Vai trò của Công đoàn Tổng Công ty Sông Đà với việc tổ chức phong trào thi đua trong công nhân viên chức – lao động

Lời mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay Việt Nam đang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó đã dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của các loại hình doanh nghiệp, trong đó: các xí nghiệp quốc doanh, ngoài quốc doanh, các công ty liên doanh, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài rất đông. Chính vì lẽ đó mà vai trò của Công đoàn cần phải được phát huy cao độ, tăng cường mạnh các chức năng nhiệm vụ của mình để bảo vệ quyền lợi hợp pháp chính

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1167 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của Công đoàn Tổng Công ty Sông Đà với việc tổ chức phong trào thi đua trong công nhân viên chức – lao động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đáng cho người lao động. Công đoàn là một trong những thành viên nằm trong hệ thống chính trị, được ra đời ngày 28/7/1929. Trải qua hơn 70 năm hoạt động Công đoàn ngày càng phát huy được vị trí vai trò của tổ chức mình: luôn luôn bảo vệ lợi ích chính đáng giai cấp mình bằng những việc làm cụ thể hữu ích. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Phong trào thi đua là nguồn lực tạo lên thắng lợi lớn của nhân dân ta trong kháng chiến. Nó sẽ làm đà cho những thắng lợi to lớn hơn, vẻ vang hơn nữa về mọi mặt của xã hội. Phong trào thi đua là động lực để khơi dậy rộng khắp trong các tầng lớp nhân dân lao động tự nguyên tham gia, tạo thành phong trào hành động cách mạng sôi nổi, mang lại hiệu quả thiết thực trong lao động sản xuất, góp phần phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững ổn định chính trị. Công tác tổ chức phong trào thi đua và vận dụng phổ biến những nguyên tắc thi đua là nhiệm vụ không thể tách rời của hoạt động Công đoàn. Nhân loại đang có những bước phát triển mạnh mẽ, những bước tiến nhảy vọt với những sự thay đổi đến chóng mặt từng ngày, đặc biệt là xu thế toàn cầu hoá kinh tế đã đặt chúng ta đứng trước những cơ hội lớn và cả những thách thức không nhỏ. Để nắm bắt được thời cơ và phát huy cao độ nội lực thì mỗi chúng ta phải nỗ lực phấn đấu, chính vì vậy công tác thi đua khen thưởng càng có vai trò quan trọng góp phần tăng cường sức cạnh tranh để tồn tại và phát triển, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương, ngành, cơ sở và các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Hiệu quả rõ rệt của các phong trào thi đua do Công đoàn khởi xướng là góp phần khơi dậy ý thức trách nhiệm, nhiệt tình cách mạng, tinh thần lao động sáng tạo, ý thức tự lực tự cường, dám nghĩ dám làm, vượt qua khó khăn của đội ngũ công nhân lao động. Hàng chục nghìn sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, công trình mới được thực hiện, làm lợi hàng nghìn tỷ đồng, mang lại hiệu quả kinh tế- xã hội to lớn. Thi đua trong nền kinh tế thị trường là sự nối tiếp, kế thừa, sàng lọc để tổ chức nhiều phong trào thi đua với hình thức đa dạng phong phú. Điều đó đặt ra yêu cầu mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi địa phương phải luôn coi trọng công tác thi đua và tổng kết phong trào thi đua. Tuy nhiên trước yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước trong điều kiện mới, phong trào thi đua trong Công nhân lao động còn nhiều bộc lộ hạn chế nhất định, nhận thức về thi đua, có nơi có lúc chưa đầy đủ, sâu sắc. Phong trào thi đua có lúc chưa chuyển kịp tình hình mới, chưa hình thành cao trào sâu rộng đều khắp, liên tục, phát động phong trào thi đua rầm rộ nhưng hiệu quả thấp. Công đoàn tổ chức phong trào thi đua trong điều kiện hiện nay làm nhằm rèn luyện công nhân viên chức- lao động trở thành người lao động giỏi có ích cho xã hội đáp ứng tình hình mới. Xuất phát từ quan điểm khoa học và thực tiễn trên, em đã nhận thức được vai trò quan trọng của tổ chức Công đoàn trong các doanh nghiệp.Vì vậy, với tư cách là một sinh viên khoa Xã hội học, trường Đại học Công đoàn nên trong thời gian thực tập, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Vai trò của Công đoàn Tổng công ty Sông Đà với việc tổ chức phong trào thi đua trong công nhân viên chức – Lao động”, Với mong muốn là có một cách tiếp cận cụ thể theo hướng tiếp cận chuyên ngành Xã hội học. 2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn 2.1 ý nghĩa khoa học Bằng việc ứng dụng những kiến thức chuyên ngành Xã hội học để nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến vấn đề Công đoàn trong việc tổ chức thi đua trong công nhân lao động. Từ đó tìm ra những đặc trưng cơ bản cũng như vị trí, vai trò, chức năng, của tổ chức khẳng định vai trò lịch sử của tổ chức Công đoàn trong thời kỳ mới. 2.2 ý nghĩa thực tiễn Khoá luận góp phần chỉ ra vai trò quan trọng của Công đoàn trong việc tổ chức phong trào thi đua trong CNVCLĐ, chỉ ra thi đua mới thực sự là động lực đưa nước ta phát triển nhanh trong giai đoạn mới. Là tài liệu tham khảo của các đơn vị cơ sở trong việc tổ chức phong trào thi đua, giúp cho cán bộ Công đoàn nhận thức đúng vai trò của công đoàn từ đó ý thức cao trong việc tổ chức thi đua, xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh. 3. Đối tượng, khách thể, mục đích và phạm vi nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở xác định vị trí, vai trò của thi đua và xu hướng vận động của nó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, làm rõ nét về vai trò của công đoàn trong việc tổ chức phòng trào thi đua trong công nhân lao động. Phân tích thực trạng quá trình tổ chức các phong trào thi đua, xem xét tác động của Công đoàn đối với thi đua tại Tổng công ty Sông Đà. Từ đó khoá luận vạch ra các hướng và những gải pháp cơ bản để phong trào thi đua trong công nhân viên chức lao động phát huy được vai trò trong Tổng công ty Sông Đà. 3.2 Đối tượng nghiên cứu Khoá luận nghiên cứu về vấn đề thi đua của Công Đoàn trong Tổng công ty Sông Đà 3.3 Khách thể nghiên cứu Khoá luận xây dựng nhằm khái quát những vấn đề lý luận chung và đề cập đến vấn đề thi đua trong công nhân viên chức -lao động của Công Đoàn 3.4 Phạm vi nghiên cứu Về không gian: Khảo sát vấn đề tổ chức thi đua trong công nhân lao động trong Tổng công ty Sông Đà Về thời gian: Khảo sát vấn đề thi đua trong giai đoạn 2000-2005 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài đã sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, duy vật biện chứng kết hợp phân tích lý luận qua các tài liệu nơi thực tập và sử dụng quan điểm chủ nghiã Mac Lenin, tư tuởng Hồ Chí Minh, các chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách Nhà Nước, nghị quyết của Công Đoàn.. 5. Kết cấu của khoá luận: Gồm 3 phần Phần thứ nhất: Những vấn đề cơ bản về thi đua và tổ chức phong trào thi đua. Phần thứ hai: Thực trạng công tác tổ chức phong trào thi đua của công đoàn trong công nhân viên chức lao động tại TCT Sông Đà Phần thứ ba: Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh phong trào công thi đua trong công nhân viên chức lao động tại TCT Sông Đà Phần thứ nhất những vấn đề cơ bản về thi đua và tổ chức phong trào thi đua I. những vấn đề cơ bản về thi đua 1.Bản chất của thi đua Thi đua được hiểu là sự đua tài, đua sức của con người trong lĩnh vực hoạt động của mình. Sự đua tài đua sức này diễn ra trong quá trình sản xuất thì gọi là thi đua lao động. Sự đua tài đua sức trong lao động sản xuất kinh doanh là một thuộc tính tự nhiên thuộc về bản chất cả người lao động đó là lòng tự trọng, là sự khẳng định mình trong quan hệ lao động. Từ điển triết học đã chỉ ra rằng “ Thi đua xã hội chủ nghĩa là phương pháp cộng sản chủ nghĩa để xây dựng xã hội chủ nghĩa, phương pháp dựa trên tính tích cực cao nhất của hàng triệu người lao động”(1) (từ điển tiếng việt-NXB Sự Thật 1992 tr 902) (2)( Từ điển triết học-NXB Sự Thật 1978 tr803) . Sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản là kết quả của lao động có kết quả tự giác của quần chúng. Thi đua xã hội chủ nghĩa biểu hiện tinh thần sáng tạo tự giác của quần chúng đang xâydựng một xã hội mới. Điểm đặc sắc của thi đua xã hội chủ nghĩa là nó đã xâydựng nên sự thay đổi căn bản trong thái độ của con người đối với lao động. Thi đua xã hội chủ nghĩa là một phần nguồn lực mạnh mẽ để nâng cao năng suất lao động. Thi đua xã hội chủ nghĩa đến lượt nó thì lại trở thành một nhân tố cải thiện liên tục đời sống vật chất và văn hoá các dân tộc. Nó là biểu hiện sáng chói của sự kết hợp giữa lợi ích cá nhân và lợi ích chung. Khi nghiên cứu xã hội tư bản, đặc biệt là sự hoạt động của người lao động trong xã hội C.Mác và Ăngghen đã chỉ ra rằng: “ Thi đua là một hiện tượng khách quan nẩy sinh do sự tiếp xúc xã hội trong quá trình lao động sản xuất”(2). Mác còn nói: “Chưa nói đến một sức mới xuất hiện khi nhiều sức hợp sức lại thành một sức chung trong phần lớn các công việc sản xuất, ngay sự tiếp xúc xã hội cũng đẻ ra thi đua, cũng kích thích nguyên lý làm tăng năng suất lao động cá nhân của từng người riêng rẽ..”(1) Trong xã hội tư bản, với chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thường xuyên có sự cạnh tranh giữa những người lao động làm thuê để bán đắt hơn, tài sản quý nhất mà họ có được là bán sức lao động. Lênin viết: “cạnh tranh là một hình thức thi đua đặc biệt mà xã hội chủ nghĩa tư bản vốn có, là sự giành giật miếng ăn, giành giật ảnh hưởng và vị trí trên thị trường giữa những người sản xuất riêng lẻ...” (1) (CacMác “Tư bản” NXB Sự Thật Hà Nội 1960 quyển 1 tập 2 tr 23) (2) ( LêNin “ Toàn Tập” Tập 36 NXB tiến bộ tr 185) Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, thi đua nẩy sinh từ tinh thần làm chủ tập thể lao động, từ ý thức tự giác, năng động sáng tạo trong lao động, từ mối quan hệ hợp tác của người lao động. Đặc trưng của thi đua là đua sức đua tài trong sự đoàn kết tương tự. ở nước ta khi nhân dân lao động trở thành người làm chủ trên mọi lĩnh vực kinh tế xã hội thì thi đua lao động là một đòn bẩy cực kỳ quan trọng để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế . Thi đua lao động giỏi với nội dung chủ yếu là phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật,hợp lý hoá sản xuất, cải tiến nghiệp vụ công tác, phong trào thi đua lao động giỏi, thi đua sáng tạo là một động lực quan trọng thúc đẩy mọi người lao động làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật đạt năng suất cao, đảm bảo chất lượng sản phẩm, tích cực tham gia quản lý kinh tế, quản lý xí nghiệp, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. 2. Những vấn đề cơ bản về phong trào thi đua 2.1 Khái Niệm Phong trào hoạt động cách mạng là hoạt động chính trị văn hoá xã hội của đông đảo quần chúng nhằm làm thay đổi lớn và căn bản theo hướng tiến bộ trong một lĩnh vực nào đó: “ Thi đua là cùng nhau đem hết sức lực tài năng ra làm, nhằm thúc đẩy lẫn nhau đạt thành tích tốt nhất trong chiến đấu, sản xuất, công tác, học tập..”(1) ( từ điển tiếng việt -NXB Sự Thật 1992, tr 902) (2) (Từ điển triết học-NXB Sự Thật 1978, tr 803) “ Phong trào là hoạt động chính trị, văn hoá, xã hội lôi cuốn được đông đảo quần chúng tham gia”.