Vai trò của Chính phủ trong việc phát triển các doanh nghiệp vừa & nhỏ trong giai đoạn hiện nay

Lời nói đầu Hơn 20 năm duy trì nền kinh tế kế hoạch hoá ở Việt Nam, Nhà nước đã tập trung hết các nguồn lực vào phát triển các doanh nghiệp quốc doanh, trong đó chú trọng đến các doanh nghiệp có qui mô lớn đặc biệt là trong ngành công nghiệp nặng như cơ khí, khai khoáng, điện. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N) chưa được chú ý đúng mức. Từ năm 1986 đến nay cùng với việc chuyển đổi nền kinh tế, sang kinh tế thị trường, vai trò của các DNV&N ngày càng được khẳng định. Đến nay các doanh nghiệp (D

doc67 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1258 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của Chính phủ trong việc phát triển các doanh nghiệp vừa & nhỏ trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
N) này có vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm thu hút vốn vào sản xuất kinh doanh, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn. Việc phát triển tốt DNV&N không những góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế, mà còn tạo sự ổn định chính trị xã hội của đất nước thông qua vai trò của DNV&N là tác nhân động lực thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Do vai trò to lớn như vậy, nên hiện nay DNV&N được Nhà nước Việt Nam quan tâm đặc biệt. Tuy nhiên các DN này hiện nay đang đứng trước khó khăn lớn như năng lực quản lý kém, công nghệ lạc hậu, chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao nên rất khó đứng vững trên thị trường quốc tế. Cũng giống như các nước ASEAN và các nước trong khu vực, khởi điểm của nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế nông nghiệp, nhưng đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường. Dưới góc độ về kinh tế và kinh nghiệm của các nước cho thấy, muốn đạt được tăng trưởng cao và các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, Nhà nước cần thực hiện các chính sách nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và khuyến khích sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam. Hiện nay, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về DNV&N chưa được giải quyết: từ khái niệm, vai trò, mô hình phát triển đến việc tạo lập môi trường kinh doanh cho các DN này. Nhà nước hiện chưa có cơ chế chính sách thoả đáng khuyến khích hỗ trợ các DN này phát triển. Vì lý do đó bài viết này của em xin trình bày một số quan điểm của mình về “Vai trò của Chính phủ trong việc phát triển các DNV&N trong giai đoạn hiện nay”. Qua chuyên đề này em xin chân thành cảm ơn TH.S Trần Thị Vân Hoa và các thầy cô trong Khoa cùng các cô, các chú và các anh chị trong ban Khoa học quản lý - Viện nghiên cứu Kinh tế Trung ương đã giúp đỡ em tận tình và tạo mọi điều kiện thuận lợi để em hoàn thành tốt chuyên đề thực tập này. Do trình độ và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học còn hạn chế, chắc chắn chuyên đề có nhiều sai sót em mong được sự góp ý chân thành từ các thầy cô giáo, các cô chú, các anh chị, bạn bè để em có thể tiến bộ hơn trong lần nghiên cứu sau. Em xin chân thành cảm ơn! Chương I Doanh nghiệp vừa và nhỏ và vai trò của chính phủ I-/ Khái niệm và vai trò của DNV&N. 1-/ Khái niệm về DNV&N. ở Việt Nam hiện nay, phát triển DNV&N đang là vấn đề được Nhà nước quan tâm đặc biệt. Trong văn kiện Đại hội VIII Đảng ta khẳng định: cần phải ưu tiên phát triển các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh,... Đây thực sự là định hướng đúng đắn để nền kinh tế nước ta thích ứng và hội nhập với các nước trong khu vực và quốc tế. Các nhà kinh tế đã khẳng định sự thành đạt của một số quốc gia về kinh tế - xã hội phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của các DN vừa và nhỏ, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của sự phát triển nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa chính thức cũng như những khẳng định về vai trò, vị trí và chính sách quản lý phát triển DNV&N ở Việt Nam. Theo Công văn số 681/CP-KTN ngày 20/6/1998 Chính phủ Việt Nam đã tạm thời quy định: DNV&N là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, với mục đích chính là mưu cầu lợi nhuận có qui mô DN (tính theo các tiêu thức khác nhau) trong giới hạn nhất định đối với từng trường hợp cụ thể. Hiện nay DNV&N là những DN trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và số lao động dưới trung bình hàng năm dưới 200 người. Trong thương mại dịch vụ, DNV&N là những DN có vốn sản xuất dưới 3 tỷ đồng và số lao động dưới 200 người. 2-/ Các loại DNV&N. Tuỳ theo các tiêu thức khác nhau, ta có những cách phân loại khác nhau. Các tiêu chí phân loại tuỳ thuộc rất nhiều vào mục đích phân loại. a. Các nhóm tiêu chí phân loại: Hầu hết các nước đều nghiên cứu tiêu thức phân loại DNV&N. Nhưng không có tiêu thức thống nhất để phân loại DNV&N cho tất cả các nước, và ngay trong một nước, sự phân loại cũng khác nhau tuỳ theo từng ngành nghề, từng địa bàn và từng thời điểm khác nhau. Có hai nhóm tiêu thức phổ biến dùng để phân loại DNV&N: Tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng. Tiêu chí định tính: dựa trên các đặc trưng cơ bản của các DNV&N như: chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý thấp,... Các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề, nhưng thường khó xác định trên thực tế. Do đó, chỉ làm cơ sở để tham khảo, kiểm chứng mà ít được làm cơ sở để phân loại. Tiêu chí định lượng: có thể sử dụng các tiêu chí như số lao động, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Trong đó: - Số lao động có thể là lao động trung bình trong danh sách lao động thường xuyên, lao động thực tế. - Tài sản hoặc vốn có thể dùng tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản (hay vốn) cố định, giá trị còn lại. - Doanh thu có thể là tổng doanh thu/năm, tổng giá trị gia tăng trên năm. b. Các yếu tố tác động đến phân loại DNV&N. Khi phân loại DNV&N, có rất nhiều yếu tố tác động. Ta có thể nhóm thành các yếu tố sau: - Trình độ phát triển kinh tế của một nước: Trình độ phát triển càng cao thì trị số các tiêu chí càng tăng lên. Như vậy ở một số nước có trình độ phát triển kinh tế thấp thì các chỉ số về lao động vốn để phân loại NDV&N sẽ thấp hơn so với các nước phát triển. Chẳng hạn, ở nhật bản DN có 300 lao động và 1 triệu USD tiền vốn là DNV&N, còn DN có quy mô như vậy ở Thái Lan lại là DN lớn. - Tính chất ngành nghề: Do đặc điểm của từng ngành nghề, có ngành sử dụng nhiều lao động (như dệt, may) có ngành sử dụng nhiều vốn, ít lao động như (hoá chất, điện). Do đó, cần tính đến tính chất này để có sự so sánh đối chứng trong phân loại DNV&N giữa các ngành khác nhau. Trên thực tế ở nhiều nước người ta thường chia từ hai đến ba nhóm ngành với các tiêu chí phân loại khác nhau. Chẳng hạn các ngành sản xuất, các ngành dịch vụ. Ngoài ra theo chúng tôi, có thể dùng khái niệm hệ số ngành (Ib) để so sánh đối chứng giữa các ngành khác nhau. - Vùng lãnh thổ: Do trình độ phát triển giữa các vùng khác nhau nên số lượng và qui mô doanh nghiệp cũng khácn hau. Chẳng hạn một doanh nghiệp ở thành phố được coi là nhỏ, nhưng nó là lớn đối với các cùng nông thôn. Do đó cần tính đến cả hệ số vùng (Ia) để đảm bảo tính tương thích trong việc so sánh qui mô DN giữa các cùng khác nhau. - Tính chất lịch sử: Một doanh nghiệp trước đây được coi là lớn, nhưng với qui mô như vậy, hiện tại hoặc trong tương lai có thể là nhỏ hoặc vừa. Chẳng hạn ở Đài Loan năm 1967, trong ngành công nghiệp DN có qui mô dưới 130.000 USD là DNV&N, trong khi đó năm 1989 tiêu chí này là 1,4 triệu USD. Để tính đến trình độ phát triển từng giai đoạn phát triển, trong việc xác định qui mô doanh nghiệp cần tính thêm hệ số tăng trưởng DN trung bình (Id). Hệ số này chỉ được sử dụng khi xác định qui mô doanh nghiệp cho các thời kỳ khác nhau. - Mục đích phân loại: Quan niệm DNV&N sẽ khác nhau nếu người ta phân loại nhằm những mục đích khác nhau. Nếu mục đích phân loại là để hỗ trợ DN yếu, mới ra đời sẽ khác với mục đích là giảm thuế cho các DN công nghệ sạch, hiện đại không gây ô nhiễm môi trường. Để xác định quy mô DNV&N của một nước, trước hết cần xác định qui mô trung bình chung, sau đó xác định các hệ số Ib , Ia , Id . Cần lưu ý thêm là giữa các yếu tố dùng để xác định qui mô doanh nghiệp như vốn, lao động có sự thay thế lẫn nhau. Có thể xác định qui mô doanh nghiệp làm căn cứ để tính số lượng DNV&N trong các ngành nghề trên các địa bàn khác nhau theo công thức: F(Sba) = x Sa F(Sba) qui mô DN thuộc mọi ngành và trên địa bàn cụ thể. Ia , Ib , Id tương ứng là hệ số vùng, ngành và hệ số phát triển qui mô DN. Sa qui mô DNV&N chung trong một nước. c. Một số cách tiếp cận phân loại qui mô DNV&N ở Việt Nam. ở Việt Nam trước đây, khái niệm DNV&N đã được sử dụng để phân loại DNNN với mục đích xác định mức cấp phát trong cơ chế bao cấp và định mức lương cho các giám đốc DN: DN cấp 1, DN cấp 2, DN cấp 3. Tiêu thức phân loại chủ yếu là số lao động trong biên chế và theo phân cấp TW - địa phương. Theo văn bản pháp lý mới nhất hiện hành thì việc phân loại DN ở Việt Nam theo 5 hạng dựa trên hai nhóm yếu tố là độ phưc tạp của quản lý và hiệu quả sản xuất, kinh doanh bao gồm 8 tiêu chí: vốn sản xuất-kinh doanh, trình độ công nghệ, phạm vi hoạt động, số lượng lao động, thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước, lợi nhuận thực hiện, doanh thu và tỉ suất lợi nhuận trên vốn. Cách phân loại này phức tạp với nhiều tiêu chí và chưa tính đến tính chất đặc thù của ngành, nghề và địa bàn. Hơn nữa đối tượng phân loại chủ yếu chỉ giới hạn trong các DNNN. Mục tiêu phân loại là nhằm phục vụ cho việc sắp xếp lại tổ chức quản lý DNNN, làm căn cứ để xếp lương chứ không phục vụ định hướng phát triển DNV&N và hỗ trợ các DN này phát triển. Nhằm định hướng, hỗ trợ cho các DNV&N phát triển, ở một số địa phương và các cơ quan chứcn ăng đã đưa ra các tiêu chí phân loại DNV&N. Ngân hàng Công thương Việt Nam coi DNV&N là những DNV&N có số lao động dưới 500 người, giá trị tài sản cố định dưới 10 tỷ đồng, số vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng và doanh thu hàng tháng dưới 20 tỷ đồng. ở thành phố Hồ Chí Minh: những DN có vốn pháp định trên một tỷ đồng, lao động trên 100 người và doanh thu hàng năm trên 10 tỷ đồng là DN vừa còn dưới 3 tiêu chuẩn trên là DN nhỏ. ở Đồng Nai những DN có doanh thu dưới 100 tỷ đồng/năm là DNV&N. