Vai trò của Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn

Tài liệu Vai trò của Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn: MỤC LỤC A Mở đầu…………………………………………………………………….. 2 B Nội dung …………………………………………………………………... 4 I Cơ sở lí luận……………………………………………………………….. 4 1.1 Khái niệm………………………………………………………………….. 4 1.2 Vị trí của nông nghiệp nông thôn trong nền kinh tế quốc dân…………….. 5 1.3 Các đặc điểm lớn của kinh tế nông nghiệp nông thôn…………………….. 6 1.4 Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp nước ta…………………………………….. 6 1.5 Các ngành nông nghiệp chủ yếu…………………………………………... 9 1.6 Những nội dung cơ bản thực hiện công ngh... Ebook Vai trò của Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn

doc29 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1519 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn………………………………………………………….. 13 II Cơ sở thực tiến…………………………………………………………….. 16 2.1 Thực trạng công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nồng thôn………... 16 2.2 Những giải pháp chủ yếu thực hiện và phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn………………………………………………... 23 C Kết luận……………………………………………………………………. 27 MỞ ĐẦU Vạn vật phát triển đều phải trải qua quá trình thay đổi cấu trúc của chính mình. Ví dụ như một cái cây phát triển sẽ phải thay đổi về hình dáng, kích thước, hình dạng cành lá. Nền kinh tế phát triển sẽ thay đổi tỷ lệ mối tương quan giữa 3 ngành chính là công nghiệp – nông nghiệp - dịch vụ; thành thị - nông thôn; công cộng và tư nhân; nội địa và hướng xuất khẩu. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Hiện nay, đất nước ta đang nằm trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa với mục tiêu từ nay đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, phát triển, bền vững. Trong những chủ trương thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước thì công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, là con đường tất yếu để đưa nông nghiệp nông thôn nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Từ một nước nông nghiệp, 80% dân cư sống ở nông thôn, lực lượng lao động chiếm hơn 70% lực lượng lao động xã hội là lao động nông nghiệp. Đảng ta không những xác định công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà còn nhấn mạnh “ phải đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn”. Trong những năm qua, công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn đã thực hiện được một số bước, cơ sở vật chất kĩ thuật của một số mặt cũng được tăng cường. Tuy nhiên cho đến nay trên một số vùng nông thôn, đặc biệt là các vùng sâu vùng xa, đời sống nông dân vẫn còn nhiều khó khăn, kết cấu hạ tầng còn lạc hậu, năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh yếu, một số nội dung của công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn trong quá trình thực hiện còn lúng túng, khó khăn. Để đưa ra các chính sách, hướng đi cho việc thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn một cách đúng đắn, triệt để, phù hợp với hoàn cảnh của từng vùng từng địa phương phải nắm rõ được tầm quan trọng của việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn và quan trọng hơn cả là cần phải trả lời được các câu hỏi sau đây : Để thực hiện thành công mục tiêu từ nay đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, vì sao chúng ta phải đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn? Phải chăng coi là đặc biệt vì nó tạo tiền đề, cơ sở vững chắc thúc đẩy toàn bộ quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh tế đất nước? Phải chăng đó là mũi đột phá quan trọng nhằm giải phóng sức lao động của giai cấp nông dân chiếm 80% số dân cả nước, tạo điều kiện khai thác tốt nhất tiềm năng dồi dào về lao động và đất đai? Và phải chăng đó còn là đòi hỏi của nhiệm vụ tăng cường va củng cố khối liên minh công nông – nền tảng vững chắc của chế độ mới. NỘI DUNG CƠ SỞ LÍ LUẬN KHÁI NIỆM Công nghiệp hóa nông thôn Công nghiệp hóa nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với