(2) Như vậy phong trào hành động cách mạng bao gồm phong trào thi đua. Mọi phong trào thi đua đều là phong trào hành động cách mạng. Trong thời kỳ xây dựng đất nước, phong trào thi đua là trung tâm của phong trào hành động cách mạng, là điểm tập trung của phong trào hành động cách mạng. Hoạt động công đoàn trong nền kinh tế thị trường mấy năm qua cho thấy: Công tác thi đua vẫn là biện pháp quan trọng, có tính tổng hợp nhằm thực hiện đồng thời ba cuộc cách mạng. Cách mạng phong trào thi đua do các cấp công đoàn phát động vẫn được đông đảo công nhân lao động ủng hộ. Kết quả của phong trào đã được đại hội VIII Công Đoàn Việt Nam ghi nhận và biểu dương. Trong những năm qua, nhiều cơ sở thuộc các cấp công đoàn nghành nghề liên đoàn lao động địa phương đã chủ động phối hợp với cơ quan quản lý cùng cấp tổ chức nhiều phong trào thi đua với các tên gọi khác nhau. Nổi bật là phong trào thi đua lao động giỏi trở thành một trong những biện pháp quan trọng để điều tiết hành vi người lao động, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Vì vậy, tổ chức phong trào thi đua lao động giỏi là nhiệm vụ của các cấp công đoàn. Lao động giỏi là danh hiệu tặng cho tập thể, cá nhân có thành tích suất sắc quản lý, tổ chức đời sống mà đã được tổng kết thành các bài học kinh nghiệm để tổ chức cho tập thể và các cá nhân khác thi đua học tập và làm theo. Trong phong trào thi đua của công nhân viên chức lao động, lao động giỏi là những hình mẫu cụ thể của việc thực hiện thắng lợi và đúng đắn sáng tạo đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước trong từng thời kỳ cách mạng là tấm gương để cho quần chúng tự soi mình vào đó, tự so sánh bản thân mình với các hình mẫu, rút ra những bài học cần thiết để phấn đấu vươn lên trở thành lao động giỏi có ý nghĩa, tác dụng vô cùng to lớn. Lenin nhấn mạnh: Những tấm gương đó có tác dụng hơn hẳn hết thẩy mọi biện pháp khác khi giải quyết nhiệm vụ tổ chức. Nó hỗ trợ cho việc tận dụng toàn diện tiềm năng của các đơn vị cơ sở, của từng người lao động, tập thể lao động, thông qua việc phổ biến tổ chức áp dụng rộng rãi các kinh nghiệm tiên tiến đã nẩy sinh trong thi đua vào công nhân, viên chức và lao động, làm cho tính cá biệt của các lao động giỏi trở thành phổ biến. Trong những năm qua, nhiều cơ sở thuộc các Công Đoàn nghành trung ương, liên đoàn lao động địa phương đã chủ động phối hợp với cơ quan quản lý tổ chức nhiều phong trào thi đua lao động giỏi.Với bản chất thi đua kinh tế, phong trào thi đua lao động giỏi trở thành một trong những biện pháp quan trọng để điều tiết hành vi người lao động, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển.Với mục tiêu của phong trào thi đua lao động giỏi là nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tiết kiệm, đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh môi trường và đai hội VIII Công Đoàn Việt Nam đã xác định, các công đoàn cơ sở cần tập trung chỉ đạo, tổ chức các tập thể, cá nhân lao động thi đua theo các nộ dung của phong trào. Hoàn thành toàn diện, vượt quá mức kế hoạch được giao (về sản lượng, sản phẩm chủ yếu, năng suất lao động,chất lượng và giá thành....). Với mức phấn đấu cao. Tập thể tích cực lao động, quản lý tốt mọi hoạt động sản xuất, phát huy sáng kiến có giá trị về hợp lý hoá sản xuất, cải tiến kỹ thuật và tích cực áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới. Tổ chức phong trào thi đua có nề nếp và có hiệu quả thiết thực. Các thành viên trong tập thể nêu cao tinh thần làm chủ, tinh thần tự lực, tự cường và tiết kiệm xây dựng nước nhà, gương mẫu chấp hành kỷ luật lao động, an toàn lao động và các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Tích cực chống tham ô, lãng phí, quan liêu, nêu cao tinh thần đoàn kết, tương trợ, hợp tác trong và ngoài tập thể lao động. Các thành viên trong tập thể tích cực học tập, văn hoá, chính trị nghiệp vụ, kỹ thuật. tự cải thiện đời sống tốt, và thực hiện nếp sống văn hoá không còn người chậm tiến. Có 30% số người trong tập thể đạt danh hiệu “Lao động giỏi ). Tiêu chuẩn của cá nhân lao động giỏi là: Giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, hoàn thành vượt mức nhiệm vụ được giao, đạt năng suất, chất lượng tốt. Chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà Nước, có tinh thần tự lực cánh sinh, đoàn kết, tương trợ tích cực tham gia các phong trào thi đua. Có đạo dức lối sống lành mạnh, được tập thể công nhân tích cực học tập chính trị, văn hoá, kỹ thuật nghiệp vụ. Tiêu chuẩn đã được quy định trên đây là cơ sở để công đoàn tổ chức phong trào thi đua phấn đấu trở thành lao động giỏi. Song kết quả của phong trào lại phụ thuộc vào công tác tổ chức, chỉ đạo. Do đó, vấn đề tổ chức, chỉ đạo của Công Đoàn với phong trào là vô cùng quan trọng. 2.2 Nguyên tắc tổ chức phong trào Nguyên tắc công khai Công khai thi đua là trình bầy, thông báo cho đông đảo quần chúng đều biết được mục đích, yêu cầu nội dung của phong trào thi đua, công khai các giao ước, chỉ tiêu thi đua, các danh hiệu và các chế độ khen thưởng, các kết quả, biện pháp và kinh nghiệm tiên tiến. Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng, có công khai các nội dung trên thì quần chúng mới hiểu rõ phong trào, nắm được nội dung các việc làm, từ đó nêu cao tinh thần trách nhiệm, tự nguyện tự giác tham gia thi đua. Công khai giúp cho quần chúng có đích phấn đấu, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, cùng đạt dược các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra. Đồng thời nhờ có công khai mà kết quả, thành tích kinh nghiệm thi đua được tập thể chứng kiến, cổ vũ, công nhận, theo dõi giúp đỡ lẫn nhau nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của bản thân theo mục tiêu của phong trào. Nguyên tắc so sánh: So sánh trong thi đua là xem xét đối chiếu giữa kết quả của các cá nhân và tập thể tham gia thi đua, giữa các sáng kiến, kinh nghiệm tiên tiến để chọn lọc những sáng kiến kinh nghiệm tốt, phù hợp với thực tiễn và khả năng của mình để áp dụng. So sánh cũng là một nguyên tắc quan trọng có tiến hành so sánh mới thấy hết được việc làm tốt hay chưa tốt, kết quả đạt được cao hay thấp..để quần chúng tự đánh giá kết quả lao động, năng lực của bản thân để có biện pháp phấn đấu. Đồng thời tổ chức cũng thấy được những điểm mạnh, điểm yếu của quần chúng để khuyến khích giúp đỡ quần chúng phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, kịp thời chấn chỉnh công tác tổ chức, nhằm chỉ đạo quần chúng tiến bộ và nâng cao chất lượng phong trào. Nguyên tắc phổ biến, áp dụng các kinh nghiệm tiên tiến. Kinh nghiệm tiên tiến là những tư thức được tổng kết từ quá trình tích cực lao động sáng tạo của người lao động. Nhũng kinh nghiệm đó có tác dụng nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm...do đó, những kinh nghiệm tiên tiến được phổ biến áp dụng rộng rãi sẽ đem lại hiệu quả to lớn trong sản xuất và công tác.Vì vậy, trong quá trình tổ chức phong trào thi đua cũng phải hết sức coi trọng nguyên tắc này. Nguyên tắc tập trung dân chủ thi đua. ý nghĩa quan trọng của nguyên tắc này là tập trung sự lãnh đạo của tổ chức đối với phong trào, dẫn dắt phong trào đi đúng hướng nhưng đồng thời phải phát triển những hoạt động mang tính dân chủ để quần chúng tự nguyện, tự giác tham gia phong trào và khai thác được khả năng sáng tạo của quần chúng trong quá trình tham gia phong trào. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong thi đua. Thi đua là công cụ quản lý kinh tế đựợc sử dụng nhằm thực hiện thắng lợi các chính sách của Đảng.Thông qua các phong trào thi đua, các nghị quyết của Đảng trở nên sinh động nhờ thực tiễn. Do đó tự bản thân phong trào đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của Đảng .Thực tiễn có những nơi do thiếu sự lãnh đạo của Đảng nên việc tổ chức, chỉ đạo phong trào thi đua còn thiếu đồng bộ giữa các tổ chức và còn nhiều hạn chế. Bởi vậy, công tác vận động tổ chức phong trào thi đua phải đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, từ trung ương đến cơ sở các cấp uỷ Đảng phải thường xuyên lãnh đạo phong trào thi đua. Nguyên tắc kết hợp giáo dục chính trị tư tưởng với khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần. Thi đua xã hội chủ nghĩa là phong trào cách mạng của quần chúng dựa trên tính tự nguyện, tự giác tham gia của người lao động. Tính tự nguyện tự giác này được hình thành trên cơ sở họ được thoả mãn những lợi ích chính trị và dân chủ trong thi đua.Thực tiễn cho thấy bất cứ nơi nào biết quan tâm bồi dưỡng giáo dục tốt về chính trị và nhiệt tình cách mạng của quần chúng trong các nhiệm vụ về thi đua, ở nơi đó họ sẽ có thói quen lao động mà không chờ vào việc khen thưởng, không có sự mặc cả trong thi đua.Tuy vậy lợi ích vật chất thường xuyên đóng vai trò chỉ đạo trong đời sống xã hội, nên kích thích bằng lợi ích vật chất sẽ là một động lực thúc đẩy họ ra sức hoàn thành nhiệm vụ được giao, đồng thời nó cũng là phương tiện quan trọng để tổ chức, duy trì, phát triển phong trào thi đua như Lênin đã chỉ rõ: Đối với hết thẩy một thành tích quan trọng nhất thiết phải khen thưởng đích đáng ( thưởng bằng hiện vật và bằng các hình thức khác ), tổ chức kiểm tra những hình thức đó công bằng và thành thạo. Những nguyên tắc trên có mối quan hệ biện chứng với nhau.Vì vậy Công Đoàn không nên coi nhẹ nguyên tắc nào. Nguyên tắc thi đua lao động sản xuất phải được thể hiện và vận dụng trong quá trình tổ chức, chỉ đạo phong trào thi đua lao động giỏi ở mọi cấp, mọi nghành. 2.3 Một số yêu cầu trong công tác chỉ đạo phong trào thi đua + Tổ chức thi đua trong từng đợt vận động chính trị: “thực ra thi đua phải trường kì” là phải iên tục chia ra từng giai đoạn và tổ chức từng đợt công tác, chỉ đạo thi đua đòi hỏi thời gian cần tập trung vận động, giữ vững kỷ luật lao động nhằm đúng hướng đúng mục tiêu phấn đấu và phải có bước lấy đà khởi động cho mỗi đợt thi đua. Những ngày kỉ niệm là những đợt để lấy đà thi đua một cách tốt nhất.Nói cách khác nên lấy những ngày kỉ niệm lớn, những cuộc vận động chính trị lớn trong năm kế hoạch để động viên thi đua,nêu tiêu đề chính trị cho đợt thi đua là cần thiết.Điều quan trọng hơn là cần gắn chặt nó với nội dung sản xuất, để đạt được hiệu quả kinh tế thiết thực biết đề ra mục tiêu và có chuẩn bị điều kiện tổ chức quản lý, biết đề ra điển hình có kế hoạch tổng kết và đánh giá kết quả thi đua cụ thể. + Tổ chức thi đua theo nghành, nghề: Quản lý thi đua theo nghành nghề kết hợp theo lãnh thổ là phương hướng lớn của Đảng và Nhà Nước ta trong quá trình đưa nền kinh tế từ sản xuất nhỏ tiến lên công nghiệp hoá hiện đại hoá, hợp tác hoá nhằm khai thác tiềm năng của từng đơn vị. Mục đích của thi đua theo nghành nghề là xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa các đơn vị kinh tế nhằm phát huy sức mạnh của mỗi thành viên khắc phục khó khăn yếu kém về công nghệ kỹ thuật quản lý nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và đạt hiệu quả cao. Do đó tổ chức thi đua lao dộng theo nghành là tổ chức thi đua ngày càng quan trọng bởi nó sát, hợp nhất với đặc điểm sản xuất kinh tế kỹ thuật của từng nghành nghề. Nó khiến cho nhiều người lao động cùng làm một việc giống nhau trong địa phương dễ thi đua với nhau. Nó tạo điều kiện tăng cường đoàn kết tương thân tương ái trao đổi kinh nghiệm, nâng cao nhiệt tình ngày càng gắn bó chặt chẽ hơn nữa vấn đề lao động với kỹ thuật và kinh tế nghành,mau chóng lôi cuốn được đông đảo quần chúng sôi nổi, hào hứng hưởng ứng thi đua. + Trong quá trình tổ chức, chỉ đạo thi đua Công Đoàn phải: Tham gia với chủ doanh nghiệp, người quản lý xây dựng phương án sản xuất, có những qui định nghiêm ngặt về chất lượng và tiết kiệm, thực hiện cơ chế khoán đến từng người, từng công nhân lao động, công khai cơ chế lương, thưởng gắn với kết quả lao động, thực hiện dân chủ công khai trong việc xét duyệt, khen thưởng, tổ chức bồi dưỡng cho công nhân lao động nắm vững quy trình công nghệ, nâng cao tay nghề, kịp thời phổ biến những sáng kiến kinh nghiệm.Tham gia với nhà nước đổi mới chế độ, chính sách thi đua khen thưởng, hướng dẫn hình thành các quỹ khen thưởng của cơ sở, của từng nghành, từng địa phương. Các nghành sự nghiệp, các cơ quan hành chính cần nghiên cứu vận dụng cụ thể hoá mục tiêu nội dung phong trào thi đua lao động giỏi cho phù hợp với đặc điểm của phong trào, của đơn vị mình. Cùng với việc chỉ đạo phong trào thi đua nói trên, các nghành, các cấp Công Đoàn cần phải phối hợp với người quản lý có biện pháp đấu tranh chống làm hàng giả, trốn thuế, đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn tham nhũng, buôn lậu.Từng đơn vị công đoàn cần vận động anh chị em tham gia xây dựng và thực hiện qui chế đảm bảo an toàn trật tự, an toàn xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh. 3. