Vai trò của vốn con người đối với tăng trưởng kinh tế các tỉnh, thành phố Việt Nam

i BỘ GIÁO DỤC VÀ ðÀO TẠO TRƯỜNG ðẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN THUYẾT MINH ðỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ CẤP BỘ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ðỘNG TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ VIỆT NAM GIAI ðOẠN 2000-2006 Chủ nhiệm đề tài: PGS. TS. Trần Thọ ðạt TRƯỜNG ðẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN Hà Nội - 2007 ii TĨM TẮT Từ lâu, chúng ta đã nhận thấy rằng vốn con người đĩng vai trị quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, và giáo dục chính là cách thức cơ bản để tích lũy vốn con người. Nhi

pdf110 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3321 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của vốn con người đối với tăng trưởng kinh tế các tỉnh, thành phố Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ều cơng trình nghiên cứu đã khám phá mối quan hệ giữa giáo dục và tăng trưởng GDP, và kết luận rằng giáo dục là nhân tố thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Tuy vậy, việc xác định và đo lường lượng đĩng gĩp chính xác của giáo dục với tăng trưởng kinh tế trong tương quan so sánh với các nhân tố kinh tế khác hồn tồn khơng đơn giản. Tác động của vốn con người đối với tăng trưởng kinh tế trở thành mối quan tâm đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam bước vào thế kỷ XXI, kỷ nguyên của các nền kinh tế tri thức. Mục tiêu chính của đề tài này là nhằm phân tích các tác động của vốn con người đến quá trình tăng trưởng kinh tế thơng qua việc xem xét các nền kinh tế cấp tỉnh, thành phố của Việt Nam. Mặc dù vốn con người bao gồm cả giáo dục, sức khỏe, cũng như nhiều khía cạnh khác của “vốn xã hội”, nhưng nghiên cứu này chỉ tập trung vào giáo dục, như là nhân tố cơ bản nhất của vốn con người. ðề tài áp dụng một hàm sản xuất Cobb-Douglas mở rộng để kiểm chứng vai trị của vốn con người đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn 2000- 2004. Các ước lượng dựa trên số liệu gộp cho thấy các nhân tố đầu vào nĩi chung, và vốn con người nĩi riêng, cĩ là các yếu tố quan trọng để giải thích sự tăng trưởng kinh tế của các tỉnh, thành phố Việt Nam, cũng như để giải thích khoảng cách chênh lệch giữa các vùng kinh tế ở Việt Nam trong 5 năm qua. Với những kết quả tìm được, đề tài đưa ra một số kiến nghị chính sách nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, trong đĩ nhấn mạnh sự gia tăng đầu tư vào giáo dục, đồng thời yêu cầu cĩ sự chú ý tới tác động khác nhau của vốn con người ở những vùng kinh tế khác nhau. iii MỤC LỤC TĨM TẮT...............................................................................................................ii MỤC LỤC ............................................................................................................ iii DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ..............................................................v DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT........................................................................vii LỜI NĨI ðẦU ........................................................................................................1 1. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................1 2. Mục đích nghiên cứu........................................................................................4 3. Số liệu và phương pháp nghiên cứu..................................................................4 4. Kết cấu của đề tài .............................................................................................4 CHƯƠNG I – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỐN CON NGƯỜI VÀ VAI TRỊ CỦA VỐN CON NGƯỜI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ............................................6 I.1. Cơ sở lý luận về vốn con người ...................................................................6 I.1.1. Khái niệm và các khía cạnh của vốn con người – Tích lũy vốn con người .........................................................................................................................6 I.1.2. ðịnh nghĩa tăng trưởng kinh tế và các nhân tố quyết định tới tăng trưởng8 I.1.3. Vai trị của vốn con người đối với tăng trưởng kinh tế.............................9 I.2. Các nghiên cứu thực nghiệm về vốn con người và vai trị của vốn con người đối với tăng trưởng kinh tế ...................................................................13 I.2.1. Các thước đo vốn con người..................................................................13 I.2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm về vai trị của vốn con người với tăng trưởng kinh tế.................................................................................................18 I.2.3. Các nghiên cứu thực nghiệm về vai trị của vốn con người ở Việt Nam.25 CHƯƠNG II – XÂY DỰNG CÁC THƯỚC ðO VỐN CON NGƯỜI VÀ MƠ HÌNH THỂ HIỆN VAI TRỊ CỦA VỐN CON NGƯỜI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ VIỆT NAM............................................26 II.1. Xây dựng các thước đo vốn con người ....................................................26 II.1.1. Số năm đi học bình quân ......................................................................26 II.1.2. Thước đo vốn con người dựa trên chi phí giáo dục...............................28 II.1.3. Thước đo vốn con người dựa trên thu nhập ..........................................29 II.2. Xây dựng các mơ hình thể hiện vai trị của vốn con người với tăng trưởng kinh tế ..................................................................................................31 II.2.1. Số liệu gộp...........................................................................................31 iv II.2.2. Xây dựng mơ hình hồi quy...................................................................33 II.2.3. Xác định và mơ tả các biến số ..............................................................35 CHƯƠNG III – THỰC TRẠNG VỐN CON NGƯỜI VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ VIỆT NAM GIAI ðOẠN 2000-2004 ...............39 III.1. Các nguồn số liệu ....................................................................................39 III.2. Thực trạng vốn con người và tăng trưởng kinh tế các tỉnh, thành phố Việt Nam giai đoạn 2000-2004.........................................................................41 III.2.1. Vốn con người của các tỉnh, thành phố và vùng kinh tế Việt Nam ......42 III.2.2. Thực trạng kinh tế - xã hội ở các tỉnh, thành phố Việt Nam giai đoạn 2000-2004 ......................................................................................................61 CHƯƠNG IV – PHÂN TÍCH VAI TRỊ CỦA VỐN CON NGƯỜI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ VIỆT NAM GIAI ðOẠN 2000-2004 .............................................................................................................75 IV.1. Ước lượng và phân tích các hàm hồi quy ..............................................75 IV.1.1. Lựa chọn mơ hình hồi quy thích hợp nhất...........................................75 IV.1.2. Giải thích các kết quả ước lượng sử dụng mơ hình hiệu ứng cố định ..80 IV.1.3. Vai trị của vốn con người đối với tăng trưởng kinh tế........................81 IV.1.4. Giải thích khoảng cách GDP của các tỉnh, thành phố dựa trên chênh lệch về vốn con người ....................................................................................84 IV.2. Kiểm định các giả thuyết thống kê.........................................................85 IV.2.1. Vốn con người và khoảng cách giữa các vùng ....................................85 IV.2.2. Vốn con người ở các tỉnh kinh tế trọng điểm và khơng trọng điểm .....87 IV.2.3. Vốn con người và ba nhĩm thu nhập ..................................................89 IV.2.4. Lựa chọn thước đo vốn con người tốt nhất cho các tỉnh, thành phố Việt Nam ...............................................................................................................90 CHƯƠNG V – KẾT LUẬN VÀ CÁC KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH LIÊN QUAN ðẾN VAI TRỊ CỦA VỐN CON NGƯỜI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ VIỆT NAM GIAI ðOẠN 2000-2004.........................92 V.1. Kết luận.....................................................................................................92 V.2. Kiến nghị chính sách ................................................................................93 V.3. Hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu trong tương lai .............94 NGUỒN SỐ LIỆU ................................................................................................95 TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................99 v DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ Bản đồ 3.1: Phân vùng kinh tế Việt Nam...............................................................40 Bảng 3.1: Danh mục các tỉnh, thành phố của mỗi vùng..........................................42 Bảng 3.2: Số học sinh và giáo viên theo cấp học....................................................46 Bảng 3.3: Số người từ 15 tuổi trở lên phân chia theo trình độ giáo dục ..................47 Bảng 3.4: Mức vốn con người của các vùng ..........................................................50 Bảng 4.1: Hồi quy OLS sử dụng số liệu gộp..........................................................76 Bảng 4.2: Mơ hình hiệu ứng ngẫu nhiên ................................................................77 Bảng 4.3: Mơ hình hiệu ứng cố định với đầy đủ các biến.......................................78 Bảng 4.4: Hồi quy GLS sử dụng số liệu gộp..........................................................79 Bảng 4.5: Mơ hình hiệu ứng cố định khơng cĩ F, G và SOE..................................82 Bảng 4.6: Mơ hình sửa đổi với thước đo dựa trên chi phí giáo dục ........................83 Bảng 4.7: Tác động của vốn con người ở 8 vùng kinh tế........................................86 Bảng 4.8: Vốn con người tại các tỉnh kinh tế trọng điểm và khơng trọng điểm ......88 Bảng 4.9: Tác động của vốn con người đối với ba nhĩm thu nhập .........................89 Hình 1.1: Các nhân tố quyết định vốn con người và tác động của vốn con người.....8 Hình 3.1: Hệ thống giáo dục quốc dân ở Việt Nam................................................44 Hình 3.2: Cơ cấu lao động qua đào tạo năm 2004..................................................47 Hình 3.3: Số năm đi học bình quân của lực lượng lao động năm 2004...................48 Hình 3.4: Tỷ lệ lao động ở mỗi trình độ giáo dục năm 2004 ..................................49 Hình 3.5a: Chi phí giáo dục ở mỗi cấp học của các tỉnh, thành phố .......................51 Hình 3.5b: Chi phí giáo dục ở mỗi cấp học của các tỉnh, thành phố .......................51 Hình 3.5c: Chi phí giáo dục ở cấp cao đẳng, đại học và sau đại học.......................52 Hình 3.6: Xu thế chi phí giáo dục bình quân ở các tỉnh thành ................................53 Hình 3.7: Chi phí giáo dục bình quân của 8 vùng kinh tế.......................................53 Hình 3.8: Chi phí giáo dục năm 2004 ....................................................................54 Hình 3.9: Chi phí giáo dục bình quân lao