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, cân phân định DNV&N theo lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Trong lĩnh vực sản xuất DN có vốn dưới 1 tỷ đồng, số lao động dưới 100 người là DN nhỏ, DN có 1-10 tỷ đồng vốn và 100-500 lao động là DN vừa. Trong thương mại, dịch vụ: DN có dưới 500 triệu đồng và dưới 50 lao động là DN nhỏ, DN có vốn từ 500 triệu đến 5 tỷ đồng và lao động từ 50-250 người là DN vừa. Bảng 1: Mức độ quan trọng của các tiêu chí phân loại DNV&N Tiêu chí Tỷ lệ % theo mức độ quan trọng giảm dần 1 2 3 Vốn sản xuất 55,2 34,5 4,6 Doanh thu 33,3 29,9 29,9 Lao động thường xuyên 4,6 29,9 10,3 Bảng 2: Quy mô DN được coi là lớn theo lĩnh vực Tiêu chí Lĩnh vực sản xuất Thương mại, dịch vụ Trị số tiêu chí Tỷ lệ ý kiến (%) Trị số tiêu chí Tỷ lệ ý kiến (%) Vốn sản xuất (đồng) trên 1 tỷ 3,4 trên 500 triệu 3,4 trên 5 tỷ 9,2 trên 1 tỷ 5,7 trên 10 tỷ 37,9 trên 5 tỷ 50,6 trên 20 tỷ 50,6 trên 10 tỷ 40,2 Lao động (người) trên 100 8,0 trên 50 10,3 trên 200 9,2 trên 100 26,1 trên 300 37,9 trên 200 39,1 trên 500 46,0 trên 300 20,7 Kết quả điều tra về tác động của chính sách đối với DNV&N ở các tỉnh phía Bắc số phiếu đạt 187 đối tượng điều tra bao gồm 3 nhóm đối tượng. - Quan chức hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách 33,9%. - Chủ DNV&N và những người hoạt động kinh doanh 28,7%. - Khác (trung gian giữa DN và quan chức NN) 13,05% 3-/ Vai trò của các DNV&N. Vai trò của các DNV&N ở nhiều nước được biết đến như là các cơ sở sản xuất - kinh doanh có khả năng: - Tạo ra nhiều việc làm với chi phí thấp. - Cung cấp cho xã hội khối lượng đáng kể hàng hoá và dịch vụ. - Gieo mầm cho các tài năng quản trị kinh doanh. - Góp phần giảm bớt chênh lệch thu nhập trong xã hội. - Tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư của dân cư địa phương làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn. - Cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau. - Phát huy và tận dụng các nguồn lực ở địa phương, góp phần tăng trưởng kinh tế,... Bảng 3: Tỷ trọng thu hút lao động và tạo ra giá trị gia tăng của các DNV&N ở một số nước Châu á Nước Thu hút lao động (%) Giá trị gia tăng (%) Singapore 35,2 26,6 Malaisia 47,8 36,4 Hàn Quốc 37,2 21,1 Nhật Bản 55,2 38,8 Hồng Công 59,3 Vai trò của các DNV&N trước hết thể hiện ở mức độ đóng góp vào sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia: thu hút lao động, vốn đầu tư, tạo ra giá trị gia tăng, góp phần tăng trưởng kinh tế là tầng cơ sở trong cấu trúc của nền sản xuất xã hội. Số liệu thống kê của các nước cho thấy, tỷ trọng thu hút lao động, tạo ra giá trị gia tăng của khu vực các DNV&N ở một số nước khu vực Châu á là đáng kể. Từ số liệu thống kê của các nước và số liệu ở bảng 3 ta có thể thấy các DNV&N chiếm 81 đến 98% số DN, thu hút 30-60% lao động và tạo là 20-40% giá trị gia tăng trong nền kinh tế ở các nước này. Như vậy, dù ở trình độ phát triển kinh tế cao hay thấp, DNV&N vẫn có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của các nước. ở Việt Nam nền kinh tế kém phát triển, chủ yếu là sản xuất nhỏ nên DNV&N chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số DN và có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, thu hút vốn, làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Điều đó được thể hiện: a. Đóng góp vào kết quả hoạt động kinh tế: Năm 1993 DNV&N tạo ra 25% giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp và 54% giá trị công nghiệp địa phương, chiếm 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng sản lượng vận chuyển hàng hoá. Trong nhiều ngành nghề như gỗ xẻ, chiếu cói, giầy dép,... DNV&N sản xuất 100% sản phẩm, đóng góp phần lớn giá trị gia tăng, góp phần đáng kể vào việc tăng trưởng kinh tế. b. Tạo việc làm cho người lao động. Bảng 4: Vai trò của DNV&N qua kết quả điều tra của nhóm nghiên cứu Vai trò Tỷ lệ ý kiến, % Góp phần tăng trưởng kinh tế 51,7 Tạo việc làm, thu hút vốn, tăng thu nhập 88,5 Làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn 72,8 Để phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh Việt Nam 63,2 Việc làm là vấn đề cấp bách hiện nay ở Việt Nam. Với tốc độ tăng dân số trên 2%, hàng năm cả nước có thêm một triệu người đến tuổi lao động có nhu cầu về việc làm, đó là chưa kể số người thất nghiệp và bán thất nghiệp. Thực tế vừa qua cho thấy, riêng khu vực quốc doanh, năm cao nhất cũng chỉ thu hút được khoảng 1,6 triệu lao động. Trong khi đó, chỉ riêng kinh tế cá thể trong công nghiệp và thương mại năm 1995 đã thu hút được 3,5 triệu lao động, các công ty và DN tư nhân thu hút gần nửa triệu lao động. Riêng trong công nghiệp, các cơ sở kinh tế này thu hút các cơ sở kinh tế này thu hút 50% tổng số lao động. Chi phí trung bình để tạo ra một chỗ làm việc trong các DNV&N khoảng 740 ngàn đồng chỉ bằng 3% trong các DN lớn. Nếu tính thêm cả số lao động ngoài doanh nghiệp do các DNV&N tạo ra với hệ số mở rộng việc làm là 1,2 thì số lao động do các doanh nghiệp này thu hút có thể lên tới 4-4,5 triệu người. Điều đó cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của các DNV&N trong việc tạo việc làm. Thu hút nhiều lao động với chi phí thấp và chủ yếu là bằng vốn của dân. Kết quả điều tra của nhóm nghiên cứu ở Bảng 4 cho thấy, vai trò của các DNV&N trong việc tạo việc làm, tăng thu nhập được đánh giá cao nhất 88,5%. Tuy vậy, số lao động do các DNV&N thu hút mới chỉ chiếm 12-15% lực lượng lao động, so với các nước trong khu vực 50-60% thì còn quá thấp, chưa phát huy hết tiềm năng của các DN này. c. Thu hút vốn: Vốn là một nhân tố cơ bản của quá trình sản xuất, có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế của cả nước cũng như đối với từng doanh nghiệp. Nhờ có vốn mới có thể kết hợp được với các yếu tố khác như: lao động, đất đai, công nghệ và quản lý. Thực tế cho thấy để đầu tư cho một chỗ làm việc ở Việt Nam, trung bình phải mất 5-10 triệu đồng tiền vốn. Vốn có vai trò lớn trong việc đầu tư trang thiết bị, cải tiến công nghệ, đào tạo nghề, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân và trình độ quản lý cho chủ doanh nghiệp. Vốn có vai trò trong quan trọng trong việc mở rộng qui mô sản xuất,.... Tuy nhiên, một nghịch lý hiện nay là các DN thiếu vốn trầm trọng trong khí đó vốn trong dân còn nhiều nhưng không huy động được. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng đó, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do môi trường đầu tư thiếu và vốn không ổn định. Trong tình trạng đó, chính các DNV&N là người trực tiếp, tiếp xúc với người cho vay, gây được niềm tin nên có thể huy động được vốn, hoặc chính người có tiền đứng ra đầu tư kinh doanh. Thực tế cho thấy năm 1994, trong công nghiệp, thương mại, vận tải, xây dựng, các DNV&N đã đầu tư 4.150 tỷ đồng chiếm 45,6% tổng số vốn đầu tư trong các lĩnh vực này. d. Làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn. Sự phát triển các DNV&N làm tăng tính cạnh tranh giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế do số DN tăng lên rất lớn kéo theo sự tăng lên nhanh chóng số lượng các mặt hàng, công nghệ và tạo điều kiện chuyển hướng kinh doanh nhanh làm cho nền kinh tế có tác dụng hỗ trợ cho các DN lớn kinh doanh có hiệu quả hơn. Các DNV&N có thể làm đại lý vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, giúp tiêu thụ hàng hoá, cung cấp các đầu vào những nguyên liệu, thâm nhập vào mọi ngõ ngách thị trường mà doanh nghiệp lớn không với tới. Một điều quan trọng là vốn của các DNV&N trong đó phần lớn là khu vực tư nhân, chủ yếu chỉ đầu tư vào các ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao. Do vậy, việc tăng các cơ sở này càng làm cho nền kinh tế phát triển hiệu quả kinh tế cao hơn trong tương lai gần. Tuy nhiên cần lưu ý là nếu DN có qui mô quá nhỏ thì hiệu quả kinh tế sẽ khó tăng lên được. Điều này đưa ra những gợi ý cho các nhà hoạch định chính sách kinh tế trong tương lai. e. Khai thác tiềm năng rất phong phú trong dân. Hiện nay, còn nhiều tiềm năng trong dân chưa được khai thác, tiềm năng về trí tuệ, tay nghề tinh xảo, lao động, vốn, điều kiện tự nhiên, bí quyết nghề, quan hệ huyết thống. Việc phát triển các doanh nghiệp sản xuất các ngành truyền thống trong nông thôn hiện nay là một trong những hướng quan trọng để sử dụng tay nghề tinh xảo của các nghệ nhân mà hiện đang có xu hướng bị mai một dần, thu hút lao động nông thôn, phát huy lợi thế của từng vùng để phát triển kinh tế. f. Nâng cao thu nhập của dân cư. Việt Nam là một nước nông nghiệp năng suất của nền sản xuất xã hội cũng như thu nhập của dân cư thấp. Thu nhập của dân cư nông thôn chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp thuần nông. Việc phát triển các DNV&N ở thành thị cũng như ở nông thôn là phương hướng cơ bản nhằm tăng nhanh thu nhập của dân cư. Kết quả điều tra của nhóm nghiên cứu Học viện chính trị Quốc gia TP. HCM tháng 10/1995 cho thấy, thu nhập của dân cư vùng có các DN phát triển gấp 4 lần thu nhập của các vùng thuần nông. Kết quả khảo sát ở một số địa phương cũng cho thấy thu nhập bình quân trong các doanh nghiệp khoảng 200-300 ngàn đồng/tháng gấp 2-3 lần thu nhập của một hộ nông dân. Điều không kém quan trọng là thu nhập của dân cư được đa dạng hoá vừa có ý nghĩa nâng cao mức sống của dân cư, vừa làm cho cuộc sống giảm bớt rủi ro hơn, nhất là những vùng chịu ảnh hưởng lớn của thiên tai. g. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với khu vực nông thôn. Việc phát triển các DNV&N có ý nghĩa lớn trong việc phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, xoá dần tình trạng thuần nông và độc canh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Hơn nữa, sự phát triển mạnh các DNV&N làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Không những thế, sự phát triển DNV&N làm cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi. Các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên nhanh chóng, các DNNN được sắp xếp và củng cố lại nhằm kinh doanh có hiệu quả và phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Tái ngành nghề cũng được phát triển đa dạng, phong phú lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo. Việc phát triển các DNV&N cũng có tác dụng làm cho các DN được phân bổ đều hơn về lãnh thổ: cả nông thôn và đô thị miền núi, đồng bằng. Tuy nhiên, hiện nay các DNV&N vẫn chủ yếu tập trung vào các đô thị lớn. Đây là vấn đề cần lưu tâm trong việc hoạch định chính sách. Ngoài ra, DNV&N có vai trò trong việc gieo mầm cho các tài năng kinh doanh. Đây là vấn đề rất quan trọng đối với Việt Nam. Vì trong nhiều năm qua, đội ngũ kinh doanh gắn liền với cơ chế bao cấp, chưa có kinh nghiệm với kinh tế thị trường. Sự phát triển của các DNV&N có tác dụng đào tạo, chọn lọc, thử thách qua thực tế đội ngũ “sĩ quan” trên mặt trận sản xuất kinh doanh. II-/ Vai trò của chính phủ trong việc phát triển các DNV&N. 1-/ Các nhân tố tác động đến DNV&N a. Trình độ lao động và quản lý. Nhìn chung các DNV&N lao động ít được đào tạo một cách bài bản mà chủ yếu theo những phương pháp truyền nghề, trình độ văn hoá thấp, đặc biệt là số lao động trong các cơ sở kinh doanh nhỏ. Qua số liệu điều tra kinh tế quốc doanh thời kỳ mở cửa 1991-1995 - NXB Thống Kê 1996 cho thấy 74,8% lao động trong các DNV&N chưa học hết lớp 10, chỉ có 5,3% lao động trong khu vực ngoài quốc doanh có trình độ đại học, trong đó chủ yếu tập trung vào các công ty TNHH và công ty cổ phần (hơn 80%). Ngoài ra, lao động ít được đào tạo nghề, nâng cao tay nghề, do đó mà ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm, năng suất lao động thấp. Về chủ DN: chủ doanh nghiệp trong khu vực quốc doanh phần lớn mới làm quen với cơ chế thị trường, nên còn nhiều bỡ ngỡ. Trong khu vực ngoài quốc doanh, phần lớn các doanh nghiệp mới được thành lập nên chủ DN chưa được đào tạo. Trong số các chủ DN quốc doanh, 42,7% là những người đã từng là cán bộ, công nhân viên Nhà nước đứng ra lập nghiệp. Trên 60% số chủ DN có độ tuổi trên 40, 48,2% số chủ DN không có bằng cấp, chỉ có 31,2% số chủ DN có trình độ từ cao đẳng trở lên. b. Môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh là yếu tố rất quan trọng đối với hoạt động của DN. Khái niệm môi trường kinh doanh rất rộng và có nhiều cách phân loại khác nhau. Theo cách phân loại khá phổ biến hiện nay, môi trường kinh doanh bao gồm: môi trường kinh tế trong đó yếu tố quan trọng nhất là thị trường; môi trường thể chế, quản lý, môi trường chính trị xã hội, môi trường khoa học công nghệ, môi trường văn hoá xã hội, môi trường tự nhiên. Để các DNV&N có thể phát triển thuận lợi, môi trường kinh doanh cần phải ổn định, thuận lợi, an toàn. Các yếu tố ảnh hưởng của môi trường kinh doanh phải đồng bộ. ở Việt Nam, việc chuyển sang cơ chế thị trường và những cố gắng của Nhà nước trong việc cải cách nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội bước đầu đã tạo điều kiện thuận lợi cho các DNV&N phát triển. Điều đó thể hiện trên thực tế như bảo đảm ổn định chính trị, kiềm chế