßi nî. - Giải thể tự nguyện do đặt trong tình trạng có nguy cơ dẫn đến phá sản của tổ chức tín dụng: Tình trạng có nguy cơ dẫn đến phá sản của tổ chức tín dụng bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh hoặc gặp khó khăn khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Tuy nhiên, không muốn toà án can thiệp, các cổ đông của quỹ chấp nhận tuyên bố giải thể. Trong trường hợp này, bảo hiểm cũng có trách nhiệm bồi thường đối với những khoản tiền gửi có kì hạn mà tổ chức tín dụng không thanh toán hết sau khi có quyết định giải thể . - Không thể thực hiện việc thanh toán cho những người gửi tiền vì một mệnh lệnh của toà án đối với tổ chức tín dụng: Xảy ra trong trường hợp tổ chức tín dụng cố ý không thanh toán nợ và chủ nợ đệ đơn lên toà án để có lệnh bắt buộc tổ chức tín dụng phải tuyên bố phá sản hay thanh lý để trả nợ. Các chủ nợ cho rằng chỉ có cách này họ mới thu hồi được các khoản nợ của mình. Lệnh của toà án cũng được áp dụng khi: + Tổ chức tín dụng không có phương án hoà giải và có giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của quỹ theo yêu cầu của toà án. + Tổ chức tín dụng không tham gia hội nghị chủ nợ để trình bày các phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng. + Trong thời hạn tổ chức lại kinh doanh, tổ chức tín dụng vi phạm nghiêm trọng những thỏa thuận tại hội nghị của chủ nợ và các chủ nợ yêu cầu tuyên bố phá sản + Hết thời hạn tổ chức lại hoạt động kinh doanh mà tổ chức tín dụng vẫn kinh doanh không có hiệu quả và các chủ nợ yêu cầu toà án phải có tuyên bố phá sản tổ chức tín dụng. 1.3.2.Các rủi ro loại trừ: Những loại rủi ro loại trừ là những rủi ro gây ra sự phá sản, thanh lý hay giải thể tổ chức tín dụng trong cá trong trường hợp: - Tổ chức tín dụng vi phạm nghiêm trọng các quy định về tiền tệ tín dụng, thanh toán đã nêu trong Luật các tổ chức tín dụng: Tuy mỗi tín dụng có điều lệ và quy chế hoạt động riêng nhưng cũng phải tuân thủ các quy các hiện hành khác của Nhà nước. Nếu tổ chức tín dụng vi phạm nghiêm trọng các quy định về tiền tệ, tín dụng, thanh toán của Ngân hàng dẫn đến phá sản thì bảo hiểm không bồi thường. - Tổ chức tín dụng giải thể tự nguyện vì cổ đông nhận thức thấy mục tiêu khi thanh lập tổ chức tín dụng không đạt được hoặc cổ đông thu hồi lại vốn vay có nhu cầu cải tổ lại cơ cấu của tổ chức tín dụng. - Tổ chức tín dụng ngừng hoạt động do những nguyên nhân như chiến tranh đình công, bạo loạn dân sự, nội chiến. Đây là những rủi ro loại trừ không thông thường, không liên quan đến hoạt động kinh doanh tiền tệ. Khi tổ chức tín dụng bị phá sản, thanh lý, giải thể do các rủi ro này bảo hiểm cũng không chịu trách nhiệm bồi thường cho những người gửi tiền có kỳ hạn. 1.4. Số tiền được bảo hiểm và phí bảo hiểm. 1.4.1. Số tiền bảo hiểm: Số tiền bảo hiểm là số dư tiền gửi có kì hạn trong báo cáo số dư tiền gửi của mỗi quý của mỗi tổ chức tín dụng. 1.4.2.Phí bảo hiểm: Phí bảo hiểm là số tiền tổ chức tín dụng phải trả cho người bảo hiểm để bảo hiểm số dư tiền gửi có kì hạn của tổ chức tại thời điểm cuối của mỗi quý. Phí bảo hiểm mà tổ chức tín dụng trả cho người bảo hiểm theo từng quý được tính theo công thức: P = x 90 Trong đó : - P: Phí bảo hiểm theo quý - m: Số dư tiền gửi có kì hạn - R: Tỷ lệ phí bảo hiểm - 90: Số ngày của một quý - 365: Số ngày trong năm Hiện nay trên thế giới áp dụng 2 nguyên tắc tính phí tiền gửi đó là: Thứ nhất: Phí bảo hiểm tiến gửi đước áp dụng như nhau đối với các tổ chức tín dụng, tức là tất cả các tổ chức tín dụng đều tính phí theo tỷ lệ như nhau trên số dư tiền gửi được bảo hiểm mà không tính đến điều kiện, khả