động năm 2004......................................55 Hình 3.10: Thu nhập bình quân lao động tại mỗi trình độ giáo dục........................56 Hình 3.11: Tổng số lao động hiệu quả năm 2004 ...................................................56 Hình 3.12: Số lao động hiệu quả bình quân năm 2004 ...........................................57 Hình 3.13: Số năm đi học bình quân so sánh với chi phí giáo dục..........................59 Hình 3.14: Số năm đi học bình quân so sánh với chi phí giáo dục bình quân .........59 Hình 3.15: Số năm đi học bình quân so sánh với số lao động hiệu quả ..................60 vi Hình 3.16: Số năm đi học so sánh với số lao động hiệu quả bình quân ..................60 Hình 3.17: GDP thực tế năm 2004 và tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2000-2004......61 Hình 3.18: GDP thực tế và tốc độ tăng trưởng (bỏ qua 3 tỉnh lớn nhất)..................62 Hình 3.19: GDP bình quân lao động thực tế và tốc độ tăng trưởng ........................63 Hình 3.20: GDP thực tế và GDP bình quân lao động của các vùng năm 2004........63 Hình 3.21: GDP và vốn con người của các tỉnh, thành phố năm 2004....................64 Hình 3.22: GDP và vốn vật chất của các tỉnh, thành phố năm 2004 .......................65 Hình 3.23: GDP và lực lượng lao động của các tỉnh, thành phố năm 2004.............66 Hình 3.24: Tốc độ tăng trưởng lực lượng lao động, giai đoạn 2000-2004 ..............66 Hình 3.25: FDI của các tỉnh, thành phố năm 2004 .................................................68 Hình 3.26: GDP và tỷ trọng của FDI trong tổng đầu tư năm 2004 .........................68 Hình 3.27: GDP và chi tiêu ngân sách nhà nước của các tỉnh thành năm 2004.......69 Hình 3.28: Log GDP và tỷ trọng chi tiêu ngân sách nhà nước trong GDP..............69 Hình 3.29: Tốc độ tăng trưởng của khu vực nhà nước, GDP và giá trị sản xuất cơng nghiệp, giai đoạn 2000-2004 .................................................................................70 Hình 3.30: Log Y và tỷ trọng khu vực nhà nước trong sản lượng cơng nghiệp 2004 ..............................................................................................................................71 Hình 3.31: Tốc độ tăng trưởng của GDP và tỷ trọng của khu vực nhà nước trong giá trị sản xuất cơng nghiệp, giai đoạn 2000-2004.......................................................71 Hình 3.32: GDP và tỷ trọng của ngành nơng nghiệp trong GDP năm 2004............72 Hình 3.33: Tốc độ tăng trưởng của GDP và tỷ trọng ngành nơng nghiệp trong GDP, giai đoạn 2000-2004 ..............................................................................................73 Hình 3.34: GDP, G, SOE và F của các vùng kinh tế năm 2004..............................74 vii DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT FDI Vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi (Foreign Direct Investment) GDP Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product) GLS (phương pháp) bình phương nhỏ nhất tổng quát (Generalized Least Squares) HDI Chỉ số phát triển con người (Human Development Index) LIB (thước đo) dựa trên thu nhập từ lao động (Labor-income-based) LSDV (phương pháp) biến giả bình phương nhỏ nhất (Least Squares Dummy Variable) OLS (phương pháp) bình phương nhỏ nhất thơng thường (Ordinary Least Squares) UNDP Chương trình phát triển Liên hợp quốc (United Nation Development Program) USD ðơla Mỹ (United States dollar) VHLSS ðiều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam (Vietnam Household Living Standards Survey) VLSS ðiều tra mức sống Việt Nam (Vietnam Living Standards Survey) VND ðồng Việt Nam (Vietnam dong) WB Ngân hàng Thế giới (World Bank) 1 LỜI NĨI ðẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong suốt hai thập kỷ 80 và 90 của thế kỷ XX, Việt Nam đã trải qua những đổi thay to lớn và đạt được nhiều thành tựu kinh tế - xã hội, được hầu hết các nhà quan sát quốc tế đánh giá cao. Xuất phát điểm với những điều kiện khơng thuận lợi do chiến tranh tàn phá và tỷ lệ dân số nghèo đĩi cao, Việt Nam đã thành cơng trong việc chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hĩa, dựa trên nền nơng nghiệp truyền thống và bị cơ lập với phần lớn nền kinh tế thế giới, sang một nền kinh tế thị trường mở cửa. Cùng với quá trình chuyển đổi, tốc độ tăng trưởng GDP thực tế trong 15 năm qua (1990-2004) đạt bình quân 7,5%/năm và tốc độ tăng trưởng GDP/người đạt 5,8%/năm. Tỷ lệ người dân sống dưới ngưỡng nghèo giảm từ 57% năm 1993 xuống cịn 28,9% năm 2002 (WB, 2004). Giai đoạn này cũng chứng kiến sự ổn định nền kinh tế vĩ mơ của Việt Nam: tỷ lệ lạm phát giảm đáng kể từ ba chữ số xuống một chữ số; cải cách khu vực tài chính được xúc tiến mạnh mẽ; thâm hụt ngân sách nhà nước cũng như thâm hụt cán cân thương mại đều ở mức vừa phải (Klump và Nguyễn Thị Tuệ Anh, 2004). Chiến lược Tăng trưởng và Giảm nghèo Tồn diện của Việt Nam đã dự báo GDP Việt Nam sẽ tăng gấp đơi trong giai đoạn 2000 và 2010; đồng thời tỷ lệ nghèo đĩi sẽ tiếp tục giảm 40%. Bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận đĩ, Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với những thách thức và khĩ khăn lớn: Trước hết, theo nhiều chuyên gia kinh tế, những thành tựu trên đây của Việt Nam cĩ được là do cơng cuộc đổi mới đã huy động được các nguồn lực trong nước và thu hút được đầu tư nước ngồi cho tăng trưởng kinh tế và xĩa đĩi giảm nghèo. Tuy nhiên, khi đất nước bước sang thế kỷ XXI, kỷ nguyên của “các nền kinh tế tri thức”, thì vai trị của vốn con người với tăng trưởng kinh tế đã trở thành mối quan tâm khơng chỉ của các nhà nghiên cứu và cả của các nhà hoạch định chính sách trong việc giải quyết các vấn đề liên quan tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Theo kinh nghiệm tăng trưởng của các nước cơng nghiệp phát triển, Hayami (1998) cho rằng mơ hình tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào tích lũy vốn vật chất rất phổ biến trong giai đoạn đầu của quá trình cơng nghiệp hĩa. Tuy nhiên, khi nền kinh tế chuyển sang các giai đoạn tiếp theo, thì mơ hình đĩ bị thay thế bởi mơ hình tăng trưởng kinh tế hiện đại, chủ yếu dựa trên cải tiến cơng nghệ và phát triển vốn con người. Nếu một quốc gia khơng thể chuyển đổi giữa hai mơ hình này, thì quốc 2 gia đĩ sẽ rơi vào cái bẫy “tăng trưởng kiểu Marx”, như trường hợp của Liên bang Xơ viết trước đây.1 Chiến lược tối đa hĩa tích lũy vốn vật chất theo định hướng của chính phủ đã dẫn tới tình trạng phần lớn vốn vật chất bị sử dụng một cách khơng hiệu quả. Câu hỏi “làm cách nào tránh được cái bẫy này” đã trở thành mối quan tâm ngày càng lớn tại các nền kinh tế đã hay sắp vượt qua giai đoạn đầu của quá trình cơng nghiệp hĩa ở ðơng Á. Một số dấu hiệu suy giảm tốc độ tăng trưởng và năng lực cạnh tranh cũng như hiệu quả đầu tư của nền kinh tế Việt Nam đã khiến các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách nhận ra rằng, sau một giai đoạn tăng trưởng nhanh dựa trên tích lũy vốn vật chất, đất nước nên bắt đầu tìm kiếm những mơ hình tăng trưởng kinh tế khác, chú trọng hơn tới sự tích lũy vốn con người và tiến bộ kỹ thuật. Thứ hai, trong thời gian gần đây đã cĩ những thay đổi về phạm vi đánh giá sự tăng trưởng kinh tế và xĩa đĩi giảm nghèo ở Việt Nam, từ chỗ chỉ quan tâm đến các chỉ số tổng hợp của cả nước sang việc tập trung hơn vào cấp độ vùng và các tỉnh, thành phố. ðiều đĩ cho thấy những thành quả phát triển kinh tế - xã hội khơng được chia sẻ đều giữa các vùng và các tỉnh thành (Klump, 2004). Theo Tổng cục Thống kê (2004b, 2005a), trong giai đoạn 2000-2004, tốc độ tăng trưởng bình quân năm của các tỉnh, thành phố Việt Nam cĩ sự chênh lệch rất lớn: từ 4% đến 24%. Số liệu từ VLSS 1992-93, VLSS 1997-98 và VHLSS 2001-02 chỉ ra rằng: tốc độ giảm nghèo nhanh chĩng của Việt Nam cĩ được phần lớn là nhờ thành cơng tại hai vùng ðồng bằng sơng Hồng (bao gồm Hà Nội) và ðơng Nam Bộ (bao gồm thành phố Hồ Chí Minh). Hệ số Gini tồn quốc của Việt Nam đã tăng từ 0.33 năm 1992 lên 0.42 in 2002 (Klump và Nguyễn Thị Tuệ Anh, 2004). Riêng trong năm 2002, các hệ số Gini vùng chênh lệch từ 0.30 (mức độ bất bình đẳng thấp) ở Bắc Trung Bộ và ðồng bằng sơng Cửu Long tới 0.36 ở ðồng bằng sơng Hồng và 0.38 ở ðơng Nam Bộ (Scott và Trương Thị Kim Chuyên, 2004). 1 Hayami (1998) gọi mơ hình tăng trưởng đầu tiên là “tăng trưởng kiểu Marx” và mơ hình thứ hai là “tăng trưởng kiểu Kuznets”. Cĩ thể coi nền kinh tế kế hoạch hĩa của Liên bang Xơ viết là ví dụ điển hình cho việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng cách tối đa hĩa tích lũy vốn. Tuy nhiên, tốc độ tăng năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) ở nền kinh tế này đã giảm sút đáng kể trong những năm 1970 và 1980, điều đĩ chứng tỏ Liên Xơ đã thất bại trong việc chuyển đổi từ tăng trưởng kiểu Marx sang tăng trưởng kiểu Kuznets. Dường như nền kinh tế Liên Xơ đã “mắc bẫy” quy luật lợi suất của vốn giảm dần, khi mà khối lượng vốn vật chất được tích lũy nhanh chĩng lại bị đổ dồn vào một quá trình sản xuất hầu như khơng cĩ sự tiến bộ về cơng nghệ và sự nâng cao vốn con người. 3 Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng khoảng cách giữa các vùng và các tỉnh thành là: giữa các tỉnh thành cĩ sự chênh lệch lớn về khả năng “tạo ra tăng trưởng” khi khơng cĩ sự hỗ trợ từ chính quyền trung ương. Một số nhà nghiên cứu cho rằng sự chênh lệch này chủ yếu là do “thiên thời” (may mắn) hay “địa lợi” (vị trí địa lý) (Dapice, 2003). Tuy nhiên, khi nảy sinh cơ hội cĩ được thu nhập phi nơng nghiệp, thì những yếu tố tự nhiên như tài nguyên thiên nhiên, đất đai màu mỡ hay cằn cỗi, vị trí nằm ở những khu vực chịu ảnh hưởng nhiều của bão lụt, hay ở những khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa… đều khơng cịn quan trọng bằng các biến số kinh tế - xã hội cĩ khả năng tạo ra tăng trưởng (Scott và Trương Thị Kim Chuyên, 2004). Nĩi một cách ngắn gọn, các nhân tố đầu vào tích lũy của mỗi tỉnh, thành phố và chính sách của chính quyền địa phương mới chính là chìa khĩa dẫn đến tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo. Do đĩ, để cĩ được một chiến lược hiệu quả nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia và chống lại sự phân bổ thành quả phát triển một cách thiếu cơng bằng, thì chúng ta cần hiểu sâu sắc hơn mơ hình tăng trưởng của Việt Nam trong những năm gần đây, thơng qua một nghiên cứu về các tỉnh, thành phố Việt Nam. Các nhà hoạch định chính sách cần cĩ một cái nhìn gần gũi hơn và rõ ràng hơn đối với các nền kinh tế cấp tỉnh, thành phố, để cĩ thể đưa ra những chính sách thích hợp với từng địa phương, nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và xĩa đĩi giảm nghèo. Cuối cùng, Báo cáo Quốc gia về Phát triển Con người của Việt Nam năm 2001 được coi là là một trong những nỗ lực nghiên cứu đầu tiên về vốn con người ở cấp tỉnh, thành phố Việt Nam. Báo cáo này chỉ ra một hiện tượng đầy nghịch lý: một số tỉnh thành cĩ HDI (chỉ số phát triển con người) cao nhưng lại cĩ tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, và ngược lại. Mặc dù GDP bình quân đầu người là một yếu tố cấu thành của HDI, nhưng lại cĩ sự chênh lệch lớn về thứ hạng giữa GDP/người và HDI của 24 tỉnh, thành phố. Ví dụ, Nam ðịnh, Hà Tĩnh và Ninh Bình cĩ HDI cao cho dù mức thu nhập bình quân đầu người thấp. Ngược lại, tại An Giang, Tuyên Quang, Bắc Giang và Phú Yên, mức tăng trưởng và thu nhập cao khơng song hành cùng mức vốn con người cao (Trung tâm Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 2001). ðiều này làm nảy sinh câu hỏi: liệu vốn con người cĩ đĩng vai trị quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế các tỉnh, thành phố trong 5 năm qua khơng? Hay nĩi các khác, liệu các chính sách tăng cường đầu tư phát triển con người của chính phủ cĩ đem lại lợi ích cho tăng trưởng kinh tế các tỉnh thành khơng? 