việc đổi mới căn bản về công nghệ và kỹ thuật ở nông thôn, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế quốc dân với tốc độ cao. Công nghiệp hóa nông thôn gồm có 3 nội dung chính cơ bản đó là : Đưa phương pháp sản xuất công nghiệp bắng máy móc và thiết bị vào sử dụng trong nông nghiệp và sản xuất ở nông thôn để dần thay thế cho lao động thủ công. Tiến hành áp dụng những phương pháp quản lí hiện đại, tương ứng với công nghệ và thiết bị vào nông nghiệp nông thôn. Tạo ra, xây dựng hệ thống về cơ sở hạ tầng thích hợp với việc đưa máy móc, thiết bị và công nghệ mới vào nông thôn. Công nghiệp hóa nông nghiệp Công nghiệp hóa nông nghiệp là một bộ phận của công nghiệp hóa nông thôn Công nghiệp nông nông nghiệp gồm 2 nội dung: Đưa máy móc, các ứng dụng công nghệ mới, ứng dụng khoa học kĩ thuật và các phương pháp sản xuất kiểu công nghiệp vào ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp. Tạo ra gắn bó chặt chẽ, quan hệ hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau giữa sản xuất công nghiệp và sản xuất nông nghiệp. Hiện đại hóa Hiện đại hóa là quá trình nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ vào đời sống và sản xuất. Đi đôi với đó là quá trình nâng cao đời sống tinh thần, xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm…), y tế, giáo dục và các dịch vụ khác thiết yếu, gắn liền với đời sống nhân dân. Hiện đại hóa không chỉ là quá trình nâng cao chất lượng cuộc sống mà còn phải song song với việc bảo vệ môi trường sinh thái, nguồn nhân lực tự nhiên, phát triển và nâng cao nguồn nhân lực con người. Công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn Từ các khái niệm trên ở trên ta có thể rút ra: công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn là quá trình đưa máy móc, khoa học công nghệ kĩ thuật vào trong sản xuấtn nông nghiệp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng đời sống, hoàn thiện cơ sở hạ tầng và ngày càng đáp ứng đầy đủ hơn các nhu cầu vật chất tinh thần của người dân. VỊ TRÍ CỦA NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN Nông nghiệp là một trong 3 ngành kinh tế lớn của nền kinh tế quốc dân. Trong nông nghiệp lại gồm có các ngành: trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư nghiệp( nghề cá và săn bắt). Nông nghiệp đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là đối với Việt Nam – một nước có nền kinh tế chưa phát triển. Theo Lênin đã từng nói: “ nếu không có cơ sở nông nghiệp vững chắc thì không thể tiến hành bất kì một công cuộc xây dựng kinh tế nào cả, những kế hoạch dù có to lớn đến đâu cũng vô giá trị”. Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu: với trên 34% GDP là của nông lâm ngư nghiệp, 80% dân số sống ở nông thôn, 73% lao động xã hội làm nông nghiệp, nếu chỉ tính riêng lao động nông nghiệp thì tỉ lệ này tới 84,9%. Trong sản xuất nông lâm ngư nghiệp thì lúa gạo chiếm tỉ trọng chủ yếu đến 73% trong tổng giá trị sản lượng nông nghiệp hàng năm. Đối với toàn kinh tế, nông lâm ngư nghiệp và nông thôn là thị trường rộng lớn tiêu thụ sản phẩm công nghiệp, dịch vụ xã hội Lao động nông nghiệp nông thôn còn là nguồn cung cấp lao động và nhân lực dồi dào cho các ngành kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa. CÁC ĐẶC ĐIỂM LỚN CỦA KINH TẾ NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN. Nông nghiệp là ngành chịu sự chi phối và tác động mạnh mẽ bởi các quy luật tự nhiên, các điều kiện về đất đai, khí hậu, thời tiết, sinh vật…. Quá trình lao động trong sản xuất nông nghiệp lệ thuộc vào các quy luật vận động sinh học của cây trồng, vật nuôi rất đa dạng. Sản xuất nông nghiệp mang tính liên ngành rộng lớn làm phức tạp hóa quá trình quản lí, tổ chức quản lí. Ngoài ra nền nông nghiệp Việt Nam còn mang những đặc điểm riêng gây không ít khó khăn, cản trở cho sự phát triển cũng như các chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn của nhà nước, đó là đất canh tác ít, sản xuất nhỏ phân tán và lạc