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức phong trào thi đua Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng CSVN và chủ tịch HCM luôn quan tâm đến vấn đề thi đua xuất phát từ quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”và mục tiêu của cách mạng là xây dựng một Nhà Nước của dân, do dân và vì dân. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng ta đã khặng định: “Công tác cách mạng phải được tiến hành bằng phong trào cách mạng “(1). Đây là một quy luật mà Đảng ta rút ra từ sự tổng kết những kinh nghiệm của thời kỳ đã qua. Đây là một quy luật mà Đảng ta rút ra cho nhiều lĩnh vực hoạt động trong giai đoạn mới. Để đạt được những mục tiêu cực kỳ to lớn và nặng nề của cách mạng, Đảng đã phát động và tổ chức hàng loạt phong trào sôi nổi và liên tục của đông đảo các tầng lớp nhân dân thông qua các phong trào chủ yếu. Trong kháng chiến chống pháp có các phong trào nổi bật như: sản xuất và tiết kiệm, bình dân học vụ, tòng quân giết giặc, hũ gạo kháng chiến..Những phong trào này đã tạo ra sức mạnh chống giặc đói giặc dốt và đánh thắng giặc xâm lược. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ở miền Nam có các phong trào: Đồng khởi, tìm Mĩ mà đánh, tìm nguỵ mà giệt, giành đất cắm cờ,tổng tiến công nổi dậy..ở miền Bắc có phong trào: ba sẵn sàng, ba đảm đang, mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt, thi đua bắn rơi máy bay Mĩ, tiếng hát át tiếng bom.. Trong lao động xây dựng đất nước có các phong trào: Sóng duyên hải, gió đại phong, cò ba nhất, dậy tốt học tốt,phát huy sáng kiến cải tiến. kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, thi đua quốc tế xã hội chủ nghĩa..chính suất phát từ quan điểm coi nhân dân là người làm chủ, là người làm nên lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, thi đua là phát huy nội lực của cách mạng ngay từ đầu khi chính quyền nhân dân vừa giành được, chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân tham gia phong trào thi đua ái quốc, một lời kêu gọi có tính chất lịch sử mà cho mãi đến ngày nay vẫn còn âm vang,vẫn còn lắng đọng trong lòng mỗi người dân Việt Nam chúng ta,Người nói: “ Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua, và những người thi đua là những người yêu nước nhất” (2). Đây là quan niệm mới về thi đua thể hiện sự sáng tạo độc đáo trong tư tưởng vè thi đua của chủ tịch Hồ Chí Minh, có thể nói đó là một quan niệm, một cách nhìn sâu rộng và cao hơn quan niệm, nhìn nhận thông thường về thi đua. Theo quan niệm của Hồ Chủ Tịch thi đua không chỉ là lao động sản xuất vật chất mà còn là hoạt động tư tưởng và tinh thần, là biểu hiện của lòng yêu nước, của tình cảm đối với tổ quốc, quê hương nói chung.Nói một cách khác, thi đua không chỉ là lao động tạo nên sự gia tăng về số lượng và chất lượng trong việc làm của người để thêm nhiều cuả cải vật chất làm giầu cho đất nước, phấn đấu cho đất nước tự do, độc lập, thống nhất và phát triển, tăng tiến cả về kinh tế, văn hoá, xã hội, giầu về kinh tế, mạnh về quốc phòng xây dựng thành công CNXH. Trong thời gian đầu chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phong trào thi đua bị buông lỏng. Để phong trào thi đua được thường xuyên liên tục, bộ chính trị ban chấp hành trung ương Đảng đã ra chỉ thị số 35/CT-TWngày 3/6/1998 về đổi mới công tác thi đua khen thưởng trong giai đoạn mới, tưởng của chỉ thị là: “khẳng định vai trò của việc tổ chức thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua gắn liền với thành quả to lớn trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc cách mạng Việt Nam”(1)(2) (Hồ chí Minh với phong trào thi đua yêu nước NXB Sự thật tr 79) . Quan điểm của Đảng và Nhà Nước ngày càng được tiếp tục và khẳng định, coi thi đua là phong trào quần chúng và là phương pháp cần thiết để giải quyết các nhiệm vụ chính trị - kinh tế- xã hội. Thi đua khen thưởng được Đảng xác nhận là vị trí quan trọng không thể thiếu trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đưa đất nước ta tiến lên, có kinh tế văn hoá phát triển, dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, bảo vệ vững chắc tổ quốc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. II. Vai trò, trách nhiệm của tổ chức công đoàn với việc tổ chức phong trào thi đua trong công nhân viên chức lao động 1. ý nghĩa của phong trào thi đua Thi đua là một hiện tượng xã hội có tính quy luật, nó có một ý nghĩa to lớn trên nhiều mặt kinh tế, xã hội, thông qua phong trào thi đua này là tất cả các doanh nghiệp có thể cạnh tranh được với nhau bằng các biện pháp nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng, sắp xếp tổ chức, hợp lí hoá sản xuất, cải tiến công tác quản lý nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện nâng cao đời sống cho công nhân lao động. Phong trào thi đua có tác dụng cuốn hút người lao động đi sâu vào nội dung kinh tế kỹ thuật, không ngừng rèn luyện tự bồi dưỡng và nâng cao tay nghề, nâng cao tri thức về khao học kỹ thuật phù hợp với chuyên môn nghiệp vụ. Đây là biện pháp tốt để đào tạo nên đội ngũ công nhân lao động lành nghề có tác phong công nghiệp hoá cao, đây chính là lực lượng cốt lõi thực hiện thắng lợi ba cuộc cách mạngvà đạt được những mục tiêu chiến lược kinh tế xã hội mà Đảng đã đề ra. Thông qua các phong trào thi đua mà góp phần giáo dục người công nhân lao động có ý thức tiết kiệm, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với tập thể và sản phẩm của mình làm ra. Với thực tiễn cách mạng Việt Nam, phong trào thi đua ngoài những ý nghĩa to lớn về kinh tế nó còn tạo nên tính xã hội sâu sắc. Làm tốt phong trào thi đua sẽ tạo nên không khí lành mạnh, mọi người gần gũi nhau hơn, sống có trách nhiệm và nhân bản hơn. Đây chính phong trào để rèn luyện con người mới tạo đà cho những bước phát triển nhẩy vọt trong cách mạng nhất là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, nó đẩy lùi thói hư tật xấu, xây dựng cho người công nhân có thái độ lao động mới, có tác phong đại công nghiệp với tinh thần và đạo đức cần kiệm, liêm chính, trí công vô tư, chống thái độ vô trách nhiệm, chẩy lười, làm ẩu, thói ích kỷ cá nhân, quan liêu tự do chủ nghĩa. Thực tế đã chứng minh qua các phong trào thi đua đã nẩy sinh biết bao tập thể anh hùng, cá nhân anh hùng, những điển hình tiên tiến, những tấm gương người tốt việc tốt. Thông qua phong trào những kinh nghiệm mới mẻ của quần chúng được tổng kết, đúc rút và phổ biến áp dụng rộng rãi để quần chúng học tập, tạo cho phong trào có sức cuốn hút mạnh mẽ, phát triển không ngừng khả năng giáo dục.Các Mác đã ghi rõ: “ở đâu không có chung quyền lợi,thì ở đó không thể có sự thống nhất mục đích và không thể nói đến sự thống nhất về hành động”. Thực tế chủ nghĩa xã hội đã xác lập một quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa để đảm bảo quyền lực đó, nhưng để đảm bảo thống nhất hành động thì cần phải tổ chức phong trào thi đua. Hoạt động công đoàn trong nền kinh tế thị trường của mấy năm qua cho thấy công tác thi đua vẫn là một biện pháp quan trọng có tính tổng hợp nhằm thực hiện đồng thời ba cuộc cách mạng. Các phong trào thi đua do các cấp công đoàn lao động phát động được đông đảo nhân dân lao động ủng hộ. Kết quả của phong trào đã được Đai hội VIII Công Đoàn Việt Nam ghi nhận và biểu dương. Trong những năm qua, nhiều cơ sở thuộc các cấp Công Đoàn nghành nghề liên đoàn lao động địa phương đã chủ động phối hợp với cơ quan quản lý các cấp tổ chức nhiều phong trào thi đua với tên gọi khác nhau; Nổi bật là phong trào thi đua lao động giỏi trở thành một trong những biện pháp thúc đẩy sản xuất phát triển. Vì vậy tổ chức phong trào thi đua lao động giỏi là nhiệm vụ của các cấp Công Đoàn. Để phong trào thi đua đi vào cuộc sống, trở thành hành động cụ thể của công nhân lao động trong từng công đoàn nghành nghề, địa phương từng cơ sở cần phải thực hiện các công việc sau. 2. Xây dựng kế hoạch thi đua 2.1 Xác định mục tiêu thi đua. Mục tiêu thi đua là cái đích mà phong trào thi đua cần phải đạt được xác định mục tiêu thi đua là vấn đề hết sức quan trọng ._.trong quá trình tổ chức chỉ đạo phong trào thi đua. Mục tiêu thi đua đúng đắn phù hợp với từng cơ sở thì phong trào sẽ có hướng đi đúng và đem lại hiệu quả như mong muốn. Đại hội VIII Công Đoàn Việt Nam đã xác định mục tiêu thi đua lao động giỏi là: Năng suất – Chất lượng – hiệu quả - tiết kiệm, đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh môi trường, chú trọng nội dung phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, cải tiến quản lý, triệt để tiết kiệm, tiếp thu và sử dụng có hiệu quả công nghệ tiên tiến. Căn cứ vào mục tiêu, các cấp Công Đoàn cần lấy đó làm căn cứ để xác định mục tiêu thi đua cụ thể cho đơn vị mình khi tổ chức phong trào. 2.2 Xác định nội dung thi đua Nội dung thi đua là những vấn đề mang tính chất cốt lõi quyết định đến việc thực hiện thắng lợi mục tiêu thi đua. Căn cứ vào mục tiêu thi đua và nội dung thi đua được tiến hành đồng thời vì chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và đều tác động ảnh hưởng trực tiếp đến phong trào. 2.3 Xây dựng các chỉ tiêu thi đua Chỉ tiêu thi đua là hệ thống chỉ tiêu bao gồm: Các chỉ tiêu cá biệt phản ánh từng mặt hoạt động của sản xuất kinh doanh, các chỉ tiêu này phải phù hợp với tính chất nghành nghề, mục tiêu kinh tế của thi đua, vừa giúp cho người lãnh đạo tổ chức thi đua phân tích, đối chiếu so sánh hiệu quả công việc của tập thể, cá nhân thi đua trở thành lao động giỏi. Chỉ tiêu thi đua có chỉ tiêu chính đó là các chỉ tiêu trực tiếp tác động vào quá trình sản xuất như: Chỉ tiêu về khối lượng sản phẩm, cơ cấu và chất lượng sản phẩm. Chỉ tiêu sử dụng tư liệu lao đông, đối tượng lao động. Chỉ tiêu về sử dụng lao động, năng suất lao động, tiền lương. Chỉ tiêu về lợi nhuận, giá thành sản phẩm. Chỉ tiêu về trình độ tổ chức kỹ thuật. Cùng với các chỉ tiêu chính còn có các chỉ tiêu hỗ trợ, đó là các chỉ tiêu có tính chất hỗ trợ để đạt các chỉ tiêu chính như: Chỉ tiêu về trình độ chuyên môn nghiệp vụ kỹ thuật Chỉ tiêu về học tập nâng cao trình độ. Chỉ tiêu về giải pháp việc làm, nâng cao đời sống cho người lao động. Chỉ tiêu tham gia hoạt động công tác xã hội. Khi tổ chức xây dựng các chỉ tiêu thi đua cần chú ý đến tính chất công việc điều kiện thực tế của từng đối tượng và mang tính tiên tiến, Có như vậy mới phát huy được tính năng động sáng tạo, tinh tần nỗ lực phấn đấu của các tập thể, cá nhân thi đua lao động. 2.4 Xây dựng danh hiệu, tiêu chuẩn, thời gian thi đua, chế độ khen thưởng. Công Đoàn cùng phối hợp cùng với cơ quan quản lý xây dựng qui chế khen thưởng.Khen thưởng đột xuất và khen thưởng định kỳ. Việc khen thưởng phải xét theo nguyên tắc sau: Cấp nào tổ chức thi đua thì cấp đó khen thưởng. Khen thưởng phải kịp thời xét đến giá trị kinh tế, kỹ thuật xã hội đem lại. Các tập thể, cá nhân lao động giỏi trong một thời gian thi đua đạt nhiều danh hiệu thì được thưởng ở một danh hiệu cao nhất. 3. Tổ chức triển khai thực hiện phong trào thi đua Hiệu quả của phong trào thi đua không chỉ phụ thuộc vào công tác tổ chức mà còn phụ thuộc vào việc chỉ đạo thực hiện phong trào thi đua của Công Đoàn cơ sở cần tập trung vào những vấn đề trọng tâm sau: Tổ chức thực hiện tốt kế hoạch tổ chức phong trào thi đua theo hướng dẫn của Công Đoàn. Phối hợp hoạt động với các cấp chính quyền và tổ chức đoàn thể trong cơ sở. Tuyên truyền phát động tư tưởng công nhân lao động tham gia