4 Những vấn đề cấp bách này cho thấy sự cần thiết phải nghiên cứu tác động của vốn con người đối với tăng trưởng kinh tế các tỉnh, thành phố Việt Nam trong những năm qua, và đây là chính là mục tiêu và nhĩm các nhà khoa học trường ðại học Kinh tế Quốc dân theo đuổi khi thực hiện đề tài “Vai trị của vốn con người đối với tăng trưởng kinh tế các tỉnh, thành phố Việt Nam giai đoạn 2000-2004”. 2. Mục đích nghiên cứu • Xây dựng một số thước đo vốn con người cho các tỉnh, thành phố Việt Nam, chỉ ra ưu điểm và nhược điểm của mỗi thước đo và tìm ra thước đo thích hợp nhất • Phân tích tác động của vốn con người tới tăng trưởng kinh tế cấp tỉnh ở Việt Nam giai đoạn 2000-2004. • Giải thích khoảng cách kinh tế giữa các tỉnh thành dựa trên sự chênh lệch về vốn con người. • Xây dựng cơ sở cho chính sách đẩy mạnh hơn nữa việc nâng cao vốn con người, nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cấp tỉnh. 3. Số liệu và phương pháp nghiên cứu ðề tài sử dụng số liệu các tỉnh, thành phố Việt Nam trong giai đoạn 2000- 2004, chủ yếu được lấy từ Số liệu thống kê kinh tế - xã hội của 64 tỉnh và thành phố (Tổng cục Thống kê, 2005), Niên giám thống kê hàng năm của các tỉnh, thành phố Việt Nam, và Thực trạng lao động – việc làm ở Việt Nam (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, 2001-2005). Dựa trên số liệu gộp với các quan sát là các tỉnh, thành phố Việt Nam trong giai đoạn 2000-2004, đề tài áp dụng một hàm sản xuất Cobb-Douglas mở rộng để nghiên cứu vai trị của vốn con người đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Các mơ hình hiệu ứng ngẫu nhiên và hiệu ứng cố định được sử dụng để ước lượng tác động của vốn con người ở các tỉnh, thành phố Việt Nam. Từ đĩ, một số giả thuyết liên quan đến khoảng cách kinh tế giữa các vùng và các nhĩm tỉnh, thành phố sẽ được kiểm định, để giúp chúng ta hiểu sâu hơn những tác động này. 4. Kết cấu của đề tài ðề tài gồm năm chương: Chương I - Cơ sở lý luận về vốn con người và vai trị của vốn con người với tăng trưởng kinh tế 5 Chương II - Xây dựng các thước đo vốn con người và mơ hình thể hiện vai trị của vốn con người với tăng trưởng kinh tế ở các tỉnh, thành phố Việt Nam Chương III - Thực trạng vốn con người và tăng trưởng kinh tế ở các tỉnh, thành phố Việt Nam giai đoạn 2000-2004 Chương IV - Phân tích vai trị của vốn con người với tăng trưởng kinh tế ở các tỉnh, thành phố Việt Nam giai đoạn 2000-2004 Chương V - Kết luận và các kiến nghị chính sách liên quan đến vai trị của vốn con người với tăng trưởng kinh tế ở các tỉnh, thành phố Việt Nam giai đoạn 2000-2004 6 CHƯƠNG I – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỐN CON NGƯỜI VÀ VAI TRỊ CỦA VỐN CON NGƯỜI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ I.1. Cơ sở lý luận về vốn con người I.1.1. Khái niệm và các khía cạnh của vốn con người – Tích lũy vốn con người Hiểu một cách đơn giản, vốn con người là kết quả của quá trình đầu tư vào các hoạt động nhằm nâng cao năng suất lao động cá nhân như giáo dục, y tế, đào tạo tại chỗ (on-the-job training)… Theo Laroche (1999), khái niệm vốn con người cĩ năm khía cạnh đặc trưng. Thứ nhất, vốn con người là một loại hàng hĩa bất khả thương (non-tradable). Cho dù là bẩm sinh hay cĩ được do học tập, rèn luyện, nhưng kỹ năng và kiến thức đều hàm chứa trong cá nhân mỗi con người. Vì con người khơng phải là hàng hĩa (ngoại trừ trong chế độ chiếm hữu nơ lệ), nên khơng cĩ thị trường cho phép mua bán tài sản vốn con người. Thứ hai, mặc dù vốn con người là một loại tài sản cá nhân, nhưng khơng phải lúc nào con người cũng cĩ thể kiểm sốt các kênh và các cách thức để cĩ được thứ tài sản này. Trong những năm đầu của cuộc đời, các quyết định liên quan đến vốn con người khơng do chủ nhân của nĩ mà do cha mẹ, thầy giáo, chính phủ và cả xã hội nắm giữ thơng qua các thể chế giáo dục và xã hội. ðến khi con người trưởng thành, cĩ thể tự chủ và độc lập trong cuộc sống, thì họ cĩ quyền quyết định quá trình đầu tư vào vốn con người của mình, nhưng ảnh hưởng từ những người xung quanh và các khuơn khổ thể chế được áp dụng nơi họ sinh sống sẽ tiếp tục tác động đến quá trình hình thành vốn con người của mỗi cá nhân, cả về mặt lượng lẫn mặt chất. Thứ ba, vốn con người cĩ cả mặt lượng lẫn mặt chất. Mặc dù chúng ta dễ dàng định lượng được số năm đi học của một cá nhân, nhưng đầu tư vào vốn con người khơng hề đồng nhất về chất. Ví dụ, những con người cĩ bằng đại học Harvard cĩ thể cĩ mức vốn con người cao hơn những người tốt nghiệp từ các trường đại học ít tên tuổi hơn. Thứ tư, vốn con người vừa mang tính cộng đồng, vừa mang tính cá biệt. Kiến thức cĩ thể mang tính cộng đồng nếu con người sử dụng chúng trong nhiều hoạt động và nếu chúng được truyền từ người này sang người khác một cách dễ dàng mà khơng làm giảm nhiều giá trị. Ngược lại, vốn con người trở nên cá biệt nếu người ta 7 chỉ sử dụng nĩ trong một số ít hoạt động và nếu việc tan rã mối quan hệ giữa người lao động (chủ thể mang vốn con người) và cơng ty gây ra những mất mát to lớn. Cuối cùng, vốn con người chứa đựng cả những hiệu ứng ngoại sinh. Khi nĩi đến các hiệu ứng lan tỏa, một mặt chúng ta cĩ thể hiểu rằng cá nhân này cĩ thể tác động tới năng suất lao động của các cá nhân khác và tác động tới lợi suất của vốn vật chất, mặt khác với khả năng nhất định, mỗi cá nhân cĩ thể làm việc năng suất hơn trong một mơi trường cĩ mức vốn con người cao. Khía cạnh này của vốn con người giải thích cho việc hình thành cũng như vai trị quyết định của những trung tâm tập trung vốn con người cao, như các trường đại học, các thành phố, trung tâm nghiên cứu hay tổ hợp các hãng cơng nghệ cao (ví dụ Thung lũng Silicon), đối với sự phát triển và tiến bộ của kiến thức, cơng nghệ và tăng trưởng kinh tế. Sự tích lũy vốn trong một giai đoạn nào đĩ, bất kể dưới hình thức nào, đều được xác định là sự chênh lệch giữa việc sản xuất ra lượng vốn mới và khấu hao lượng vốn trước đĩ. Sự tích lũy của vốn con người và vốn vật chất cĩ những điểm chung vì cả hai đều địi hỏi thời gian và đều địi hỏi sự đánh đổi giữa tiêu dùng hiện tại với tiêu dùng cao hơn trong tương lai. Tuy nhiên, sự tích lũy vốn con người mang những khía cạnh xã hội mà vốn vật chất khơng cĩ. Trên thực tế, vốn con người được phát triển và tích lũy thơng qua sự giao tiếp giữa các cá nhân và trao đổi ý tưởng, qua đĩ biến hoạt động tích lũy vốn con người thành một hoạt động xã hội (Lucas, 1988). ðặc điểm cố hữu này của vốn con người hàm ý rằng quá trình sản xuất và tích lũy vốn con người mang tính thâm lao động hơn là với vốn vật chất. Hơn nữa, chính vì vốn con người hình thành nhờ sự giao tiếp giữa người với người, nên (như đã nĩi ở trên) nĩ mang hiệu ứng ngoại sinh và lan tỏa. Khía cạnh xã hội này của vốn con người cĩ ý nghĩa to lớn đối với hệ thống chính sách liên quan đến các thể chế như gia đình hay các tổ chức xã hội. Vốn con người được tích lũy theo nhiều cách, nhưng rõ ràng giáo dục2 là nguồn tích lũy cơ bản nhất. Giáo dục đĩng vai trị quan trọng nhất trong quá trình học tập của cả xã hội, thơng qua đĩ những kỹ năng trí tuệ và chân tay được phát triển, kiến thức được xây dựng và tích lũy, thái độ và tính cách được định hình, năng lực được củng cố và kỳ vọng được tạo lập. Hệ thống giáo dục chính quy của một quốc gia cĩ mối quan hệ chặt chẽ với nền văn hĩa, lịch sử và truyền thống của quốc gia đĩ, bởi vậy việc đánh giá sản phẩm cuối cùng của giáo dục là vơ cùng 2 Giáo dục ở đây thường được hiểu là giáo dục chính quy, khơng bao gồm đào tạo tại chỗ (on- the-job-training) và học thơng qua làm việc (learning-by-doing). 8 phức tạp (Cai, 1996). Hình 1.1 biểu diễn các yếu tố quyết định quá trình tích lũy vốn con người và tác động của quá trình này tới nền kinh tế - xã hội. Hình 1.1: Các nhân tố quyết định vốn con người và tác động của vốn con người Nguồn: Schultz (1999) ðầu tư vào giáo dục khơng chỉ bao gồm đầu tư của nhà nước và các tổ chức kinh tế - xã hội (các khoản đầu tư này dễ định lượng nhất), mà cịn được thực hiện bởi các cá nhân (đầu tư cho bản thân) và cha mẹ của họ (đầu tư cho con cái). ðầu tư cho vốn con người chiếm một phần phân._. bổ chi tiêu của hộ gia đình, tổ chức kinh tế - xã hội và nhà nước, đồng thời cũng địi hỏi sự đánh đổi thời gian giữa nghỉ ngơi và làm việc (ở đây thường được hiểu là đi học). Người ta thường coi chi phí thực tế (bao gồm tiền bạc cộng thời gian) của khoản đầu tư này là đầu tư cho tiêu dùng. Do vậy, việc tổ chức hệ thống giáo dục của nền kinh tế ảnh hưởng trực tiếp tới lượng và chất của vốn con người được tạo ra. Các nghiên cứu thực nghiệm đưa đến kết luận chung rằng, mức đầu tư vào vốn con người cĩ tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên chất lượng của vốn con người mà đầu tư đĩ cần tạo ra quan trọng hơn số lượng thường được tính bằng số năm đi học (Piazza-Georgi, 2002). I.1.2. ðịnh nghĩa tăng trưởng kinh tế và các nhân tố quyết định tới tăng trưởng Một trong những mục tiêu quan trọng nhất mà mọi quốc gia trên thế giới đều theo đuổi là duy trì mức tăng trưởng kinh tế thích hợp. Tăng trưởng kinh tế thường Các ràng buộc kinh tế - xã hội: Chi tiêu cơng cho giáo dục và tập hợp các đầu vào (+) Chi phí giảng dạy tương đối (–) Trình độ giáo dục của mẹ (+) Trình độ giáo dục của cha (?) Thu nhập bình quân của người trưởng thành (+) Nhập học ở trẻ em Năng suất lao động/ Tiền lương theo giờ Thu nhập quốc dân/ GDP bình quân đầu người Các ràng buộc ngoại sinh (ví dụ, các điều khoản thương mại) Cầu của người tiêu dùng ðầu tư của nhà sản xuất (độ trễ) 9 được hiểu là tăng trưởng GDP thực tế, thể hiện ở tốc độ tăng thu nhập thực tế của một quốc gia, một vùng hay một ngành kinh tế. Vốn vật chất, lao động, vốn con người và tiến bộ kỹ thuật là bốn nguồn cơ bản của tăng trưởng kinh tế.3 Các nhà kinh tế học cổ điển nhấn mạnh vốn (được hiểu là tài sản tài chính và vật chất được tích lũy) chính là động cơ hoạt động của cả nền kinh tế. Cũng cần nhắc lại rằng, đây là một tư tưởng mang tính cách mạng trong một thời đại mà đất đai được coi là thứ tài sản lớn nhất. Phải mất tới gần 100 năm, các chính trị gia mới chấp nhận tư tưởng mới mẻ này và từ bỏ lối suy nghĩ rằng đất đai và tài nguyên thiên nhiên là thứ tài sản duy nhất cần tích lũy và cần gây chiến tranh để đạt được (Piazza-Georgi, 2002). Tuy nhiên, khi mơ hình tăng trưởng tân cổ điển của Solow (1956) ra đời, nĩ đã trở thành chỗ dựa chủ yếu cho mọi nghiên cứu và hạch tốn tăng trưởng kinh tế suốt 30 năm sau đĩ. Theo mơ hình này, con người khơng thể giải thích tăng trưởng kinh tế mà chỉ dựa trên sự gia tăng vốn vật chất và lao động. Yếu tố “số dư” hàm chứa vơ vàn nhân tố khơng xác định, một trong số đĩ (và cĩ thể là nhân tố quan trọng nhất) là sự nâng cao chất lượng của các yếu tố đầu vào. Ngay từ cách đây hơn 40 năm, Schultz (1961) đã dự báo “đầu tư vào vốn con người cĩ lẽ là lời giải thích cơ bản cho sự chênh lệch” giữa tăng trưởng đầu ra và tăng trưởng các đầu vào vốn vật chất và lao động. I.1.3. Vai trị của vốn con