hậu. TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP Ở NƯỚC TA. Căn cứ vào đặc điểm tự nhiên, kinh tế, kỹ thuật cũng như định hướng phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn nói riêng, công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước nói chung, nhà nước ta đã công bố 7 vùng nông nghiệp sinh thái. Vùng trung du và miền núi phía Bắc. Bao gồm các tỉnh thuộc trung du và miền núi Bắc Bộ. Về điều kiện sinh thái nông nghiệp, đây là khu vực miền núi ( từ núi thấp cho đến núi cao), cao nguyên và đồi thấp. đất chủ yếu là đất Feralit đỏ vàng ở vùng núi và đất phù sa cổ bạc màu ở ranh giới giữa rìa đồng bằng châu thổ sông Hồng và các vùng trung du. Mật độ dân cư tương đối thấp, nhất là các tỉnh Tây Bắc. Tuy nhiên dân cư có truyền thống và kinh nghiệm sản xuất. Số lượng các tộc người ở đây nhiều nhất trong các vùng. Mỗi tộc người lại có tập quán riêng đã ảnh hưởng nhất đinh đến sản xuất nông nghiêp. Ở trung du và miền núi phía Bắc đã hình thành một số cơ sở công nghiệp chế biến. Điều kiện giao thông vận tải tương đối thuận lợi ở trung du, còn miền núi thì gặp nhiều khó khăn. Nhìn chung do gặp nhiều trở ngại nên trình độ thâm canh thấp. Sản xuất theo kiếu quảng canh, ít đầu tư về lao động và vật tư. Trong lĩnh vực trồng trọt vùng này là chuyên môn hóa cây nông nghiệp dài ngày ôn đới và cận nhiệt (như chè, hồi trâu, sở…) và một số cây công nghiệp ngắn ngày ( như đậu, tương, lạc, thuốc lá..). Về chăn nuôi trâu bò ( lấy thịt, sữa) và lợn trong chừng mực nhất định. Đồng bằng sông Hồng. Là một trong những vùng nông nghiệp trù phú của nước ta. Là đồng bằng châu thổ, về địa hình nơi đây có nhiều ô trũng với đất đai phần lớn là đất phù sa của sông Hồng và sông Thái Bình. Khí hậu có mùa đông lạnh do ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa Đông Bắc. Dân cư tập trung đông đúc với mật độ đông nhất cả nước. Mạng lưới đô thị dày đặc, có nhiều thành phố lớn ( Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định…) và các cơ sở công nghiệp chế biến rộng khắp. Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Do lịch sử khai thác lâu đời, đông dân nên trình độ thâm canh cao nhất nước với việc nhanh chóng đưa tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất. Nơi đây là quê hương của phong trào 5 tấn, 10 tấn/ 1ha/ Chuyên môn hóa sản xuất chủ yếu của vùng là lúa gạo. Ngoài ra còn có một số cây thực phẩm (rau), cây công nghiệp (đay, cói), nuôi lợn, nò sữa ven thành phố và gia cầm. Bằc Trung Bộ Là vùng đồng bằng hẹp ven duyên hải và vùng đồi trước núi với nhiều loại đất như phù sa (ở đồng bằng), feralit (ở khu vực đồi núi) và một ít đất bazan. Tuy nhiên khó khăn lớn nhất của vùng là các tai biền thiên nhiên (bão, lụt, hạn hán, cát bay, gió Lào). Sống trong điều kiện tự nhiên tương đối khắc nghiệt, nhân dân có kinh nghiệm trong cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên. Ở đây cũng đã hình thành một số đô thị vừa và nhỏ cùng với các cơ sở công nghiệp chế biến. Trình đột thâm canh, nhìn chung tương đối thấp. Trong nông nghiệp còn sử dụng nhiều lao động. Hướng chuyên môn hóa gôm có cây công nghiệp hàng năm ( lạc, mía, thuốc lá..), một số cây công nghiệp lâu năm (cà phê, cao su) và chăn nuôi trâu bò lấy thịt. Vùng duyên hải Nam Trung Bộ. Về mặt tự nhiên, có nhiều nét tương đồng với Bắc Trung Bộ. Đây là dải đồng bằng duyên hải nhỏ hẹp, có nhiều vịnh, thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy hải sản. Tai biến thiên tai thường xuyên xảy ra, ảnh hưởng nhiều tới sản xuất nông nghiệp. Trong vùng này có nhiều đô thị (thành phố, thị xã) dọc theo dải ven biển. Điều kiện giao thông vận tải tương đối phát triển. Trình độ thâm canh trong nông nghiệp, đã được chú trọng, sử dụng nhiều vật tư và lao động trong sản xuất. Chuyên môn hóa trong vùng có cây công nghiệp hàng năm (mía, thuốc lá), cây công nghiệp lâu năm (dừa), lúa, chăn nuôi lơn, bò thịt. Tây nguyên Là vùng của các cao nguyên xếp tầng rộng lớn, có độ cao khác nhau, đất bazan màu mỡ với diện tích nhiều nhất cả nước. Khí hậu phân ra 2 mùa rõ rệt (mùa mưa, mùa khô). Về mùa khô rất thiều nước, gây nhiều khó khăn cho sản xuất. Tây nguyên là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc ít người, trình độ phát triển còn kém.