năng tài chính, kết quả hoạt động và chung quy lại là mức độ rủi ro của các tổ chức tín dụng khi tham gia bảo hiểm tiền gửi. Phương pháp này có nhiều ưu điểm trong triển khai nhưng cũng có những hạn chế nhất định. Ưu điểm: Nhu cầu phải đánh giá chính xác tình hình hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là không nhiết thiết. Ưu điểm này đã tạo điều kiện thuận lợi rất lớn cho các tổ chức bảo hiểm, đặc biệt trong giai đoạn đầu mới triển khai thực hiện bảo hiểm tiền gửi. Vì thế đa số các hệ thống bảo hiểm tiền gửi trên thế giới đều khởi đầu bằng việc áp dụng đóng góp tài chính theo tỷ lệ phí bảo hiểm đồng hạng. Hạn chế: Tạo nên khả năng xảy ra các biểu hiện ỷ lại xét về góc độ quản lý rủi ro trong hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Đồng thời không có tác động khuyến khích các ngân hàng thi đua hoạt động tốt, an toàn cao để đước áp dụng tỉ lệ phí bảo hiểm tiền gửi thấp. Thực tế hoạt động bảo hiểm tiền gửi trên thế giới cho thấy, đối với hệ thống bảo hiểm tiền gửi áp dụng tỉ lệ phí bảo hiểm tiền gửi đồng hạng, động lực thúc đẩy ngân hàng chấp nhận rủi ro cao hơn trong hoạt động càng trở nên mạnh mẽ hơn. Thứ hai: Phí bảo hiểm tiền gửi được điều chỉnh theo mức độ rủi ro của từng tổ chức tín dụng. Theo hình thức này, cơ chế để xác định tỉ lệ phí bảo hiểm tiền gửi là kết quả phân loại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Tổ chức nào hoạt động với độ rủi ro lớn sẽ phải chịu tỉ lệ phí bảo hiểm tiền gửi cao và ngược lại tổ chức nào hoạt động với mức độ rủi ro thấp sẽ được áp dụng mức phí bảo hiểm tiền gửi thấp và có thể tiến tới mức là đước miễn phí. Phương pháp này có những ưu điểm và hạn chế như: Ưu điểm: Đưa ra được cơ chế đối xử bình đẳng giữa các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và thể hiện xu thế thị trường trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Điều đó có tác động kích thích các ngân hàng thi đua trong hoạt động để được đóng phí thấp và qua đó cũng tăng uy tín của ngân hàng mình. Hơn nữa, hình thức này còn có tác dụng hạn chế rủi ro đạo đức phát sinh bởi vì khi ngân hàng hoạt động bất cẩn, huy động vốn với lãi suất cao, đầu tư vốn với độ rủi ro cao hơn…thì sẽ chịu tỉ lệ bảo hiểm tiền gửi sẽ là cao hơn. Hạn chế: Xác định tỉ lệ phí bảo hiểm tiền gửi một cách chính xác cho từng tổ chức tha gia bảo hiểm tiền gửi là loại nghiệp vụ không đơn giản. Muốn xác định tỉ lệ phí bảo hiểm tiền gửi phù hợp với từng khách hàng đòi hỏi phải đánh giá chính xác hoạt động của từng khách hàng tham gia bảo hiểm tiền gửi. Đây là công việc không đơn giản vì khó có thể đánh giá chính xác mức độ rủi ro của từng tổ chức tín dụng, hơn nữa chi phí cho việc thu thập thông tin và duy trì cơ chế xử lý thông tin để đánh giá mức độ rủi ro đối với các tổ chức tín dụng là không nhỏ. Mô hình thứ 2 là xu hướng theo đuổi của bảo hiểm tiền gửi. Song hiện nay, hầu hết các nước vẫn đang áp dụng mô hình thứ nhất. 1.5.Giải quyết bồi thường. Khi xảy ra rủi ro được bảo hiểm, tổ chức tín dụng phải thông báo cho người bảo hiểm biết kèm theo các giấy tờ sau: - Giấy yêu cầu bồi thường; - Giấy chứng nhận tham gia bảo hiểm - Báo cáo thực trạng đến ngày xảy ra rủi ro; - Lệnh của toà án, tuyên bố phá sản, quyết định giải thể hay thanh lý; - Bản kê danh sách những người gửi tiền có hạn chưa được thanh toán đến ngày xảy ra rủi ro; - Bản kê khai chi tiết dư nợ cho vay tính đến ngày xảy ra rủi ro. Sau khi xem xét các chứng từ có liên quan đến việc trả tiền bồi thường cho tổ chức tín dụng và người gửi tiền đến và nếu thuốc phạm vi bảo hiểm thì bảo hiểm sẽ trả tiền cho người gửi