người đối với tăng trưởng kinh tế Nĩi chung, đầu tư vào vốn con người mang lại những lợi ích to lớn và cĩ tầm ảnh hưởng sâu rộng. Ở cấp độ cá nhân, cĩ trình độ giáo dục cao đồng nghĩa với sức khỏe tốt hơn, cơ hội kinh tế nhiều hơn và quyền tự chủ lớn hơn, đặc biệt là với người phụ nữ. Ở cấp độ quốc gia và vùng lãnh thổ, dân số cĩ trình độ giáo dục cao được coi là yếu tố cơ bản dẫn đến tiến bộ kỹ thuật và phát triển kinh tế - xã hội (Lutz, 2001). I.1.3.1. Vốn con người trong các lý thuyết kinh tế truyền thống và hiện đại Trong lịch sử phát triển kinh tế học, đã cĩ nhiều nhà kinh tế nổi tiếng quan tâm đến vốn con người và vai trị của giáo dục. Adam Smith chú ý tới tầm quan 3 Theo cách hiểu rộng, thuật ngữ “tiến bộ kỹ thuật” hay “năng suất nhân tố tổng hợp” bao gồm tồn bộ sự gia tăng sản lượng trong điều kiện các yếu tố đầu vào khơng thay đổi. Theo cách hiểu hẹp hơn, “tiến bộ kỹ thuật” hay TFP chính là sự gia tăng tính hiệu quả trong sử dụng các yếu tố đầu vào. 10 trọng của giáo dục theo hai phương diện: (a) “Giáo dục cĩ thể là một cách thức tốt nhằm chống lại sự khốn cùng do phân cơng lao động liên tục gây ra”, và (b) Giáo dục cĩ thể đĩng vai trị quan trọng trong việc tạo ra sự hài hịa xã hội. Alfred Marshall lại coi giáo dục là một loại đầu tư quốc gia và ủng hộ giáo dục nhằm cải tiến kỹ thuật. Ơng chỉ ra rằng mặc dù giáo dục cơ bản ít mang lại lợi ích trực tiếp đối với tiến bộ kỹ thuật, nhưng nĩ khiến con người trở nên thơng minh hơn, đáng tin cậy hơn trong những cơng việc thơng thường. Karl Marx chia sẻ những quan điểm truyền thống này khi ơng viết giáo dục cĩ vai trị chủ chốt trong việc thúc đẩy hịa bình và hài hịa xã hội, cải thiện bản thân và trong quá trình tạo ra của cải (Cai, 1996). Tuy nhiên, chính Schultz (1961) mới là một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên coi giáo dục như một khoản đầu tư vào con người và nĩ cũng cĩ tác động như một loại vốn – “vốn con người”. Ơng rất chú trọng đến những vấn đề chính sách liên quan đến đầu tư vào vốn con người và cho rằng việc loại bỏ những rào cản đối với đầu tư vào vốn con người sẽ mang lại nhiều lợi ích cho xã hội. Cĩ thể kết luận rằng Schultz là nhà tiên phong và người khởi xướng cho ít nhất hai loại nghiên cứu: một là những phân tích chi phí – lợi ích của giáo dục; và hai là nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng và vốn con người (Cai, 1996). Cho đến những năm 70 của thế kỷ XX, lý thuyết vốn con người đã thống trị trong các tài liệu và nghiên cứu về giáo dục và phát triển kinh tế. Quan điểm của lý thuyết này là: những người cĩ số năm đi học nhiều hơn thì đồng thời cĩ cơng việc tốt hơn và tiền lương cao hơn. Theo đĩ, nếu chênh lệch thu nhập phản ánh chênh lệch năng suất lao động cá nhân, thì một cộng đồng càng đơng người cĩ trình độ giáo dục cao sẽ cĩ năng suất kinh tế tổng hợp càng lớn, kết quả là nền kinh tế quốc gia tăng trưởng (Liu và các tác giả khác, 1993). Ngồi những tác động trực tiếp của vốn con người đến năng suất lao động, rõ ràng là đầu tư vào vốn con người nĩi chung và vào giáo dục nĩi riêng cịn cĩ nhiều ảnh hưởng sâu rộng hơn. Những ảnh hưởng này thậm chí bao gồm lợi ích của giáo dục tích lũy trực tiếp cho các cá nhân. Cĩ thể nĩi, giáo dục vừa mang lại lợi ích tiêu dùng trước mắt lẫn tác động dài hạn đối với độ thỏa dụng của cả cuộc đời. Những chính sách nhằm gia tăng vốn con người cũng cĩ ý nghĩa với cả xã hội. Cung cấp giáo dục cơng cộng sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng, tỷ lệ tội phạm, mơi trường, việc nuơi dạy con cái… Tất cả những lợi ích sâu rộng này cuối cùng đều 11 đưa đến phát triển kinh tế, qua đĩ cho thấy cái nhìn rộng lớn hơn về vai trị của giáo dục (Temple, 2001). Theo quan điểm tổng quát của (Lucas, 1988), vốn con người đĩng gĩp vào tăng trưởng kinh tế theo hai cách thức. Trước hết, vốn con người bao hàm trong mỗi cá thể sẽ làm tăng năng suất cá nhân, dẫn đến tăng năng suất chung và tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, vốn con người bao hàm trong mỗi cá thể cũng ảnh hưởng tới năng suất của các nhân tố sản xuất khác. Hai cách thức tác động này được gọi là các hiệu ứng “nội sinh” và “ngoại sinh” của vốn con người. Cai (1996) tổng hợp các kênh của những hiệu ứng này như sau: Các hiệu ứng nội sinh của giáo dục bao gồm:4 (a) gia tăng năng suất lao động cá nhân trong việc sản xuất các loại hàng hĩa và dịch vụ; (b) gia tăng năng suất lao động cá nhân trong việc sản xuất thêm vốn con người; (c) giảm thời gian làm việc tại nhà của nữ giới và tăng chất lượng sản phẩm; (d) thay đổi giá trị của thời gian nghỉ ngơi thơng qua tác động của nĩ vào mức tiền lương. Cịn các hiệu ứng ngoại sinh của giáo dục bao gồm sự tác động vào (1) trình độ con cái, (2) năng suất lao động trong gia đình, (3) sức khỏe cá nhân, (4) sức khỏe của các thành viên trong gia đình, (5) giảm tỷ lệ sinh, (6) hiệu quả lựa chọn tiêu dùng, (7) hiệu quả tìm kiếm thị trường lao động, (8) hiệu quả lựa chọn hơn nhân, (9) tỷ lệ tiết kiệm, (10) giảm tội phạm, (11) liên kết xã hội, và (12) thay đổi cơng nghệ. I.1.3.2. Vốn con người trong các mơ hình kinh tế hiện đại Vốn con người đĩng những vai trị khác nhau trong các lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại khác nhau. Với mơ hình tăng trưởng tân cổ điển, vốn con người khơng được nhắc đến trong quá trình sản xuất. Nhưng trong các mơ hình tăng trưởng nội sinh, thì vốn con người lại đĩng vai trị trung tâm. Aghion và Howitt (1998) nhận thấy: dựa trên vai trị của vốn con người trong mỗi mơ hình, thì cĩ thể chia các mơ hình tăng trưởng nội sinh thành hai nhánh lớn. Ở nhánh thứ nhất, khái niệm của vốn được mở rộng để bao gồm cả vốn con người. Trong những mơ hình kiểu này, tăng trưởng bền vững cĩ được nhờ sự tích lũy vốn con người theo thời gian (Lucas, 1988). Ở nhánh thứ hai, sự tăng trưởng được quy về mức vốn con người hiện cĩ, coi đây chính là động lực tạo ra sự cải tiến cơng nghệ và tăng trưởng bền vững (Romer, 1990). Trong số các mơ hình chuẩn hĩa đề cao vai trị trung tâm của vốn con người với tăng trưởng, thì mơ hình của Lucas (1988) cĩ tầm ảnh hưởng lớn nhất. Trong 4 Theo định nghĩa của Lucas (1988), hiệu ứng nội sinh của giáo dục là tác động của vốn con người của mỗi cá nhân tới năng suất lao động của chính người đĩ. 12 mơ hình này, mức sản lượng là một hàm của mức vốn con người. Tuy nhiên, thuật ngữ “vốn con người” của Lucas gần gũi với kiến thức chung của nhân loại hay của một nền kinh tế hơn là những kỹ năng con người cĩ được thơng qua giáo dục. Một lớp mơ hình khác nhấn mạnh vào những động lực mà các hãng sản xuất – kinh doanh cĩ để tạo ra ý tưởng mới. Các mơ hình tăng trưởng nội sinh dựa trên phân tích về R&D (nghiên cứu và triển khai), mà điển hình là mơ hình của Romer (1990), đưa đến kết quả là tốc độ tăng trưởng bền vững phần nào phụ thuộc vào mức vốn con người. Giả thiết cơ bản ở đây là vốn con người là nhân tố đầu vào cơ bản trong quá trình tạo ra ý tưởng mới. Trên thực tế, trong nhiều mơ hình tăng trưởng nội sinh, vốn con người phải đạt trên một ngưỡng nhất định để cĩ thể tạo ra sự thay đổi cơng nghệ. Khi so sánh hai loại mơ hình tăng trưởng, chúng ta cĩ thể thấy rằng: nghiên cứu của Lucas đơn thuần là một mơ hình tích lũy kiến thức nhưng nĩ dễ phân tích hơn; cịn các giả thiết bĩ buộc lại rất cần thiết để cĩ thể đi đến kết quả của Romer là tốc độ tăng trưởng dài hạn phụ thuộc vào mức vốn con người (Jones, 1995). Nhưng ngay cả với những giả thiết tổng quát hơn, thì sự gia tăng mức vốn con người cĩ thể đưa đến sự gia tăng đáng kể trong mức sản lượng, thơng qua sự gia tăng tốc độ tăng trưởng trong một thời kỳ. I.1.3.3. Vốn con người trong thực tiễn tăng trưởng và phát triển kinh tế Một nguồn nhân lực đơng đảo cĩ trình độ cao đã trở thành điều kiện tiên quyết cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở các quốc gia cơng nghiệp phát triển. Sự yếu kém về trình độ của lực lượng lao động sẽ mau chĩng trở thành gánh nặng kinh tế do tính phi hiệu quả và phi năng suất. Bởi vậy, để cĩ thể tiến bộ, tăng trưởng và thậm chí để tồn tại được, thì một xã hội ngày nay phải là một “xã hội cĩ học vấn” (Okoh, 1980). Tầm quan trọng của nền tảng học vấn và giáo dục đối với phát triển kinh tế được thể hiện rõ nét qua tốc độ phục hồi nhanh chĩng của Tây Âu cùng với Kế hoạch Marshall thời hậu chiến. Sự khơi phục và phát triển kinh tế thần kỳ của Nhật Bản sau chiến tranh phần lớn là nhờ những biện pháp sử dụng cĩ hiệu quả nguồn vốn vật chất cùng tài nguyên thiên nhiên ít ỏi và nguồn nhân lực cĩ trình độ cao (Waines, 1963). Tương tự như vậy, vấn đề cơ bản của hầu hết các nước đang phát triển khơng phải nghèo tài nguyên thiên nhiên mà là thiếu hụt nguồn nhân lực cĩ chất lượng cao. Các nước nghèo từng cho rằng tốc độ tăng trưởng hồn tồn phụ thuộc vào mức vốn vật chất mà họ cĩ thể tích lũy hoặc thu hút được. Hậu quả là họ ra sức tìm 13 kiếm các nguồn lực tài chính từ bên ngồi nhằm bổ sung vào nguồn đầu tư ít ỏi trong nước cĩ được từ thặng dư ngân sách trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển. Nhưng khả năng sử dụng vốn một cách hiệu quả lại phụ thuộc vào trình độ của nguồn nhân lực (Waines, 1963). Do đĩ, (Okoh, 1980) khẳng định rằng nhiệm vụ trước tiên của các nước đang phát triển phải là xây dựng và tích lũy vốn con người. Ơng cho rằng tăng trưởng và phát triển kinh tế ở các quốc gia này “phụ thuộc vào hai yếu tố: vốn và lực lượng lao động được đào tạo. Hầu hết các nước đang phát triển khơng cĩ đủ lượng vốn phục vụ cho tăng trưởng kinh tế, nhưng họ cĩ sẵn nguồn nhân lực và cĩ thể bắt đầu bằng việc đào tạo nguồn lực này” (Okoh, 1980, tr. 205-206). ðiều này đã trở thành lời khuyên đúng đắn trong trường hợp các “thần kỳ” ðơng Á. Tilak (2002) đã mơ tả sự phát triển kinh tế ở ðơng Á là sự phát triển cĩ được nhờ “nguồn nhân lực”. Nĩi như vậy khơng cĩ nghĩa các nhân tố khác khơng quan trọng đối với tăng trưởng, nhưng dường như đầu tư vào vốn con người đã trở thành động lực cơ bản cho sự phát triển ở các nền kinh tế ðơng Á. I.2. Các nghiên cứu thực nghiệm về vốn con người và vai trị của vốn con người đối với tăng trưởng kinh tế Nghiên cứu về đề tài vốn con người và tăng trưởng kinh tế đã cĩ nguồn gốc từ các nhà kinh tế cổ điển cách đây hai trăm năm, nhưng mãi đến hai thập kỷ vừa qua thì các nghiên cứu thực nghiệm mới bùng nổ. Thay vì việc liệt kê vơ vàn những cơng trình liên quan đến mảng đề tài vốn con người, phần này của chương sẽ tĩm tắt một số nghiên cứu cùng với kết quả và hạn chế chủ yếu của chúng. I.2.1. Các thước đo vốn con người Các nhà kinh tế và các nhà hoạch định chính sách đã cơng nhận vốn con người là một loại tài sản cơ bản của các nền kinh tế tri thức, do đĩ việc đo lường loại tài sản này vơ cùng quan trọng. I.2.1.1. Số năm đi học bình quân Trong các nghiên cứu thực nghiệm, người ta đã sử dụng nhiều thước đo vốn con người như tuổi thọ, tỷ lệ người lớn biết chữ, tỷ lệ nhập học ở các cấp, tỷ lệ học sinh – giáo viên, tỷ trọng chi tiêu cho giáo dục trong GDP… Những thước đo này phần nào cho biết mức vốn con người của mỗi quốc gia, nhưng độ chính xác của thước đo phụ thuộc vào giả thiết chúng tương quan đến mức nào với vốn con người của quốc gia đĩ. 14 Những nghiên cứu về tăng trưởng trong thời kỳ đầu thường sử dụng tỷ lệ biết chữ ở người trưởng thành và tỷ lệ nhập học để đo mức vốn con người của một quốc gia. Ví dụ, Romer (1990) lấy tỷ lệ biết đọc biết viết