Ở đây đã hình thành một số nông trường (chủ yếu trồng cây công nghiệp dài ngày) nhưng công nghiệp chế biến phát triến còn chậm. Trong vùng có hai khu vực với trình độ khác nhau rõ rệt. Ở khu vực nông nghiệp cổ truyền, phương thức quảng canh là chủ yếu. Trong khi đó, ở các nông trường ( và một số hộ gia đình), trình độ thâm canh tương đối khá và đang được nâng cao. Thế mạnh của vùng là chuyên môn hóa trồng cây công nghiệp dài ngày (cà phê, cao su ..) chăn nuôi bò sữa và bò thịt. Đông Nam Bộ Là vùng đất xám phù sa cổ rộng lớn, địa hình tương đối bằng phẳng. Khí hậu cũng có hai mùa nhưng không quá sâu sắc như Tây nguyên. Tuy vậy về mùa khô vẫn còn tình trạng thiếu nước. Vùng này tập trung nhiều thành phố lớn đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời cũng là lãnh thổ của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với tam giác tăng trưởng kinh tế: TP Hồ Chí Minh – Biên Hòa – Vũng Tàu. Kết cấu cơ sở hạ tầng vào loại tốt nhất Việt Nam hiện nay với nhiều khu công nghiệp chế biến. Trình độ thâm canh cao, sản xuất lớn, đầu tư theo chiều sâu, sử dụng nhiều máy móc, vật tư nông nghiệp. Đông Nam Bộ là vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn nhất nước ta. Có cây công nghiệp dài ngày (cà phê, cao su) và cây công nghiệp ngắn ngày (đậu tương, mía…) Đồng bằng sông Cửu Long. Là đồng bằng châu thổ lớn nhất nước ta. Các dải phù sa ngọt rất màu mỡ, trong khi ấy lại có đất nhiễm phèn, nhiễm mặn cần được cải tạo. Mạng lưới thông vận tải thuận lợi, nhất là đường thủy. Đã hình thành hệ thống đô thị vừa và nhỏ cùng với các cơ sở công nghiệp chế biến. Trình độ thâm canh tương đối cao, sản xuất trên quy mô lớn tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa. Tuy nhiên trong cơ cấu vẫn còn quá thiên về lúa gạo. Về hướng chuyên môn hóa, tất nhiên, lúa chiếm ưu thế. Ngoài ra còn một số loại cây cong nghiệp ngắn ngày (mía, đay, cói..), cây ăn quả nhiệt đới (đặc biệt là xoài), chăn nuôi gia cầm (chú trọng vào con vịt). Các ngành nông nghiệp chủ yếu Ngành trồng trọt: Ngành trồng cây lương thực và cây thực phẩm Lương thực có ý nghĩa rất quan trọng đối với một quốc gia đông dân và càng quan trọng hơn khi quốc gia đó đang bước vào công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Nó còn là cơ sở phân công lao động trong nông nghiệp nói riêng và trong các ngành kinh tế nói chung. Ở nước ta cây lương thực bao gồm một số cây hàng năm như: lúa, ngô, khoai, sắn. Ngoài cây lúa, các cây khác được gọi chung là hoa màu (hay mầu). Hiện nay nhóm cây lương thực chiếm ưu thế lớn về diện tích và giá trị sản xuất của ngành trồng trọt. Trong nhóm cây lương thực, lúa luôn giữ vị trí hàng đầu. Đối với nhân dân ta, cây lúa đã đi vào cuộc sống thường nhật từ hàng ngàn đời nay. Gạo trở thành một trong ba mặt hàng xuất khẩu chủ lực (cùng với hàng dệt may và dầu thô) và Việt Nam được xếp vào những nước hàng đầu về vấn đề này. Cùng với lúa gạo, hoa màu lương thực có ý nghĩa trong việc cung cấp một phần lương thực cho con người, là cơ sở thức ăn cho gia súc cũng như nguyên liệu ở mức độ nhất định, và cho cả công nghiệp chế biến. Trong các cây hoa màu lương thực, ngô được đáng chú ý hơn cả, khoai lang là cây màu trồng luân canh với lúa vào vụ đông xuân trên đất pha cát, trong khi diện tích trồng sắn giảm mạnh. Rau nhiệt đới phổ biến trên phạm vi cả nước, các loại rau cận nhiệt và ôn đới phân bố ở các vùng núi và cao nguyên. Các vùng trồng cây thực phẩm đã, và đang được hình thành và phát triển đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nội địa, nhất là các loại rau sạch. Ngành trồng cây công nghiệp. Cây công nghiệp còn được gọi là cây kỹ thuật để chỉ mục đích và tính chất nhằm cung cấp nguyên liệu cho chế biến nông sản Ở