tiền. Tuy nhiên, không phải tất cả các khoản tiền của khách đều được bảo hiểm chi trả khi xảy ra rủi ro mà các công ty bảo hiểm thường giới hạn một mức chi trả nhất định đó chính là số tiền bảo hiểm. Mức chi trả tiền bảo hiểm là khoản tiền mà tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ thanh toán cho người bị chấm dứt hoạt động và không có khả năng thanh toán cho người gửi tiền. Có hai hình thức chi trả tiền bảo hiểm áp dụng ở các hệ thống bảo hiểm tiền gửi trên thế giới: - Chi trả toàn bộ số tiền gửi (cùng lãi) thuộc đối tượng được bảo hiểm (chi trả không giới hạn) - Chi trả theo hạn mức trả tối đa (chi trả có giới hạn). Nếu số dư tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm (bao gồm cả lãi cộng dồn) thấp hơn hoặc bằng hạn mức tối đa thì người gửi tiền sẽ được hoàn trả toàn bộ tiền gửi của họ. Ngược lại nếu số dư tiền gửi (gồm cả lãi cộng dồn) lớn hơn hạn mức chi trả BHTG thì người gửi tiền được nhận khoản tiền bảo hiểm từ tổ chức BHTG tối đa bằng hạn mức chi trả. Tuy nhiên, hình thức chi trả có giới hạn được sử dụng phổ biến ở các hệ thống BHTG trên thế giới có nhiều ưu việt so với chi trả không giới hạn. Đặc biệt là ưu việt về khả năng thanh toán giảm thiểu rủi ro đạo đức, phát triển kỷ cương thị trường BHTGVN ngay từ khi đi vào hoạt động cũng đã áp dụng hình thức chi trả này. 2. BHTG dưới góc độ là hàng hóa công. 2.1.BHTG là hàng hóa hoá công. Xuất phát từ mục đích của chính sách BHTG mà dịch vụ THBG được coi là hàng hoá công.Tính chất công cộng của dịch vụ BHTG là chỗ BHTG đáp ứng được nhu cầu chung của xã hội, tức là bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tín dụng và bảo dảm sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng. Ai cũng có quyền bình đẳng được tiếp cận đến loại hàng hoá và dịch vụ này, việc người này sử dụng không ảnh hưởng nhiều đến người khác sử dụng chúng. Mục tiêu cơ bản của chính sách BHTG là nhằm góp phần đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính và bảo vệ các quyền lợi của người gửi tiền. Khi có một ngân hàng bị phá sản, không có khả năng thanh toán, người gửi tiền tại các tổ chức nhận tiền gửi tiền lo lắng, do thiếu thông tin, xảy ra hiện tượng rút tiền ồ ạt ở các ngân hàng khác như một phản ứng dây chuyền, và là nguyên nhân dẫn đến đổ vỡ ngân hàng hàng loạt. Hiện tượng này gây ra khủng hoảng ngân hàng và kéo theo ảnh hưởng lớn tới hệ thống tài chính và sự bình ổn của xã hội. Để tránh xảy ra tình trạng rút tiền ồ ạt, một “phản ứng quá đỗi” của khách hàng, BHTG đã ra đời. BHTG tăng cường sự ổn định của hệ thống tài chính và kinh tế vĩ mô. Lịch sử đã chứng minh từ khi có hệ thông BHTG tại Mỹ, hiện tượng đổ vỡ ngân hàng ít xảy ra hơn, hoảng loạn ngân hàng trên diện rộng biến mất, và nền kinh té Mỹ ổn định hơn.BHTG còn ngăn ngừa hiện tượng rút tiền ồ ạt. Theo bản báo cáo cua FDIC tháng 3/2001. BHTG là giảm hiẹn tượng rút tiền ồ ạt do giảm bớt rủi ro hệ thống. Thông thường BHTG xuất hiện là để đạt mục đích này. Thậm trí sự đổ vỡ ngân hàng hàng loạt trong những năm 1980 và đầu những năm 1990 đã không làm lan rộng thêm hiện tượng đổ vỡ này. Các ngân hàng phá sản là do hoạt dộng chính ngân hàng đó làm cho không có khả năng thanh toán chứ không phải do ngân hàng đó không có khả năng thanh toán bởi hiện tượng rút tiền ồ ạt đột ngột lan rộng. Điều này có thể đạt được qua hai điểm cơ bản: thứ nhất, bằng việc đảm bảo cho người gửi tiền rằng tiền gửi của họ sẽ không bị tổn thất ngay cả khi ngân hàng đổ vỡ, BHTG làm cho người gửi tiền sẽ bình tĩnh suy nghĩ sáng suốt hơn khi có ý định rút tiền khỏi ngân hàng. Thứ hai, sự có mặt