làm thước đo vốn con người; Barro (1991) sử dụng tỷ lệ nhập học ở bậc tiểu học; Mankiw, Romer, và Weil (1992) sử dụng tỷ lệ nhập học ở bậc trung học cơ sở. Tuy nhiên, khả năng biết đọc biết viết hay số lượng nhập học đều chỉ là bước đi đầu tiên trong quá trình tạo dựng nên vốn con người. Những biến số này cĩ sẵn ở nhiều quốc gia nhưng khơng thể đo mức vốn con người phục vụ cho sản xuất của các quốc gia đĩ một cách chính xác. Tỷ lệ nhập học các cấp phản ánh một loại biến kỳ của giáo dục, và tích lũy những biến kỳ này chỉ là một trong những nhân tố hình thành nên vốn con người trong tương lai. Tỷ lệ biết chữ ở người trưởng thành đo được một yếu tố của mức vốn con người ở hiện tại, nhưng lại khơng bao gồm kiến thức và những kỹ năng mà con người cĩ được sau khi đã trải qua các lớp học đầu tiên ở cấp tiểu học. Sau khi Barro và Lee (1993) tính tốn được phân bố trình độ giáo dục cho nhiều quốc gia trong giai đoạn 1960-1990, thì thước đo mức vốn con người thơng dụng nhất chính là số năm đi học bình quân của lực lượng lao động, và thước đo này đã được sử dụng trong các nghiên cứu của Benhabib và Spiegel (1994) và Barro và Sala-i-Martin (1995)… Số năm đi học bình quân được tính bằng tổng các tích giữa số năm đi học nhân với số người trong mỗi nhĩm trình độ, rồi sau đĩ chia cho tổng số người. Lợi thế của việc sử dụng số năm đi học bình quân so với tỷ lệ biết chữ ở chỗ: nĩ phản ánh trực tiếp và tồn diện khái niệm vốn con người cĩ trong dân số của một quốc gia. Hơn thế, số liệu về tỷ lệ nhập học ở hiện tại phải được lấy trễ một kỳ (3-5 năm) nhằm đảm bảo học sinh hồn thành cấp học và bước vào thị trường lao động. Tuy nhiên, chưa kể đến những vấn đề do sai số phép đo5 gây ra, thì số năm đi học bình quân cũng chưa hẳn đã là thước đo vốn con người tốt nhất, bởi một số nguyên nhân. Trước hết, thước đo này giả định rằng mỗi người lao động trong mỗi nhĩm trình độ giáo dục đều là sự thay thế hồn hảo cho người lao động ở các nhĩm trình độ khác. Thứ hai, nĩ giả định rằng sự chênh lệch về năng suất lao động giữa những người lao động cĩ trình độ giáo dục khác nhau tỷ lệ thuận với số năm đi học của họ (ví dụ, người lao động đã tốt nghiệp trung học phổ thơng sẽ cĩ năng suất làm 5 Mặc dù cĩ tầm quan trọng như vậy, nhưng số liệu về thời gian đi học trung bình của các quốc gia khơng đảm bảo độ chính xác, chủ yếu là vì chúng được tính tốn dựa trên các tỷ lệ nhập học hàng năm (Krueger, 2001). 15 việc cao gấp 12 lần so với người lao động mới trải qua 1 năm đi học) (Mulligan và Sala-i-Martin, 1995, 1997). Thứ ba, độ co giãn thay thế giữa những người lao động thuộc các nhĩm trình độ khác nhau được giả định là khơng thay đổi ở mọi nơi và tại mọi thời điểm, bất kể lĩnh vực học tập, chất lượng giáo viên hay hạ tầng cơ sở giáo dục luơn cĩ sự khác nhau theo thời gian và khơng gian (Mulligan và Sala-i-Martin, 2000). Ngồi ra, những chuỗi số liệu vốn con người được xây dựng dựa trên số năm đi học bình quân khơng xét đến thực tế là chi phí tương đối cho một năm tiểu học so với một năm học ở các bậc cao hơn khơng giống nhau, và nguồn lực dành cho một năm học mỗi cấp cĩ sự thay đổi lớn theo thời gian và cĩ sự khác biệt lớn giữa các nước. ðồng thời, rất khĩ so sánh số năm đi học với mức vốn vật chất, GDP hay những biến số kinh tế vĩ mơ khác (Judson, 1995, 2002). ðể giải quyết những vấn đề của thước đo số năm đi học bình quân, một số nhà nghiên cứu đã cố gắng xây dựng những thước đo vốn con người khác. Laroche (1999) ghi nhận cĩ hai cách tiếp cận: (1) cách tiếp cận dựa trên chi phí và (2) cách tiếp cận dựa trên thu nhập trong việc đo lường vốn con người. Cách thứ nhất đo các luồng đầu tư vào khu vực giáo dục, rất thuận tiện cho những phân tích chi phí – lợi ích. Cách thứ hai đo lợi ích của vốn con người thơng qua giá trị thị trường của nĩ. Các phần tiếp theo sẽ giới thiệu hai thước đo đại diện cho hai cách tiếp cận trên. I.2.1.2. Thước đo vốn con người dựa trên thu nhập từ lao động Theo Mulligan và Sala-i-Martin (1995, tr. 2), “trình độ của một con người liên quan đến mức tiền lương người đĩ nhận được trên thị trường”. Nếu loại giáo dục của một người nhận được là cĩ ích, thì thị trường sẽ mang lại cho người đĩ mức lương cao. Do đĩ, Mulligan và Sala-i-Martin (1997) đo vốn con người cho mỗi nền kinh tế bằng cách cộng gia quyền số người lao động của nền kinh tế đĩ, với quyền số là tỷ lệ giữa tiền lương của họ với tiền lương của người lao động cĩ mức vốn con người bằng 0 (tức là người lao động chưa trải qua năm đi học nào). Mulligan và Sala-i-Martin (1997) cho rằng đối với thước đo vốn con người, việc cho những người lao động khác nhau cĩ trọng số khác nhau là một ý tưởng hay vì hai nguyên nhân. Trước hết, giáo dục ở những nơi khác nhau và tại những thời điểm khác nhau cĩ chất lượng khác nhau. Thứ hai, những loại và lượng giáo dục khác nhau cũng thích hợp với những khơng gian và thời gian khác nhau. ðể thước đo vốn con người bao hàm được các khái niệm chất lượng giáo dục và mức độ phù 16 hợp của giáo dục với thị trường lao động, thì việc áp những trọng số khả biến là điều cần thiết. Mulligan và Sala-i-Martin (1997) bắt đầu quá trình xây dựng chuỗi số liệu tổng vốn con người cho một nền kinh tế bằng tổng số lao động (đã được điều chỉnh dựa trên chất lượng – trình độ của người lao động) cĩ trong dân số: ∫ ∞ = 0 ,, dsNH sitsitit θ trong đĩ Nit,s biểu thị số lao động trong nền kinh tế i tại thời điểm t mà đã cĩ s năm đi học. Mỗi người lao động đĩng gĩp vào tổng vốn con người của nền kinh tế thơng qua tham số hiệu quả θit,s của người đĩ. Những tham số hiệu quả này được đo bằng tỷ lệ tiền lương như đã nĩi ở trên: 0, , , it sit sit w w =θ Giả thiết cho cách tính này là mức tiền lương của một cá nhân chịu ảnh hưởng của hai yếu tố: một là khả năng của người lao động đĩ và hai là số lượng vốn con người của cả nền kinh tế. Với một mức trình độ nhất định của người lao động, sự gia tăng vốn vật chất làm tăng năng suất của người đĩ do tính chất bổ sung giữa vốn vật chất và vốn con người. Tương tự như vậy, số lượng vốn con người tăng sẽ làm giảm năng suất do tính chất lợi suất giảm dần của vốn con người (ở đây được thể hiện ở mức tiền lương giảm bớt). ðể xác định yếu tố cá nhân ở đây, chúng ta cần tách được yếu tố tổng hợp bằng cách chia tiền lương của của người lao động đang xét cho tiền lương của người lao động khơng cĩ trình độ, wit,0. Thước đo vốn con người dựa trên thu nhập từ lao động (LIB) này cĩ ưu điểm là đảm bảo tính khả biến của độ co giãn thay thế giữa các loại trình độ lao động. Ngồi ra, nĩ khơng áp đặt là mọi lao động cĩ cùng số năm đi học nhất thiết phải cĩ cùng kỹ năng làm việc (nghĩa là nếu họ học những ngành khác nhau thì năng suất làm việc của họ cũng cĩ sự khác nhau). ðiều đĩ cho phép năng suất lao động tương đối cĩ thể thay đổi theo thời gian và giữa các nền kinh tế. Vấn đề chủ yếu với thước đo LIB là cách xây dựng thước đo vốn con người như vậy cĩ thể tạo ra độ chệch, bởi vì một mặt mức giáo dục cĩ mối tương quan dương với khả năng của người lao động, nhưng mặt khác giá trị thị trường của giáo dục khơng bao hàm được những lợi ích ngoại sinh do vốn con người mang lại (Coulombe và Tremblay, 2001). Ngồi ra, nếu tiền lương tương đối giữa những 17 người lao động thay đổi vì một nguyên nhân nào khác ngồi tiến bộ cơng nghệ hoặc sự thay đổi vốn con người, thì khi đĩ thước đo này khơng phản ánh đúng sự biến động mức vốn con người của mỗi nền kinh tế. Trong những trường hợp giá cả thay đổi thất thường, thì thước đo LIB cũng biến động theo (Mulligan và Sala-i-Martin, 2000).6 I.2.1.3. Thước đo vốn con người dựa trên chi phí giáo dục Một hướng đi mới do Judson (1995) đề xuất là tính chi phí giáo dục, lấy đĩ làm trọng số để tính mức vốn con người cho mỗi cấp tiểu học, trung học cơ sở… Giả thiết cơ bản trong nghiên cứu này là chi tiêu của chính phủ vào giáo dục là thước đo tốt cho chất lượng của giáo dục, hay ít nhất là cho giá trị của giáo dục được cung ứng. Từ tỷ lệ sijt (tỷ lệ giữa mức chi cho giáo dục bình quân học sinh ở trình độ thứ j trên GDP/người) sẵn cĩ trong số liệu thống kê của các quốc gia, Judson (1995) biến nĩ thành tổng chi phí cho giáo dục bằng cách nhân sijt với yijt (GDP/người thực tế): dijt = sijt ⋅ yijt trong đĩ i biểu thị quốc gia, t biểu thị thời gian, và j biểu thị trình độ giáo dục. Sau đĩ, Judson sử dụng dijt làm trọng số trong thước đo vốn con người của mỗi nền kinh tế. Theo đĩ, vốn con người trung bình trên mỗi người lao động bằng: ∑= j ijtijtit adh trong đĩ aijt là số năm đi học trung bình của lực lượng lao động ở mỗi mức trình độ. Khi đĩ, tổng vốn con người của cả nền kinh tế chính là Hit = hit ⋅ Lit Theo cách làm này, thước đo vốn con người dựa trên chi phí giáo dục của Judson cĩ một số ưu điểm so với số năm đi học trung bình. Thứ nhất, nĩ cho phép trọng số của thước đo (chi phí giáo dục) thay đổi theo thời gian, khơng gian và theo 6 Sau khi xây dựng thước đo vốn con người dựa trên thu nhập từ lao động, Mulligan và Sala-i- Martin (1995, 2000) đã cho ra đời một số thước đo vốn con người khác, cho phép cĩ sự so sánh cả về khơng gian lẫn thời gian giữa các chuỗi số. Ví dụ, học sử dụng chỉ số Cross- Sectional Divisia để tính tốc độ biến đổi vốn con người của các nền kinh tế. Kiểu thước đo này cĩ thể tốt hơn việc sử dụng những con số đơn lẻ, tuy nhiên chúng khá phức tạp và thường khơng được sử dụng do thiếu số liệu. 18 trình độ giáo dục. Bên cạnh đĩ, theo cách xây dựng của Judson, sự tăng trưởng của chuỗi vốn con người cũng phản ánh sự chuyển dịch của quốc gia từ việc mở rộng giáo dục tiểu học (chi phí thấp) sang mở rộng giáo dục trung học (chi phí cao hơn). Ngồi ra, do thước đo này được tính theo đơn vị tiền tệ nên chúng ta cĩ thể so sánh vốn con người với các biến số kinh tế vĩ mơ khác như thu nhập quốc dân (GDP) hay vốn vật chất (Judson, 2002). Tuy nhiên, thước đo này cĩ một số nhược điểm. Thứ nhất, nĩ đo chi phí để tạo ra vốn con người tại một thời điểm nhất định, nhưng vốn con người là sự tích lũy từ giáo dục trong một khoảng thời gian rất dài, do đĩ chi phí tại thời điểm hiện tại khơng phải là chỉ số chính xác để đo giá trị vốn con người đã được tạo dựng từ lâu, nhất là khi chất lượng giáo dục của một quốc gia thay đổi theo thời gian (Judson, 1995). Thứ hai, cũng giống như vốn vật chất, số tiền được chi tiêu cho giáo dục chưa hẳn đã là chỉ số đáng tin cậy thể hiện chất lượng của giáo dục. Cĩ vơ số ví dụ về những thành tựu giáo dục tốt với chi phí tối thiểu và ngược lại. Thứ ba, chi phí giáo dục được sử dụng để đo vốn con người ở đây chỉ gồm chi tiêu chính phủ vào giáo dục chứ khơng cĩ chi tiêu của khu vực tư nhân (Judson, 2002). Cuối cùng, theo một số nhà nghiên cứu, chi phí tạo ra vốn con người phải bao gồm cả phần thu nhập từ lao động bị đánh đổi.7 Tĩm lại, mặc dù các thước đo vốn con người do Mulligan và Sala-i-Martin (1997) và Judson (1995, 2002) đề xuất cĩ nhiều ưu điểm so với thước đo số năm đi học bình quân, nhưng bản thân chúng vẫn cĩ những nhược điểm nhất định. Do vậy, thước đo vốn con người nào đúng đắn và thích hợp nhất vẫn là vấn đề gây tranh cãi. I.2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm về vai trị của vốn con người với tăng trưởng kinh tế Trong thập kỷ 90 thế kỷ XX, nghiên cứu kinh tế về vai trị của vốn con người phát triển mạnh với hai hướng độc lập nhau. Một mặt, các cơng trình trong lĩnh vực kinh tế lao động vi mơ đã đem lại những