nước ta cây công nghiệp được chia làm hai nhóm: - Nhóm cây hàng năm, hay cây ngắn ngày. Có chu kì từ lúc gieo trồng đến khi thu hoạch dưới 1 năm như: đay, cói, bông. Lạc, mía, thuốc lá, đậu tương… - Nhóm cây lâu năm, gọi chung là cây dài ngày. Có chu kì kinh doanh dài, trồng 1 lần nhưng thu hoạch (nhựa, lá, quả) nhiều năm như: cao su, che, cà phê, ca cao, hồi, quế…Từ đây lại chia làm hai phân kì: phân kì kiến thiết cơ bản ( từ lúc trồng cho tới lúc cho sản phẩm) và phân kì kinh doanh (từ khi cho sản phẩm trở đi) cây ăn quả cũng được xếp vào nhóm này. Ngành trồng cây ăn quả. Trồng cây ăn quả là một ngành được phát triển từ lâu, nhưng trước đây quy mô còn rất hạn chế. Nước ta có nhiều điều kiện và tiềm năng để phát triển các loại cây ăn quả,tuy nhiên sự phát triển của ngành vẫn còn chậm và thiếu ổn định. Ngành chăn nuôi Chăn nuôi gia súc lớn. Là phân ngành quan trọng nhất trong chăn nuôi nói chung. Các gia súc lớn được nuôi là: trâu, bò, ngựa, có cả thuần dưỡng voi. Trong đó, chăn nuôi trâu bò có vị trị hàng đầu. Sức kéo của các gia súc lớn (trâu, bò, ngựa) đã, đang và vẫn tiếp tục giữ vai trò quan trọng đối với nông nghiệp. Bò là vật nuôi không chỉ cho sức kéo mà cũng cung cấp cho ta nguồn thịt, sữa chất lượng phục vụ cho nhu cầu của người dân. Ngựa được nuôi nhiều ở miền núi để lấy sức kéo phục vụ cho sản xuất cũng như trong việc vận chuyển người và hàng hóa. Chăn nuôi gia súc nhỏ Gia súc nhỏ bao gồm: lợn, dê, cừu..trong đó lợn được quan tâm đầu tư chăn nuôi hơn cả.trong đó chăn nuôi lợn lấy thịt là ngành quan trọng nhất. ngoài việc lấy thịt ra, thì ngành chăn nuôi lợn còn giúp chúng ta tận dụng được nguồn lao động cho các ngành phụ trợ, tăng thu nhập cho nông dân và giải quyết 1 phần hưu cơ cho nông nghiệp. Dê, cừu là tiểu gia súc được nuôi ở những vùng có điều kiện thuận lợi. Dê mắn đẻ, dễ tăng đàn, chất lượng thịt sữa ngon, ít tốn thức ăn, nuôi chăn thả và có hiệu quả kinh tế cao. Cưu được nuôi để lấy lông làm chủ yếu, nhưng ở nước ta, cừu nuôi có tính chất thử nghiệm nên hiệu quả mà ta đạt được còn thấp. Chăn nuôi gia cầm. Gia cầm gồm có: gà, vịt,ngan, ngỗng….Việc nuôi gia cầm 1 mặt tận dụng được nguồn lao động phụ, phế liệu của ngành trồng trọt nên đem lại hiệu quả kinh tế cao. Gà chủ yếu được nuôi trong gia đình cả ở đồng bằng, trung du, và miền núi. Nuôi gà trong các xí nghiệp chăn nuôi lớn, theo phương pháp công nghiệp để lấy thịt, trứng nên cũng đạt hiệu quả cao. Vịt tập trung ở đồng bằng sông Cửu Long, ngan và ngỗng thì được nuôi chủ yếu ở các vùng tương đối cao thuộc đồng bằng sông Hồng và duyên hải miền Trung. Ngành lâm nghiệp. Rừng là nguồn cung cấp gỗ và lâm sản cho nhu cầu của đời sống và sản xuất. Đối với các vùng nùi lâm nghiệp còn là nguồn sống chủ yếu của đồng bào dân tộc ít người. ngoài ra các mặt hàng lâm sản còn có giá trị sư dụng xuất khấu. Nguồn tài nguyên rừng có sự biến động rất mạnh về số lượng theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Có 7 kiểu rừng chủ yếu đó là: rừng lá rộng thường xanh và nửa rụng lá là loại rừng bị giảm diện tích nhanh nhất; rừng rụng lá có xu hướng tăng; rừng lá kim giảm và rừng ngập mặn giảm mạnh; rừng chua phèn và rừng tre nứa có xu hướng giảm; rừng hỗn giao giữa gỗ và tre nứa tăng; rừng đặc sản giảm mạnh. Tuy nhiên rừng trồng có xu hướng ngày càng tăng lên rõ rệt. Số rừng này phong phú về chủng loại cây, đa dạng về mục đích. Thực hiện quá trình tăng diện tích rừng trồng gắn liền với những chính sách khuyến lâm của chính phủ tương đối hiệu quả, đặc biệt la giao đất, giao rừng cho các hộ nông dân. Việc khai thác, chế biến gỗ và lâm sản nhìn chung phát triển không ổn định. Cơ cấu rừng kinh doanh của nước ta bao gồm: rừng gỗ phục vụ cho xây dựng cơ bản, rừng nguyên liệu giấy, rừng gỗ trụ mỏ, rừng tre nứa cho nhu cầu xây dựng, rừng đặc sản ( thông nhựa, quế hồi, cánh kiến..), rừng gỗ gia dụng và lấy củi. Ngành ngư nghiệp. Cùng với các ngành kinh tế khác, ngư nghiệp có vai trò nhất định trong nền kinh tế quốc