của BHTG làm giảm hiện tượng lây nhiễm khi có hiện tượng rút tiền ồ ạt, hay còn gọi là “phả ứng dây chuyền”, ở nơi có hệ thống BHTG, bạn ít có lý do hơn để rút tiền khỏi ngân hàng mình gửi tiền ngay cả khi biết rằng ngân hàng bên cạnh đang bị đổ vỡ. Như vậy, thông qua việc góp phần duy trì ổn định của hệ thống tài chính, và cũng chính là mục tiêu cơ bản của chính sách BHTG, BHTG đóng góp lợi ích cho xã hội. Chính vì vậy BHTG là một loại hàng hoá công 2.2.BHTG là hàng hoá công không thuần tuý. Dù muốn hay không, ta cũng không loại trừ sự thụ hưởng dịch vụ BHTG một cách tuyệt đối. Mặc dù người hưởng lợi trực tiếp từ BHTG là người gửi tiền và các tổ chức tham gia BHTG thì các đối tác khác vẫn được hưởng lợi một cách gián tiếp. Người gửi tiền có tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm sẽ được hưởng lợi trực tiếp khi có hiện tượng bảo hiểm xảy ra. Khi có rủi ro ngân hàng, tổ chức nhận tiền gửi mất khả năng thanh toán, bị đóng cửa, người gửi tiền sẽ được tổ chức BHTG thanh toán tiền bảo hiểm. Đây chính là số tiền mà tổ chức BHTG cam kết với tổ chức tham gia BHTG khi thực hiện bảo hiểm. Các tổ chức huy động tiền gửi cũng được hưởng lợi. Hơn ai hết, người sản xuất biết rõ hơn người tiêu dùng về sản phẩm mà họ bán. Các chủ ngân hàng và giám đốc ngân hàng biét rõ về tình hình tài chính của họ hơn khách hàng. Do thiếu khả năng tiếp cận thông tin nên trong điều kiện vốn nhàn rỗi có hạn, khách hàng đắn đo khi quyết định đem tiền gửi vào tổ chức huy động tiền gửi (ngân hàng) hay lựa chọn một kênh sinh lợi khác, và cũng đắn do khi quyết định lựa chọn ngân hàng để gửi tiền. Khi tiền gửi được bảo hiểm, khách hàng an tâm hơn khi lựa chọn tổ chức nhận tiền gửi. Các tổ chức huy động tiền gửi, nhờ vậy thu hút thêm được nhiều khách hàng và huy động được nhiều tièn gửi hơn. Trên thực tế khi ngân hàng được BHTG đã làm cho kinh tế ít biến động, ổn định hơn, rủi ro sẽ giảm bớt đối với các doanh nghiệp. Mặt khác các đối tượng vay tiền sẽ sử dụng tiền vay an toàn và hiệu quả hơn, các dự án đầu tư đầu tư có hiệu quả hơn, tạo tiền đề cho việc phát trin các ngành nghề kinh tế khác. Xã hội bình ổn, các ngành nghề kinh tế phát triển, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, giảm thất nghiệp… đời sống nhân dân được nâng cao. Như vậy dù trực tiếp hay gián tiếp, chúng ta đều được hưởng lợi từ BHTG, và thực sự không thể loại trừ sự thụ hưởng một cách tuyệt đối một cá nhân hoặc một tổ chức trong xã hội không cho hưởng lợi từ BHTG, hoặc sự loại trừ này có thể thực hiện song song rất khó khăn và rất tốn kém. Chính vì đặc tính này mà BHTG được xếp vào loại hàng hoá công không thuần túy. III.Tình hình hoạt động của hoạt động của BHTG Việt Nam. 1.Cơ sở và tổ chức thực hiện bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam. Trước đây, khi đất nước ta còn trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, hệ thống ngân đã được ví như hệ thần kinh của cả nền kinh tế. Các tổ chức này kinh doanh theo phương thức “đi vay để cho vay”, nghĩa là họ sẽ đi huy động tiền gửi từ các tầng lớp dân cư và thành phần kinh tế xã hội để cho vay và hưởng phần chênh lệch lãi xuất đi vay và cho vay ấy. Tuy nhiên ngay từ đầu hoạt động kinh doanh tiền tệ này đã rất phức tạp và hay gặp rủi ro. Khi rủi ro đó xảy ra nó gây hậu quả nghiêm trọng đối với toàn bộ nền kinh tế bắt buộc Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước phải can thiệp trực tiếp để làm dịu tình hình, giữ vững ổn định kinh tế xã hội. Đây chính là vai trò “Bảo hiểm ngầm” của Nhà nước đối với hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Ngày