ước lượng về lợi suất tính bằng tiền của giáo dục. Mặt khác, các nghiên cứu tăng trưởng kinh tế vĩ mơ tìm cách khám phá xem vốn con người của các quốc gia hay các vùng cĩ mối quan hệ nào với tốc độ 7 Theo Laroche và Mérette (1999), các nghiên cứu tăng trưởng nội sinh chỉ ra hai loại chi phí phát sinh do việc đầu tư vào vốn con người của mỗi cá nhân. Chúng bao gồm: thu nhập bị đánh đổi (do học sinh, sinh viên dành thời gian cho việc học thay vì đi làm) và tiêu dùng bị đánh đổi (vì phải dành tiền đĩng học phí thay vì tiêu dùng việc khác). Thước đo vốn con người của Judson (1995, 2002) chỉ mới xét đến loại chi phí thứ hai. 19 tăng trưởng GDP hay khơng (Krueger và Lindahl, 2001). Do mục đích của đề tài là tìm hiểu vai trị của vốn con người với tăng trưởng kinh tế, nên phần này chỉ đề cập đến hướng nghiên cứu thứ hai. ðể nắm được hiệu ứng tăng trưởng của vốn con người, cho đến nay đã cĩ rất nhiều phân tích và ước lượng các mơ hình tăng trưởng, sử dụng số liệu chéo (cấp quốc gia hay cấp vùng). Cĩ thể nhận thấy, những nghiên cứu này khởi nguồn từ sự phát triển mạnh mẽ của các lý thuyết tăng trưởng nội sinh, và mơ hình được sử dụng trong các nghiên cứu đĩ thường kết hợp những đặc điểm cơ bản của mơ hình tân cổ điển, nhưng được mở rộng để bao hàm các chính sách chính phủ, các vấn đề thể chế và đặc biệt là tích lũy vốn con người. I.2.2.1. Hồi quy tăng trưởng sử dụng số liệu cấp quốc gia Trong nghiên cứu mối quan hệ giữa vốn con người và tăng trưởng kinh tế, người ta thường chú trọng đến sự so sánh giữa các nước. Do đĩ, phần lớn các cơng trình trong lĩnh vực này sử dụng số liệu cấp quốc gia. Các nhà nghiên cứu thường sử dụng một trong hai cách thức mơ hình hĩa tăng trưởng và vốn con người. Theo cách đầu tiên và cũng là cách phổ biến nhất, nhà nghiên cứu lựa chọn hồi quy tăng trưởng theo các biến kiểm sốt, trong đĩ cĩ mức vốn con người ban đầu. Cịn theo cách thứ hai, chính là sự thay đổi vốn con người (chứ khơng phải mức vốn con người) được dùng để giải thích tăng trưởng. Tuy nhiên, kết quả ước lượng của cả hai cách đều mắc phải sai số phép đo và các vấn đề về định dạng mơ hình đúng (Schultz, 1999). Dựa trên ý tưởng cơ sở là mức vốn con người cĩ thể ảnh hưởng tới tăng trưởng nhiều kỳ liên tiếp theo nhiều kênh khác nhau, đặc biệt là thơng qua việc tác động tới khả năng ứng dụng cơng nghệ nhập khẩu từ nước ngồi, nhiều nhà nghiên cứu đã gắn tăng trưởng với mức vốn con người ban đầu. Từ đĩ họ nhận thấy hiệu ứng của vốn con người là dương, cĩ giá trị lớn và cĩ ý nghĩa thống kê, như kết quả thu được của Barro (1991) hay Mankiw và các tác giả khác (1992). Tuy nhiên, theo Schultz (1999), hiệu ứng đo được của mức vốn con người ban đầu thường quá lớn tới mức khơng thể chấp nhận, bởi vì nĩ lớn gấp nhiều lần so với quy mơ lợi suất tiền lương của giáo dục trong những nghiên cứu về mối quan hệ giữa tiền lương của cá nhân với số năm đi học. ðể giải thích hiện tượng này, Krueger và Lindahl (2001) chứng minh rằng khi gặp phải sai số phép đo, thì vai trị của vốn con người thường bị thổi phồng. 20 Những vấn đề nảy sinh trên đã làm chuyển hướng nghiên cứu sang những hồi quy liên kết tăng trưởng với sự thay đổi vốn con người, thay cho mức vốn con người. Một số cơng trình nổi tiếng đưa ra kết quả đáng ngạc nhiên là mối tương qua giữa hai đại lượng này rất nhỏ bé. Benhabib và Spiegel (1994) và Pritchett (1996) đều đi đến kết luận này khi sử dụng mẫu lớn gồm nhiều quốc gia trên thế giới. Theo Temple (1999), nguyên nhân của tình trạng này cĩ thể là ảnh hưởng của các quan sát ngoại biên (outliers). Bên cạnh đĩ, Krueger và Lindahl (2001) lập luận đầy thuyết phục rằng sai số phép đo cũng là một lý do quan trọng bởi nĩ làm giảm đáng kể ước lượng hiệu ứng của sự thay đổi vốn con người tới tăng trưởng kinh tế. Mặc dù cĩ nhiều vấn đề nảy sinh trong việc đo lường hiệu ứng tăng trưởng của vốn con người tại cấp kinh tế vĩ mơ, nhưng vẫn cĩ cơ sở để các nhà nghiên cứu lạc quan rằng những nghiên cứu này mang lại nhiều đĩng gĩp cĩ giá trị. Temple (2001) khẳng._.tỉnh kể trên, ngoại trừ Bà Rịa - Vũng Tàu) và các tỉnh kinh tế khơng trọng điểm (gồm 41 tỉnh cịn lại), rồi ước lượng hiệu ứng của vốn con người tới mức GDP ở từng tỉnh. Một lần nữa, chúng ta lại thu được những kết quả ngồi dự đốn, thể hiện trong Bảng 4.8. Ở các tỉnh kinh tế trọng điểm, vốn con người cĩ tác động ngược chiều tới mức GDP và các hệ số ước lượng khơng cĩ ý nghĩa thống kê. ðiều đáng chú ý là các vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và miền Nam bao gồm gần như tồn bộ hai vùng ðơng Nam Bộ và Nam Trung Bộ theo cách chia 8 vùng kinh tế, cịn hầu hết các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm miền Bắc thuộc về ðồng bằng sơng Hồng. Dường như mối tương quan dương giữa vốn con người và mức GDP ở ðơng Nam Bộ và Nam Trung Bộ đã bị che lấp bởi các kết quả ước lượng mang dấu âm và giá trị lớn ở ðồng bằng sơng Hồng. Do đĩ, cuối cùng chúng ta chỉ thu được những hệ số âm và khơng cĩ ý nghĩa thống kê. Bảng 4.8: Vốn con người tại các tỉnh kinh tế trọng điểm và khơng trọng điểm Các thước đo vốn con người Nhĩm lnS lnE lnEL Các tỉnh kinh tế trọng điểm −0,026 (−0,19) −0,120 (−1,32) −0,100 (−0,32) Các tỉnh kinh tế khơng trọng điểm 0,217 (3,47) 0,168 (3,60) 0,340 (2,37) (Số trong ngoặc đơn là t-value) Ngược lại, nhĩm thứ hai, gồm các tỉnh của ba vùng nghèo nhất đất nước (Tây Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên) và ðơng Bắc Bộ (trừ Quảng Ninh) cũng như ðồng bằng sơng Cửu Long, lại cĩ các ước lượng hệ số của vốn con người cao và mang dấu dương. Mặc dù mối tương quan riêng phần giữa H và Y ở các tỉnh khơng trọng điểm thấp hơn so với các tỉnh trọng điểm, nhưng sau khi sử dụng các 89 biến giả đại diện cho các đặc trưng theo tỉnh, thì mơ hình hiệu ứng cố định cho chúng ta các kết quả ngược lại. Dù sao chăng nữa, những hệ số ước lượng thu được cho thấy tăng trưởng kinh tế ở các tỉnh trọng điểm dựa vào tích lũy vốn vật chất và tăng trưởng lao động hơn là vào sự gia tăng vốn con người. Và nĩi chung, các tỉnh cĩ trình độ giáo dục tốt chưa chắc đã cĩ mức và tăng trưởng GDP cao. Mặt khác, vốn con người ở các tỉnh cĩ tác động tích cực tới GDP, đây là kết quả tốt, ủng hộ cho các lý thuyết về vai trị của vốn con người với tăng trưởng kinh tế của chúng ta. IV.2.3. Vốn con người và ba nhĩm thu nhập Dựa trên mức GDP của các tỉnh Việt Nam năm 2000, chúng ta cĩ thể chia 60 tỉnh, thành phố (trừ Bà Rịa - Vũng Tàu) thành ba nhĩm: (1) 21 tỉnh cĩ GDP trên 4 nghìn tỷ VND; (2) 21 tỉnh cĩ GDP nằm giữa 2 và 4 nghìn tỷ VND; và (3) 18 tỉnh cĩ GDP thấp hơn 2 nghìn tỷ VND. Bảng 4.9 cho thấy tác động tích cực trên lý thuyết của vốn con người tới mức GDP đã được các kết quả thực nghiệm chứng minh. Tuy nhiên, mặc dù chúng ta thu được ước lượng cĩ ý nghĩa thống kê cho các tỉnh thuộc nhĩm (1) và (2), nhưng với nhĩm (3) thì kết quả hồi quy khơng cĩ ý nghĩa. Bảng 4.9: Tác động của vốn con người đối với ba nhĩm thu nhập Các thước đo vốn con người Nhĩm tỉnh cĩ lnS lnE lnEL GDP > 4000 tỷ VND 0,158 (2,23) 0,100 (2,19) 0,399 (2,52) 2000 < GDP < 4000 tỷ VDN 0,324 (2,17) 0,231 (2,27) 0,583 (1,87) GDP < 2000 tỷ VND 0,074 (1,08) 0,089 (1,52) 0,079 (0,49) (Số trong ngoặc đơn là t-value) Các hệ số ước lượng của nhĩm (1) khá gần với kết quả của cả nước trong Bảng 4.5, bởi vì thực tế là nhĩm này bao gồm hầu hết các tỉnh cĩ ảnh hưởng lớn nhất đối với GDP của đất nước. Ngồi ra, chỉ cĩ 7 trong số những tỉnh này nằm trong các vùng kinh tế trọng điểm. 90 ðộ co giãn của sản lượng theo vốn con người ở nhĩm (2) là cao nhất, với các hệ số ước lượng của S, E và EL lần lượt là 0,32; 0,23 và 0,58. ðiều này hàm ý rằng vốn con người ở các tỉnh cĩ mức GDP trung bình cĩ tác động lớn nhất tới tăng trưởng kinh tế và khoảng cách thu nhập giữa các tỉnh. Kết quả này bắt nguồn từ thực tế là ngay từ trước giai đoạn 2000-2004, nhĩm (1) đã cĩ sẵn mức vốn con người cao hơn nhĩm (2). Khi bị tụt lại phía sau về trình độ phát triển, thì sự gia tăng vốn con người ở nhĩm (2) sẽ tạo ra sự tăng trưởng kinh tế lớn hơn những tỉnh đã cĩ mức phát triển cao hơn, như ở nhĩm (1). Tuy nhiên, đối với nhĩm (3), các hệ số ước lượng khơng cịn cĩ ý nghĩa thống kê, khiến cho chúng ta khơng thể dự báo gì ngồi một mối quan hệ khơng rõ ràng giữa vốn con người và GDP của các tỉnh trong nhĩm. Dường như những tỉnh vốn được xếp vào loại nghèo ở Việt Nam này cần thứ khác hơn là vốn con người để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, trên quan điểm của các nhà thống kê học, thì đây cũng cĩ thể đơn thuần là vấn đề chất lượng số liệu. Thơng thường các tỉnh nghèo cũng cung cấp số liệu kinh tế vĩ mơ kém chính xác hơn. Ta nên lưu ý điều này khi giải thích các ước lượng hồi quy liên quan đến nhĩm (3). Rõ ràng là các kết quả từ kiểm định này khơng hồn tồn như mong đợi. Nếu chúng ta quan tâm đến ý nghĩa chính sách cho các tỉnh thành, thì chỉ nên dựa vào kết luận thu được từ các tỉnh thuộc nhĩm (1) và (2) qua cách phân chia dựa trên mức GDP năm 2000, tức là nhĩm cĩ mức GDP cao và trung bình của đất nước. ðiều này giúp tránh được việc sử dụng số liệu khơng đảm bảo thu thập từ các tỉnh nghèo và khơng gây nhiễu đến kết quả chung của cả nước. IV.2.4. Lựa chọn thước đo vốn con người tốt nhất cho các tỉnh, thành phố Việt Nam Sau những lập luận lý thuyết, phân tích số liệu, ước lượng hồi quy và kiểm định giả thuyết ở các chương I, II, III và IV, chúng ta đi đến câu trả lời cho câu hỏi “thước đo vốn con người nào phù hợp nhất với các tỉnh, thành phố Việt Nam”. Như đã lập luận ở chương I, thước đo vốn con người thơng dụng nhất là số năm đi học bình quân của lực lượng lao động. ðây khơng chỉ là một thước đo đơn giản và dễ thực hiện nhờ số liệu sẵn cĩ, mà cịn cĩ thể phản ánh được khía cạnh mức vốn con người trong mỗi quốc gia hay mỗi tỉnh, và nĩ gần gũi với khái niệm “vốn con người” trong lý thuyết hơn là những thước đo như tỷ lệ nhập học hay tỷ lệ người biết chữ. Nhưng số năm đi học bình quân vẫn cĩ nhiều nhược điểm mà chúng ta cĩ thể khắc phục thơng qua sử dụng các thước đo dựa trên chi phí và thu nhập. 91 Nếu hai thước đo này được xây dựng một cách thận trọng và đúng đắn, thì chúng sẽ là những thước đo rất tốt cho dù vẫn cĩ một số hạn chế khơng thể tránh khỏi. Tuy nhiên, Chương II đã cho thấy các thước đo dựa trên chi phí và thu nhập trong nghiên cứu này gặp phải nhiều vấn đề, thường nảy sinh do thiếu số liệu hay số liệu khơng đảm bảo chất lượng. Ví dụ, thước đo vốn con người dựa trên chi phí khơng bao hàm chi phí giáo dục cơng cộng, hay trong thước đo dựa trên thu nhập, chúng ta khơng thể xác định thu nhập bình quân của cá nhân mà phải lấy tổng thu nhập mỗi hộ gia đình chia cho số lao động trong hộ đĩ. Những hạn chế này gây ra những hiện tượng khơng mong đợi, như ta cĩ thể nhận ra trong chương III. Chẳng hạn, sự chênh lệch lớn về chi phí giáo dục tư nhân giữa các tỉnh giàu và các tỉnh nghèo đã thổi phồng khoảng cách vốn con người giữa các địa phương. Hoặc thu nhập cao của những người lao động khơng cĩ trình độ cĩ thể khiến chúng ta đánh giá thấp mức vốn con người dựa trên thu nhập ở một số tỉnh thành. Cuối cùng, các kết quả ước lượng và kiểm định ở chương IV khơng ủng hộ cho hai thước đo này. Các hệ số ước lượng của chi phí giáo dục bình quân thường thấp hơn so với số năm đi học bình quân, cịn số lao động hiệu quả bình quân đem lại những ước lượng khơng cĩ ý nghĩa thống kê trong nhiều trường hợp mà các thước đo kia khơng gặp phải. Tĩm lại, cho dù những thước đo mới cĩ nhiều ưu điểm về mặt lý thuyết, nhưng nếu số liệu khơng được cải thiện, cả về số lượng và chất lượng, thì chúng ta vẫn nên chọn số năm đi học bình quân làm thước đo vốn con người phù hợp nhất cho các tỉnh, thành phố Việt Nam. 92 CHƯƠNG V – KẾT LUẬN VÀ CÁC KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH LIÊN QUAN ðẾN VAI TRỊ CỦA VỐN CON NGƯỜI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ VIỆT NAM GIAI ðOẠN 2000-2004 V.1. Kết luận ðề tài được lựa chọn nghiên cứu do nhiều nguyên nhân, nổi bật trong số đĩ là hai vấn đề. Thứ nhất, nhiều nghiên cứu trên thế giới đã khẳng định vai trị của vốn con người với tăng trưởng kinh tế của các quốc gia, các bang, hay các tỉnh, nhưng ở Việt Nam, hầu như chưa cĩ nghiên cứu nào mơ hình hĩa hay đánh giá thực nghiệm hiệu ứng tăng trưởng của vốn con người. Thứ hai, mặc dù cĩ sự đồng thuận là giáo dục mang lại lợi ích cho tăng trưởng kinh tế, nhưng Trung tâm Xã hội và Nhân văn Quốc gia (2001) cho thấy những bằng chứng đi ngược lại mối quan hệ lý thuyết này ở một số tỉnh của Việt Nam. Nghiên cứu này nhằm vào trả lời ba câu hỏi: Làm cách nào để đo được vốn con người tại các tỉnh, thành phố của Việt Nam? Liệu vốn con người cĩ tác động tới tăng trưởng kinh tế và khoảng cách phát triển giữa các tỉnh thành Việt Nam trong giai đoạn 2000-2004 hay khơng? Và tác động đĩ khác nhau (nếu cĩ) như thế nào giữa các tỉnh và các nhĩm tỉnh? ðể tìm được thước đo thích hợp nhất cho mức vốn con người, nghiên cứu đã giới thiệu ba thước đo: số năm đi học bình quân, chi phí giáo dục bình quân và số lao động hiệu quả bình quân, với tất cả những ưu và nhược điểm của từng thước đo. ðể phân tích vai trị của vốn con người đến tăng trưởng kinh tế và chênh lệch thu nhập giữa các tỉnh thành, việc xây dựng mơ hình tăng trưởng phản ánh tác động của vốn con người và các biến số kinh tế vĩ mơ khác là vơ cùng quan trọng. Mặc dù chúng ta cĩ thể sử dụng nhiều loại mơ hình phức tạp đã được các nhà nghiên cứu trên thế giới đề xuất và chứng minh, nhưng khi nghiên cứu tăng trưởng ở Việt Nam mới trong giai đoạn phát triển sơ khai, thì bước đi đầu tiên chỉ là áp dụng một mơ hình tăng trưởng tân cổ điển vốn rất thơng dụng, dựa trên hàm sản xuất Cobb-Douglas. Dựa trên các kết quả ước lượng và kiểm định ở chương trước, chúng ta cĩ thể rút ra những kết luận sau đây: Trước hết, cĩ thể chứng thực rằng giáo dục thực sự đĩng gĩp vào tăng trưởng kinh tế của các tỉnh, thành phố. Với sự giúp đỡ của mơ hình hiệu ứng cố định, chúng ta thu được những ước lượng dương và cĩ ý nghĩa thống kê của các hệ số vốn con người. Cụ thể hơn, các hệ số ước lượng của số năm đi học bình quân, chi 93 phí giáo dục bình quân và số lao động hiệu quả bình quân lần lượt là 0,16; 0,11 và 0,23. Ngồi ra, những nhân tố đầu vào khác, bao gồm vốn cố định và lực lượng lao động, cùng với tỷ trọng của sản xuất nơng nghiệp trong GDP cũng cĩ mức tương quan cao với GDP của các tỉnh, thành phố. Thứ hai, bằng chứng cũng cho thấy cĩ thể giải thích khoảng cách giữa các tỉnh thành về mức GDP dựa trên chênh lệch mức vốn con người giữa các tỉnh. Tỉnh nào cĩ mức vốn con người cao hơn sẽ cĩ mức GDP cao hơn, trong điều kiện các yếu tố khác khơng thay đổi. Thứ ba, kết quả kiểm định cho thấy hiệu ứng của vốn con người thay đổi theo từng vùng. Vốn con người đĩng vai trị tích cực tại ðơng Nam Bộ và Nam Trung Bộ, nhưng lại cĩ tác động ngược chiều tới mức GDP của ðồng bằng sơng Hồng. Ở các vùng khác, vai trị của vốn con người khơng rõ ràng do thiếu số quan sát. Thứ tư, giữa các nhĩm cĩ mức GDP khác nhau, ảnh hưởng của vốn con người cũng khác nhau. Hệ số ước lượng của vốn con người tại các tỉnh nghèo thường thấp và khơng cĩ ý nghĩa thống kê, phần nào cĩ thể do chất lượng khơng tốt của số liệu. Hiệu ứng của vốn con người đạt tối đa khi thu nhập của tỉnh ở mức “trung bình”. Và với các tỉnh cĩ mức GDP cao nhất quốc gia, thì giáo dục vẫn cĩ tác động tích cực và cĩ ý nghĩa. Cuối cùng, số năm đi học bình quân chính là thước đo vốn con người thích hợp nhất trong điều kiện các tỉnh, thành phố Việt Nam. Mặc dù cĩ nhiều lợi thế (về lý thuyết) so với số năm đi học bình quân, nhưng các thước đo vốn con người dựa trên chi phí và thu nhập khơng phù hợp với Việt Nam do thiếu số liệu và chất lượng số liệu thấp. V.2. Kiến nghị chính sách Từ các kết luận trên đây, chúng ta cĩ thể đưa ra một số kiến nghị chính sách. Tác động tích cực của biến số vốn con người tới sản lượng khẳng định lập luận là đầu tư vào vốn con người đem lại lợi ích cho xã hội thơng qua nhiều kênh, đặc biệt là gĩp phần nâng cao năng suất lao động. Do đĩ, phát triển khu vực giáo dục là cách thức khả thi để nâng cao tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam. Mặc dù nghiên cứu này khơng chỉ ra được loại giáo dục nào là quan trọng nhất, nhưng cần lưu ý rằng đĩng gĩp của vốn con người tới tăng trưởng kinh tế đạt cao nhất ở các tỉnh cĩ mức thu nhập trung bình, tại đĩ số năm đi học bình quân của 94 lực lượng lao động thường vào khoảng 7-8 năm. Trong khi đĩ, số năm đi học bình quân của các tỉnh thu nhập thấp chỉ đạt 5-6 năm. Sự gia tăng số năm đi học từ 5-6 tới 7-8 năm ở các tỉnh thu nhập thấp địi hỏi sự đầu tư dài hạn và một nguồn lực lớn dành cho giáo dục bậc phổ thơng cơ sở. Tuy nhiên, đây cĩ thể trở thành nguồn tăng trưởng kinh tế đầy tiềm năng. Ngồi ra, bởi vì hiệu ứng của vốn con người đối với mức GDP của các tỉnh, thành phố khơng đồng nhất giữa các vùng, nên cả chính quyền trung ương và chính quyền địa phương cần áp dụng những chính sách đầu tư thích hợp nhằm thúc đẩy tăng trưởng và xĩa đĩi giảm nghèo. ðơng Nam Bộ và Nam Trung Bộ là hai vùng cần được đầu tư vào vốn con người nhiều hơn. Ngược lại, để cải thiện tình hình kinh tế ở ðồng bằng sơng Hồng, thì đầu tư vốn vật chất dường như cần thiết hơn là việc mở rộng giáo dục quá nhiều như hiện nay. V.3. Hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu trong tương lai Kết quả của nghiên cứu này cần được giải thích một cách thận trọng. Các thước đo vốn con người gặp nhiều hạn chế do thiếu số liệu, cả trên mặt chất lẫn mặt lượng. Mặc dù dạng hàm sản xuất Cobb-Douglas trong mơ hình Solow thường là sự mơ tả tăng trưởng phổ biến tại các nước cơng nghiệp phát triển, nhưng áp dụng mơ hình này tại Việt Nam là điều cần cân nhắc, và chúng ta chỉ nên coi nghiên cứu này là điểm khởi đầu hơn là điểm kết thúc trong phân tích vai trị của vốn con người đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Những hướng nghiên cứu tương lai sẽ tập trung vào việc (1) xây dựng những thước đo vốn con người tốt hơn, chẳng hạn bổ sung chi phí giáo dục cơng cộng vào thước đo dựa trên chi phí, (2) tính tốn hiệu ứng của mỗi cấp giáo dục tới tăng trưởng kinh tế của các tỉnh, thành phố, và (3) tìm hiểu sự tồn tại của quy luật lợi suất cận biên tăng dần, thơng qua việc áp dụng phương pháp xác định hiệu ứng lan tỏa (hiệu ứng ngoại sinh) của vốn con người. 95 NGUỒN SỐ LIỆU Tổng cục Thống kê (1994), ðiều tra mức sống Việt Nam (VLSS) 1992-93 Tổng cục Thống kê (2000), ðiều tra mức sống Việt Nam (VLSS) 1997-98 Tổng cục Thống kê (2001a), Số liệu thống kê kinh tế - xã hội của 61 tỉnh, thành phố Việt Nam, Nxb. Thống kê, Hà Nội Tổng cục Thống kê (2001b), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 1999 – Kết quả điều tra tổng hợp Tổng cục Thống kê (2003), ðiều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) 2002 Tổng cục Thống kê (2004a), Số liệu thống kê Việt Nam thế kỷ XX, Nxb. Thống kê, Hà Nội Tổng cục Thống kê (2004b), Niên giám thống kê 2003, Nxb. Thống kê, Hà Nội Tổng cục Thống kê (2005a), Số liệu thống kê kinh tế - xã hội của 64 tỉnh, thành phố Việt Nam, Nxb. Thống kê, Hà Nội Tổng cục Thống kê (2005b), Niên giám thống kê 2004, Nxb. Thống kê, Hà Nội Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2001, 2002, 2003, 2004, 2005), Thực trạng lao động – việc làm ở Việt Nam, Nxb. Lao động – Xã hội, Hà Nội. NIÊN GIÁM THỐNG KÊ CỦA CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ Cục Thống kê An Giang (2005), Niên giám thống kê Tỉnh An Giang 2004, Xưởng in Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh Cục Thống kê Bà Rịa - Vũng Tàu (2005), Niên giám thống kê Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu 2004, Xưởng in ðường sắt Sài Gịn, Thành phố Hồ Chí Minh. Cục Thống kê Bắc Kạn (2005), Niên giám thống kê 2004, Xưởng in Bắc Kạn, Bắc Kạn Cục Thống kê Bạc Liêu (2005), Niên giám thống kê 2004 Tỉnh Bạc Liêu, Cơng ty in ấn Bạc Liêu, Bạc Liêu Cục Thống kê Bắc Ninh (2005), Niên giám thống kê Tỉnh Bắc Ninh 2004, Nxb. Thống kê, Hà Nội Cục Thống kê Bến Tre (2005), Niên giám thống kê 2004, Xưởng in Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh 96 Cục Thống kê Bình ðịnh (2005), Niên giám thống kê Tỉnh Bình ðịnh 2004, Xưởng in Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh Cục Thống kê Bình Dương (2005), Niên giám thống kê Tỉnh Bình Dương 2004, Xưởng in Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh Cục Thống kê Bình Phước (2005), Niên giám thống kê Tỉnh Bình Phước 2004, Xưởng in Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh Cục Thống kê Bình Thuận (2005), Niên giám thống kê 2004, Xưởng in Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh Cục Thống kê Cà Mau (2005), Niên giám thống kê 2004, Xưởng in Trần Ngọc Hy, Cà Mau Cục Thống kê Cần Thơ (2005), Niên giám thống kê Thành phố Cần Thơ 2004, ?, Cần Thơ Cục Thống kê ðà Nẵng (2005), Thành phố ðà Nẵng City - 30 năm xây dựng và trưởng thành, Cơng ty Dịch vụ in ấn và xổ số ðà Nẵng Cục Thống kê ðắc Lắc (2005), Niên giám thống kê Tỉnh ðắc Lắc 2004, Xưởng in Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh Cục Thống kê ðắc Nơng (2005), Niên giám thống kê 2004, Xưởng in Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh Cục Thống kê ðiện Biên (2005), Niên giám thống kê 2004 Tỉnh ðiện Biên, Nxb. Thống kê, Hà Nội Cục Thống kê ðồng Nai (2005), Niên giám thống kê Tỉnh ðồng Nai 2004, Xưởng in Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh Cục Thống kê ðồng Tháp (2005), Niên giám thống kê tỉnh ðồng Tháp 2004, Xưởng in Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh Cục Thống kê Gia Lai (2005), Niên giám thống kê Tỉnh Gia Lai 2004, Xưởng in Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh Cục Thống kê Hà Giang (2005), Niên giám thống kê 2001-2004, Xí nghiệp in Hà Giang, Hà Giang Cục Thống kê Hà Nội (2005), Niên giám thống kê Hà Nội 2004, Cơng ty in Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội 97 Cục Thống kê Hà Tĩnh (2005), Niên giám thống kê Tỉnh Hà Tĩnh 2004, Nxb. Thống kê, Hà Nội Cục Thống kê Hải Dương (2005), Niên giám thống kê 2004, Nxb. Thống kê, Hà Nội Cục Thống kê Hải Phịng (2005), Hải Phịng – 50 năm xây dựng và trưởng thành (13/5/1955 – 13/5/2005), Nxb. Thống kê, Hà Nội Cục Thống kê Hậu Giang (2005), Niên giám thống kê 2004, ? Cục Thống kê Hịa Bình (2005), Niên giám thống kê Tỉnh Hịa Bình 2004, Nxb. Thống kê, Hà Nội Cục Thống kê Hưng Yên (2005), Niên giám thống kê Tỉnh Hưng Yên 2004, ? Cục Thống kê Khánh Hịa (2005), Niên giám thống kê 2004, Xưởng in Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh Cục Thống kê Kiên Giang (2005), Niên giám thống kê 2004, Xưởng in Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh Cục Thống kê Kon Tum (2005), Niên giám thống kê 2004, Xưởng in Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh Cục Thống kê Lai Châu (2005), Niên giám thống kê 2004 Tỉnh Lai Châu, ? Cục Thống kê Lâm ðồng (2005), Niên giám thống kê Lâm ðồng 2004, Xưởng in Bản đồ ðà Lạt, Lâm ðồng Cục Thống kê Lao Cai (2005), Niên giám thống kê 2004, ? Cục Thống kê Long An (2005), Niên giám thống kê 2004, Xưởng in Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh Cục Thống kê Nghệ An (2005), Niên giám thống kê 2004, Xưởng in Nghệ An, Nghệ An Cục Thống kê Ninh Bình (2005), Niên giám thống kê 2004, ?, Ninh Bình Cục Thống kê Ninh Thuận (2005), Niên giám thống kê Tỉnh Ninh Thuận 2004, Xưởng in Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh Cục Thống kê Phú Thọ (2005), Niên giám thống kê 2004, Nxb. Thống kê, Hà Nội Cục Thống kê Phú Yên (2005), Niên giám thống kê Tỉnh Phú Yên 2004, ? 