dân nói chung và đời sống hàng ngày của nhân dân nói riêng. Tầm quan trọng của nó được thể hiện ở việc tham gia vào cơ cấu bữa an với thực phẩm có chất lượng cao về dinh dưỡng. đóng góp vào nền kinh tế, tạo ra mặt hàng xuất khẩu và góp phần giải quyết việc làm cho 1 bộ phận lao động của xã hội Đánh bắt hải sản Việc đánh bắt hải sản hiện nay tập trung vào các ngư trường thuộc các vùng biến vịnh Bắc Bộ, Trung Bộ, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ. Vịnh Bắc Bộ là vùng biển có nguồn lợi hải sản phong phú và thuận lợi cho việc đánh bắt. Độ sâu trung bình là 50m, tập trung nhiều đảo trong đó có Đảo Cát Bà và Bạch Long Vĩ với tư cách như 2 trung tâm khai thác chính. Vùng biển ở Trung Bộ có thềm lục địa hẹp nên hầu như việc khai thác chủ yếu tập trung ở ven biển. So với các vùng khác thì tiềm năng ở đây hạn chế hơn. Vùng biển ở Đông Nam Bộ giàu tiềm năng nhất với phần lớn diện tích có độ sâu dưới 60m. Vùng biển ở Tây Nam Bộ có độ sâu trung bình là 50m, thềm lục địa tương đối rộng. Nuôi trồng thủy sản Nghề nuôi tròng thủy sản liên quan chặt chẽ với diện tích mặt nước. Diện tích nuôi trồng thủy sản chủ yếu tập trung ở Đồng bằng Sông Cửu Long, tiếp theo là đồng bằng sông Hồng. Ở các vùng còn lại, diện tích không đáng kể. Thủy sản nuôi trồng bao gồm: cá, tôm, nhuyễn thể, rong biển ở các vùng nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Cá là loài thủy sản được nuôi đại trà có sản lượng lớn nhất. Những nội dung cơ bản thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Một là, chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp và chế biến thị trường, phát triển mạnh chăn nuôi với tốc độ và chất lượng cao hơn; xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với chuyển giao công nghệ sản xuất, bảo quản và chế biến; khắc phục tình trạng sản xuất manh mún, lạc hậu. Thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, đưa nhanh tiến bộ khoa học kĩ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất, nâng cao chất lượng cùng sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng địa phương. Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp Sớm khắc phục tình trạng manh mún về đất canh tác, của các hộ nông dân, khuyến khích việc “ dồn điền đổi thửa”, cho thuê, góp cổ phần bằng đất, phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, vùng trồng trọt và chăn nuôi tập trung, doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn với hình thành các ngành nghề, làng nghề, hợp tác xã, trang trại, tạo ra những sản phẩm có chất lượng và hiệu quả kinh tế cao. Hai là, thực hiện tốt chương trình bảo vệ và phát triển rừng, đổi mối chính sách giao đất, giao rừng, bảo đảm lợi ích cho người dân làm nghề rừng có cuộc sống ổn định và được cải thiện. phát triển rừng nguyên liệu gắn với công nghệ chế biến lâm sản với công nghệ hiện đại. Ba là, phát triển đồng bộ và có hiệu quả nuôi trồng, đánh bắt, chế biến và bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Coi trọng khâu sản xuất và cung cấp giống tốt, bảo vệ môi trường, mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu. Bốn là, tăng cường các hoạt động khuyến nông, khuyến công, khuyến lâm, khuyến ngư, công tác thú y, bảo vệ thực vật và các dịch vụ kỹ thuật khác ở nông thôn. Chuyển giao nhanh và ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp; chú trọng các khâu giống, kĩ thuật canh tác, nuôi trồng, công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế biến. Tăng đầu tư từ ngăn cản nhà nước, và đa dạng hóa các nguồn vốn để tiếp tục đầu tư phát triển mạnh hơn cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn ưu tiên nâng cấp và xây dựng mới các hệ thống thủy lợi đồng bộ, đi đôi với đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lí để đảm bảo an toàn về nước. Củng cố hệ thống hồ đập, kè ven sông, ven biển; nâng cấp các hệ thống cảnh báo, chủ động phòng chống lũ lụt và giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường nước. Tiếp tục đầu tư phát triển giao