lạm phát xử lý lãi suất, theo quan hệ thị trường, ban hành một số luật, cải cách hệ thống thuế, khuyến khích xuất khẩu, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế. Tuy vậy, môi trường kinh doanh chung còn thiếu và chưa thuận lợi. Để các DNV&N hoạt động có hiệu quả, hiện cần phải giải quyết nhiều vấn đề để tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi. Do điều kiện không cho phép, ở đây chỉ nêu một số yếu tố quan trọng và cấp bách hiện nay trong môi trường kinh doanh đối với DNV&N ở nước ta. Môi trường luật pháp: hệ thống pháp luật chung cho toàn bộ nền kinh tế chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, thiếu những đạo luật quan trọng. Trong các luật đã ban hành vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Luật công ty còn nhiều hạn chế, các chủ sở hữu nắm quyền sở hữu toàn bộ tài sản, những pháp nhân công ty chưa rõ ràng. Luật doanh nghiệp tư nhân qui định thủ tục quá rườm rà, phải qua nhiều khâu. Hiện có nhiều luật điều chỉnh cùng một nhóm đối tượng gần giống nhau gây khó khăn cho việc đăng ký kinh doanh và kiểm soát hoạt động của chúng. Thiếu bình đẳng giữa luật đầu tư trong nước và luật đầu tư nước ngoài theo hướng có lợi cho các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Nhiều văn bản luật cũ không còn phù hợp nhưng chưa được rà soát kịp thời, nhất là luật thuế, luật đất đai, thậm chí có nhiều văn bản pháp qui còn trái với luật. Việc thực thi pháp luật chưa nghiêm và xử lý vi phạm thiếu nghiêm minh đã dẫn đến tình trạng kinh doanh thiếu lành mạnh, gây rối loạn trong hoạt động kinh doanh. Riêng đối với DNV&N ở nhiều nước có các luật khuyến khích riêng. Chẳng hạn ở Hàn Quốc có Luật SME (1966), Luật khuyến khích SME (1978). Nhiều nước khác, đều có luật riêng để khuyến khích các DNV&N. ở Việt Nam chưa có các luật để khuyến khích các DNV&N phát triển phù hợp với khả năng của các DN này. Môi trường thị trường: thị trường là một trong những khó khăn đối với các DNV&N, cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra, thị trường trong nước và thị trường ngoài nước. Nói đến khó khăn về thị trường phải nói đến hai nguyên nhân: từ phía DNV&N do chưa thích nghi kịp thời với thị trường, sản phẩm xấu, kém, giá thành cao nên không thâm nhập được thị trường và từ phía Nhà nước tạo lập môi trường thị trường. Thị trường nước ta còn kém phát triển, thiếu đồng bộ và bị chia cắt. Hiện nay mới có thị trường hàng hoá và dịch vụ, còn các loại thị trường khác chưa có hoặc còn manh nha. thị trường còn bị độc quyền và đặc quyền nặng nề, làm cho các DNV&N ngay từ khi mới ra đời đã phải cạnh tranh không cân sức. Thị trường đầu vào như đất đai, vốn,... đang là khó khăn lớn. DNV&N khó khăn lớn nhất của thị trường trong nước là sức mua thấp, đặc biệt là nông thôn mà phần lớn là các DNV&N chưa vươn ra được thị trường ngoại tỉnh và nước ngoài. Thị trường đầu ra bị chèn ép do hàng ngoại nhập lậu tràn lan, phần lớn hàng tiêu dùng bị nước ngoài chiếm lĩnh, thiếu thông tin hướng dẫn về thị trường. Về thị trường ngoài nước: do hạn chế về công nghệ, chất lượng sản phẩm, thiếu thông tin và ít có điều kiện tiếp xúc với thị trường nước ngoài nên khó xuất khẩu. Hơn nữa, chính sách xuất khẩu theo hạn ngạch hoặc qui định mức vốn tối thiểu đối với các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu đã gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp. Trên thực tế các DNV&N nước ta, chủ yếu làm gia công cho các tổ chức trung gian và ngoài nước, xuất khẩu uỷ thác qua các DN Nhà nước qui mô lớn. Kết quả điều tra ở Hải Hưng và Nam Hà tháng 8/1996 cho thấy những khó khăn về thị trường là do: Khó tiêu thụ sản phẩm do sản phẩm của các DNV&N khó được các DN tiêu dùng chấp nhận do: - Hàng hoá chất lượng thấp: 78,2%. - Sức mua thấp: 46%. - Không cạnh tranh được với hàng ngoại 74,7%. - Thiếu thông tin về thị trường 77%. - Trình độ, năng lực quản lý của người sản xuất hạn chế 86,2% Như vậy khó khăn về thị trường do cả hai phía một mặt, do năng lực, trình độ hạn chế của các DNV&N như chất lượng hàng hoá thấp, trình độ quản lý kém. Mặt khác do môi trường thị trường chưa tốt, sức mua thấp giá đầu tư vào cao, thiếu thông tin, bị hàng ngoại chèn ép. c. Khó khăn về nguồn vốn. Theo kết quả của nhiều cuộc điều tra và đánh giá của các chuyên gia kinh tế, so với các doanh nghiệp quốc doanh Nhà nước các DNV&N gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với nguồn vốn tín dụng chính thức lý do đặc biệt là các DNV&N tư nhân vì: - Vốn tự có của các DNV&N thấp. - Không đủ thế chấp. - ít quan hệ với ngân hàng. - Không được hưởng chế độ trợ cấp về vốn, hoặc bất cứ một hỗ trợ khác. - Lãi suất cao thị trường vốn chưa phát triển. - Thị trường thuê mua tài chính chưa phát triển. Từ các nguyên nhân này có thể thấy rằng các DNV&N đã hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thế cạnh tranh không tương xứng với các DNV&N. Theo lý thuyết về kinh tế vi mô, với giả thiết là các yếu tố khác giữ nguyên thì chi phí đầu vào tăng lên sẽ dẫn đến lợi nhuận giảm. Trên thực tế các DNV&N đặc biệt là các DNV&N tư nhân hoạt động bằng nguồn vốn tự có và ít ỏi họ tăng vốn bằng cách gọi vốn góp trích từ lợi nhuận không chia, vay bạn bè và vay từ nguồn phi chính thức làm hạn chế đến khả năng sinh lãi của các doanh nghiệp. Mặt khác do cơ chế cho vay của ngân hàng, các DN đã sử dụng vốn không đúng mục đích như vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn và hoạt động của doanh nghiệp. Thêm vào đó, do thiếu đất để mở rộng, xây dựng doanh nghiệp, quyền sử dụng đất đai không rõ ràng khiến các doanh nghiệp khó sử dụng đất để thế chấp. Điều đó, phần nào làm các doanh nghiệp tốn nhiều thời gian và mất cơ hội kinh doanh. Do không đủ vốn để đầu tư cho công nghệ và trang thiết bị hiện đại, dẫn đến tiêu hao nhiều nguyên liệu, giá thành cao, sức cạnh tranh yếu đã trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. d. Khó khăn về tiêu thụ sản phẩm và thị trường xuất khẩu. Phần lớn các DNV&N đều tiêu thụ sản phẩm trong một thị trường hẹp. Do thiếu vốn nên các doanh nghiệp này không có khả năng mở chi nhánh đại diện ở các tỉnh khác và nước ngoài, làm hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đối với các hộ sản xuất hàng hoá bán trên thị trường trong nước là chủ yếu, theo tài liệu của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, với các hộ sản xuất thủ công nghiệp ở nông thôn, thị trường trong nước chiếm 98,7% xuất khẩu qua uỷ thác 1,3%. Theo số liệu điều tra của 12 tỉnh phía Nam, năm 1994 có 51% số lao động của các công ty trách nhiệm hữu hạn tập trung trong ngành may mặc và giày da. Do qui định của Nhà nước trong thương mại, chỉ những DN có vốn từ 200 nghìn USD trở lên mới có thể được phép xuất khẩu trực tiếp nên phần lớn các DNV&N đặc biệt là các DNV&N tư nhân phải xuất khẩu uỷ thác qua các công ty Nhà nước. Ngoài hậu quả là các DNV&N thiếu thông tin về nhiều mặt, thiếu khả năng cải tiến mẫu mốt, việc xuất khẩu uỷ thác đã làm tăng chi phí sản xuất của các DNV&N sản xuất hàng xuất khẩu. Khó khăn trong hoạt động xuất nhập khẩu đã hạn chế về khả năng phát triển về cả số lượng và chất lượng các DNV&N. e. Các nhân tố khác. Tình hình thiết bị công nghệ: thiết bị công nghệ trong DNV&N rất lạc hậu chỉ trừ một số ít các DN mới thành lập, còn phần lớn sử dụng công nghệ lạc hậu tới 20-50 năm so với các nước trong khu vực theo số liệu chính sách hỗ trợ phát triển các DNV&N. Năng lực kỹ thuật công nghệ hạn chế, trang bị vốn thấp. Do đó mà năng suất thấp giá thành cao rất khó cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Cho đến nay các DNV&N rất khó liên doanh được với nước ngoài do chưa được thực hiện quyền chuyển đổi mục đích sử dụng đất và do khó khăn trong việc được cấp đất để kinh doanh và góp vốn vào liên doanh. Điều này đã hạn chế khả năng tiếp cận với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong khi nguồn vốn trong nước còn hạn chế thì đây là thiệt hại không chỉ cho DNV&N mà còn cho cả nền kinh tế, vì nếu đầu tư tăng trong khi các yếu tố khác không đổi sẽ dẫn đến tăng thu nhập cho toàn bộ nền kinh tế. 2-/ Vai trò và sự cần thiết của các chính sách hỗ trợ DNV&N của Chính phủ. Vai trò của Nhà nước đối với doanh nghiệp, trong đó có cả các DNV&N thể hiện trước hết bằng việc thực hiện các chức năng của quản lý Nhà nước. a. Hình thành khung khổ pháp lý. Việc tạo lập khung khổ pháp lý rõ ràng và chuẩn xác là điều kiện quan trọng đầu tiên làm cơ sở pháp lý cho việc hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện chính sách hỗ trợ. Trong khung ._.khổ pháp lý cần làm rõ các vấn đề sau: Xác định rõ đối tượng điều chỉnh: tiêu chí phân loại DNV&N cũng như khung khổ các trị số cho từng tiêu chí. Có giải pháp khung để bảo vệ lợi ích hợp pháp cho các DNV&N. ở Việt Nam hiện nay, do pháp luật chưa qui định thế nào là DNV&N cũng như chưa có giải pháp khung về hỗ trợ các DNV&N này nên việc xác định đối tượng, phạm vi, cách thức hỗ trợ rất khó khăn phức tạp. Do đó nhiều chương trình hỗ trợ không thu được kết quả, hiệu quả của việc hỗ trợ quá thấp, tạo kẽ hở cho tham những gây thất thoá lớn tài sản của Nhà nước cũng như các tổ chức tài trợ trong và ngoài nước. b. Hình thành các cơ quan Nhà nước có chức năng quản lý Nhà nước đối với các DNV&N. Hiện nay, ở Việt Nam chưa có cơ quan nào chuyên trách về quản lý Nhà nước đối với các DNV&N. Việc quản lý các DN này do nhiều cơ quan ở nhiều cấp khác nhau quản lý theo hình thức đăng ký kinh doanh. Hơn 400 DN qui mô vừa và nhỏ do các bộ các ngành hoặc do một số cơ quan quản lý. Hơn 24.000 công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân do các phòng ban ngoài quốc doanh trong các bộ, ngành quản lý. Hơn 4.000 doanh nghiệp tập thể do nhiều đầu mối quản lý. Các hộ kinh doanh đăng ký theo Nghị định 66/HĐBT do cấp huyện, quận quản lý. Trên thực tế các DNV&N vừa không có cơ quan quản lý trực tiếp vừa có quá nhiều đầu mối “quản” đó là: các cơ quan chính quyền các tổ chức xã hội, thậm chí cả các tổ chức đoàn thể,... Do đó, đã đến lúc cần thành lập cơ quan chuyên trách quản lý Nhà nước đối với các DNV&N theo lĩnh vực. Cơ quan này cần được thành lập ít nhất trong hai lĩnh vực: Công nghiệp và thương mại. Chẳng hạn Cục quản lý DNV&N thuộc Bộ Công nghiệp, Cục quản lý DNV&N thuộc Bộ Thương mại. Hai cơ quan quản lý này có chức năng chủ yếu như: - Giúp Nhà nước hoạch định chiến lược và chính sách phát triển các DNV&N. - Nắm bắt tình hình nguyện vọng của các DNV&N, dự báo xu hướng phát triển. - Cung cấp thông tin cần thiết về thị trường, công nghệ, lao động,... cho các DNV&N. - Thực hiện các chương trình hỗ trợ các DNV&N về các mặt như: chuyển giao công nghệ, đào tạo chủ doanh nghiệp, hỗ trợ vốn,... - Thực hiện việc kiểm tra chất lượng sản phẩm. - Quản lý môi trường. - Đào tạo chủ DN. - Kiểm tra việc chấp hành luật pháp của các DNV&N. - Hợp tác quốc tế về DNV&N,... c. Khuyến khích phát triển các cơ sở hỗ trợ. Nhu cầu hỗ trợ của các DNV&N rất lớn mà khả năng cũng như tiềm lực của đất nước thì có hạn. Do đó, để đáp ứng các nhu cầu chính đáng của các DN này, cần thiết phải huy động lực lượng hỗ trợ của toàn xã hội. Do đó cần khuyến khích thành lập các công ty hỗ trợ các DNV&N. Đây là giải pháp khá hiệu quả vì: Nhà nước chỉ cần có chính sách hợp lý và hỗ trợ một phần cho các công ty làm chức năng hỗ trợ mà không cần đầu tư nhiều nguồn lực của Nhà nước mà vẫn đạt được mục đích. Tranh thủ sự ủng hộ quốc tế đối với các DNV&N thông qua các chương trình, dự án về tài chính. Cả ba phía Nhà nước, người thực hiện hỗ trợ và người được hỗ trợ đều có lợi. Cho phép thực hiện hỗ trợ theo những phương thức ứng xử thị trường thay cho phương thức cung cấp không mất tiền thường dẫn đến trì trệ, ỷ lại và dễ thất thoát. 