98 Cục Thống kê Quảng Bình (2005), Niên giám thống kê Quảng Bình 2004, Xưởng in Quảng Bình, Quảng Bình Cục Thống kê Quảng Nam (2005), Quảng Nam - 30 năm xây dựng và trưởng thành, Cơng ty In Quảng Nam, Quảng Nam Cục Thống kê Quảng Ngãi (2005), Niên giám thống kê Quảng Ngãi 2004, Nxb. Thống kê, Hà Nội Cục Thống kê Quảng Trị (2005), Niên giám thống kê 2004, Cơng ty In ấn và Phát hành Sách giáo khoa và thiết bị Quảng Trị Cục Thống kê Sĩc Trăng (2005), Niên giám thống kê Tỉnh Sĩc Trăng 2004, Xưởng in Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh Cục Thống kê Sơn La (2005), Niên giám thống kê 2004 Tỉnh Sơn La, ? Cục Thống kê Tây Ninh (2005), Niên giám thống kê 2004, Xưởng in Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh Cục Thống kê Thái Nguyên (2005), Niên giám thống kê Tỉnh Thái Nguyên 2004, ? Cục Thống kê Thanh Hĩa (2005), Niên giám thống kê 2000-2004, Xưởng in Thanh Hĩa, Thanh Hĩa Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh (2005), Niên giám thống kê – Thành phố Hồ Chí Minh 2004, Xưởng in Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh Cục Thống kê Thừa Thiên - Huế (2005), Niên giám thống kê 2004, Cơng ty In Thống kê và Sản xuất bao bì Huế. Cục Thống kê Tiền Giang (2005), Niên giám thống kê Tỉnh Tiền Giang 2004, Xưởng in Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh Cục Thống kê Trà Vinh (2005), Niên giám thống kê 2000-2004, ? Cục Thống kê Tuyên Quang (2005), Niên giám thống kê 2000-2004, ? Cục Thống kê Vĩnh Long (2005), Niên giám thống kê Tỉnh Vĩnh Long 2004, Xưởng in Nguyễn Văn Thành, Thành phố Hồ Chí Minh Cục Thống kê Vĩnh Phúc (2005), Niên giám thống kê Tỉnh Vĩnh Phúc 2004, Nxb. Thống kê, Hà Nội 99 TÀI LIỆU THAM KHẢO Aghion, P. và Howitt, P (1998), Endogenous Growth Theory, Cambridge, MA: MIT Press. Barro, R. J. và Lee, J. W. (1993), ‘International Comparisons of Educational Attainment’, Journal of Monetary Economics, Tập 32, tr. 363-394 Barro, R. J. và Sala-i-Martin, X. (1991), ‘Convergence across states and regions’, Brookings Papers on Economic Activity, Tập 1, tr. 107-158 Barro, R. J. và Sala-i-Martin, X. (1995), Economic Growth, Cambridge, MA: MIT Press. Barro, R.J. (1991), ‘Economic growth in a cross section of countries’, Quarterly Journal of Economics, Tập 106, Số 2, tr. 407-443 Barro, R.J. (1997), ‘Determinants of economic growth: a cross-country empirical study’, NBER Working Paper, Số 5698, tr. 1-118. Barro, R.J. (2001), ‘Education and Economic Growth’, A research supported by the National Science Foundation, Harvard University. Benhabib, J. và Spiegel, M. (1994), ‘The Role of Human Capital in Economic Development: Evidence from Aggregate Cross-Country Data’, Journal of Monetary Economics, Tập 34, tr. 143-174. Bộ Luật Giáo dục Việt Nam (1998), [ accessed 01/2006]. Cai, Z. Z. (1996), Internal và External Effects of Education on the Growth of National Product, A Dissertation Submitted in Partial Fulfillment of the Requirements for the Degree of Doctor of Arts, Illinois State University. Cao Quý Lân (2004), An analysis of provincial economic growth in Vietnam: Convergence or Divergence, MDE thesis, NEU Chen, B. và Feng, Y. (2000), ‘Determinants of economic growth in China: Private enterprise, Education, and Openness’, China Economic Review, Tập 11, Số 1, tr. 1-15 Chen, X. (2005), ‘Magic or Myth? Social Capital and Its Consequences in the Asian, Chinese, and Vietnamese Contexts’, Modernization và Social 100 Transformation in Vietnam: Social Capital Formation and Institutional Building, Mutz, G. và Klump, R. chủ biên, []. Chu Quang Khởi (2003), Sources of economic growth in Vietnam, 1986-2002, MDEs thesis, NEU. Coulombe, S. và Tremblay, J. A. (2001), ‘Human capital and regional convergence in Canada’, Journal of Economic Studies, Tập 28, Số 3, tr. 154-180 Dapice, D. O. (2003), ‘Vietnam’s Economy: Success Story or Weird Dualism? A SWOT Analysis’, Prepared for United Nations Development Programme & Prime Minister’s Research Commission, Vietnam Program – Center for Business and Government, Harvard University, [ 12/2005]. Fritzen, S. (2002), ‘Growth, Inequality and the Future of Poverty Reduction in Vietnam’, Journal of Asian Economics, Tập 13, Số 5, tr. 635-657. Griliches, Z. (1997), ‘Education, human capital, and growth: a personal perspective’, Journal of Labor Economics, Tập 15, Số 1, tr. 330-S344, ABI/INFORM Research, University of Chicago Gujarati, D. (2003), Basic Econometrics, 4th ed., New York, McGraw Hill, tr. 638- 640. Hayami, Y. (1998), Development Economics – From the Poverty to the Wealth of Nations, Clarendon Press, Oxford, tr. 123-131. Islam, N. (1995), ‘Growth empirics: a panel data approach’, Quarterly Journal of Economics Tập 110, Số 4, tr. 1127-1170. Jones, C.I. (1995), ‘R&D-based models of economic growth’, Journal of Political Economy, Tập 103, tr. 759-784 Judson R. (2002), ‘Measuring Human Capital Like Physical Capital: What Does It Tell Us?’ Bulletin of Economic Research, Tập 54, Số 3, tr. 209-231. Judson, R. (1995), ‘Do Low Human Capital Coefficients Make Sense? A Puzzle and Some Answers’, Federal Reserve Board Klump, R. (2004), ‘Was growth pro-poor in Vietnam? Assessment and Policy Recommendations’, A paper funded by German Development Agency (GTZ), [ 1/2006]. 101 Klump, R. và Nguyễn Thị Tuệ Anh (2004), ‘Patterns of Provincial Growth in Vietnam, 1995-2000: Empirical Analysis and Policy Recommendations’, A paper funded by German Development Agency (GTZ). Krueger, A. B. và Lindahl, M. (2001), ‘Education for Growth: Why và for Whom?’ Journal of Economic Literature, Tập 39, Số 4, tr. 1101-1136. Laroche, M. và Mérette, M. (1999), ‘On the Concept and Dimensions of Human Capital in a Knowledge-Based Economy Context’, Canadian Public Policy – Analyse de Politiques, Tập 25, Số 1, University of New Brunswick Lau, L.J., Jamison, D.T., Liu, S.C. và Rivkin, S. (1993), ‘Education and economic growth: some cross-sectional evidence from Brazil’, Journal of Development Economics, Tập 41, tr. 45-70. Li, H., Liu, Z. và Rebelo, I. (1998), ‘Testing the neoclassical theory of economic growth: evidence from Chinese provinces’, Economics of Planning, Tập 31, tr. 117-132 Liu, C. và Armer, J. M. (1993), ‘Education Effect on Economic Growth in Taiwan’, Comparative Education Review, Tập 37, Số 3, tr. 304-321 Lucas, R. E. (1988), ‘On the Mechanics of Economic Development’, Journal of Monetary Economics, Tập 22, tr. 3-42. Lutz, W. và Goujon, A. (2001), ‘The world’s changing Human capital stock: Multi- state population projections by Education Attainment’, Population and Development Review, Tập 27, Số 2, tr. 323-339. Mankiw, N.G., Romer, D., và Weil, D. (1992), ‘A Contribution to the Empirics of Economic Growth’, Quarterly Journal of Economics, Tập 107, tr. 401-437. Martin, M. G. và Herranz, A. A. (2004), ‘Human capital and Economic growth in Spanish regions’, International Advances in Economic Research, Tập 10, Số 4, tr. 257-264. Moock, P. R., Patrinos, H. A. và Venkataraman, M. (1998), ‘Education and earnings in a transition economy: The case of Vietnam’, World Bank Policy Research Working Paper. Mulligan, C. B. và Sala-i-Martin, X. (1995), ‘Measuring Aggregate Human Capital’, NBER Working Paper Series - Working Paper, Số 5016, National Bureau of Economic Research, Cambridge 102 Mulligan, C. và Sala-i-Martin, X. (1997), ‘A Labor Income Based Measure of Human Capital’, Japan and the World Economy, Tập 9, tr. 159-191. Mulligan, C. và Sala-i-Martin, X. (2000), ‘Measuring aggregate human capital’, Journal of Economic Growth, Tập 5, tr. 215-252 Mundlak, Y. (1978), ‘On the pooling of time series and cross section data’, Econometrica, Tập 46, Số 1, 69-85 Ng, Y. C. và Leung, C. M. (2004), ‘Regional Economic Performance in China: A Panel Data Estimation’, RBC Papers on China, Hong Kong Baptist University, [ 6/2005]. Nguyễn ðức Thành (2004), Private and Social Returns to Investments in Education in Vietnam over time: 1993-2002, MDE thesis, NEU. Nguyễn Nguyệt Nga (2002), ‘Trends in the Education Sector from 1993-1998’, World Bank Policy Research Working Paper, Số 2891 Okoh, S. E. N. (1980), ‘Education as a Source of Economic Growth and Development – An Essay’, Journal of Negro Education, Tập 49, Số 2, tr. 203-206. Piazza-Georgi, B. (2002), ‘The role of human and social capital in growth: Extending our understanding’, Cambridge Journal of Economics, Tập 26, Số 4, tr. 461-479. Pritchett, L. (1996), ‘Where has all the education gone?’, World Bank Policy Research Department Working Papers, Số 1581 Romer, P.M. (1990), ‘Human capital và growth: Theory and evidence’, Carnegie- Rochester Conference Series on Public Policy, Tập 32, tr. 251-86. Schultz, T. P. (1999), ‘Health and Schooling Investment in Africa’, Journal of Economic Perspectives, Tập 13, Số 3, tr. 67-88. Schultz, T. W. (1961), ‘Investment in Human Capital’, American Economic Review, Tập 51, tr. 1-17. Scott, S. và Trương Thị Kim Chuyên (2004), ‘Behind the numbers: Social mobility, regional disparities and new trajectories of development in rural Vietnam’, in Taylor, P. (ed.), Social Inequality in Vietnam: Challenges to Reform, ISAS, Singapore, []. 103 Solow, R. M. (1956), ‘A contribution to the theory of economic growth’, Quarterly Journal of Economics, Tập 34, tr. 1-26 Tallman, E. và Wang, P. (1994), ‘Human capital and endogenous growth: Evidence from Taiwan’, Journal of Monetary Economics, Tập 34, tr. 101-124. Temple, J. (2001), ‘Growth effects of education and social capital in the OECD countries’, OECD Economic Studies, Tập 33, Số 2, tr. 57-101 Tilak, J. B. G. (2002), Building Human Capital in East Asia: What Others Can Learn, National Institute of Educational Planning và Administration, New Delhi, India, []. Trần Thọ ðạt (2002), ‘Determinants of TFP growth in Vietnam in the period 1986- 2000’, Survey Report, APO Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2001), National Human Development Report 2001 – Doi Moi and Human Development in Vietnam, National Political Publishing House, Hà Nội Waines, W. J. (1963), ‘The role of education in the development of underdeveloped countries’, The Canadian Journal of Economics and Political Science, Tập 29, Số 4, tr. 437-445. WB (1996), The World Development Report 1995: Workers in an Integrating World, Oxford University Press. WB (2004), Vietnam Development Report 2003 - Attacking Poverty, Hà Nội Yaffee, R. (2003), A Primer for Panel Data Analysis, [] ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA0129.pdf
Tài liệu liên quan