đăng ký giao ước thi đua. Tổ chức các hình thức, biện pháp giúp đỡ trao đổi kinh nghiệm trong thi đua. Đảm bảo tính liên tục và hiệu quả kinh tế xã hội trong phong trào thi đua. Tổ chức nắm tình hình thông tin, thông báo thi đua chính xác, kịp thời có nề nếp chặt chẽ. Sơ kết, tổng kết, kiểm tra, bồi dưỡng khen thưởng thi đua và tổ chức thi đua với điển hình. Chỉ đạo “điểm” và “diện” chuyển mạnh tác phong đi sâu vào sản xuất, vào quần chúng để tổ chức phong trào thi đua. Củng cố bộ máy và tăng cường cán bộ nghiệp vụ thi đua theo hướng: Gọn nhẹ, có hiệu quả đi sâu vào nghiệp vụ công tác thi đua của Công Đoàn. Để thực hiện tốt công tác thi đua hiện nay, các cấp Công Đoàn cần bàn bạc thống nhất với lãnh đạo đơn vị để cụ thể hoá ba phong trào thi đua ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong xã hội chúng ta, các phong trào thi đua nhất thiết phải sát với thực tế của địa phương, của đơn vị, không thể bê nguyên cùng một nội dung của một phong trào thi đua nhưng về chỉ tiêu thi đua, đối tượng thi đua không giống nhau, nghĩa là không có một công thức chung cho công tác thi đua ở tất cả các đơn vị. Mỗi đơn vị mỗi ban chấp hành Công Đoàn cơ sở cần linh hoạt sáng tạo trong vấn đề này. Có như vậy công tác thi đua của chúng ta mới có sức sống, mới cuốn hút công nhân lao động tham gia và tất nhiên là mới có sự thành công của thi đua phần thứ hai thực trạng công tác tổ chức phong trào thi đua của công đoàn trong công nhân viên chức – lao động tại Tct sông đà I. Vài nét khái quát về Tổng Công ty Sông Đà 1. Lịch sử hình thành và phát triển của Tổng Công ty Tổng Công ty Sông Đà là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Bộ Xây dựng được thành lập ngày 01 tháng 6 năm 1961 - tên giao dịch quốc tế là Song Dự án Corporation. Có trụ sở đặt tại nhà G10 Thanh Xuân Nam - Thanh Xuân - Hà Nội. Với tên gọi ban đầu là Ban chỉ huy Công trường Thuỷ điện Thác Bà sau đổi thành Công ty Xây dựng Thuỷ điện Thác Bà bởi nhiệm vụ chính của đơn vị lúc đó là xây dựng công trình thuỷ điện đầu tiên, cánh chim đầu đàn của ngành thủy điện Việt Nam. Từ năm 1979-1994, Tổng Công ty tham gia xây dựng công trình nhà máy thủy điện Hoà Bình công suất 1.920 MW trên sông Đà - một công trình thế kỷ. Và cũng chính trong thời gian này, tên của dòng sông Đà đã trở thành tên gọi mới của đơn vị: Tổng Công ty Xây dựng Thuỷ điện Sông Đà Ngày 15 tháng 11 năm 1995, theo Quyết định số 966/BXD - TCLĐ của Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Tổng Công ty được thành lập lại theo mô hình Tổng Công ty 90 với tên gọi là Tổng Công ty Xây dựng Sông Đà. Và ngày 11 tháng 3 năm 2002, theo Quyết định số 285/QĐ-BXD của Bộ trưởng Bộ Xây dựng Tổng Công ty Xây dựng Sông Đà đã được đổi tên thành Tổng Công ty Sông Đà. Hoạt động kinh doanh chính của Tổng Công ty thuộc các lĩnh vực xây dựng công trình thuỷ điện, công trình cơ sở hạ tầng, các công trình giao thông, xây dựng công nghiệp, dân dụng, đường dây và trạm, sản xuất vật liệu xây dựng và thép, xi măng, các khu công nghiệp và đô thị, tư vấn xây dựng, xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị, công nghệ xây dựng, cùng nhiều lĩnh vực kinh doanh khác. Tổng công ty là các chủ đầu tư các nhà máy xi măng Hoà Bình, Yaly, xi măng Hạ Long, nhà máy thép Việt - ý, Khu đô thị Mỹ Đình - Mễ Trì, Khu công nghiệp Phố Nối A, Khu công nghiệp Đình Trám... cùng nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp khác. Tổng Công ty Sông Đà đã tham gia xây dựng hầu hết công trình thuỷ điện lớn của đất nước, đó là Nhà máy thuỷ điện Thác Bà - 108 MW, Thủy điện Hoà Bình - 1.920 MW, Thuỷ điện Trị An - 400 MW, Thuỷ điện Vĩnh Sơn - 66 MW, Thủy điện Yaly - 720 MW, Thủy điện Sông Hinh - 66 MW... Các công trình này đã cung cấp 60% sản lượng điện của toàn quốc, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Tổng công ty là tổng thầu EPC thực hiện dự án đầu tư Nhà máy thuỷ điện Sê San 3 - 273 MW, Nhà máy thủy điện Tuyên Quang - 342 MW theo phương thức hợp đồng chìa khoá trao tay và làm chủ đầu tư nhiều công trình thuỷ điện vừa và nhỏ như: Nhà máy thuỷ điện Cần Đơn theo phương thức BOT trong nước, thuỷ điện Ry Ninh 2, Thuỷ điện Nà Lơi, thuỷ điện Sê San 3A, thuỷ điện Nậm Mu... theo phương thức BO. Tổng Công ty đã xây dựng nhiều công trình đường dây và trạm biến áp cao thế như Đường dây 220 KV Phả Lại - Bắc Giang, 500 KV Bắc Nam, 500 KV Pleiku, Trạm biến áp 500 KV Hoà Bình, Pleiku. Trạm biến áp 220 KV Việt Trì, Tràng Bạch, Vật Cách, Bắc Giang, Sóc Sơn... và nhiều công trình hạ thế phục vụ phát triển dân sinh khác. Tổng công ty đã thực hiện nhiều hợp đồng lớn thuộc lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng và cải tạo các đường giao thông quan trọng như Quốc lộ 1A, Quốc lộ 18, Quốc lộ 10, đường Hồ Chí Minh... đặc biệt là xây dựng Hầm đường bộ qua đèo Hải Vân theo công nghệ đào hầm mới của áo (NATM), các công trình công nghiệp yêu cầu kỹ thuật cao như: Nhà máy giấy Bãi Bằng, dệt Minh Phương, nhà máy xi măng Bút Sơn, Nghi Sơn, Hoàng Mai và các công trình xây dựng lớn như khách sạn Thủ Đô, Toà nhà khách sạn Mặt Trời Sông Hồng, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Trung tâm Bưu chính Viễn thông... Trên 40 năm phát triển và trưởng thành, Tổng Công ty Sông Đà đã tích luỹ được rất nhiều kinh nghiệm trong thiết kế, thi công và trong điều hành sản xuất. Ngày nay Tổng công ty có một đội ngũ hơn 30.000 cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề (trong đó có hơn 4000 cán bộ kỹ bộ, quản lý có trình độ Đại học và trên Đại học). Chú trọng đầu tư đổi mới trang thiết bị, Tổng công ty là đơn vị duy nhất ở Việt Nam có lực lượng thiết bị thi công chuyên ngành tiên tiến và hiện đại. Với những thành tích và đóng góp to lớn cho sự nghiệp xây dựng đất nước, Tổng Công ty Sông Đà đã được phong tặng Danh hiệu Anh hùng Lao động Thời kỳ đổi mới và hai lần được tặng thưởng huân chương Hồ Chí Minh cùng nhiều huân chương khác, nhiều lần tập thể và cá nhân được phong tặng danh hiệu anh hùng lao động, chiến sĩ thi đua toàn quốc và nhiều phần thưởng cao quý khác. Định hướng và mục tiêu phát triển trong giai đoạn 2005-2010 của Tổng Công ty Sông Đà là: "Xây dựng và phát triển Tổng Công ty Sông Đà thành tập đoàn kinh tế mạnh, đa dạng háo ngành nghề, đa dạng hoá sản phẩm trên cơ sở duy trì và phát triển ngành nghề xây dựng truyền thống để đảm bảo Tổng Công ty Sông Đà là một nhà thầu mạnh và có khả năng làm tổng thầu các công trình lớn ở trong nước và quốc tế. Phát huy cao độ mọi nguồn lực để nâng cao năng lực cạnh tranh, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Bảng 1. Những kết quả chủ yếu trong sản xuất kinh doanh TT Tên chỉ tiêu Đơn vị tính Thực hiện 2001 Thực hiện 2002 Thực hiện 2003 Thực hiện 2004 Thực hiện 2005 1 Tổng Giá trị sản xuất kinh doanh Tỷ đồng 2.112 3.000 4.300 6.912 7.375 2 Doanh thu Tỷ đồng 1.867 2.353 4.027 5.833 6.100 3 Đầu tư Tỷ đồng 534 1.471 1.790 1.505 2.185 4 Nộp ngân sách Tỷ đồng 56,6 85 141,5 234,5 388 5 Lợi nhuận Tỷ đồng 38,7 46,5 231,8 231,8 260 6 Thu nhập bình quân 1 CNVC/tháng Triệu đồng 0,964 1,389 1,765 1.765 1,844 Chỉ tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2006: Tổng giá trị sản xuất kinh doanh: 830 tỷ đồng Doanh thu: 5.000 tỷ đồng Nộp ngân sách: 380,9 tỷ đồng Lợi nhuận: 293,4 tỷ đồng Thu nhập bình quân: 1,9 triệu đồng Sơ đồ hệ thống tổ chức Tổng Công ty Sông Đà hiện nay: Năm 2005 Hội đồng quản trị Tổng giám đốc điều hành Ban kiểm soát Các phòng ban chức năng Văn phòng P. Kinh tế P. Tài chính P. Ql cơ khí cơ giới P. QLKT p. tổ chức đào tạo P. kế hoạch P. kế toán P. thiết bị công nghệ P. đầu tư Các công ty cổ phần Các đơn vị sự nghiệp Các đơn vị liên doanh, liên kết Các đơn vị hạch toán phụ thuộc Các đơn vị hạch toán độc lập 2. Những thuận lợi và khó khăn của Tổng Công ty Sông Đà - Về thuận lợi: Tiền thân là công ty xây dựng Thuỷ điện Thác Bà với công trình Nhà máy thuỷ điện Thác Bà (Công trình thuỷ điện đầu tiên, cánh chim đầu đàn của ngành xây dựng Việt Nam) Tổng Công ty Sông Đà là một đơn vị lớn, có địa bàn hoạt động khắp từ Bắc vào Nam trên hầu hết các tỉnh thành của cả nước. Hơn 40 năm xây dựng, phát triển và trưởng thành đến nay đã có những bước phát triển toàn diện, vững chắc với tốc độ tăng trưởng cao, đời sống người lao động không ngừng được cải thiện, là một trong những tổng công ty mạnh của ngành xây dựng Việt Nam. Các công đoàn cơ sở trực thuộc Tổng Công ty hình thành và phát triển cùng lịch sử phát triển của Tổng Công ty được Đảng và Nhà nước tin tưởng. Với đội ngũ gần 30.000 cán bộ và công nhân kỹ thuật lành nghề, trong đó có hơn 4000 cán bộ kỹ thuật, quản lý có trình độ Đại học và trên Đại học có tâm huyết gắn bó với nghề, giàu kinh nghiệm, thiết bị hiện đại, tiên tiến. Tổng Công ty Sông Đà luôn hoàn thành các công trình Nhà nước giao phó. Công tác quản lý và thực hiện quy chế, nội quy luôn phát huy có hiệu quả. Thực hiện Nghị quyết TW 3 khoá IX, tiến hành sắp xếp cổ phần hoá doanh nghiệp, đã có những biến đổi về chất lượng, đối tượng cổ phần hoá là những doanh nghiệp có quy mô lớn nên có kết quả tích cực, đồng thời đang thí điểm mô hình công ty mẹ - công ty con bước đầu đạt được kết quả tốt. Ghi nhận những thành tích của công nhân lao động và hoạt động Công đoàn của tct, Nhà nước đã 2 lần trao tặng Tổng Công ty Huân chương Hồ Chí Minh, nhiều huân chương độc lập. Và một vinh dự lớn lao nữa là Đảng và Nhà nước đã quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới cho tập thể công nhân viên chức lao động Tổng Công ty Sông Đà. Đây là thuận lợi lớn thể hiện sự quan tâm, tạo điều kiện có hiệu quả của các cấp chính quyền và đoàn thể. - Những khó khăn: + Về mặt chủ quan: Với đặc thù là Tổng Công ty lớn có địa bàn hoạt động xuyên suốt từ Bắc vào Nam nên công tác quản lý gặp nhiều khó khăn. Một số đơn vị mới chuyển sang cổ phần hoá hoặc công ty TNHH Nhà nước một thành viên nên công tác quản lý điều hành còn yếu. Ngược lại một số đơn vị có tốc độ tăng trưởng cao nhưng bộ máy công tác cán bộ chưa thích ứng yêu cầu, dẫn đến quản lý tiến độ và chất lượng còn gặp nhiều khó khăn. Trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước các trang thiết bị còn yếu, vừa thiếu và lạc hậu là trở ngại lớn nhất cho việc phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ của Tổng Công ty. Lực lượng công nhân viên chức lao động tuy dồi dào nhưng đa số được đào tạo thời bao cấp nên cũng có những hạn chế nhất định. Xu hướng cổ phần hoá các doanh nghiệp tạo nên hệ quả là lực lượng lao động dôi dư nhiều nhưng thiếu lực lượng lao động có khả năng thích ứng với yêu cầu mới, địa bàn hoạt động mới. Bên cạnh đó việc đầu tư đi đôi với vốn kinh tế, trong Tổng công ty còn tồn tại nhiều chủ đầu tư chậm thanh quyết toán cộng nợ tồn đọng mỗi năm một tăng là khó khăn lớn ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh, đòi hỏi các nhà quản lý doanh nghiệp Tổng Công ty phải năng động hơn và phải vạch ra được những phương sách quản lý hữu hiệu. + Về mặt khách quan: Xu hướng toàn cầu hoá khủng hoảng kinh tế ở nhiều nước ảnh hưởng đến nhu cầu nước ta nói chung và nhu cầu xây dựng nói riêng, cung cầu chênh lệch kéo theo hệ quả là sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Đó là khó khăn thách thức lớn cho các doanh nghiệp, là thách thức lớn đến hoạt động của Tổng Công ty Sông Đà, hoàn cảnh đó đã ảnh hưởng đến công tác Công đoàn và phong trào tổ chức hoạt động của công nhân viên chức lao động. 3. Đặc điểm về tổ chức Công đoàn Tổng Công ty Sông Đà Tổng Công ty Sông Đà được thành lập trên cơ sở hợp nhất của công ty xây dựng Thuỷ điện Thác Bà để tiến tới trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh. Đồng hành với sự phát triển của Tổng Công ty Sông Đà tháng 6/1961 Công đoàn ngành thủy điện Thác Bà chính thức chuyển thành