nay, khi nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tÕ thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nền kinh tế có những chuyển biến rõ rệt, hầu hết các chỉ tiêu kinh tế đều đạt tốc độ phát triển cao. Và cũng chính trong nền kinh tế thị trường này, những rủi ro trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt trong hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng sẽ đem lại những hậu quả không nhỏ đối với nền kinh tế, văn hoá xã hội nước ta. Nhiệm vụ đặt ra cho Đảng và Nhà nước ta là làm thế nào để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền ngay cả khi rủi ro tín dụng xảy ra và duy trì sự phát triển ổn định, an toàn và lành mạnh hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam, góp phần tích cực vào quá trình phát triển nền kinh tế, ổn định chính trị, xã hội. Nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của nhiệm vụ này, ngày 01 tháng 09 năm 1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 89/1999NĐ-CP về việc bảo hiểm tiền gửi, ngày 09 tháng 11 năm 1999, Thủ tướng chính phủ đã ra nghị định số 218/1999/QĐ-TTg thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và ngày 01/.07/2000 Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chính thức đi vào hoạt động với vốn điều lệ do nhà nước cấp là 1000 tỉ đồng. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là tổ chức của nhà nước, có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập, bảo đảm an toàn vốn và tự bù đắp chi phí hoạt động trên phạm vi cả nước, có vốn điều lệ, có tài sản, có bảng cân đối riêng, được mở tài khoản tại các ngân hàng trong và nước ngoài. Hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và sự phát triển an toàn lành mạnh trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Chế độ tài chính của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được qui định tại chương IV Mục 3 Quyết định số 75/1999/QĐ-TTg do Thủ tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở đề nghị của Bộ Tài chính và ý kiến của Ngân hàng Nhà nước. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được miễn nộp các loại thuế theo qui định của pháp luật.. 2.Tình hình triển khai bảo hiểm tiền gửi ở BHTG Việt Nam. Là một tổ chức tài chính của Nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) ra dời nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, nâng cao niềm tin của công chúng, góp phần duy trì sự phát triển ổn định, an toàn và lành mạnh hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Tính dến cuối năm 2006, BHTGVN vừa tròn 7 năm thành lập và đi vào hoạt động (tháng 1/1999 – 1/2006). Bảy năm qua, BHTGVN đã có nhiều cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao về lĩnh vực bảo hiểm tiền gửi. Nhìn lại chặng đường 7 năm qua, những kết quả chủ yếu đạt được trong quá trình xây dựng và hội nhập của BHTGVN phải kể đến là: 2.1. Cấp giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi Sau một thời gian ngắn, BHTGVN đã hoàn thành cơ bản việc cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi cho các tổ chức nhận tiền gửi hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam đủ điều kiện theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng (đến cuối năm 2006, đã cấp cho 1.114 tổ chức nhân tiền gửi). Tuy nhiên, do trong quá trình hoạt động, một số tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi mất khả năng thanh toán và bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra văn bản chấm dứt hoạt động, BHTGVN đã chấm dứt hoạt động và thu hồi giấy chứng nhận bảo hiểm của 120 tổ chức nhận tiền gửi. Như vậy, đến