2.2. Sự cần thiết phải hỗ trợ. Sự cần thiết phải hỗ trợ các DNV&N xuất phát từ các vai trò của các DN này và những lợi ích to lớn do việc hỗ trợ đó mang lại cả cho chính các DN này và cũng có lợi đối với Nhà nước (mà trước hết là thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô và toàn xã hội). a. Những lợi ích của chính sách hỗ trợ đối với các DNV&N. Các DN này quá yếu ớt trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt với những hạn chế như đã nói ở trên. Do đó, để các DN này phát huy được vai trò của mình, cần thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước. Hơn nữa có nhiều vấn đề mà các DN không thể tự giải quyết được như tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rông thị trường, đào tạo nguồn nhân lực,... Nhiều vấn đề khác nếu được sự hỗ trợ của Nhà nước sẽ làm giảm bớt những khó khăn cho DN, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đứng vững trên thị trường và phát triển thuận lợi. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, hầu hết các nước trên thế giới đều phải hỗ trợ các DNV&N. b. Lợi ích của chính sách hỗ trợ đối với Nhà nước và xã hội: Thực tế của nhiều nước cho thấy, sự hỗ trợ không chỉ có lợi đối với các DN mà có lợi cho cả Nhà nước và xã hội. Lợi ích đó thể hiện trên các mặt: - Trước hết sự hỗ trợ các DN là cách thức để nuôi dưỡng các nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. - Hỗ trợ DN là một cách đầu tư gián tiếp của Nhà nước thay vì Nhà nước phải đầu tư trực tiếp để thành lập các DNNN như mô hình kinh tế hiện vật trước đây bằng việc hỗ trợ cho các DN đã có, đặc biệt là các DN khu vực tư nhân. - Thông qua chính sách hỗ trợ của Nhà nước, việc đầu tư phát triển sản xuất hiệu quả hơn vì vừa huy động được tiềm năng sáng tạo trong dân, vừa thực hiện tốt chức năng quản lý của Nhà nước. - Bằng việc hỗ trợ các DNV&N, Nhà nước cũng có thể giải quyết những vấn đề xã hội như thất nghiệp mà bất cứ nước nào cũng phải đương đầu, tạo việc làm rất hiệu quả với nguồn vốn hạn hẹp của Nhà nước: thay vì chỉ thành lập mới các DNNN, thì với số vốn đó có thể hỗ trợ cho một số lượng DN đã có nhiều gấp bội. - Ngoài ra, Nhà nước có thể thông qua chính sách hỗ trợ để định hướng phát triển các DNV&N. 3-/ Cơ chế mô hình hỗ trợ DNV&N của Chính phủ. Nói đến cơ chế và mô hình hỗ trợ DNV&N là nói đến các mục đích, nội dung, phương pháp hay cách thức, công cụ hỗ trợ các DN này. ở nhiều nước cơ chế và mô hình hỗ trợ có một số điểm giống nhau, nhưng cũng có nhiều điểm rất khác nhau do điều kiện, mục tiêu, trình độ phát triển của các nước rất khác nhau. Những điểm chung có thể là: - Xác định mục tiêu hỗ trợ DNV&N: chủ yếu là nhằm tạo điều kiện cho các DN này phát huy được vai trò, tiềm năng vốn có của chúng, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội mà nếu chỉ riêng các DN lớn thì không thể giải quyết nổi. Nội dung hỗ trợ bao gồm những vấn đề rất thiết thực đối với các DNV&N để các DN này tiến hành hoạt động kinh doanh thuận lợi. Có quan điểm, chiến lược, chính sách kinh doanh cởi mở để hỗ trợ để khuyến khích các DN này phát triển. Hỗ trợ tạo lập môi trường kinh doanh, thông tin, cơ sở hạ tầng, thị trường, môi trường xã hội an toàn. Hỗ trợ các yếu tố đầu vào như: vốn, công nghệ, lao động, quản lý. Hỗ trợ các yếu tố đầu ra liên quan tới hàng hoá, dịch vụ,.... Phương pháp hỗ trợ: có thể bằng phương pháp trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua môi trường. Phương pháp hỗ trợ trực tiếp: Đơn giản hoá thủ tục cấp giấy phép, cấp vốn trực tiếp, cung cấp mặt bằng sản xuất kinh doanh, cung cấp thông tin xây dựng cơ sở hạ tầng,... Hỗ trợ gián tiếp: Chủ yếu là hỗ trợ thông qua cơ chế, chính sách tác động vào môi trường kinh doanh để điều chỉnh hoạt động của DN. ổn định chính trị - xã hội, tạo lập thị trường khuyến khích thành lập các hội nghề nghiệp, các trung tâm hỗ trợ, đào tạo các nguồn nhân lực, miễn giảm thuế hỗ trợ cho các DN mới thành lập được vay vốn, tạo điều kiện để các DNV&N hợp tác liên doanh với nước ngoài, bảo hộ sản xuất trong nước,... Công cụ hỗ trợ: Thông qua các công cụ quản lý Nhà nước như chiến lược, kế hoạch - quy hoạch, chính sách bộ máy, cán bộ. Để hỗ trợ các DNV&N có kết quả tốt, nhất thiết phải có hệ thống cơ chế với mô hình hỗ trợ đồng bộ từ mục tiêu, nội dung, phương pháp, công cụ hỗ trợ. Mô hình hỗ trợ thành phần, liều lượng các yếu tố, cách thức tác động, trình tự tác động,... cần phải phù hợp với từng thời kỳ trong từng trường hợp cụ thể. Chẳng hạn, thời kỳ đầu của sự phát triển thì chiến lược là yếu tố rất quan trọng, còn trong thời kỳ phát triển ổn định thì chính sách lại là công cụ rất quan trọng. Như vậy xét trong dài hạn chính sách có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hỗ trợ các DNV&N. Các chính sách tác động trực tiếp đến các DNV&N bao gồm: Chính sách kinh tế vĩ mô tác động tới toàn bộ nền kinh tế, trong đó có các DNV&N. Các chính sách cụ thể hỗ trợ DNV&N: - Tín dụng. - Hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ, thiết bị. - Đào tạo nguồn nhân lực. - Chính sách thị trường lao động, thị trường sản phẩm. - Liên kết với các công ty lớn. - Hỗ trợ xuất khẩu. - Phát triển cơ sở hạ tầng. - Chính sách về bảo vệ môi trường. Hiện nay cơ chế và mô hình hỗ trợ các DNV&N ở nhiều nước theo hướng sau: - Hỗ trợ theo cơ chế kinh doanh có vay có trả hơn là cho không, vì việc bao cấp cho không thường gây ra tâm lý trồng chờ, ỷ lại và đặc biệt là sử dụng các nguồn lực kém hiệu quả. Chẳng hạn áp dụng cho vay vốn lãi suất thấp hoặc trợ cấp lãi suất thay cho việc cấp vốn không lãi suất, hoặc cấp vốn không hoàn lại. - Hướng gián tiếp nhiều hơn trực tiếp: nhằm tạo lập cho các DNV&N cách ứng xử theo cơ chế thị trường. - Công khai rõ ràng hơn tránh độc đoán, sách nhiễu, hối lộ. - Phân quyền cho chính quyền địa phương nhiều hơn là tập trung vào Nhà nước Trung ương, tăng cường các tổ chức phi chính phủ hội nghề nghiệp, công ty tư vấn tư nhân,... - Bao quát toàn bộ nền kinh tế hơn là chính sách theo thành phần, nhóm doanh nghiệp. Chỉ nên có một số chính sách riêng cho DNV&N nhưng đặt trong tổng thể nền kinh tế quốc dân. - Đề cao vai trò của cộng đồng và chính sách đào tạo nguồn nhân lực. III-/ Kinh nghiệm của chính phủ các nước trong hỗ trợ phát triển các DNV&N. Do vai trò to lớn của các DNV&N nên Chính phủ nhiều nước rất quan tâm khuyến khích, hỗ trợ phát triển các DN này. Các hình thức hỗ trợ DNV&N ở các nước rất đa dạng và phong phú, phổ biến là các hình thức dưới đây: - Tạo hành lang pháp lý cho các DNV&N. - Chiến lược khuyến khích phát triển. - Chính sách ưu đãi về thuế, lãi suất đối với các doanh nghiệp này. - Thành lập các cơ quan chuyên trách hỗ trợ về Marketing, công nghệ thị trường cho DNV&N. - Khuyến khích thành lập các tổ chức đại diện của các DNV&N. 1-/ Tạo khung khổ pháp lý khuyến khích phát triển DNV&N Đây là một trong những vấn đề rất cơ bản làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các chính sách, giải pháp hỗ trợ các DNV&N. Do vậy ở các nước ngoài cơ sở pháp lý chung cho các DN còn có luật về DNV&N. Dưới đây là một số luật đặc thù cho các DNV&N ở một số nước. Philippines: có ít nhất 16 văn bản pháp lý dưới dạng sắc lệnh của Tổng thống, Luật, Nghị định của các Bộ, qui định của Nhà nước có liên quan tới phát triển các DNV&N trong công nghiệp, thương mại thuộc cả khu vực DNNN và khu vực tư nhân ở nước này. CHLB Đức: có luật doanh nghiệp nhỏ (1996) quy định điều kiện được công nhận là DN nhỏ, tiêu thức về đào tạo nghề và điều kiện tay nghề của những người dạy nghề đối với DN nhỏ, kiểm tra tay nghề đối với đốc công, điều kiện cung cấp tài chính,... Đài Loan: có sắc lệnh của Tổng thống (1991) và đạo luật về cấp vốn cho việc phát triển các DNV&N. Đạo luật này qui định về phân loại DNV&N, khuyến khích giúp đỡ và hỗ trợ DNV&N. Cung cấp tài chính khuyến khích mở rộng thị trường, miễn giảm thuế, thành lập uỷ ban hoạch định chính sách,... Hàn Quốc: có một số đạo luật về DNV&N. Có 12 đạo luật về DNV&N (1996), đạo luật về hợp tác giữa các DNV&N nhỏ (1991), luật phối hợp giữa các thành phần của DNV&N (1961), luật khuyến khích hệ thống thầu phụ (1975), luật khuyến khích DNV&N (1978), luật về mua sản phẩm của các DNV&N (1981), luật về thúc đẩy các DNV&N mới thành lập (1989), luật về ngân hàng DNV&N (1961), luật về tài trợ các DN sử dụng công nghệ mới (1989).... Nội dung của các luật này: Đạo luật cơ bản về DN nhỏ (1966) xác định khái niệm DN nhỏ, vạch ra định hướng cơ bản thúc đẩy DN nhỏ, thành lập uỷ ban rà soát chính sách liên quan tới DN nhỏ do Thủ tướng đứng đầu. Đạo luật về hợp tác giữa các DN nhỏ, ủng hộ thành lập hợp tác xã cho phép thành lập quĩ tương trợ DNV&N. Luật khuyến khích DNV&N (1978): hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho việc hiện đại hoá DN, hỗ trợ các DN mới thành lập, khuyến khích hợp tác. Tóm lại, hệ thống khung khổ pháp lý ở các nước được tạo ra nhằm: Thiết lập khái niệm khung về DN và khẳng định vai trò của các DNV&N được thừa nhận về mặt pháp lý cũng như khuyến khích tìm kiếm mọi giải pháp nhằm phát triển các DNV&N. 2-/ Thành lập các cơ quan Nhà nước chuyên trách về các DNV&N. ở các nước đều có cơ quan Nhà nước chuyên trách về các DNV&N. Mỹ: Tổng cục các vấn đề kinh tế nhỏ được thành lập từ 1953. Pháp: Uỷ ban quốc gia về công nghiệp nhỏ và vừa thành lập năm 1961 Inđônêsia: Có ban công nghiệp nhỏ thuộc Bộ công nghiệp với chức năng thực hiện vai trò quản lý nhà nước đối với các DNV&N như lập kế hoạch và chương trình phát triển, xúc tiến phát triển các DNV&N. Malaisia: phòng công nghiệp nhỏ thuộc Bộ công nghiệp thương mại thành lập năm 1989, với chức năng lập chương trình phát triển DNV&N, cung cấp tài chính, nối kết các hợp đồng kinh tế giữa DNV&N, cung cấp cơ sở dữ liệu cho Chính phủ hoạch định chính sách. ở nước này có tới 13 bộ và 30 cơ quan công cộng tham gia dưới hình thức này hay hình thức khác vào việc phát triển DNV&N. Philippines: có các tổ chức uỷ ban DN nhỏ và vừa, phòng phát triển kinh doanh, phòng công thương là cơ quan cao nhất về phối hợp thực hiện chính sách và kế hoạch phát triển các DNV&N. Singapore: có vụ DNV&N thuộc Bộ phát triển công nghiệp,... Ngoài ra Nhà nước thành lập các mạng lưới gồm các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ để hỗ trợ các DNV&N, từ các trường đại học cơ quan máy tính quốc gia, cơ quan phát triển thương mại, các tổ chức tài chính các trung tâm tư vấn. Thái Lan: Vụ khuyến khích phát triển công nghệ thuộc Bộ công nghiệp với chức năng chủ yếu là xúc tiến phát triển DNV&N, cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ, tư vấn cho các doanh nghiệp này. Nhật Bản: có hãng DNV&N thuộc Bộ công nghiệp ngoại thương (HITI) với chức năng chính là quyết định những vấn đề liên quan đến phát triển các DNV&N. Như vậy các cơ quan quản lý Nhà nước ở các nước phần lớn là các bộ phận nằm trong các Bộ có thể là Tổng cục, ban, uỷ ban, vụ,... với chức năng quản lý và định hướng phát triển cho các DNV&N. 3-/ Chiến lược phát triển và chính sách hỗ trợ DNV&N. Chiến lược phát triển các DNV&N: chủ yếu theo các hướng như: Xác định rõ ngành nghề cần hỗ trợ nhằm thực hiện các mục tiêu của từng nước, việc làm thu nhập,... hoạt động cần hỗ trợ đào tạo, mở rộng qui mô, hiện đại hoá DN, nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới,... Có giải pháp định hướng cho từng giai đoạn. Chính sách hỗ trợ DNV&N: chủ yếu tập trung vào chính sách thuế, vốn, đào tạo, công nghệ. ở CHLB Đức: các DN có lợi nhuận hàng năm dưới 2 triệu DM chỉ phải nộp thuế bằng 50% các hàng lớn. Chín phủ Đức tăng tài trợ cho các công trình nghiên cứu khoa học - ứng dụng và đổi mới