Công đoàn Tổng Công ty Sông Đà, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Xây dựng, Đảng uỷ Tổng công ty và Tổng liên đoàn lao động Việt Nam. Đến ngày 4/6/1962 Công đoàn Tổng Công ty Sông Đà đã tổ chức Đại hội nhiệm kỳ I với cơ cấu Ban chấp hành 9 uỷ viên, lúc đầu chỉ có 100 đoàn viên, đến nay đã có 58 Công đoàn cơ sở trực thuộc, 9 ban đại diện vận động cán bộ, công nhân trong ngành thực hiện xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Là Tổng Công ty Nhà nước, tổ chức Công đoàn được duy trì và tiếp tục hoạt động tích cực với nhiều loại hình Công đoàn Tổng Công ty có các tổ chức Công đoàn trực thuộc. Với nhiệm vụ do Tổng Công ty Sông Đà phân cấp, Công đoàn Tổng Công ty tham gia với hội đồng quản trị và Tổng giám đốc Tổng Công ty xây dựng kế hoạch phát triển ngắn hạn và dài hạn, vận động công nhân viên chức lao động trong ngành thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc cũng như sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước ngày nay. Cùng với sự phát triển của Tổng Công ty thì đội ngũ cán bộ đoàn viên Công đoàn đã được nâng cao về nghiệp vụ chuyên môn cũng như về phương pháp vận động quần chúng. Với số lượng đoàn viên của Công đoàn Tổng Công ty Sông Đà là hơn 27.000 người. Các phong trào của công nhân viên chức lao động và hoạt động Công đoàn đã trở thành một nhân tố quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành nói chung và Tổng Công ty nói riêng. Công đoàn Tổng Công ty Sông Đà dưới sự chỉ đạo của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, của Đảng và Nhà nước. Theo Bộ luật Công đoàn được Quốc hội thông qua, trong đó có Công đoàn thực hiện 3 chức năng: bảo vệ lợi ích công nhân viên chức lao động, tham gia quản lý, chức năng giáo dục. Trong đó chức năng bảo vệ lợi ích cho công nhân viên chức lao động là trung tâm. Trong giai đoạn đất nước đang chuyển biến mạnh mẽ như hiện nay, giai cấp công nhân luôn chịu sự tác động trực tiếp tạo ra những biến đổi về mọi mặt. Tổng Công ty Sông Đà cũng không nằm ngoài sự chi phối bởi những yếu tố đó, vì vậy công đoàn tất yếu phải thay đổi và có phương hướng hoạt động phù hợp với thời đại. Công đoàn phải thực hiện triệt để những nhiệm vụ của mình xứng đáng là tổ chức bảo vệ quyền lợi hợp pháp chính đáng của người lao động, tham gia quản lý giúp công nhân viên chức lao động làm chủ tập thể; và giáo dục công nhân viên chức lao động nâng cao trình độ mọi mặt. 3.1. Ban chấp hành Công đoàn Tổng Công ty Sông Đà Từ chỉ thị số 03/CT-TLĐ ngày 04/4/1996 của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về việc thành lập các Công đoàn Tổng Công ty, Công đoàn Tổng Công ty Sông Đà không ngừng đổi mới và phát triển. Với mục tiêu "Phát huy truyền thống trên 40 quyết tâm xây dựng Tổng Công ty Sông Đà trở thành tập đoàn kinh tế mạnh. Góp phần vào thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước" Công đoàn Tổng Công ty Sông Đà luôn xây dựng và phát triển các quy chế về mối quan hệ phối hợp công tác giữa các quy chế về mối quan hệ phối hợp công tác giữa lãnh đạo và BCH CĐ. Ban chấp hành Công đoàn Tổng Công ty Sông Đà hiện có: Số uỷ viên BCH là: 27 người Ban thường vụ: 9 người + Về cơ cấu tổ chức cán bộ: Trên quy chế hoạt động chung, mỗi công đoàn trực thuộc đều có một đồng chí uỷ viên BCH chịu trách nhiệm trực tiếp. Uỷ viên BCH có nhiệm vụ báo cáo những hoạt động từ công đoàn cơ sở với thường trực công đoàn Tổng Công ty và chịu trách nhiệm cùng BCH công đoàn cơ sở giải quyết ngay vướng mắc tại cơ sở. Sơ đồ hệ thống tổ chức công đoàn Tổng Công ty Sông Đà Công đoàn tct sông đà BĐD CĐ TCT tại Thủy điện Sơn La BĐD CĐ TCT tại Thủy điện Tuyên Quang BĐD CĐ TCT tại KV-DH Miền Trung BĐD CĐ TCT tại Sê San 3 BĐD CĐ TCT tại Sê San 3A BĐD CĐ TCT Sê San 4 BĐD CĐ TCT tại PlêiKrông BĐD CĐ TCT tại KV Quảng Ninh BĐD CĐ TCT tại TP Hồ Chí Minh CĐ CTy Cổ phần Sông Đà 2 CĐ CTy Cổ phần Sông Đà 3 CĐ CTy Cổ phần Sông Đà 5 CĐ CTy Cổ phần Sông Đà 6 CĐ CTy Cổ phần Sông Đà 7 CĐ CTy Cổ phần Sông Đà 9 CĐ CTy Cổ phần Sông Đà 10 CĐ CTy Cổ phần Sông Đà 11 CĐ CTy Cổ phần Sông Đà 12 CĐ CTy Cổ phần Sông Đà 17 CĐ CTy Cổ phần Sông Đà 19 CĐ CTy Cổ phần Sông Đà 25 CĐ CTy Cổ phần Sông Đà 27 CĐ CTy Cổ phần Sông Đà 5.05 CĐ CTy Cổ phần Sông Đà 6.04 CĐ CTy Cổ phần Sông Đà 6.06 CĐ CTy Cổ phần Sông Đà 9.01 CĐ CTy Cổ phần Sông Đà 10.1 CĐ CTy CP Xi măng Sông Đà Yaly CĐ CTy CP Xi măng Sông Đà CĐ CTy CP Tư vấn Sông Đà CĐ CTy CP Thuỷ điện Cần Đơn CĐ CTy CP May xuất khẩu Sông Đà CĐ CTy Cổ phần Thuỷ điện Ry Ninh 2 CĐ CTy CP Xi măng Hạ Long CĐ CTy CP DT & PT Điện Sê San 3A CĐ CTy CP TM & vận chuyển Sông Đà CĐ CTy CP ĐTPT điện Miền Trung Sơ đồ hệ thống tổ chức công đoàn Tổng Công ty Sông Đà (tiếp) CĐ Cty CP thuỷ điện Bình Điền CĐ Cty CP thuỷ điện Nà Lơi CĐ Cty CP thuỷ điện Nậm Mu CĐ Cty CP ĐT PT Sông Đà CĐ Cty CP BĐS Sông Đà CĐ Cty CP Thép Việt - ý CĐ Cty CP công nghệ thông tin Sông Đà CĐ Cty CP CUNLQT & TM Sông Đà CĐ Cty CP ĐTPTĐT & KCN Sông Đà CĐ Cty CP Cơ khí lắp máy Sông Đà CĐ Cty CP Thnh Hoa Sông Đà CĐ Cty CP thuỷ điện Nậm Chiến CĐ Cty CP thuỷ điện Việt Lào CĐ Cty BOT Hầm đường bộ qua đèo Ngang CĐ Cty Sông Đà UCRIN CĐ Cty Sông Đà JURONG CĐ Cơ quan Tổng Công ty CĐ BĐH - DA - Toà nhà NH4 CĐ BQL - TĐ - Bản vẽ CĐ BĐH - DA - TĐ Tuyên Quang CĐ BĐH - DA - TĐ Sơn La CĐ BĐH - DA - TĐ Sê San 3 CĐ BĐH - DA - TĐ Sê San 4 CĐ Cty CP Xây lắp & Đầu tư Sông Đà CĐ BĐH - DA - TĐ Tuyên Quang CĐ BĐH - DA - TĐ Sơn La CĐ BĐH - DA - TĐ Sê San 3 CĐ BĐH - DA - TĐ Sê San 4 Các uỷ viên BCH theo dõi, giám sát các vấn đề liên quan tới người lao động báo cáo trực tiếp tại cuộc họp BCH Công đoàn TCT hàng quý. Những vướng mắc nào thuộc lĩnh vực giải quyết của Công đoàn TCT thì giao cho BCH Công đoàn cơ sở giải quyết dưới sự chỉ đạo của Công đoàn TCT, những vướng mắc nào liên quan đến quyết định của HĐQT Tổng giám đốc thì BCH Công đoàn TCT trực tiếp trao đổi với HĐQT - TGĐ giải quyết. Đội ngũ cán bộ công đoàn cơ sở đông đảo và rộng khắp sẽ tạo điều kiện cho Công đoàn TCT kiểm tra, giám sát kịp thời hoạt động của đơn vị cho Công đoàn TCT. Để chuẩn hoá hoạt động công đoàn trong TCT, BCH CĐ TCT đã ban hành các quy chế. - Quy chế phối hợp hoạt động và mối quan hệ công tác giữa BCH CĐ TCT và Tổng giám đốc TCT Sông Đà. - Quy chế về chức năng hoạt động và mối quan hệ giữa BCH CĐ TCT và Đoàn thanh niên TCT. - Quy chế về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và an toàn vệ sinh viên trong TCT. - Quy chế tổ chức hoạt động của Ban thanh tra nhân dân ở các cơ sở trực thuộc tổng công ty. Nghị quyết liên tịch giữa công đoàn TCT và Tổng Giám Đốc về công tác báo cáo tài chính và kiểm tra tài chính công đoàn. Để nâng cao năng lực trình độ của cán bộ công đoàn, BCH Công đoàn TCT đã chú trọng xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ + Về chức năng, nhiệm vụ của Công đoàn TCT: Được đoàn chủ tịch Tổng Liên đoàn quy định kèm theo Quyết định 1537 QĐ/TLĐ ngày 17/12/1996 xuyên suốt 3 chức năng của công đoàn cũng như quyền hạn của Công đoàn TCT. Qua đó công đoàn TCT vận dụng phù hợp với đơn vị mình và với từng giai đoạn phát triển. Ban chấp hành TCT động viên CNVCLĐ tổ chức các phong trào thi đua, góp phần nâng cao tầm quan trọng với TCT và các đơn vị hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh, quản lý doanh nghiệp, hoàn thành nhiệm vụ tách nộp với Nhà nước, đời sống của CNVCLĐ ngày càng được hoàn thiện. Công đoàn TCT cụ thể nhiệm vụ trong từng thời kỳ, tổ chức chỉ đạo công đoàn cơ sở triển khai thực hiện các nhiệm vụ sao cho phù hợp với tình hình đặc điểm của đơn vị. Uỷ viên BCH TCT chịu trách nhiệm lãnh hội sự chỉ đạo của Liên đoàn Lao động địa phương - nơi cơ sở đóng, từ đó triển khai việc thực hiện nhiệm vụ cử Liên Đoàn Lao Động địa phương giao cho tại cơ sở và báo cáo nội dung nhiệm vụ đó với Công đoàn TCT, Đảng uỷ công ty tổng hợp và kiểm tra kết quả đạt được. Chính vì vậy các thông tư, nghị quyết của các cấp trên hay của Công đoàn TCT đều được triển khai một cách cụ thể, chặt chẽ và có quy định cho từng cán bộ chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động, thực thi nhiệm vụ Công đoàn TCT và ngược lại. Công đoàn TCT dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng uỷ TCT đã triển khai và thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng đến tận cơ sở. Tạo được niềm tin cậy, gắn bó giữa quần chúng và tổ chức công đoàn, tạo được niềm tin của các đoàn viên với định hướng phát triển và sự lãnh đạo của Đảng uỷ TCT. 3.2. Công đoàn TCT Sông Đà với việc thực hiện chức năng công đoàn Với phương hướng, mục tiêu hoạt động năm 2006 - 2007 của Công đoàn TCT là: "Xây dựng đội ngũ CNVCLĐ và tổ chức công đoàn vững mạnh, chăm lo bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động, chủ nhân tham gia quản lý đơn vị, phát huy quyền làm chủ của CNVCLĐ trong sản xuất kinh doanh. Cùng với đơn vị thực hiện tốt chính sách pháp luật công đoàn, chăm lo xây dựng đời sống vật chất và tinh thần cho CNVCLĐ, thực hiện thắng lợi Nghị quyết ĐH Đảng bộ công ty lần thứ X ". Công đoàn TCT Sông Đà phấn đấu thực hiện hiệu quả 3 chức năng cơ bản: + Công đoàn TCT Sông Đà thực hiện chức năng chăm lo và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng cho người lao động. Trong những năm qua, thực hiện chức năng chăm lo, bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng cho người lao động: Từ TCT đến các cơ sở có nhiều cố gắng tham gia với chuyên môn trong việc tổng hợp, phân loại Lao Động và cân đối với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh hàng năm nhằm có kế hoạch tạo thêm việc làm cho người lao động. Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chế độ chính sách cho CNVCLĐ ở tất cả cơ sở đã được tổ chức thực hiện. Hàng năm Công đoàn TCT đã phối hợp với chuyên môn kiểm tra việc thực hiện chế độ chính sách cho người lao động, kiểm tra về tiền lương, đời sống và thực hiện quy chế dân chủ theo quy định của Đảng, Nhà nước. Với sự tham gia xây dựng, thực hiện giám sát chế độ chính sách liên quan đến người lao động trong đơn vị; tổ chức công đoàn các cấp đã tham gia xây dựng thực hiện chế độ chính sách cho người lao động như: Quy chế trả lương, thực hiện việc chia lương hàng tháng, chế độ ăn ca, khám sức khỏe định kỳ, bệnh nghề nghiệp, tham gia sắp xếp lại doanh nghiệp, tham gia giải quyết lao động dôi dư theo chế độ 41 của Chính phủ. Đặc biệt công tác trả lương hàng tháng cho người lao động được lãnh đạo các đơn vị trực tiếp thực hiện nghiêm túc theo đúng thời gian quy định của Bộ luật lao động. Để đảm bảo lợi ích cho CNVCLĐ, Công đoàn TCT đã thực hiện có hiệu quả công tác Bảo hiểm xã hội 100% số lao động được mua Bảo hiểm xã hội. Công đoàn kết hợp với chuyên môn giải quyết tốt các chế độ chính sách đối với người lao động: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Công tác An toàn và bảo hộ lao động được lãnh đạo đơn vị tổ chức Công đoàn các cấp quan tâm và chỉ đạo thực hiện theo phương châm sản xuất phải an toàn để thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Hoạt động của Ban thanh tra an toàn của các đơn vị được duy trì thường xuyên, đã tổ chức được nhiều đợt kiểm tra các công trường. Mạng lưới an toàn vệ sinh viên được các xí nghiệp kiện toàn và bổ sung kịp thời, hoạt động của mạng lưới An toàn - vệ sinh viên có nhiều chuyển biến tích cực. Công tác khám sức khoẻ định kỳ cho CNVCLĐ được thực hiện thường xuyên nhằm đảm bảo sức khoẻ cho CNVCLĐ. Thường xuyên phát động các phong trào An toàn - vệ sinh lao động phòng chống cháy nổ, phong trào "xanh - sạch - đẹp và đảm bảo vệ sinh lao động " do Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam phát động. Công đoàn TCT phối hợp các cấp trong công ty tích cực vận động CNVCLĐ ủng hộ các hoạt động xã hội, chính sách xã hội, hoạt động từ thiện như: Quỹ vì trẻ thơ Sông