thông nông thôn, bảo đảm các xã đều có đường ôtô tới thôn bản; bảo đảm hơn 90% số dân cư nông thôn có điện sinh hoạt, hơn 75% số dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch. Rà soát bổ sung, điều chỉnh chính sách về đất đai, thuế, tín dụng, đầu tư… nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện việc hình thành các khu và cụm công nghiệp, cụm làng nghề ở nông thôn để thu hút các cơ sở sản xuất công nghiệp và kinh doanh dịch vụ sử dụng nhiều lao động và nguồn nguyên liệu từ nông - lâm - thủy sản. Năm là, khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông nghiệp, thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Xây dựng các làng xã, ấp, thôn, bản có cuộc sống no đủ môi trường lành mạnh. Tiếp tục đầu tư nhiều hơn cho chương trình xóa đói giảm nghèo, trợ giúp thiết thực cho các vùng và cộng đồng dân cư còn nhiều khó khăn, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển hệ thống khuyến nông, nâng cao dân trí và có chính sách tín dụng cho người nghèo từng bước vượt qua khó khăn, thoát nghèo và nâng mức sống 1 cách bền vững. Hình thành các khu dân cư đô thị hóa với kết cấu hạ tầng, kinh tế xã hội đồng bộ như: thủy lợi, giao thông, điện, nước sạch, cụm công nghiệp, trường học, trạm y tế, bưu điện, chợ.. Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với việc xât dựng nếp sống văn hóa, nâng cao trình độ dân trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín dị đoan; đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội. Sáu là, chú trọng giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết ở các vùng sử dụng đất nông nghiệp để xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, giao thông, các khu đô thị mới. Chuyến dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỉ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỉ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ. Đầu tư mạnh hơn để hoàn thành cơ bản chương trình kiên cố trường học, thực hiện chăm sóc sức khỏe cộng đồng tốt hơn; thực hiện ngày càng có nề nếp và chất lượng về quy chế dân chủ ở nông thôn; đẩy mạnh phong trào xây dựng làng xã văn hóa cơ sở giữ gìn và phát triển truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. CƠ SỞ THỰC TIỄN 2.1 Thực trạng công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn a/ Những thành tựu đạt được Khu vực nông nghiệp nông thôn chiếm 90% diện tích tự nhiên và 73,03 % dân số cả nước. Đến năm 2005 dân số nông thôn là 60,7 triệu dân. Nông thôn là nơi sản xuất lương thực, là nơi cung cấp các nguồn nguyên liệu từ nông – lâm – ngư nghiệp cho các ngành công nghiệp chế biến. Khu vực nông nghiệp nông thôn thu hút tới 2/3 lực lượng lao động xã hội và là nguồn lao động thu nhập chủ yếu của 70,03% dân nông thôn sinh sống, đang và sẽ có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Sau những năm đổi mới, chúng ta đã thu được một số kết quả nổi bật, làm tiền đề cho công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Kinh tế của khu vực nông thôn có sự tăng trưởng và đóng góp ngày một lớn hơn cho nền kinh tế cả nước. Nông nghiệp đã đạt được mức độ tăng trưởng GDP ở mức khoảng 5- 6%/ năm (thời kì 1996-2000 đạt 6,1% năm, thời kì 2001-2005 khoảng 6% năm). Giá trị sản lượng toàn ngành nông - lâm – ngư nghiệp tăng 5,6% năm, trong đó nông nghiệp tăng 5,4% năm (chỉ tiêu đại hội Đang toàn quốc lần thứ IX đề ra là 4,8% năm); cây công nghiệp tăng 10%; lương thực tăng 4,2- 4,3%, chăn nuôi tăng 5,4%; thủy sản tăng 9,1%; lâm nghiệp tăng 2,1%. Tính đến năm 2003, vùng nông thôn đóng góp khoảng 30% GDP cả nước, 84% giá trị gia tăng nông nghiệp, 16% giá trị tăng công nghiệp, 13% giá trị gia tăng dịch vụ cả nước. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản năm 2004 đạt gần 7 tỷ USD, tăng 1,5 lần so với năm 2000, trong đó nông lâm sản tăng gần 1,5 lần, thủy sản tăng 1,6 lần. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu đạt sản lượng và giá trị lớn như: gạo, cà phê, cao su, hạt điều. Đặc biệt, xuất khẩu đồ gỗ gia dụng và lâm sản tăng mạnh, đạt hơn 1,2 tỉ USD tăng gấp 3,3 lần so với năm 2000. Ngành kinh tế của khu vực nông thôn nổi bật nhất là nông nghiệp đã có những thay đổi theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Trong nông nghiệp, sản lượng lương thực không ngừng tăng, bình quân mỗi năm tăng 1,1 triệu tấn. Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã có những bước chuyển dịch tích cực theo hướng đẩy mạnh sản xuất các loại nông sản hàng hóa có nhu cầu thị trường và có giá trị kinh tế cao. Tiếp tục đảm bảo tốt an ninh lương thực quốc gia, tuy diện tích trồng lúa giảm (khoảng hơn 300 nghìn ha) để chuyển sang nuôi trồng thủy sản và các cây trồng khác có giá trị cao hơn, nhưng sản lượng lương thực vẫn tăng từ 34,5 triệu tấn (năm 2000) lên 39,12 triệu tấn (năm 2004). Trong đó sản lượng lúa tăng 32,5 lên 35,8 triệu tấn. Năm 2005, sản lượng lương thực đạt 37,5 triệu tấn. Sản lượng lương thực bình quân đầu người tăng từ 284,9 kg(năm 1990) lên 463 kg (năm 2005). Chúng ta đã có đủ lương thực chi dùng trong nước, có dự trữ và trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Hàng năm vẫn xuất khẩu khoảng 3,5- 4 triệu tấn gạo. Năm 2003, xuất khẩu 3,8 triệu tấn gạo, năm 2005 xuất khẩu 4 triệu tấn gạo. Hình thành nhiều vùng sản xuất nông lâm nghiệp thủy sản hàng hóa quy mô lớn và tham gia xuất khẩu cả ở khu vực đồng bằng và trung du, miền núi cũng như các vùng sản xuất lương thực tập trung ở Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng, các vùng nuôi trồng thủy sản ven biển, các trung tâm dịch vụ nghề cá ở các vùng đồng bằng ven biển, các vùng cây công nghiệp hàng hóa xuất khẩu cà phê, cao su, điều, dâu tơ tằm ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và chè, quế, hồi..ở trung du miền núi phía Bắc. Vùng cây ăn quả trước đây mới được hình thành ở đồng bằng ven biển và đồng bằng sông Cửu Long nay đã phát triển ở các vùng trung du miền núi. Sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả có sự điều chỉnh mạnh mẽ theo nhu cầu thị trường để xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu, hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với công nghiệp bảo quản, chế biến. Diện tích và sản lượng cây công nghiệp tăng nhanh so với năm 2000, cao su diện tích tăng 9,5%, sản lượng tăng 367,6%; hồ tiêu diện tích tăng 83,2%, sản lượng tăng 87,8%; hạt điều diện tích tăng 44,3%, sản lượng tăng 205,3%; chè diện tích tăng 35,3%, sản lượng tăng 54,9%; diện tích cây ăn quả tăng gần 1,4 lần; bông vải diện tích tăng 42,5%, sản lượng tăng gần 57,4%; đậu tương diện tích tăng 47,1%,sản lượng tăng 62,2%. Các loại cây công nghiệp có lợi thế xuất khẩu hầu hết đều tăng về diện tích, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu. Chăn nuôi tăng bình quân 10% năm; tỷ trọng giá trị chăn nuôi trong những nông nghiệp tăng từ 19,3% lên 21,6%. Đàn bò, nhất là bò sữa tăng nhanh, đạt 95 nghìn con, sản lượng sữa tươi tăng 3 lần. Sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng 2 lần., sản lượng khai thác tăng 1,2 lần. Công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản và ngành nghề nông thôn, giá trị sản xuất công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản tăng trưởng bình quân 12-14% năm. Sản xuất tiểu thủ công nghiệp và các ngành nghề nông thôn tăng bình quân 15% năm. Hiện cả nước có 2971 làng nghề, khoảng 1,35 triệu cơ sở ngành nghề nông thôn, với khoảng 1,4 triệu hộ, thu hút hơn 10 triệu lao động (trong đó có khoảng 1,5 năm triệu người làm hàng mỹ nghệ) Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng dần tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. Năm 2004 trong tổng GDp của cả nước, tỷ trọng nông lâm nghiệp và thủy sản đã giảm từ 24,53% xuống còn 21,76%; lao động nông nghiệp giảm từ 59,04% xuống còn 57,9%, lao động công nghiệp, tiều thủ công nghiệp chiếm khoảng 17%, dịch vụ chiếm 25,1%. Năm 2003, hộ thuần nông._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10871.doc
Tài liệu liên quan