các DNV&N năm 1988 là 749 triệu DM năm 1989 là 736 triệu DM, năm 1990 là 675 triệu. Chính phủ Đức có kế hoạch trợ giúp DNV&N hoạt động trong điều kiện thị trường chung Châu Âu. Chi phí của Nhà nước Đức cho các DNV&N năm 1991 là 1,3 tỷ DM. Nhật Bản: mức thuế thu nhập đánh vào các DNV&N chỉ bằng 1/3 các DN lớn. Pháp trong 5 năm đầu mới hoạt động, DN được giảm 75% thuế. Ngoài ra, nhiều nước sử dụng các hình thức khác, như trợ cấp xuất khẩu, bảo hiểm, khuyến khích các DN lớn chuyển giao công nghệ, mở rộng hệ thống vệ tinh đến các DNV&N, giũp đỡ đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp, tư vấn kỹ thuật công nghệ, khuyến khích thành lập hiệp hội các DNV&N. Nhà nước khuyến khích mở rộng sản xuất, tăng định mức khấu hao miễn thuế, không đánh thuế lợi nhuận dùng để trả lãi suất tín dụng. ở các nước có một số hình thức đáng chú ý như cấp vốn mạo hiểm thành lập ngân hàng chuyên trách đảm bảo tài chính cho hoạt động nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ mới. ở Mỹ có 10 ngân hàng như vậy với số vốn 16 tỷ USD, ở CHLB Đức có 40 tổ chức tương tự với số vốn 1,6 tỷ Mác. Một hình thức hỗ trợ phổ biến và có hiệu quả là hỗ trợ về tín dụng trực tiếp, cho vay lãi suất thấp, bảo lãnh tín dụng. Chẳng hạn ở Anh trong 5 năm (1982-1986), 15 nghìn DN nhỏ nhận các khoản tín dụng trị giá 500 triệu Bảng. Các bang ở CHLB Đức đã lập ra các quĩ bảo lãnh tín dụng để giúp các DNV&N vay vốn ngân hàng. EU: các biện pháp trợ giúp thất nghiệp, bảo lãnh tín dụng cho các DNV&N,... Nhưng không thành công vì không chú ý đến khía cạnh hiệu quả. Do đó EU chú ý đến các giải pháp hỗ trợ gián tiếp. Các biện pháp đẩy nhanh hợp tác giữa các DN bằng hệ thống các trung tâm. Trung tâm hợp tác kinh doanh, hệ thống hợp tác DN, công ty cổ phần Châu Âu. - Trợ giúp về công nghệ mới thông qua “nhóm lợi ích kinh tế chung”. - Trợ giúp đào tạo lao động thông qua hệ thống đào tạo ban đầu. -Hình thức cấp vốn mạo hiểm: lập các ngân hàng chuyên trách cung cấp tài chính cho các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng ở CHLB Đức có khoảng 40 tổ chức với số vốn 1,6 tỷ DM, Chính phủ Anh từ 1980-1985 đã cấp 1 tỷ bảng cho các DNV&N, Pháp bồi thường 50% chi phí cho các DN áp dụng công nghệ mới. Nhà nước đứng ra cho vay vốn bảo đảm thông qua ngân hàng Châu Âu đứng ra thực hiện. Từ 1984 các DNV&N nhận được trợ giúp. Năm 1988, các DNV&N nhận dược các khoản cho vay trọn gói bằng 16% trong tổng số vốn đầu tư của ngân hàng đầu tư Châu Âu. 4-/ Khuyến khích thành lập các tổ chức hỗ trợ và các tổ chức đại diện cho DNV&N. Các tổ chức hỗ trợ DNV&N ở các nước có thể do Nhà nước trực tiếp hay do tư nhân, nhưng phần lớn là do tư nhân thành lập có sự hỗ trợ của Nhà nước. Do đó các tổ chức này vừa mang tính chất kinh doanh vừa thực hiện chức năng hỗ trợ trên cơ sở nguồn ngân quĩ được cấp các tổ chức này có các chức năng chủ yếu như cung cấp vốn, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tiếp thị, đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp, tư vấn cho các DNV&N. ở các nước Châu á có nhiều tổ chức hỗ trợ DNV&N như: Ngân hàng Indonesia: với chức năng chủ yếu là cung cấp vốn cho các DNV&N. Công ty nghiên cứu và phát triển công nghệ thành lập năm 1978 với số vốn hoạt động hàng năm là 367.000 USD, chức năng hoạt động chủ yếu là nghiên cứu hỗ trợ DNV&N. Quỹ phát triển nghề thủ công: thành lập năm 1975 với chức năng chủ yếu là nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Viện quản lý, đào tạo và phát triển thành lập năm 1976 với ngân quĩ hoạt động hàng năm là 150.000 USD, chức năng chính là đào tạo chủ doanh nghiệp. * Malaisia: Công ty bảo lãnh tín dụng thành lập năm 1972 với chức năng chính là cung cấp vốn. Công ty MARA: thành lập năm 1960 với 3.000 nhân viên, vốn hoạt động hàng năm là 165 triệu USD chức năng chính là cung cấp vốn, tiếp thị, nghiên cứu, đào tạo, tư vấn cho DNV&N. Trung tâm phát triển tài chính: thành lập năm 1960 với 300 nhân viên, vốn hoạt động hàng năm là 2,5 triệu USD chức năng chủ yếu là cung cấp vốn và tư vấn cho các DNV&N. Trung tâm chất lượng quốc gia thành lập năm 1962 với 235 nhân viên, vốn hoạt động hàng năm 3,1 triệu USD, có chức năng đào tạo và tư vấn cho các DNV&N. Trung tâm công nghệ Cualalamper: có chức năng hỗ trợ, cung cấp và chuyển giao công nghệ cho DNV&N. * Hàn Quốc: Quỹ bảo lãnh tín dụng thành lập năm 1976 với số nhân viên là 1.190 người, chức năng chủ yếu là cung cấp vốn chuyển giao công nghệ cho các DNV&N. Viện phát triển công nghiệp Hàn Quốc(1970) với 140 nhân viên chức năng chính là đào tạo, tư vấn cho DNV&N. Trung tâm năng suất Hàn Quốc thành lập năm 1957, số vốn hoạt động hàng năm là 3 triệu USD, có chức năng đào tạo, cung cấp và chuyển giao công nghệ, tư vấn cho các DNV&N. Hội nghiên cứu các DN nhỏ thành lập năm 1978 vốn hoạt động hàng năm là 32.000 USD, chức năng chủ yếu là đào tạo chủ doanh nghiệp cung cấp và chuyển giao công nghệ. Ngân hàng DNV&N thành lập năm 1961 với 7.305 nhân viên có chức năng đào tạo và tư vấn cho các DNV&N. Theo tài liệu các tổ chức hỗ trợ DNV&N ở một số nước Châu á. chương II vai trò của chính phủ việt nam trong việc hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ I-/ Thực trạng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Nhờ có chính sách đổi mới và chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần đúng đắn, trong những năm qua khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có tốc độ tăng trưởng nhanh. Trong công nghiệp, giá trị tổng sản lượng trong 10 năm qua, tốc độ tăng trưởng trung bình 14%/năm. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp năm 1995 gấp 2,5 lần năm 1985. Tuy số lượng các DNNN giảm đi rất lớn nhưng giá trị tổng sản lượng của chúng lại tăng 282,4%. Công nghiệp tập thể giảm xuống còn 12,59% so với năm 1985, khu vực DN và công ty tư nhân tăng lên rất mạnh 449,5%. Cơ cấu các loại DN cũng thay đổi lớn. Thời gian qua mặc dù số lượng DNNN và hợp tác xã giảm mạnh, nhưng tính chung cho toàn ngành công nghiệp, số lượng các DNV&N tăng lên nhanh chóng DNNN giảm liên tục từ 3.141 (1986) xuống 2.002 DN (1994) và năm 1995 nếu tính cả xây dựng cũng chỉ có 3.291 DN. Hợp tác xã giảm rất mạnh từ 37.649 cơ sở (1986) xuống 13.086 năm 1990 và 1.100 cơ sở (1990), trong khi đó khu vực tư nhân trong công nghiệp (cả DN và công ty tăng rất nhanh: từ 567 DN (1986) lên 959 (1991) và 6.311 (1995). Tỷ trọng của khu vực ngoài quốc doanh trong toàn bộ nền kinh tế chiếm gần 60% năm 1995, riêng trong công nghiệp và xây dựng, khu vực ngoài quốc doanh chiếm 11,2% GDP tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm của khu vực này gần 7%, thấp hơn tốc độ tăng trưởng chung. Trong đó công nghiệp chỉ số này là 9,2%. Theo nguồn Niên giám thống kê 1995 - NXB TK. 1-/ Quy mô doanh nghiệp: Số liệu thống kê năm 1995 cho thấy, trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bình quân một DN có 434 triệu đồng vốn, 87 lao động. Đối với kinh tế cá thể, lao động bình quân là 1,7 người một cơ sở. Số liệu bảng 5 cho thấy, trên 97% số DN có qui mô vừa và nhỏ, trong đó 86,7% số DN có qui mô nhỏ và 48,8% số DN cực nhỏ. Riêng ngành công nghiệp: nếu xét về số lao động thì có 18% số DN cực nhỏ (dưới 10 lao động), 69% DNV&N nhỏ, còn lại là DN vừa. Như vậy số DNV&N chiếm trên 99,1%. Nếu xét về vốn, có 20,55 số DN thuộc loại cực nhỏ (dưới 100 triệu đồng), 55,6% số DN thuộc loại nhỏ. Trong tổng số 18,5% còn lại thì tỉ lệ DN vừa chiếm phần lớn. Bảng 5: Quy mô Doanh nghiệp ngoài quốc doanh theo lĩnh vực ở 12 tỉnh (Điều tra năm 1995) Quy mô doanh nghiệp Tổng số ngoài quốc doanh Trong đó công nghiệp Tổng số doanh nghiệp 100 100 Theo lao động: Dưới 10 người 48,76 17,99 từ 10-50 37,97 55,64 từ 50-100 6,62 13,43 từ 100-200 3,94 6,27 trên 200 3,16 5,74 Theo vốn: tổng số 100 100 dưới 100 triệu 25,48 20,53 từ 100-500 triệu 42,76 43,89 từ 500 triệu - 1 tỷ 12,81 15,15 trên 1 tỷ 18,95 20,76 Nguồn: Tổng cục Thống kê 2-/ Tình hình sản xuất kinh doanh của DNV&N. Từ năm 1986 đến nay, với sự chuyển hướng trong các chính sách đổi mới của Đảng, mà đánh dấu sự đổi mới là từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đó là sự thừa nhận kinh tế tư nhân, thực hiện kinh tế nhiều thành phần được tồn tại lâu dài, kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ hàng hoá và các loại hình kinh doanh mà Nhà nước không cấm. Tiếp theo đó là hàng loạt các văn kiện ra đời: Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị năm 1988, Nghị định 27,28,29/HĐBT năm 1988 về kinh tế cá thể, kinh tế hợp tác và hộ gia đình, Nghị định 66/HĐBT về nhóm kinh doanh dưới vốn pháp định và các Bộ Luật: Luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty, luật HTX, luật DNNN, luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã tạo cơ sở pháp lý và khuyến khích các DN thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh và các DNV&N thực sự được quan tâm và khuyến khích phát triển. Đặc biệt từ năm 1991 trở lại đây sau khi xoá bỏ bao cấp về căn bản và thực hiện hạch toán kinh doanh độc lập, tự tìm tòi phương án kinh doanh, xác định giá cả,... thực hiện sự bình đẳng giữ các DN thuộc mọi thành phhần kinh tế. Có thể thấy được các chính sách của Nhà nước tác động đến nền kinh tế như thế nào qua sự phát triển cả về số lượng và chất lượng của DN trong nền kinh tế. Tháng 8/1993 có 6.728 DN tư nhân, có 2.570 công ty TNHH và 91 công ty cổ phần nhưng chỉ đến tháng 12 /1993 con số này đã thay đổi tương ứng là 8.334 DN tư nhân, 3.287 công ty TNHH, 117 công ty cổ phần và 7.060 DNNN. Có thể ghi nhận rằng đây là giai đoạn hình thành các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần trong năm 1993 đạt kỷ lục nhất sau hơn 10 năm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế xét cả về mặt số lượng và qui mô vốn đầu tư vào sản xuất. Đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp, tốc độ phát triển rất nhanh qua các năm. Năm 1990 số DN ngoài quốc doanh là 3.020 trong đó có 660 DN là do Trung ương quản lý, 2.354 DN là do địa phương quản lý nhưng đến năm 1992 thì số DN quốc doanh đã tăng lên là 3.559 DN trong đó có 546 DN quốc doanh đã tăng lên là 3.559 DN trong đó có 546 DN do TW quản lý và 3.053 DN là do địa phương quản lý. Đối với khu vực ngoài quốc doanh con số này còn hơn hẳn nữa, năm 1990 tổng số các DN công nghiệp ngoài quốc doanh là 356.522 DN trong đó khu vực kinh tế tập thể là 21.901 DN, kinh tế tư nhân là 1.284 DN, kinh tế hỗn hợp là 333.337 cơ sở đến năm 1992 thì con số tương ứng là 8.829 DN thuộc khu vực kinh tế tập thể, 959 DN thuộc kinh tế tư nhân và 446.771 thuộc kinh tế hỗn hợp. Tổng số DN công nghiệp năm 1992 là 456.559 DN. Như vậy, nhìn chung giai đoạn 90-94 tăng bình quân 15-20% DN. Những năm tiếp theo với sự thay đổi mạnh mẽ cũng như sự trỗi dậy của các nền kinh tế khu vực Thái Lan, Singapore, Inđônêxia, cùng sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế thế giới, đòi hỏi sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ hơn và khốc liệt hơn. Năm 1995 Chính phủ tiếp tục thực hiện sự cải tổ thành phần kinh tế mạnh mẽ hơn nữa, đặc biệt là khu vực kinh tế Nhà nước, mạnh dạn hơn nữa trong việc thực thi giải pháp giải thể, sát nhập những DNNN làm ăn thua lỗ hoặc cho thực hiện theo luật phá sản, ngày càng làm cho khu vực kinh tế Nhà nước ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn trong vai trò chủ đạo là định hướng và dẫn đường cho các thành phần kinh tế khác, thông qua DNNN Chính phủ còn thực hiện sự điều tiết của mình đối với nền kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững. Có thể thấy điều đó qua tốc độ hình thành của các DN công nghiệp của các nước ở bảng sau: Bảng 6: Số DN sản xuất công nghiệp