Đà; Quỹ vì sự tiến bộ của phụ nữ Sông Đà; Quỹ đền ơn đáp nghĩa; Quỹ ủng hộ các địa phương bị bão lụt... Có thể nói hoạt động xã hội nhân đạo từ thiện tích nghĩa của Công đoàn TCT phù hộ với tâm tư nguyện vọng của CNVCLĐ và để lại những tình cảm tốt đẹp cho cán bộ CNVCLĐ và đồng bào các địa phương. + Công đoàn TCT với chức năng tuyên truyền giáo dục và xây dựng đội ngũ CNVCLĐ. Đồng thời với việc thực hiện chức năng đại diện và bảo vệ lợi ích chính đáng hợp pháp cho người lao động, trong những năm qua các cấp trong TCT đã phát huy tính tự chủ của Công đoàn cơ sở, với công tác tuyên truyền giáo dục, tập hợp, xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân lớn. Tổ chức tuyên truyền giáo dục là quan điểm đổi mới về kinh tế trong việc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoạt động Công đoàn là cơ sở và hoạt động công đoàn của các đơn vị thành viên trong TCT về tuyên truyền giáo dục CNVCLĐ đã có những kết quả cao. Tổ chức thông qua các phong trào thi đua yêu nước, thông qua các chương trình hoạt động cách mạng, thi đua lao động sản xuất, lập thành tích chào mừng, kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm 2005. Tuyên truyền thông qua các phong trào thi đua để lựa chọn, bồi dưỡng các quần chúng ưu tú kết nạp vào Đảng, lớp "Đảng viên Hồ Chí Minh" (3/2/1930-3/2/2005) tuyên truyền tham gia cuộc thi viết tìm hiểu về Đảng. Công đoàn TCT đẩy mạnh tổ chức tuyên truyền bằng các đợt phát động các phong trào thi đua yêu nước trong CNVCLĐ. Các hoạt động tuyên truyền mang tính chất thiết thực như trao băng zôn tại trụ sở làm việc các xí nghiệp và hiện trường đơn vị đang thi công. Tuyên truyền bằng hình thức vận động CNVCLĐ quyên góp ủng hộ các gia đình và nạn nhân chất độc màu da cam...khơi dậy tinh thần đoàn kết, tương trợ trong CNVCLĐ. Tuyên truyền về các ngày lễ lớn, tuyên truyền về Đại hội Đảng bộ TCT Sông Đà lần thứ IX thông qua các hoạt động thiết thực như: tham gia hội nghị văn nghệ, thể thao, hội nghị báo ảnh, hội nghị "nhà ăn sạch đẹp" do ban tổ chức Công đoàn TCT tổ chức. Thực hiện nghị quyết số 4b ngày 06/1/2005 của BCH Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam khoá IX tại hội nghị lần thứ IV về "Công đoàn với nhiệm vụ nâng cao trình độ học vấn", nghề nghiệp của CNVCLĐ đáp ứng sự nghiệp CNH - HĐH đất nước" các đơn vị tiếp tục tổ chức phong trào thi đua hướng dẫn kèm cặp trong CNVCLĐ. Ban chấp hành TCT đã tích cực tổ chức tuyên truyền vận động lực lượng lao động trẻ mới vào làm việc tại TCT gia nhập tổ chức công đoàn. Năm 2005 các Công đoàn cơ sở đã kết nạp thêm 3.018 đoàn viên mới... Các hoạt động tuyên truyền giáo dục của Công đoàn TCT đã nâng cao ý thức và trách nhiệm trong lao động sản xuất, nâng cao thể lực cho CNVCLĐ. Vì mục tiêu "Làm chủ khoa học và công nghiệp, có ý thức tổ chức kỷ luật là có sức khoẻ và nếp sống văn hoá. Giàu tình nghĩa, xứng đáng là giai cấp lãnh đạo cách mạng, giữ vai trò nòng cốt trong khối nông dân trí thức và khối đại đoàn kết dân tộc". + Công đoàn TCT với chức năng tham gia quản lý. Hoạt động tham gia quản lý của Công đoàn và CNVCLĐ trong doanh nghiệp Nhà nước cùng với mục tiêu là làm cho doanh nghiệp ngày càng ổn định và phát triển, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, nhân văn hoá trong quan hệ lao động. Ban chấp hành Công đoàn và TCT đã đề ra những nội dung nhằm đổi mới phương thức hoạt động công đoàn để thực hiện chức năng tham gia quản lý doanh nghiệp, Công đoàn TCT và công đoàn cơ sở đã chủ động cùng chuyên môn đồn cấp duy trì và tổ chức Đại hội CNVC hàng năm, Công đoàn TCT thực hiện tham gia quản lý với phương châm "Dân biết, dân làm, dân kiểm tra", phát huy quyền dân chủ của CNVCLĐ thông qua tổ chức công đoàn và phát triển quyền dân chủ trực tiếp của người l._.c biệt là quy chế thi đua khen thưởng cho nên người lao động chưa thực sự tích cực hưởng ứng phong trào thi đua thời gian đầu. Thứ ba, nội dung thi đua chưa cụ thể tới từng tổ, đội sản xuất mới dừng lại ở cấp công trường; xí nghiệp hoặc chi nhánh nên chưa tạo ra động cơ phấn đấu của các tổ, đội sản xuất (tổ công đoàn - công đoàn bộ phận). Thứ tư, một số phong trào thi đua đã phát động nhưng hiệu quả không cao do thiết kế chưa kịp thời; bộ phận thi công bê tông phải chờ lắp đặt thiết bị (thiết bị đặt mua ở nước ngoài thường chậm tiến độ giao hàng) nên ảnh hưởng đến hiệu quả các phong trào thi đua. Thứ năm, một số đơn vị còn để xảy ra tai nạn lao động nghiêm trọng đã ảnh hưởng tới kết quả chung của phong trào thi đua. Thứ sáu, đến hết năm 2005, TCT Sông Đà đã hoàn thành công tác đổi mới sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. 100% các đơn vị thành viên của TCT đã chuyển thành công ty cổ phần. Do đó việc xác định nguồn tiền thưởng để chi cho phong trào thi đua gặp nhiều khó khăn hơn trước. Các đơn vị phải chờ kiểm toán, sau đó tổ chức đại hội cổ đông thường niên mới xác định được Quỹ khen thưởng để chi và sử dụng cho phong trào thi đua. Thứ tám, ở một đơn vị phong trào sơ kết, tổng kết phong trào thi đua chưa kịp thời, do đó chưa động viên, khích lệ các tập thể, các cá nhân xuất sắc, nòng cốt của phong trào thi đua... Phong trào thi đua phát huy sáng kiến cải tiến kĩ thuật trong CNVCLĐ TCT còn yếu, phong trào thi đua chống lãng phí, tham nhũng kết quả còn hạn chế... 3. Bài học kinh nghiệm Để có được những kết quả trong việc sử dụng tuyên truyền nhân tố mới điển hình tiên tiến tại TCT Sông Đà trong những năm vừa qua, chúng ta rút ra một số bài học kinh nghiệm: Một là: Phải có sự lãnh đạo tập trung thống nhất cao từ Đảng uỷ, HĐQT TCT và sự phối hợp trong công tác điều hành giữa Tổng giám đốc và các tổ chức đoàn thể quần chúng, giữa TCT và các đơn vị thành viên. Kiện toàn kịp thời Hội đồng thi đua khen thưởng, Ban chỉ đạo các phong trào, chiến dịch thi đua. Hai là Trong cơ chế thị trường việc khó nhất của công tác thi đua khen thưởng là làm sao cho mọi cán bộ, công nhân đều tích cực hăng hái thi đua, muốn vậy ta phải làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, đặc biệt là đối với người công nhân trực tiếp sản xuất. Ba là: Thi đua phải gắn liền với khen thưởng, thi đua với khen thưởng phải gắn với vật chất, nâng cao mức sống cho người lao động. Do đó công tác thi đua khen thưởng phải tạo được mục đích quan trọng là không ngừng nâng cao đời sống về vật chất và tinh thần cho người lao động. Với phương châm tập thể tạo anh hùng, mọi ngành, mọi tổ chức trong TCT phải tạo điều kiện cho các nhân tố điển hình phát huy hết khả năng của mình cống hiến vào công việc của tập thể, hay nói cách khác là phải phát huy động bộ sức mạnh của tập thể để xây dựng nhân tố điển hình. Ban hành kịp thời các quy chế khen thưởng cụ thể cho từng phong trào, chiến dịch. Bốn là: Khi đã có được nhân tố điển hình, tiên tiến, từng tập thể cùng các cấp uỷ Đảng, thủ trưởng đơn vị và các tổ chức đoàn thể quần chúng phải kịp thời động viên khen thưởng, có phát động phải có sơ kết, tổng kết đồng thời phải xây dựng đào tạo những cán bộ có trách nhiệm để tổ chức phong trào, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt để ngày càng tiến bộ. Năm là: Phải biết cách tổng hợp, phân tích những thành tích, những sáng kiến, những ưu điểm nổi bật của từng nhân tố điển hình của các anh hùng, chiến sỹ thi đua, các gương anh hùng lao động giỏi nêu gương cho mọi người noi theo, chú trọng xây dựng, bồi dưỡng con người mới. Tìm mọi hình thức để tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, truyền hình, báo ảnh, xuất bản các tập sách về truyền thống cua nhiều thế hệ của Tổng công ty. Sáu là: Phải thường xuyên đôn đốc kiểm tra diễn biến công tác thi đua khen thưởng, để kịp thời điều chỉnh, chỉ đạo, tránh tư tưởng chạy theo thành tích, tiến bộ mà bỏ qua quy trình, quy phạm về quản lý kỹ thuật chất lượng, về an toàn vệ sinh trong lao động, đảm bảo đầy đủ nguồn công việc và các điều kiện thuận lợi nhất, không để thiếu việc làm để ảnh hưởng đến khí thế tinh thần thi đua. Phần thứ ba Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh phong trào thi đua trong công nhân viên chức lao động tại TCT Sông đà I. Phương hướng đổi mới công tác thi đua tại TCT Sông đà trong thời gian tới 1. Yêu cầu đẩy mạnh phong trào thi đua trong CNVCLĐ tại TCT Sông Đà đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH - HĐH Trên cơ sở đường lối phát triển kinh tế của đất nước, trong những năm tới TCT Sông Đà tiếp tục sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp, từng bước xây dựng và phát triển TCT với định hướng phát triển đến năm 2020: "Xây dựng và phát triển TCT trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh đa sở hữu với đội ngũ cán bộ công nhân có tính chuyên nghiệp cao, có trình độ khoa học kĩ thuật, công nghệ và quản lý tiên tiến, có sức cạnh tranh cao tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Lấy hiệu quả kinh tế làm trọng tâm và là thước đo chủ yếu cho sự phát triển bền vững của TCT". Để hoàn thành được nhiệm vụ đó, công tác thi đua khen thưởng cần được coi trọng hơn bao giờ hết. Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và người lao động, là thành viên của hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam, cơ sở của Đảng CSVN, người cộng tác đắc lực của Nhà nước, có trách nhiệm to lớn trong vận động tổ chức CNVCLĐ nỗ lực phấn đấu thực hiện tổ chức các mục tiêu kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội do Đảng CSVN đề ra. Công đoàn TCT Sông Đà thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội của TCT Sông Đà theo đường lối, chủ trương của Ban cán sự Đảng TCT. Vì vậy để thực hiện tốt nhiệm vụ, đem lại hiệu quả cao trong hoạt động thì cán bộ công đoàn phải biết tổ chức hoạt động một cách khoa học, phải chủ động sáng tạo trong tổ chức các phong trào hành động cách mạng nhằm khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân và tập thể CNVCLĐ trong toàn TCT. Hơn nữa Bộ Chính trị BCH TW Đảng đã có chỉ thị số 35/CP-TW yêu cầu việc đổi mới công tác thi đua khen thưởng: "Xây dựng kế hoạch và có biện pháp cụ thể tạo ra một bước chuyển biến mạnh mẽ về chất trong lĩnh vực công tác thi đua - khen thưởng, dấy lên phong trào thi đua sôi nổi nhằm phát huy cao độ tính tích cực trong mọi ngành, mọi giới, các dân tộc, các tầng lớp nhân dân, các lực lượng vũ trang, các thành phần kinh tế, rộng khắp trong cả nước, tạo ra động lực tinh thần vật chất mới, hăng hái tham gia lao động sản xuất và bảo vệ Tổ quốc, cần kiệm sáng tạo, cống hiến sức lực trí tuệ phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH đất nước". Để thực hiện được mục tiêu trên, công tác tổ chức chỉ đạo phong trào thi đua của công đoàn trong giai đoạn mới phải đảm bảo được các yêu cầu cơ bản: - Phong trào thi đua trong CNVCLĐ thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH phải thực sự trở thành phong trào quần chúng rộng rãi trong các đơn vị, phải tiến hành thường xuyên, liên tục và phải thu hút được đông đảo CNVCLĐ tự nguyện tham gia và có ý thức trách nhiệm. - Các phong trào thi đua trong CNVCLĐ do công đoàn phải hướng vào giải quyết tháo gỡ những khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, công tác của đơn vị, nhằm tạo việc làm, động viên, khuyến khích khơi dậy mọi tiềm năng, trí tuệ, khơi dậy tinh thần lao động sáng tạo của CNVCLĐ, lao động với năng suất chất lượng cao, đảm bảo vệ sinh an toàn, phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ kinh tế - xã hội của toàn TCT. - Nội dung, hình thức thi đua trong CNVCLĐ ở từng đơn vị phải phù hợp yêu cầu, nhiệm vụ mà đơn vị đề ra. Thi đua phải mang lại hiệu quả thiết thực về vật chất, tinh thần và đảm bảo hải hoà lợi ích cho CNVCLĐ. - Thi đua trong CNVCLĐ phải góp phần nâng cao phẩm chất đạo đức, lối sống, rèn luyện tác phong công nghiệp, sống làm việc theo