nay, số lượng các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là 994 đơn vị, trong đó: 5 ngân hàng thương mại nhà nước, 34 ngân hàng thương mại cổ phần, 25 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh, 4 công ty tài chính và 926 quỹ tín dụng nhân dân. Cùng với việc cấp giấy chứng nhận cho các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tháng 11 năm 2006, BHTGVN đã hoàn thành việc cấp đổi giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi, phù hợp với quy định của Nghị định 109/2005/NĐ-CP của Chính phủ và Chiến lược phát triển của BHTGVN trong thời gian tới. 2.2.Kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Kiểm tra, giám sát có thể gọi là chức năng chính của BHTGVN trong thời gian qua. BHTGVN đã chủ động, thường xuyên phối hợp chặt chẽ với Thanh tra Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong việc giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, nhất là các tổ chức hoạt động yếu kém. Việc kiểm tra nhằm phát hiện sớm và có biện pháp ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm quy định pháp luật về bảo hiểm tiền gửi và quy chế an toàn trong hoạt động ngân hàng. Công tác giám sát nhằm đưa ra các quyết định cảnh báo cần thiết đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đồng thời chỉ đạo, định hướng công tác kiểm tra được kịp thời, có trọng tâm, trọng điểm. Các hoạt động kiểm tra, giám sát của BHTGVN được áp dung theo các chuẩn mực quốc tế về an toàn và giám sát rủi ro (CAMELS,BÁEL I,II…), theo mô hình của các tổ chức bảo hiểm tiền gửi tại các quốc gia phát triển như Mỹ, Canađa. 2.3.Thu phí bảo hiểm tiền gửi và dầu tư vốn tạm thời nhàn rỗi. BHTGVN luôn chú trọng công tác công tác thu phí bảo hiểm đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, thường xuyên theo dõi, hướng dẫn, đôn đốc các đơn vị tính và nộp phí, đảm bảo nguyên tắc thu đúng, thu đủ, kịp thời theo quy định của nhà nước. Số phí BHTGVN thu được từ các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi tăng năm sau so với năm trước ở mức 20% đến 25% / năm. Đây là nguồn tài chính quan trọng để BHTGVN tăng cường năng lực sử lý các ruỉ ro có thể xảy ra từ phía các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, hạn chế tới mức tháp nhất việc bao cấp từ ngân sách nhà nước. Vốn điều lệ của BHTGVN được Nhà nước cấp là 1.000 tỷ đồng. Kết hợp với nguồn thu phí, BHTGVN đã đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Kho bạc Nhà nước, tiền gửi có kì hạn tại các tổ chức tín dụng Nhà nước theo đúng qui định, đảm bảo an toàn, bảo tồn vốn và bù đắp chi phí. Khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có văn bản chấm dứt hoạt động và tổ chức đó bị mất khả năng thanh toán. BHTGVN đã thực hiện đầy đủ trách nhiệm chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền tại các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo đúng qui định. Sau 7 năm hoạt động, BHTGVN đã chi trả tiền gửi bảo hiểm cho 1.476 người gửi tiền tại 33 quĩ tín dụng nhân dân ở địa bàn 10 tỉnh trong cả nước, với số tiền chi trả là hơn 16,3 tỷ đồng. Tuy số tiền chi trả bảo hiểm chưa phải là lớn và mới chỉ diễn ra trong hệ thống quĩ tín dụng nhân dân cơ sở, nhưng việc chi trả tiền gửi bảo hiểm cho người gửi tiền trải rộng trên địa bàn nhiều tỉnh và liên tục trong 7 năm qua đã thực sự đi vào tiềm thức của người dân, góp phần củng cố lòng tin của người dân đối với hoạt động ngân hàng. Sau chi trả tiền gửi bảo hiểm, BHTGVN đã tổ chức theo dõi hoạt động thanh lý tài sản của TCTD bị giải thể nhằm tghu hồi vốn và chi trả bảo hiểm.Tổng số tiền thu hồi trong thanh lý là 16,9 tỷ đồng: số tiền chi thanh toán cho các chủ nợ và chi phí thanh lý là 15,1 tỷ đồng, trong đó trả cho BHTGVN đến 30/09/2006 là gần 3 tỷ đồng. 2.5.Hoạt động hỗ trợ tài chính. Với mục tiêu góp phần ổn định hoạt động của hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia và hỗ trợ các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trong trường hợp khó khăn tạm thời về vốn, dưới hình thức: cho vay, bảo lãnh và mua lại nợ. Thời gian qua, BHTGVN đã triển khai thí điểm nghiệp vụ hỗ trợ tài chính trên địa bàn 3 chi nhánh bảo hiểm tiền gửi khu vực là TP.HCM, Bắc Trung Bộ và Đông Bắc Bộ với số tiền cho vay là 3 tỷ đồng. Sau giai đoạn thí điểm, BHTGVN đã tiến hành sơ kết, đánh giá những mặt được và tồn tại nhằm rút ra bài học kinh nghiệm để triển khai mở rộng hoạt động hỗ trợ tài chính trong toàn hệ thống. 2.6.Công tác thông tin tuyên truyền. Bảo hiểm tiền gửi là lĩnh vực hoạt động còn rất mới, vì vậy công tác thông tin tuyên truyền có vị trí rất quan trọng. Hoạt động thông tin tuyên truyền ngày càng phong phú và đa dạng cả về nội dung và hình thức phù hợp với các đối tượng, đặc biệt là người gửi tiền. Bảy năm qua, BHTGVN đã phối hợp với Ngân hàng Nhà nước tổ chức các hội nghị về hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại các địa bàn khác nhau, nhằm phổ biến các chủ trương, chính sách của Nhà nước, về bảo hiểm tiền gửi. Đồng thời, phối hợp với Đài phát thanh, Truyền hình truyền hình trung ương và địa phương đưa tin và hình ảnh kịp thời về hoạt động của BHTGVN, nhất là kỷ niệm 5 năm xây dựng và trưởng thành của đơn vị. Ngoài ra, BHTGVN đã xây dựng và thiết lập Website, nhằm giúp công chúng có thể trực tiếp thu thập được nhiều loại thông tin về hoạt động bảo hiểm tiền gửi từ trên mạng và phát hành tờ Thông tin BHTGVN; đồng thời, gấp rút xây dựng hệ thống thông tin nội bộ để đáp ứng yêu cầu của công tác quản trị điều hành của BHTGVN. Định hướng hoạt động mà bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đưa ra trong thời gian tới đó là : - Xây dựng chiến lược phát triển từ nay đến năm 2015 với mục tiêu phát triển bền vững, rộng khắp, hiện đại, hội nhập quốc tế. - Chuẩn bị các điều kiện trình Chính phủ và Quốc hội xây dựng Luật về BHTG, dự định là trong năm 2008 sẽ thông qua luật BHTG. - Thông qua thực tiễn hoạt động đề xuất Nhà nước sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách BHTG phù hợp với tình hình kinh tế xã hội Việt Nam trong từng giai đoạn và phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế. - Hoàn thiện cơ chế quản lý, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng lực quản trị điều hành hoạt động của BHTG. - Tăng cường năng lực tài chính đủ sức thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình với sự hỗ trợ của ngân hàng nhà nước, thực hiện quản lý tài sản an toàn và mang lại cao hiệu quả kinh tế cao. - Nâng cao và hoàn chỉnh nghiệp vụ kiểm tra giám sát đối với tổ chức tham gia BHTG - Triển khai hoạt động nghiệp vụ hỗ trợ tài chính đối với tổ chức tham gia BHTG. - Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin vào các lĩnh vực hoạt động nghiệp vụ trong toàn hệ thống. - Tăng cường hoạt động tuyên truyền để nâng cao sự nhận thức và ủng hộ của cộng đồng, các tổ chức tham gia BHTG đối với các vai trò và vị trí của hoạt động BHTG - Chủ động tăng cường mở rộng cung cấp thông tin với các thành viên có mô hình tốt trong Hiệp hội BHTG quốc tế ( IADI) để trao đổi nghiệp vụ điều hành và các nghiệp vụ hoạt động để tổ chức BHTGVN ngày càng vững mạnh. 3. Hội nhập khu vực và quố._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docD0117.doc