Hình thức DN 1995 1996 1997 1998 Số DNNN 287 292 272 271 TW quản lý 172 184 168 167 Địa phương quản lý 115 108 104 104 Số DN ngoài quốc doanh 17.674 17.486 16.284 14.008 Kinh tế tập thể 202 202 186 171 Kinh tế tư nhân 33 40 43 39 Kinh tế cá thể 1.7210 16.991 15.790 13.558 Kinh tế hỗn hợp 229 253 265 240 Nguồn: Niên giám thống kê 1998 - Cục Thống kê Hà Nội. Đến tháng 7/1997 sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực mà khởi điểm từ Thái Lan sau đó lan ra toàn khu vực và ảnh hưởng mạnh mẽ đến các khu vực kinh tế có nhiều mối quan hệ kinh tế Châu á như Châu Âu, Châu Mỹ la tinh. Nhà nước ta đã thực hiện nhiều biện pháp mạnh mẽ để tiếp tục giữ vững sự ổn định của kinh tế trong nước, đầu tiên Nhà nước thực hiện luật sửa đổi luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, sửa đổi luật khuyến khích đầu tư trong nước và gần đây đang tiếp tục hoàn thiện hơn nữa về thể chế đối với các thành phần kinh tế trong nước như hợp nhất luật DN tư nhân và luật công ty thành luật DN theo hướng mở rộng thị trường, cho phép thành lập DN dễ dàng hơn nhanh gọn hơn, đặc biệt là thủ tục hành chính điều mà làm nản lòng các nhà đầu tư nhất. Nhà nước cho phép các DNNN thực hiện cơ chế thuê giám đốc, tổng giám đốc đây là một điều mới mẻ đối với nền kinh tế Việt Nam, tạo điều kiện cho DNNN tạo ra được hiệu quả thực sự trong quá trình sản xuất - kinh doanh với sự thay đổi của Nhà nước, số DNNN vẫn không tăng lên là bao nhiêu, chỉ có thành phần kinh tế tư nhân, công ty cổ phần và kinh tế cả thể,... là tăng lên, điều đó cho thấy sự điều chỉnh này là hợp lý. Bảng 7: Số DN trong toàn bộ nền kinh tế năm 1998 Loại hình DN 1995 1996 1997 1998 Kinh tế tập thể 1.810 1.760 2.200 2.512 Kinh tế tư nhân 10.818 18.540 20.800 24.072 Công ty cổ phần 138 195 246 288 Công ty TNHH 4.105 6.230 8.450 10.005 DN có vốn nước ngoài 5.668 1.648 2.012 2.061 Kinh tế cá thể 1.882.798 2.215.000 2.200.000 2.230.121 DNNN 5.962 5.790 5.862 5.740 Nguồn: Vụ doanh nghiệp - Bộ Kế hoạch và đầu tư. II-/ Tác động của chính phủ Việt Nam đối với sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 1-/ Cơ chế và mô hình hỗ trợ ở Việt Nam. ở Việt Nam, cơ chế và mô hình hỗ trợ đã được đổi mới cùng với việc chuyển sang kinh tế nhiều thành phần, vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường. So với trước đây, nhiều vấn đề về cơ chế hỗ trợ đã thay đổi căn bản. Tuy nhiên do mới chuyển sang kinh tế thị trường, nên cơ chế và mô hình hỗ trợ, một mặt chịu ảnh hưởng lớn của tư duy theo cơ chế cũ, mặt khác chưa thật sự phù hợp với điều kiện của nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Cơ chế hỗ trợ DNV&N có những điểm cơ bản như dưới đây: - Quy trình hỗ trợ các DNV&N theo các bước: trên cơ sở quan điểm, đường lối trong một số trường hợp cả chiến lược phát triển của Đảng, Nhà nước thể chế hoá thành luật và các văn bản dưới luật tạo khung khổ pháp lý, chính quyền các cấp triển khai thực hiện. Điểm khác biệt lớn trong cơ chế và mô hình hỗ trợ DNV&N ở Việt Nam là có sự phân biệt giữa hai nhóm DNV&N. Hỗ trợ DNV&N có điểm khác so với hỗ trợ khu vực ngoài quốc doanh. Bảng 8: Sự khác biệt giữa cơ chế hỗ trợ trong mô hình kinh tế cũ với mô hình kinh tế hiện nay ở Việt Nam Cơ chế hỗ trợ hiện nay Cơ chế hỗ trợ trước đây Mục tiêu Khai thác mọi tiềm năng của các thành phần để phát triển kinh tế xã hội đất nước. Phát triển khu vực DNNN qui mô lớn. Đối tượng Các DN trong các ngành chiến lược thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Các DNNN và hợp tác xã Nội dung Hỗ trợ 1 số khâu quan trọng mà doanh nghiệp thiếu. Cung cấp các đầu vào một cách trực tiếp, gián tiếp tiêu thụ các sản phẩm đầu ra. Phương pháp Kết hợp cả phương pháp trực tiếp và gián tiếp, nhưng phương pháp gián tiếp là chủ yếu thông qua môi trường. Chủ yêu bằng kế hoạch phân bổ vật tư và sản phẩm. Công cụ Chiến lược, chính sách và bộ máy điều hành. a. Quan điểm, chiến lược hỗ trợ các DNV&N. Từ Đại hội VI của Đảng (1986) đến nay, quan điểm của Đảng là xoá bỏ cơ chế cũ, hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Quan điểm này đã thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển mạnh, nhất là khu vực kinh tế tư nhân. Nhờ đó, đối tượng quản lý của Nhà nước đã thay đổi căn bản. Do vậy._.g cho mọi nước, mà chúng ta phải vừa làm vừa áp dụng sáng tạo trong điều kiện của Việt Nam. 2.2. Bảo hộ phát triển DNV&N trong từng giai đoạn phát triển: Trong tiến trình Việt Nam hội nhập các nước trong khu vực và trên thế giới thông qua các tổ chức kinh tế - xã hội như ASEAN, APEC, AFTA, WTO,... thì không chỉ có một chiều mà các DN của các nước trong khu vực, trong cùng một tổ chức với Việt Nam sẽ cùng thâm nhập vào thị trường nước ta. Với xuất phát điểm của một nước yếu kém về nhiều mặt kinh tế, công nghệ, kỹ thuật lạc hậu thấp kém,... thì các sản phẩm được tạo ra trong nước không thể cạnh tranh được với các sản phẩm của các DN nơi có nền kinh tế phát triển cao, kỹ thuật tiên tiến. Vì vậy, để tránh cho tình trạng DN sẽ mất thị phần ở trong nước và khó có thể vươn ra được thị trường nước ngoài, thì Chính phủ Việt Nam cần có những chính sách kịp thời để bảo hộ cho các DN đặc biệt là DNV&N có thể tồn tại và trở nên cứng cáp hơn trước khi phải đối mặt với xu hướng quốc tế hoá và toàn cấu hoá cụ thể là: Căn cứ vào tiến trình Việt Nam gia nhập các tổ chức mậu dịch tự do AFATA, APEC,... để có kế hoạch cụ thể cho các DN biết và có biện pháp, chiến lược đúng đắn trong phương án sản xuất - kinh doanh. Trong thời gian chưa đến thời hạn mở cửa thuế quan cần có những kế hoạch bảo hộ vững vàng, tạo thời cơ cơ hội cho DNV&N phát triển và phải tránh được độc quyền trong nước vì như vậy sẽ tạo ra “sức ỳ” ở bản thân DN, kích thích sự đổi mới trong phương pháp quản lý, trong công nghệ để ngày càng tạo ra sản phẩm có nhiều chất xám có thể cạnh tranh được với thị trường quốc tế. Phát huy những mặt mạnh tận dụng tối đa lợi thế so sánh của các DN Việt Nam với các DN nước ngoài. Chính phủ nên có kế hoạch xem xét những ngành nào cần phải tiếp tục bảo hộ và ngành nào cần sớm dở bỏ bảo hộ hàng rào thuế quan và nếu có thể thì gia hạn lui thời gian gia nhập đến thời gian cần thiết tạo điều kiện tối ưu cho DN Việt Nam tham gia hợp tác với thị trường khu vực và quốc tế mà bất lợi là tối thiểu. 2.3. Phát triển DNV&N là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, nên các DN và các nhà đầu tư còn chưa có kinh nghiệm về kinh tế thị trường, sức ỳ còn lớn, tâm lý chụp dật còn phổ biến, chưa chú ý nhiều đến chiến lược kinh doanh lâu dài. Tình hình đó phát triển DNV&N sẽ tạo điều kiện cho một đội ngũ kinh doanh của Việt Nam ra đời, tạo điều kiện về yếu tố con người của các giai đoạn phát triển tiếp theo. Phát triển DNV&N sẽ khuyến khích và tăng cường cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước, làm cho nền kinh tế năng động hơn. Điều đó đòi hỏi DN phải vươn lên không ngừng bằng chất lượng và hiệu quả. Nhờ đó nên kinh tế sẽ có cơ hội phát triển sức cạnh tranh của mình trên thị trường thế giới. DNV&N có ưu thế tạo được nhiều công ăn việc làm. Điều này hết sức quan trọng đối với một nước đang phát triển có tiềm năng về lao động đồng thời lại là một gánh nặng xã hội như nước ta, phát triển DNV&N vừa góp phần thu hút thêm lao động, giảm sức ép về việc làm, tăng thêm thu nhập để cải thiện đời sống cho người lao động, vừa góp phần sử dụng tốt hơn nguồn lực sẵn có nhất của nền kinh tế, đó là lao động để tạo tiền để tích luỹ cho các giai đoạn phát triển sau. Phát triển DNV&N tức là cơ hội cho các nhà đầu tư bỏ vốn vào tự huy động vốn của mình và của người khác vào kinh doanh. Đây cũng là một biện pháp góp phần làm tăng tỷ lệ tích luỹ của nền kinh tế để đạt được mục tiêu tăng trưởng của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của cả nước. 2.4. DNV&N cần phải lấy quan điểm kinh tế làm thước đo. Trong cơ chế thị trường, tiêu thức quan trọng để đánh giá DN là hiệu quả kinh tế - xã hội, mặc dù DN hoạt động vì mục tiêu kiếm lợi nhuận là hiệu quả kinh tế chủ yếu nhưng trên góc độ quản lý không thể coi nhẹ vấn đề xã hội, vì vậy phải gắn hiệu quả kinh tế xã hội làm một - kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới chỉ ra rằng phát triển DNV&N sẽ đáp ứng tốt nhất yêu cầu quan điểm hiệu quả kinh tế - xã hội. Do đó chính sách hỗ trợ phải đảm bảo yêu cầu: - Thúc đẩy DNV&N tăng lợi nhuận. - Bảo đảm mức doanh thu, mức lãi trên một đồng vốn. - Thu hút nhiều lao động xã hội. - Để đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội, pháp luật, chính sách và định hướng phát triển nhằm vào sự khuyến khích phát triển mạnh mẽ DNV&N. 2.5. DNV&N cần được ưu tiên phát triển trên cơ sở thị trường trong một số ngành có lựa chọn. Trong điều kiện nền kinh tế cần phải trở nên năng động, nhanh chóng thích nghi và phù hợp với nền kinh tế trong khu vực và thế giới, để từ đó DNV&N ngày càng vươn xa hơn ra thị trường thế giới thì các DNV&N cần phải được định hướng và lựa chọn phát triển trên một số ngành đó là: Các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, hàng thay thế nhập khẩu và hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh. Các ngành đào tạo đầu vào cho các DN lớn, cũng như trong các lĩnh vực phục vụ đầu ra cho các sản phẩm của DN lớn, tức là đảm nhận vai trò là mạng lưới phân phối, gia công bán thành phẩm, chế biến, chế tạo những sản phẩm chi tiết cần sự chuyên môn hoá cao cho các DN lớn. Các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp nông thôn, bao gồm các sản phẩm truyền thống thuộc về các làng nghề. 2.6. Ưu tiên phát triển DNV&N ở nông thôn, cả trong công nghiệp và các ngành dịch vụ, coi công nghiệp vừa và nhỏ là bộ phận quan trọng nhất của chiến lược CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế, phải tập trung thúc đẩy DNV&N phát triển theo hướng CNH-HĐH, có nghĩa là từng bước chuyển đổi căn bản toàn diện phương thức sản xuất kinh doanh của các DN từ lao động thủ công, lao động bằng máy móc, thiết bị hiện đại là chủ yếu, tạo ra năng xuất lao động xã hội cao. Để thực hiện quan điểm này cơ chế mới phải có tác dụng: - Thúc đẩy các DN đầu tư đổi mới kỹ thuật công nghệ. - Tăng cường hoạt động dịch vụ thông tin kỹ thuật, công nghệ. Trong chiến lược CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn. Nước ta hiện nay phát triển DNV&N là một mô hình thích hợp nhất để chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn. Bởi vì, hiện nay nước ta có khoảng 70-80% dân số sống ở nông thôn. Quá trình phát triển những năm qua đã tạo ra sự chênh lệch nhất định về thu nhập nói riêng và về trình độ phát triển nói chung giữa thành thị và nông thôn. Tình trạng nguồn nhân lực dồi dào ở nông thôn chưa được sử dụng tốt cho phát triển kinh tế đã và đang dẫn đến sức ép di cư vào các trung tâm công nghiệp và đô thị lớn, dễ gây nên những biến động lớn khôn lường trong xã hội. Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy đối với các nước đông dân ở Châu á thì chiến lược phát triển đi từ nông nghiệp và nông thôn là khôn ngoan và có hiệu quả do một số lý do sau: Tập trung phát triển nông thôn sẽ làm tăng thu nhập của bộ phận lớn dân cư sống ở nông thôn, góp phần làm giảm tối thiểu nhu cầu di cư vào các thành phố và trung tâm công nghiệp, ổn định xã hội, tránh cho các thành phố rơi vào tinh trạng quá tải và hỗn độn về mọi mặt. Thu nhập dân cư nông thôn tăng lên làm cho sức mua của xã hội tăng lên. Đó là yếu tố kích thích sản xuất không chỉ đối với kinh tế nông thôn mà còn đối với cả kinh tế thành thị. Điều đó sẽ làm tăng mối liên kết giữa thành thị và nông thôn, góp phần giảm chênh lệch về trình độ phát triển giữa thành thị và nông thôn. Sử dụng được nguồn lao động dồi dào một trong hai yếu tố quan trọng cho tăng trưởng đó là vốn và lao động trong khi nước ta lại đang thiếu vốn. Phát triển DNV&N trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá ở nông thôn là góp phần thúc đẩy thị trường ở nông thôn phát triển, thu hút được phần lớn số lao động nhàn rỗi. Phát triển mạng lưới phân phối nhiều cấp rộng khắp ở nông thôn sẽ tạo điều kiện tiêu thụ hàng hoá công nghiệp tốt hơn. Tuy nhiên, vì nhiều cấp nên hệ thống này có thể sẽ làm tăng chi phí dịch vụ. Kinh nghiệm một số nước cho thấy, nếu kết hợp với hệ thống trả lương, thưởng cao thì hệ thống phân phối rộng rãi đó sẽ khuyến khích tiêu thụ hàng hoá nội địa - điều này lại đến lượt mình kích thích sản xuất. Nông thôn có sẵn nguồn nguyên liệu tại chỗ phong phú, phát triển các sản phẩm công nghiệp tiêu dùng, nhất là cho các ngành chế biến lương thực, thực phẩm. Công nghiệp nông thôn có thể phát triển ở một số ngành và một số sản phẩm sau: Các ngành đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tại chỗ: chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng, các sản phẩm kim loại. Cơ khí sửa chữa phục vụ sản xuất và đời sống. May mặc, sản phẩm mây tre, thủ công mỹ nghệ. 2.7. DNV&N được khuyến khích phát triển trong một số ngành nhất định mà DN lớn không có lợi thế tham gia. Nguyên lý chung là sản xuất lớn, sản xuất hàng loạt có hiệu quả hơn sản xuất nhỏ về mặt kinh tế. Tuy nhiên, nếu xét về hiệu quả kinh tế - xã hội và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế nói chung, chứ không phải riêng của một doanh nghiệp hay công ty nào, thì không phải hoàn toàn như vậy. Thị trường có nhiều phân đoạn: phân đoạn dành cho sản phẩm có số lượng tiêu thụ lớn, phân đoạn dành cho các sản phẩm đơn chiếc, đáp ứng hết sức riêng của một nhóm người hay một hộ tiêu thụ nào đó. Chính DN vừa và nhỏ thích hợp với loại thị trường thứ 2 này. Thông thường, nếu không có sự can thiệp của Nhà nước thì DN luôn luôn tìm cách chiễm lĩnh thị trường, bất kể là lớn hay nhỏ. Vì vậy, cần phải có khung khổ luật pháp rõ ràng qui định loại sản phẩm nào, ngành sản xuất nào với tỉ trọng bao nhiêu phải do DNV&N đảm nhận, DN lớn không được chiếm mức tỉ trọng cao hơn mức qui định đó. 2.8. Phát triển DNV&N trong mối liên kết chặt chẽ với DN lớn. DNV&N và DN lớn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình phát triển kinh tế của một nước, nó hỗ trợ đắc lực cho nhau trong sản xuất kinh doanh. Vì vậy theo quan điểm này xác định những DN lớn phát triển là “hạt nhân” đứng vị trí trung tâm, DNV&N là những “vệ tinh” đứng xung quanh, đó là cơ sở ban đầu để hình thành các tập đoàn kinh tế lớn, có đủ sức cạnh tranh trên các thị trường, có khả năng đáp ứng nhu cầu của vùng về một số loại hàng hoá nhất định. Tuy nhiên DNV&N vẫn có tính độc lập trong việc đáp ứng nhu cầu ở các vùng nhỏ, vùng xa, vùng cong của đường phân phối, cũng như độc lập trong sản xuất kinh doanh với các DN lớn. Yêu cầu của quan điểm này là chính sách tạo ra môi trường cho sự liên kết, hợp tác kinh doanh giữa các DN lớn với DNV&N, khuyến khích các DN lớn hình thành hệ thống vệ tinh bao gồm cả những mối liên kết ngang, liên kết dọc trong quá trình sản xuất hay trong bao tiêu sản phẩm, cung ứng vật tư máy móc, thiết bị,... Mối liên hệ đó được thể hiện: - Phân công chuyên môn hoá giữa DNV&N, DN lớn sao cho hiệu quả. DNV&N tạo đầu vào vừa góp phần tiêu thụ đầu ra của DN lớn. - DN lớn hỗ trợ DNV&N để đào tạo tay nghề, trao đổi thông tin, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý. Gia thầu lại cho DNV&N những phần việc mà DN lớn ký với Nhà nước trong các hợp đồng lớn. 2.9. Nên có một khu công nghiệp tập trung ở các thành phố dành riêng cho DNV&N. Kinh nghiệm ở một số nước cho thấy, sự ra đời của các khu công nghiệp Việt Nam tập trung sẽ có một số tác dụng sau: - Tạo điều kiện thuận lợi cho các DNV&N về cơ sở hạ tầng: điện nước, thông tin, liên lạc, tiếp cận thị trường giải quyết khó khăn về mặt bằng sản xuất cho DNV&N. - Nhà nước dễ dàng thực hiện các chính sách ưu đãi và tiến hành hỗ trợ cho các DNV&N nằm trong khu công nghiệp. Rõ ràng, việc tập trung cho DNV&N là một bộ phận của chiến lược phát triển DNV&N ở nước ta. 3-/ Một số chỉ tiêu định hướng phát triển DNV&N. Căn cứ vào giả thiết là tốc độ tăng trưởng của khu vực DNV&N ở mức trung bình so với tốc độ tăng trưởng chung của toàn bộ nền kinh tế. Bởi vì trong những năm qua và những năm tiếp theo, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế vẫn chủ yếu là do tốc độ tăng trưởng của DN lớn quyết định. Do đó, giả thiết rằng khu vực DNV&N tăng trưởng ở mức trung bình có thể coi là hợp lý và chấp nhận được. Ta có thể đưa ra dự kiến một số chỉ tiêu quan trọng của khu vực DNV&N ở Việt Nam như sau: Bảng 13: Dự kiến một số chỉ tiêu phát triển DNV&N Chỉ tiêu Năm 2000 2005 2010 1. Tỉ trọng GDP (%) 25 26,0 28,0 2. Tỉ trọng lao động (%) 25,5 26,5 29,0 3. Tỉ trọng giá trị TSLCN (%) 32,0 33,0 34,0 Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư Ngoài các chỉ tiêu cơ bản nêu trên, DNV&N cũng có thể gia tăng phần đóng góp của mình vào giá trị xuất khẩu của cả nước, xét về giá trị tuyệt đối. Về tỉ trọng phần của DNV&N trong giá trị xuất khẩu có thể không tăng so với hiện nay vì sức cạnh tranh trên thị trường thế giới của các DNV&N còn rất hạn chế kể cả trong những năm sắp tới. II-/ Kiến nghị nhằm tăng cường vai trò của chính phủ trong việc hỗ trợ DNV&N. Như đã đề cập ở trên, các DNV&N ở Việt Nam nay chưa phát triển với tiềm năng vốn có của nó và đang gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Để tạo môi trường thuận lợi cho các DNV&N hoạt động cần phải làm nhiều việc, thực hiện nhiều biện pháp khác nhau. Để các đề xuất mang tính khả thi cần chia các giải pháp thành dài hạn, trung hạn và ngắn hạn. Trước hết tập trung các giải pháp ngắn hạn, giải quyết những vấn đề bức bách nhất đang cản trở sự phát triển của DNV&N, đồng thời từng bước thực hiện giải pháp dài hạn, trung hạn. 1-/ Các giải pháp dài hạn. 1.1. Xúc tiến xây dựng chiến lược phát triển khu vực DNV&N. ở Việt Nam chiến lược này phải do một cơ quan soạn thảo có thể là Bộ kế hoạch và đầu tư hoặc phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, và phải được Chính phủ phê duyệt. Căn cứ để xây dựng chiến lược phát triển khu vực DNV&N là chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020 cũng như đường lối công nghiệp hoá hiện đại hoá được nêu tại các văn kiện Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chiến lược này cần được khẳng định và nêu bật được vai trò của các DNV&N trong nền kinh tế Việt Nam đưa ra những hướng ưu tiên phát triển của khu vực này theo ngành, theo vùng lãnh thổ đồng thời đưa ra những định hướng lớn phát triển công nghệ, cơ chế chống độc quyền trong nền kinh tế,... Chiến lược này sẽ đảm bảo tính nhất quán trong phát triển DNV&N. 1.2. Soạn thảo và ban hành luật DNV&N. Kinh nghiệm phát triển ở Việt Nam cho thấy rằng một khuôn khổ pháp lý rõ ràng là rất cần thiết cho sự phát triển. Nó hạn chế trong việc tuỳ tiện thực hiện các chính sách. Một trong những nguyên nhân làm cho hạn chế vai trò của DNV&N ở Việt Nam là do chưa có khái niệm chính thức của Nhà nước về DNV&N. Vì vậy nhiều chương trình hỗ trợ cho các DNV&N nhưng khi triển khai lúng túng và được thực hiện tuỳ tiện. Nhiều khi chính sự không rõ ràng trong quan niệm về DNV&N là các kẽ hở tạo ra tham nhũng. Trong luật DNV&N phải nêu được cách xác định DNV&N, công bố thái độ của Nhà nước đối với khu vực này, những chính sách để khuyến khích khu vực này phát triển. Nhiều nước trên thế giới đã có luật tương tự ở đây Nhật Bản có thể là một ví dụ tốt cho Việt Nam học tập. 1.3. Tạo điều kiện để thiết lập quan hệ kinh doanh, hỗ trợ lẫn nhau giữa DNV&N đối với các DN lớn với các Tổng công ty của Nhà nước. Tất nhiên mối quan hệ ở đây do thị trường quyết định nhưng vai trò của Nhà nước trong định hướng cũng như khuyến khích thông qua chính sách thuế, tín dụng,... cũng đóng vai trò rất quan trọng. Đồng thời từng bước xoá bỏ những phân biệt đối xử theo nguồn gốc sở hữu DN. 2-/ Các giải pháp trung hạn: Các giải pháp trung hạn tập trung vào việc đổi mới những cơ chế chính sách có tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DNV&N. 2.2. Chính sách đất đai: Để tạo điều kiện thuận lợi huy động năng lực kinh doanh cho các DNV&N Nhà nước cấn chú trọng giải quyết các vấn đề liên quan đến đất đai như sau: Thứ nhất: tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục cho các nhà kinh doanh có khả năng mua quyền sử dụng đất hợp pháp từ chủ thể kinh tế khác được chuyển đổi mục đích sử dụng đất nếu xét thấy việc chuyển đổi ấy tuân thủ đúng qui hoạch phát triển kinh tế xã hội của vùng, không ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Thứ hai: tiến tới cho phép khu vực DNV&N tư nhân được hưởng những quyền lợi về sử dụng đất đai như đối với DNNN. Thứ ba: mở rộng quan hệ liên kết liênh doanh giữa DNV&N khu vực tư nhân với DNNN để tận dụng lợi thế của mỗi bên, trong đó tận dụng mặt bằng kinh doanh của nhiều DNNN hiện nay đang còn rất lãng phí. Thứ tư: hình thành các khu công nghiệp tập trung để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Có thể coi đây là một hướng quan trọng nhằm xây dựng một nền kinh tế hiện đại. Việc xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau các tổ chức trong nước tự xây dựng và kinh doanh, các tổ chức kinh tế trong nước liên kết với các tổ chức kinh tế nước ngoài để xây dựng và kinh doanh. 2.2. Chính sách tài chính - tín dụng. Để hỗ trợ thiết thực cho các DNV&N cần đổi mới chính sách tài chính theo các hướng chủ yếu sau đây: * Thứ nhất bảo đảm các DNV&N khu vực tư nhận được thực sự bình đẳng như các DNNN trong vay vốn ngân hàng. Sự bình đẳng đang tồn tại hiện nay chủ yếu thể hiện ở các điều kiện phân biệt theo thành phần kinh tế. Chẳng hạn các DNV&N khu vực tư nhân không được lấy giá trị quyền sử dụng đất để thế chấp khi vay vốn ngân hàng. Ngay việc công chứng và đánh giá giá trị công trình trên đất cũng rất phức tạp và phiền hà nhiều khi gây bất lợi cho người chủ sở hữu. Trong khi thừa nhận các ngân hàng thương mại cũng là một loại DN kinh doanh, nó có trách nhiệm bảo đảm an toàn đồng vốn của mình, nó phải đưa ra những điều kiện ràng buộc chặt chẽ với khách hàng. Nhưng không nên đồng nhất ràng buộc chặt chẽ và chấp hành đúng nguyên tắc với thái độ cửa quyền gây phiền hà đối với khách hàng. Để tạo cho các DN khắc phục khó khăn về vốn, đồng thời đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng, vấn đề không phải những ràng buộc khắt khe và phân biệt theo thành phần kinh tế, là những biện pháp hữu hiệu ngân hàng cần thực hiện để phòng ngừa rủi ro, ngân hàng nắm thông tin của khách hàng từ nhiều kênh khác nhau, chấn chỉnh hệ thống kế toán, kiểm toán, đảm bảo khả năng cập nhật số liệu hàng ngày. Trong điều kiện nguồn vốn của ngân hàng thương mại trong nước có hạn cần nghiên cứu giải quyết các điều kiện để các DNV&N có thể vay vốn từ bên ngoài. Xoá bỏ tình trạng có tiền nhưng không giải ngân được như hiện nay. * Thứ hai: hình thành quĩ hỗ trợ đầu tư để cho vay đầu tư trung và dài hạn. Việc hình thành quĩ hỗ trợ này đã được ghi rõ tại điều 7 luật khuyến khích đầu tư trong nước. Song việc triển khai thực tế còn nhiều khó khăn, đặc biệt là những phiền hà trong việc lo đủ những xác nhận về đối tượng được hưởng ưu đãi. Để thực hiện điều khoản này của luật đầu tư cần giải quyết một số vấn đề cấp thiết sau: Xác định rõ cơ chế, quĩ hỗ trợ đầu tư, ví dụ quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, quĩ hỗ trợ đầu tư đổi mới công nghệ, quĩ hỗ trợ đầu tư đổi mới công nghệ, quĩ hỗ trợ đầu tư đào tạo nhân lực. Xác định