hiến pháp, pháp luật và góp phần nâng cao trình độ học vấn, kĩ năng nghề nghiệp của CNVCLĐ, tăng cường xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết thống nhất trong đơn vị, nhằm góp phần xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn trong toàn TCT không ngừng lớn mạnh. - Phong trào thi đua phải được tổ chức với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, linh hoạt và hấp dẫn, phù hợp với điều kiện của từng đơn vị, từng đối tượng tham gia thi đua, tránh phô trương, hình thức và lãng phí. 2. Phương hướng đổi mới công tác thi đua tại TCT Sông Đà Trong thời gian tới Trong những năm tới, TCT Sông Đà tiếp tục sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp, từng bước xây dựng và phát triển TCT trở thành tập đoàn kinh tế Sông Đà. Các công trình trọng điểm TCT làm tổng thầu EPC hoặc đứng đầu tổ hợp các nhà thầu xây lắp như: TĐ Tuyên Quang, TĐ Sê San 3, TĐ Sơn La, TĐ PlâyKrông, TĐ Quảng Trị, TĐ Bản Lả... và hàng loạt công trình TCT đầu tư xây dựng như: Xi măng Hạ Long, TĐ Nậm Chiến, TĐ Bình Điền, các khu đô thị Mỹ Đình, Anh Khánh... sẽ đi vào giai đoạn thi công căng thẳng, đòi hỏi cao về tiến độ và chất lượng. Để hoàn thành được những nhiệm vụ đó, công tác thi đua khen thưởng cần phải được coi trọng hơn bao giờ hết. Trong thời gian tới TCT tập trung chỉ đạo công tác thi đua khen thưởng với những nội dung sau: 2.1. Tổ chức tốt phong trào thi đua thực hiện chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Xây dựng về phát động phong trào thi đua đặc biệt đến hết năm 2005 để hoàn thành nhiệm vụ năm 2005 và kế hoạch 5 năm 2001 - 2005) - Đẩy mạnh phong trào thi đua toàn diện tại các công trường trọng điểm như: thuỷ điện Tuyên Quang, Sê San 3, Sê San 3A, Sơn la, Pleikrông, Bản vẽ, Quảng Trị, để đảm bảo hoàn thành tiến độ xây dựng và kế hoạch nhiệm vụ hàng năm. - Thông qua phong trào thi đua trên các công trường trọng điểm để đảm bảo tiến độ, chất lượng; tổ chức thi công khoa học, hiện đại, tuyệt đối an toàn lao động, tiết kiệm vật tư, nguyên liệu, giá thành hạ. - Nâng cao đời sống về mọi mặt như nơi ăn, ở, thu nhập, văn hoá tinh thần cho người lao động 2.2. Thông qua phong trào thi đua để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công nhân lành nghề - Trong chiến lược đa dạng hoá ngành nghề, đa dạng hoá sản phẩm, đa dạng hoá hình thức sở hữu... của mình nhiều lĩnh vực sản xuất công nghiệp như: sản xuất thép, xi măng, may mặc, bao bì, đầu tư xây dựng đô thị, vận hành nhà máy thủy điện, các công trình giao thông... là những lĩnh vực còn mới đã và đang được TCT đầu tư xây dựng, quản lý trong thời gian qua và những năm tới. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực quản lý, điều hành, trình độ chuyên môn, tay nghề cho lực lượng công nhân, cán bộ trong lĩnh vực này là điều hết sức quan trọng, quyết định sự thành công của công việc. Do đó trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp này vừa phải tổ chức tốt phong trào thi đua, vừa phải chú trọng xây dựng con người mới. - Trong lĩnh vực xây dựng thuỷ điện vừa phải nhanh chóng, vừa phải tiếp tục đào tạo cán bộ quản lý, điều hành các dự án theo các hình thức mới như: Tổng thầu, tự đầu tư, quản lý, điều hành dự án... vừa phải giữ vững và không ngừng nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ CBCN xây dựng thủy điện - một nghề truyền thống của TCT từ ngày thành lập đến nay, đảm bảo nhanh chóng nắm bắt các công nghệ thi công tiên tiến của thế giới, vận hành, sửa chữa thành thạo các thiết bị thi công hiện đại dấy lên trong toàn TCT phong trào thi đua giữ tốt, dùng bền, nâng cao năng suất, hiệu quả sử dụng các loại máy móc, thiết bị trong thi công. - Chú ý xây dựng các gương điển hình xuất sắc trong công tác vận hành quản lý các xe máy, thiết bị thi công, về ý thức trách nhiệm, về trình độ tay nghề, về năng suất lao động... 2.3. Đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong đội ngũ cán bộ, công nhân trên mọi lĩnh vực hoạt động - Thành lập Hội đồng đánh giá tổng kết các sáng kiến, giá trị làm lợi, rút kinh nghiệm cụ thể, có chế độ thưởng gắn liền với hiệu quả sáng kiến để động viên mọi tập thể, mọi cá nhân tự tìm tòi suy nghĩ, đổi mới phương pháp, lề lối làm việc, mang lại hiệu quả thiết thực cho tập thể và cá nhân. - Đề nghị Tổng LĐLĐ Việt Nam cấp bằng lao động sáng tạo cho các cá nhân có sáng kiến hoặc giải pháp hữu hiệu có hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. 2.4. Tiếp tục tổ chức tốt phong trào Xanh - Sạch - Đẹp trong các nhà máy, công xưởng, xí nghiệp, công trường của TCT đảm bảo vệ sinh môi trường nơi ăn, ở, làm việc. Thi đua giữ gìn và không ngừng cải thiện điều kiện sống và làm việc cho CNVC - LĐ. Đối với những cơ sở sản xuất công nghiệp xây dựng tiêu chuẩn ISO 14000 về vệ sinh và môi trường. Tuyệt đối đảm bảo an toàn lao động trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của TCT. 2.5. Đăng ký và tổ chức gắn biển các công trình, sản phẩm chào mừng Đại hội Đảng bộ TCT lần thứ IX và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. 2.6. Từ trong các phong trào thi đua tiếp tục xây dựng các anh hùng, chiến sĩ thi đua Toàn quốc và các nhân tố điển hình để đề nghị các cấp khen thưởng. Phấn đấu trong 5 năm tới: - Xây dựng từ 2-3 tập thể và 3-5 Anh hùng lao động - Xây dựng từ 10-15 Chiến sỹ thi đua Toàn quốc. - Đề nghị Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng cho TCT Sông Đà. - Đề nghị Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh cho 2 tập thể. - Tiếp tục xét, đề nghị Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ và các bộ ngành... xét khen thưởng cho các tập thể cá nhân có nhiều thành tích xuất sắc trong các phong trào thi đua. 2.7. Tổ chức tuyên truyền về thi đua, khen thưởng. - Xây dựng kế hoạch tuyên truyền bằng mọi hình thức về Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Hồ Chủ tịch, chỉ thị 39CT/TW của Bộ Chính trị về việc tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, nhân điển hình tiên tiến tới mỗi CNCNV để họ hiểu và hăng hái thi đua lao động sản xuất. - Tuyên truyền về truyền thống của TCT về người thợ Sông Đà, tổ chức các Hội nghị biểu dương hoặc đại hội thi đua để tôn vinh các anh hùng, chiến sỹ thi đua và những tập thể cá nhân lao động giỏi, lao động xuất sắc của TCT... - Tổ chức sơ kết, tổng kết khen thưởng kịp thời các phong trào thi đua trong CNVC-LĐ để động viên mọi lực lượng tích cực tham gia thi đua để mang lại hiệu quả thiết thực. II. Giải pháp đẩy mạnh phong trào thi đua trong công nhân viên chức lao động tại TCT Sông Đà Để phong trào thi đua ngày càng mang lại hiệu quả sát thực, thực hiện tốt khẩu hiệu hành động của Công đoàn Xây dựng Việt Nam trong thời đại mới là: " Phát huy nội lực, nâng cao sức cạnh tranh, chủ động hội nhập quốc tế; vì việc làm, dân chủ và công bằng xã hội; xây dựng đội ngũ CNVCLĐ và tổ chức công đoàn xây dựng Việt Nam vững mạnh" Công đoàn TCT Sông Đà cần có những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của phong trào thi đua: 1. Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác thi đua trong CNVCLĐ, về vai trò - trách nhiệm của CNVCLĐ và Công đoàn đối với phong trào thi đua trong tình hình mới. Công đoàn TCT cần có giải pháp nhằm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác thi đua trong CNVCLĐ, vai trò, trách nhiệm của CNVCLĐ và Công đoàn đối với phong trào thi đua trong tình hình mới. Nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của công tác thi đua có ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức chỉ đạo và triển khai thực hiện các phong trào thi đua. - Công đoàn TCT Sông Đà cần tuyên truyền, phổ biến giáo dục nhằm nâng cao và thống nhất nhận thức trong CNVCLĐ về phong trào thi đua. Từ đó góp phần nâng cao tinh thần, trách nhiệm và tạo động lực mạnh mẽ cho các cá nhân, tập thể, các tổ chức trong công tác thi đua giúp CNVCLĐ nhận thức rõ thi đau không chỉ đơn thuần là nâng cao hiệu quả kinh tế mà còn góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện nhân cách, đạo đức lối sống của CNVCLĐ, góp phần xây dựng con người mới, thực hiện đúng khẩu hiệu của thi đua: "Dân giàu - nước mạnh - xã hội công bằng - dân chủ - văn minh". Cụ thể: + Công đoàn TCT Sông Đà cần xây dựng kế hoạch tuyên truyền bằng mọi hình thức về Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chỉ thị 39 CT/TW của Bộ Chính trị về việc tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước... để mỗi CNVCLĐ hiểu và hăng hái thi đua lao động sản xuất. + Tuyên truyền về truyền thống của TCT về người thợ Sông Đà, tổ chức các Hội nghị biểu dương hoặc Đại hội thi đua để giới thiệu các gương mặt điển hình tiên tiến, tôn vinh các anh hùng, chiến sĩ thi đua và những tập thể cá nhân lao động giỏi, lao động xuất sắc của TCT. Công tác tuyên truyền phải đảm bảo tính khách quan, thiết thực và kịp thời, phải thực hiện tuyên truyền thường xuyên và liên tục. - Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học (nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về thi đua và phong trào thi đua) để cung cấp cơ sở lý luận khoa học chỉ dẫn phong trào thi đua của đơn vị có hiệu quả. Vì nếu để mặc cho phong trào thi đua theo hướng tự phát hoặc theo chủ nghĩa kinh nghiệm thì không thể có một bước tiến căn bản nào trong công tác thi đua và thậm chí có thể dẫn tới trì trệ, kém hiệu quả, kém tác dụng, mất triển vọng. 2. Tạo động lực vật chất và tinh thần cho các phong trào thi đua trong CNVCLĐ, nâng cao hiệu quả kinh tế của thi đua. Đây là giải pháp thể hiện tinh thần đổi mới trong thi đua và có ý nghĩa thiết thực nhất đối với CNLĐ. - Trong việc tổ chức thi đua, Công đoàn TCT Sông Đà cần phải tạo được những nhân tố kích thích nhiệt tình hăng hái thi đua, kích thích CNVCLĐ phát huy sáng kiến và sáng tạo trong lao động sản xuất. Vì trong điều kiện hiện nay, đời sống vật chất tinh thần của CNVCLĐ còn thấp, nếu quan tâm đúng mức tới nhu cầu và lợi ích của họ sẽ góp phần to lớn thu hút đông đảo người lao động tự giác tham gia thi đua (thi đua là hành động tự giác của người lao động). C.Mac đã từng nói: "Nếu tư tưởng mà tách rời khỏi lợi ích thì tự nó sẽ làm nhục bản thân nó, nghĩa là nó làm mất tín nhiệm của tư tưởng". Thực chất ở đây là gắn thi đua với khen thưởng. Việc khen thưởng xứng đáng, kịp thời phải thực sự được coi trọng. - Tuy nhiên trong công tác khen thưởng, Công đoàn TCT xác định đúng đắn quan điểm: trên cơ sở khuyến khích lợi ích vật chất mà phát huy tác dụng khuyến khích tinh thần. Nhưng cần có sự cân bằng giữa giá trị vật chất và tinh thần của thi đua. Vì nếu chỉ coi trọng động lực vật chất thuần tuý thì dễ làm cho người tham gia thi đua chỉ thấy lợi tích trước mắt, làm cho lợi ích chân chính của thi đua bị biến dạng. Ngược lại nếu thi đua chỉ vì danh hiệu tinh thần thì vô hình chung đã làm thiếu đi cơ sở hiện thực. Càng không nên thưởng bình quân, phải thực hiện khen thưởng công khai và công bằng. - Cần có giải pháp để cân bằng được mặt lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần trong thi đua. Vấn đề công đoàn TCT Sông Đà đáng quan tâm đó là phải tìm kiếm được khả năng đầu tư và phát triển của quỹ khen thưởng để nâng cao mức thưởng cho xứng đáng với thành tích, công lao của những người tham gia thi đua. - Xây dựng hoàn thành và thực hiện các cơ chế, chính sách để qua đó tạo động lực cho các phong trào thi đua trong CNVCLĐ; Công đoàn TCT cần quan tâm chăm lo, xây dựng các điển hình tiên tiến, tạo động lực cho phong trào thi đua kết hợp các yếu tố tinh thần và vật chất, chế độ đãi ngộ nhằm phát huy lòng yêu nước, sự say mê nghề nghiệp trong CNVCLĐ. + Từ trong các phong trào thi đua tiếp tục xây dựng các anh hùng, chiến sỹ thi đua Toàn quốc và các nhân tố điển hình để đề nghị các cấp khen thưởng, nhằm phấn đấu thi