rõ cơ chế tổ chức và hoạt động của loại quĩ này, nói chung quĩ có nhiệm vụ huy động vốn trong nước, tạo điều kiện huy động vốn cho đầu tư phát triển, các quĩ này có vai trò như một tổ chức tài chính trung gian riêng biệt được hưởng ưu đãi của Chính phủ và giành ưu đãi cho các tổ chức nhận hỗ trợ. Xác định rõ đối tượng nhận hỗ trợ với những điều kiện cụ thể kèm theo. Bảo đảm hỗ trợ đúng địa chỉ và hiệu quả của sự hỗ trợ. * Thứ ba: mở rộng hình thức tín dụng thuê mua. Mở rộng hình thức tín dụng thuê mua là giải pháp hữu hiệu giúp các DN khắc phục khó khăn về vốn để đầu tư đổi mới công nghệ mở rộng sản xuất kinh doanh với hình thức này các ngân hàng thương mại tháo dỡ được tình trạng “đóng băng” về vốn và đảm bảo an toàn hơn hình thức thế chấp tài sản. Tín dụng thuê mua là loại hình tín dụng trung gian dài hạn, người có nhu cầu không nhận tiền mua sắm thiết bị, tài sản cho mình mà nhận trực tiếp tài sản phù hợp với nhu cầu sử dụng. Người thuê mua thanh toán bằng tiền theo phương thức trả dần và sau thời hạn sử dụng nhất định, có thể mua lại chính tài sản đó. Trong điều kiện hiện nay của nước ta, môi trường kinh doanh chưa ổn định các ngân hàng thương mại gặp nhiều rủi ro trong kinh doanh, việc cho vay trung và dài hạn gặp nhiều khó khăn phái ngân hàng nếu có khả năng thực hiện cho vay trung và dài hạn, thường đòi hỏi các chủ đầu tư làm ăn có hiệu quả và phải có tài sản thế chấp. Đó là điều kiện không phải chủ đầu tư nào cũng có khả năng đáp ứng. Với hình thức tín dụng thu mua, điều kiện tiên quyết là có hiệu quả, điều kiện thế chấp được đặt ở vị trí hàng thứ, vì bản thân hợp đồng thuê mua đã bao hàm nội dung thế chấp. Song để thực hiện hình thức này lại đòi hỏi ở phía ngân hàng phải thoả mãn một số điều kiện nhất định, mà quan trọng nhất trong đó là phải am hiểu nhu cầu của DN, thị trường tài sản và phải có nguồn vốn lớn. * Thứ tư: mở rộng các quan hệ liên kết liên doanh giữa các DNV&N với các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế, trước hết là tổ chức kinh tế Nhà nước. Mở rộng các quan hệ liên kết, liên doanh trong hoạt động kinh tế là việc làm phù hợp với xu thế khách quan. Thông qua các quan hệ liên kết này, các DN có thể thực sự hỗ trợ nhau trong sản xuất kinh doanh. Trong thực tế đã xuất hiện các quan hệ liên kết giữa DN, tổ chức kinh tế Nhà nước với các DN khu vực tư nhân. Trong thời gian tới cần đẩy mạnh hơn quan hệ liên kết này dưới những hình thức khác nhau. DNNN liên doanh với DN tư nhân hình thành tổ chức kinh tế mới. Một bộ phận DNNN liên doanh với tư nhân hình thành pháp nhân mới. Ngân hàng thương mại Nhà nước hùn vốn vào DN tư nhân hình thành pháp nhân mới. Dù dưới hình thức nào cũng phải tạo lập khung pháp lý cơ bản về tổ chức và hoạt động của pháp nhân này và tôn trọng nguyên tắc tự nguyện cùng có lợi. 2.3. Chính sách thuế: Việt Nam đang trong quá trình cải cách hệ thống thuế đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới vấn đề này ở đây chỉ đề cập một số điểm sau: * Thứ nhất: thuế là công cụ quan trọng của Nhà nước trong quản lý vĩ mô nền kinh tế. Thuế có 3 chức năng cơ bản: - Bảo đảm nguồn thu ngân sách. - Kích thích phát triển sản xuất kinh doanh. - Điều tiết sản xuất kinh doanh và thu nhập. Trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách thuế, cần đảm bảo đồng thời cả ba chức năng ấy. Nghĩa là bảo đảm nguồn thu ngân sách, đồng thời kích thích sản xuất kinh doanh phát triển, nuôi dưỡng nguồn thu và bảo đảm công bằng xã hội. * Thứ hai: tháng 5-1997 quốc hội đã thông qua luật thuế giá trị gia tăng và luật thuế thu nhập DN đó là những thay đổi cơ bản trong việc thực hiện cải cách thuế, quán triệt đầy đủ hơn các chức năng nêu trên. Từ nay đến khi các luật thuế đó có hiệu lực thi hành cần xúc tiến khẩn trương và nghiêm túc việc chuẩn bị các điều kiện cơ bản để triển khai thực hiện có hiệu quả các luật thuế ấy. * Thứ ba: việc cải cách chính sách thuế cần hướng vào việc bảo đảm sự bình đẳng của các DN trong kinh doanh. Tuy nhiên cũng cần nhấn mạnh rằng, sự bình đẳng đó không đồng nghĩa với bình quân, mà phải giành những ưu đãi để khuyến khích các chủ thể kinh tế hướng theo mục tiêu mà Nhà nước dự định. Những ưu đãi về thuế phải nhằm vào: - Phân biệt theo ngành nghề: những ngành nghề khuyến khích phát triển sẽ nhận được ưu đãi về thuế hơn các ngành khác. - Phân biệt theo vùng: việc đầu tư vào các vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi và dân tộc sẽ được ưu đãi hơn các vùng có điều kiện đầu tư kinh doanh thuận lợi. - Phân biệt theo quá trình tổ chức kinh doanh các DN mới đi vào sản xuất kinh doanh những bộ phận mới được mở rộng ở các DN đang hoạt động sẽ được ưu đãi thuế. - Phân biệt theo sự tác động tới việc giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội sử dụng nhiều lao động nữ thu hút các đối tượng chính sách,... Như vậy, sự ưu đãi về thuế hoàn toàn không được xác định theo thành phần kinh tế và theo nguồn gốc đầu tư. 2.4. Chính sách thị trường. Cũng như các DN thuộc các thành phần kinh tế khác, thị trường đang là vấn đề thời sự nóng bỏng, làm mối quan tâm hàng đầu của các DNV&N sự nỗ lực của bản thân DN chỉ mang lại kết quả đầy đủ nếu nó được hoạt động trong khuôn khổ một chính sách thị trường rõ ràng và nhất quán của Nhà nước. Chính sách thị trường của Nhà nước phải phát huy được khả năng sở trường của các DNV&N, hướng nó vào góp phần thực hiện mục tiêu chung của hệ thống, để phát huy khả năng và tạo điều kiện thuận lợi cho các DNV&N phát triển mạnh mẽ, ổn định và đúng hướng, cần chú ý một số vấn đề cơ bản sau: * Thứ nhất: tạo lập khung khổ pháp lý rõ ràng và ổn định cho việc thực hiện các hoạt động thương mại trên thị trường. Triển khai việc thực hiện nghiêm túc luật thương mại, bảo đảm các DN của các thành phần kinh tế khácn hau được hoạt động trên “sân chơi” theo đúng “luật chơi” bình đẳng. * Thứ hai: có chính sách ưu đãi hợp lý với các DN phải nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất, kinh doanh, khắc phục hiện tượng phân biệt đối xử đang tồn tại hiện nay. Các DN có vốn đầu tư nước ngoài được miễn thuế nhập khẩu vật tư thiết bị khi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trong khi đó các DN trong nước lại không được hưởng ưu đãi này. * Thứ ba: có chính sách cụ thể khuyến khích và tạo điều kiện cho các DNV&N tham gia tích cực có hiệu quả vào việc đẩy nhanh hoạt động xuất khẩu, cụ thể là: Cho phép các DNV&N có đủ điều kiện thực hiện việc xuất nhập khẩu trực tiếp, tức là có quan hệ trực tiếp với thị trường nước ngoài. Nghiên cứu sớm bãi bỏ tình trạng phân biệt đối xử trong hoạt động này hiện nay. DN tư nhân muốn xuất, nhập trực tiếp chỉ cần xin phép Bộ trưởng thương mại. Tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục xuất nhập cảnh cho các chủ DNV&N để họ trực tiếp nghiên cứu khảo sát thị trường nước ngoài. Coi việc chủ DNV&N khảo sát thị trường nước ngoài cũng giống như cán bộ Nhà nước thực hiện công vụ. Cho phép các DNV&N sản xuất hàng xuất khẩu được hưởng các chính sách ưu đãi về tín dụng, về thuế quan như DNNN. * Thứ tư: có chính sách hợp lý bảo hộ sản xuất trong nước, tạo điều kiện cho các DNV&N góp phần tích cực vào việc chiếm lĩnh thị trường trong nước, thay thế nhập khẩu hàng hoá trong nước có khả năng sản xuất hiệu quả. * Thứ năm: coi trọng việc cung cấp thông tin thị trường cho các DNV&N mở rộng việc thiết lập các trung tâm tư vấn kinh doanh. Coi đó là những biện pháp quan trọng hỗ trợ DN nâng cao hiệu quả hoạt động trên thị trường. 3-/ Các giải pháp ngắn hạn. Các giải pháp ngắn hạn là các giải pháp cần phải thực hiện ngay để tháo gỡ khó khăn ách tắc để thúc đẩy sự phát triển của các DNV&N. 3.1. Về đất đai: Các địa phương tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần ban hành ngay trình tự thủ tục xin thuê đất để làm địa điểm sản xuất, theo nguyên tắc một cửa. Cần ghi rõ thời gian trả lời và lệ phí, không để tình trạng tuỳ tiện và ách tắc trong việc thuê quyền sử dụng đất hiện nay. Đồng thời phải xem xét lại giá thuê đất, không nên qui định ở mức quá cao làm cản trở hoạt động đầu tư. 3.2. Về vốn: Cho phép và xúc tiến thành lập ngân hàng chuyên doanh của khu vực DNV&N, thu hút sự tham gia của các DN, kể cả DN lớn và sự hỗ trợ của Nhà nước, của tổ chức quốc tế. Lập quỹ bảo lãnh đầu tư của các DNV&N để bảo lãnh cho các DN vay vốn ngân hàng được thuận lợi. Về nguyên tắc Nhà nước có thể đầu tư một phần vốn cho quĩ này, phần còn lại có thể kêu gọi viện trợ của một số tổ chức quốc tế. Đơn giản hoá thủ tục ngân hàng trong việc vay tín dụng: thông tin đầy đủ về chính sách để hạn chế những tiêu cực trong vay vốn tín dụng như hiện nay. 3.3. Về xuất nhập khẩu. Xoá bỏ hạn ngạch đối với những mặt hàng mà Nhà nước không cần quản lý. Ban hành danh mục một số mặt hàng cần hạn ngạch và thông tin công khai cho các DN biết. Ban hành và thực hiện qui chế đấu thầu hạn ngạch xuất nhập khẩu. Nới lỏng qui chế xuất khẩu trực tiếp, không cần qui định vốn lưu động 200.000 USD như hiện nay. 3..4 Về công nghệ và đào tạo. Xúc tiến thành lập trung tâm hỗ trợ chuyển giao công nghệ và đào tạo để hỗ trợ cho các DNV&N trong lĩnh vực này. Nhiệm vụ của những trung tâm này trước mắt là cung cấp thông tin cho DNV&N, đồng thời Chính phủ triển khai chương trình hỗ trợ của các tổ chức quốc tế cho DNV&N. kết luận Việc nghiên cứu vai trò của Chính phủ trong việc hỗ trợ phát triển các DNV&N để hình thành hệ thống chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy các DNV&N phát triển là công việc phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian, công sức và nỗ lực của nhiều ngành, nhiều cấp nhiều tổ chức và nhiều người. Mà công việc không thể lấy mô hình của các nước khác áp dụng cho Việt Nam nó đòi hỏi phải có “cái nhìn sáng tạo” và cần phải xóa bỏ ngay tư tưởng “quốc doanh” và “ngoài quốc doanh” đối với các DN có như vậy việc hỗ trợ DNV&N mới thuận lợi, góp phần quan trọng vào sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, xây dựng một đất nước Việt Nam tiên tiến, giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh và vững bước trên con đường tiến lên CNXH. Tài liệu tham khảo 1. PGS-PTS Nguyễn Đình Phan - Tham Luận: phát triển các DNV&W ở Việt Nam. 2. PTS Nguyễn Minh Tú - Hoàn thiện chính sách kinh tế Việt Nam vĩ mô để thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. 3. TS Lê Đăng Doanh - Thực trạng các DNV&N ở Việt Nam và khả năng cạnh tranh. 4. PGS - PTS Nguyễn Cúc: Chính sách hỗ trợ phát triển các DNV&N (NXB - Chính trị quốc gia - Hà Nội 1997). 5. Báo cáo của Uỷ ban các nhà tài trợ DNV&N tháng 10/1997. 6. Phó vụ trưởng Vụ công nghiệp - Bộ KH & ĐT - Đỗ Văn Hải: Tham luận một số ý kiến phát triển các DNV&N ở Việt Nam. 7. GS-TS Vũ Huy Từ: Vai trò quản lý của Nhà nước đối với các loại hình DN - NXB Chính trị quốc gia 1998. 8. Phát triển các DNV&N theo hướng CNH-HĐH đất nước. Kỹ yếu Viện Thông tin khoa học kỹ thuật Bộ Công nghiệp nặng và trung tâm hội chợ triển lãm Việt Nam - Hà Nội 1994. 9. Báo cáo kết quả điều tra các DNV&N ở Bắc Giang. Viện nghiên cứu QLKT Trung ương, 1999. 10. PTS Mai Ngọc Cường: Vai trò của Nhà nước trong việc tạo môi trường kinh doanh của các DN Công nghiệp. 11. Thời báo Kinh tế, số 76 tháng 9/1998. Nghiêm Quý Hào: Làm gì để hỗ trợ DNV&N. 12. Nguyễn Hữu Hải: Đổi mới cơ chế quản lý DNV&N ở Việt Nam (NXB Chính trị quốc gia - HN 1995). 13. Báo cáo định hướng chiến lược và khuyến nghị chính sách phát triển DNV&N từ nay đến năm 2010 (Bộ Kế hoạch và đầu tư). 14. PTS Nguyễn Kế Tuấn: Tổng quan về môi trường kinh doanh của các DN. 15. Báo đầu tư số 75 tháng 9/1998. Hoài Thu: Tín dụng cho các DNV&N. mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0120.doc