đua hoàn thành vượt mức mục tiêu kế hoạch 5 năm. Tiếp tục đề nghị Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ và các bộ ngành... xét khen thưởng cho các tập thể cá nhân có nhiều thành tích xuất sắc trong các phong trào thi đua: Huân chương Sao Vàng cho TCT, Huân chương Hồ Chí Minh... + Công đoàn TCT cùng với Bộ Xây dựng tổ chức sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm về công tác thi đua, chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết để tổ chức Đại hội thi đua yêu nước toàn ngành vào nửa cuối nhiệm kỳ. 3. Xây dựng và thực hiện tốt các chỉ tiêu thi đua. - Các chỉ tiêu thi đua đề ra phải phù hợp với điều kiện của từng đơn vị và đó là cơ sở để phân tích đánh giá hiệu quả công việc của các cá nhân, tập thể trong toàn TCT. - Các chỉ tiêu đưa ra không quá cao hay quá thấp so với điều kiện sản xuất kinh doanh của từng đơn vị. - Các chỉ tiêu phải đảm bảo có thể định tính và định lượng, có thể phân tích, đánh giá kết quả thi đua giữa các cá nhân trong từng đơn vị trong phong trào thi đua. 4. Đổi mới nội dung và hình thức thi đua; hoàn thiện công tác tổ chức chỉ đạo thi đua. Đề hoàn thành nhiệm vụ xây dựng và phát triển TCT Sông Đà trở thành một tập đoàn kinh tế Sông Đà, Công đoàn TCT cần coi trọng việc đổi mới nội dung và hình thức thi đua; hoàn thiện công tác tổ chức chỉ đạo thi đua. - Nội dung thi đua trong toàn TCT ngày nay phải thực sự đa dạng và phong phú, giàu tính nhân đạo, nhân văn, mỗi cá nhân, đơn vị tuỳ thuộc vào nhiệm vụ chính trị của mình để xác định nội dung thi đua: thi đua phát triển kinh tế nhanh và bền vững; thi đua thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội; thi đua xây dựng con người mới; thi đua học tập, nghiên cứu, phát minh sáng kiến khoa học kĩ thuật; thi đua thực hành tiết kiệm... - Hình thức tổ chức thi đua tốt là yếu tố quan trọng nhằm đảm bảo phong trào thi đua đi đúng mục tiêu đã định: Công tác vận động, tổ chức thi đua phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước tạo sự phối hợp đồng bộ giữa chính quyền và cơ quan, đơn vị; Phải thực hiện nghiêm túc nguyên tắc công khai và nhân rộng điển hình tiên tiến. + Hội đồng thi đua, khen thưởng được thành lập phải gọn nhẹ, quan trọng là năng lực tham mưu. + Phong trào thi đua phải bám sát nhiệm vụ kinh tế - xã hội, nhiệm vụ chính trị của TCT. + Công đoàn TCT cần xây dựng các chỉ tiêu thi đua, mục tiêu, nội dung, thời gian thi đua ngắn hạn và dài hạn. + Tổ chức chỉ đạo thi đua thông qua việc vận động quần chúng. Đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền vận động các thi đua, cổ vũ gương người tốt, việc tốt trong TCT. + Cái khó trong công tác phong trào thi đua đó là việc duy trì hoạt động trong suốt quá trình thi đua. Do đó Công đoàn TCT cần quán triệt Luật khen thưởng một cách nghiêm túc, tăng cường sự phối hợp với Đảng uỷ TCT trong tổ chức chỉ đạo thi đua. - Công tác tổ chức chỉ đạo thi đua phải dựa vào căn cứ, cơ sở của tình hình, nhiệm vụ, yêu cầu mới của đất nước và TCT: Dựa vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, Luật thi đua khen thưởng... - Khi tổ chức phong trào thi đua Công đoàn TCt cần chú trọng cụ thể hoá, chi tiết hoá đến từng phần việc: Công tác chuẩn bị tổ chức, tổ chức phát động phong trào thi đua, tổng kết thi đua và rút kinh nghiệm. * Tổ chức phong trào thi đua sôi nổi, thiết thực góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của ngành: Tổ chức tốt phong trào thi đua thực hiện chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Xây dựng về phát động phong trào thi đua đặc biệt đến hết năm 2010. Thông qua phong trào thi đua để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ CNVCLĐ lành nghề. Đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến cải tiến kĩ thuật trong đội ngũ cán bộ, công nhân trên mọi lĩnh vực hoạt động. Tiếp tục đẩy mạnh đi vào chiều sâu phong trào thi đua yêu nước mà toàn ngành đang duy trì như: phong trào thi đua "Lao động giỏi", cuộc vận động "Đảm bảo nâng cao chất lượng công trình, sản phẩm xây dựng", phong trào "Xanh - sạch - đẹp, đảm bảo vệ sinh an toàn lao động", phong trào "Luyện tay nghề giỏi". Phát động phong trào thi đua nâng cao chất lượng công tác ban hàng cơ chế chính sách hành chính từ cấp Trung ương đến địa phương để nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về xây dựng. Và đặc biệt công đoàn TCT Sông Đà phải tích cực đẩy mạnh phong trào thi đua liên kết do Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam phát động. Với mục tiêu xây dựng TCT Sông Đà trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh, nhiệm vụ trước mắt của Công đoàn TCT Sông Đà còn rất nặng nề và khó khăn. Tuy nhiên hơn ai hết những người thợ Sông Đà hiểu và nhận thức sâu sắc rằng: Chính nhờ việc tổ chức các phong trào thi đua trong những năm qua đã làm cho sức mạnh nội lực của tập thể CNVCLĐ tăng lên gấp bội. Công sức, trí tuệ và trách nhiệm của mỗi cá nhân trong tập thể được phát huy tối đa. Với sụ quan tâm của Trung ương Đảng, Chính phủ, các bộ ngành Trung ương, đặc biệt là sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Bộ xây dựng, Công đoàn TCT Sông Đà không ngừng xây dựng đội ngũ CNVCLĐ lớn mạnh và toàn diện. III. Kiến nghị Để xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn và tổ chức Công đoàn vững mạnh, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước nói chung và của TCT Sông Đà nói riêng; Để phong trào thi đua thực sự trở thành động lực thúc đẩy lao động sản xuất góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ CNVCLĐ. Ngoài những phương hướng, giải pháp đẩy mạnh phong trào thi đua trong CNVCLĐ của Công đoàn TCT, cần có sự quan tâm tạo điều kiện về nhiều mặt của Đảng, Chính phủ, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, các ngành, các cấp. Vì vậy, em xin đề xuất một số kiến nghị sau: 1. Đối với Đảng và Nhà nước Cần tiếp tục đổi mới và xây dựng hệ thống chế độ chính sách thi đua khen thưởng đối với cán bộ CNVCLĐ, nâng cao hiệu quả kinh tế của thi đua trong tình hình mới. Từ đó khuyến khích tính sáng tạo, phát huy tính trách nhiệm, quyền lợi cá nhân tạo điều kiện cho cán bộ CNVCLĐ và Công đoàn hoàn thành nhiệm vụ. Cần kiện toàn hệ thống trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn từ TW đến địa phương theo hướng tập trung thống nhất, tránh chồng chéo, trùng lặp. Quan tâm và hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động Công đoàn. 2. Đối với Tổng liên đoàn lao động Việt Nam Để công tác thi đua - khen thưởng hoạt động có hiệu quả, đề nghị Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam cần chủ động và đổi mới việc nghiên cứu khoa học về thi đua (nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về thi đua). Phải có hướng nghiên cứu chuyên sâu và liên ngành cùng tham gia phối hợp nghiên cứu để đưa ra những đề xuất, tư vấn cho lãnh đạo, quản lí, hoạch đính chính sách trong công tác thi đua - khen thưởng. Có như vậy mới tạo được những bước phát triển mới của phong trào thi đua, mới nâng cao được vị thế và ảnh hưởng của công đoàn trong tình hình mới. 3. Đối với Công đoàn TCT Sông Đà Xây dựng chương trình hoạt động cho phù hợp với điều kiện thực tế của TCT và các đơn vị nhằm mang lại hiệu quả thiết thực. Thường xuyên đổi mới nội dung, phương pháp hoạt động, chỉ đạo có trọng tâm, trọng điểm các phong trào thi đua, hướng về cơ sở đi sâu sát thực tế sản xuất, công tác và người lao động. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ Công đoàn từ tổ trưởng Công đoàn trở lên. Hàng năm mở các lớp tập huấn theo các chuyên đề thi đua... Từng bước nâng cao năng lực, bản lĩnh đội ngũ cán bộ Công đoàn và nâng cao uy tín của Công đoàn trong xã hội. Ban chấp hành Công đoàn TCT cần có sự cương quyết chỉ đạo thực hiện kịp thời các nhiệm vụ đã đề ra. Công tác chỉ đạo, giám sát việc duy trì các phong trào thi đua phải thường xuyên, liên tục. Việc khen thưởng phải kịp thời để khích lệ tinh thần lao động sản xuất của CNVCLĐ. Công đoàn TCT cần có sự hướng dẫn, giúp đỡ các Công đoàn cơ sở trong việc tổ chức phong trào thi đua, quan tâm bồi dưỡng các điển hình tiên tiến hơn nữa để hoạt động thi đua có hiệu quả hơn. Kết luận Hơn ai hết, những người thợ Sông Đà hôm nay hiểu và nhận thức sâu sắc rằng: Chính nhờ việc tổ chức các phong trào thi đua trong những năm qua đã làm cho sức mạnh nội lực của tập thể CBCNC TCT tăng lên gấp bội. Công sức, trí tuệ và trách nhiệm của mỗi cá nhân trong tập thể được phát huy tối đa. Điều đó đã góp phần quyết định tạo nên một diện mạo mới của TCT Sông Đà như ngày hôm nay. Với sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương Đảng, Chính phủ, các bộ ngành Trung ương, đặc biệt là sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Bộ Xây dựng và nhân dân cả nước, nhất định tập thể CBCNVC Tổng Công ty Sông Đà sẽ đoàn kết một lòng, ra sức thi đua, phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao phó. Quyết tâm xây dựng và phát triển TCT thành một tập đoàn kinh tế mạnh của đất nước. Nhìn lại chặng đường hơn 40 năm qua, kể từ khi mới thành lập TCT Sông Đà gặp rất nhiều khó khăn. Trong hoàn cảnh ấy, đội ngũ cán bộ công nhân viên chức lao động TCT Sông Đà đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, khắc phục khó khăn, ra sức thi đua yêu nước qua các phong trào thi đua "Lao động giỏi, lao động sáng tạo", "Xanh - sạch - đẹp, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động, phòng chống cháy nổ", "Giỏi việc nước, đảm việc nhà", "học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ"... đã góp phần tháo gỡ những khó khăn trong sản xuất công tác mang lại hiệu quả cao, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của TCT. Công tác thi đua - khen thưởng đã trở thành động lực thúc đẩy mạnh mẽ sự năng động, sáng tạo của CNVCLĐ trong toàn TCT. Các hoạt động thi đua cũng trở thành sân chơi bổ ích và khích lệ quyết tâm lao động sản xuất của cán bộ CNVCLĐ. Thông qua các phong trào thi đua Công đoàn TCT Sông Đà đã thực sự khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và góp phần rất quan trọng vào sự phát triển chung của TCT Sông Đà để nhanh chóng đưa TCT Sông Đà trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Tài liệu tham khảo Những tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh. Nxb Lao động, Hà Nội_2003 Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội_2001. Đỗ Bá Tường. Một số vấn đề cơ bản về luật Công đoàn-Luật lao động Việt Nam. Nxb lao động Hà Nội_2002. Giáo trình lý luận và nghiệp vụ Công Đoàn tập 1; 2 Nxb lao động, Hà Nội_1999. Luật Công đoàn. Nxb pháp lý Hà Nội_1990. Công đoàn với phong trào thi đua trong CNVCLĐ thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước, NXB Lao động, 2005 Grunter Buschges. Nhập môn XHH tổ chức. Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội_1996. TS. Vũ Quang Hà. Xã hội học đại cương. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. TS Vũ Quang Hà. Lý thuyết XHH Hiện đại (tập 2). Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội_2002. Lê Ngọc Hùng. Lịch sử và Lý thuyết XHH, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội_2002 TS. Nguyễn Ngọc Thanh, Nguyễn Thế ThắngfHà . Tập bài giảng XHH, Nxb Thống kê. Hoàng Phê (Chủ biên) Từ điển tiếng Việt. Nxb Đà Nẵng_TT từ điển học Hà Nội-Đà Nẵng_2001. Báo cáo kết quả phong trào thi đua của Tổng công ty Sông Đà giai đoạn 2000-2005. Báo cáo tóm tắt thành tích xây dựng và phát triển của Tổng công ty Sông Đà. Báo cáo tổng kết thực hiện và phương hướng nhiệm vụ các năm 2000-2005 của TCT Sông Đà C.Mác “Tư bản” NXB Sự Thật Hà Nội 1960 quyển 1 tập 2 tr 23 LêNin “ Toàn Tập” Tập 36 NXB tiến bộ tr 185 Từ điển tiếng việt-NXB Sự Thật 1992 Từ điển triết học-NXB Sự Thật 1978 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4724.doc