Vai trò của yếu tố vốn với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Quan điểm của Việt Nam về huy động và sử dụng vốn đầu tư...

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Vốn là nhân tố hết sức quan trọng để tăng trưởng và phát triển kinh tế. Vốn sản xuất (K) và vốn đầu tư (I) là hai bộ phận của vốn, nó tác động đến đầu vào và đầu ra của tăng trưởng. Với vai trò như vậy, tất cả các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng đều có quan điểm thu hút và sử dụng vốn riêng của mình. Cũng từ nhu cầu về vốn mà tất các các nước trên thế giới, từ các nước phát triển đến những nước kém phát triển đều phải đi vay nợ. Khi một quốc gia vay nợ và không c

doc30 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1302 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của yếu tố vốn với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Quan điểm của Việt Nam về huy động và sử dụng vốn đầu tư..., để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó khả năng trả nợ sẽ dẫn đến tình trạng vỡ nợ. Đây là một hiện tượng đã và đang xảy ra trên thế giới. Việt Nam, với các chỉ số đang ở trong ngưỡng an toàn nhưng không phải là không có nguy cơ vỡ nợ, việc tìm hiểu một số giải pháp để tránh vỡ nợ là hết sức cần thiết. Vì lý do như vậy mà nhóm G9 quyết định làm đề tài: “Vai trò của yếu tố vốn với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Quan điểm của Việt Nam về huy động và sử dụng vốn đầu tư. Thế nào là nợ nước ngoài, các giải pháp chống nguy cơ vỡ nợ ở Việt Nam”. Bài viết của chúng em phân tích mặt tích cực về tác động của việc thu hút và sử dụng vốn ở Việt Nam. Bài làm của chúng em còn nhiều thiết sót vì vậy chúng em rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo. Chúng em xin cảm ơn thầy giáo. 1. Lý luận chung về yếu tố vốn và vai trò của yếu tố vốn đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. 1.1. Tổng quan về yếu tố vốn 1.1.1. Vốn sản xuất: Khái niệm vốn được bắt nguồn từ quan niệm về tài sản quốc gia. Tài sản quốc gia bao gồm: tài nguyên thiên nhiên của đất nước; các loại tài sản được sản xuất ra và nguồn vốn con người. Trong đó tài sản được sản xuất ra là toàn bộ của cải vật chất do lao động sáng tạo của con người được tích lũy lại qua thời gian theo tiến trình lịch sử phát triển của đất nước. Theo cách phân loại của Liên hợp quốc, tài sản được sản xuất ra lại chia thành 9 loại: (1)- Công xưởng, nhà máy (2)- Trụ sở cơ quan, trang thiết bị văn phòng. (3)- Máy móc thiết bị, phương tiện vận tải. (4)- Cơ sở hạ tầng. (5)- Tồn kho của tất cả các loại hàng hóa. (6)- Các công trình công cộng. (7)- Các công trình kiến trúc. (8)- Nhà ở. (9)- Các cơ sở quân sự. Dựa vào chức năng tham gia vào quá trình hoạt động kinh tế, 9 loại tài sản trên được chia thành 2 nhóm: - Nhóm thứ nhất gồm 5 loại đầu, những tài sản này được sử dụng làm phương tiện trực tiếp phục vụ quá trình sản xuất và được gọi là tài sản sản xuất. - Nhóm thứ hai gồm 4 loại cuối, đều có tính chất chung là không tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, nên được gọi là tài sản phi sản xuất. Như vậy, vốn sản xuất là giá trị của những tài sản được sử dụng làm phương tiện trực tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất và dịch vụ, bao gồm vốn cố định và vốn lưu động. 1.1.2. Vốn đầu tư Vốn đầu tư được chia làm hai loại: vốn đầu tư sản xuất và vốn đầu tư phi sản xuất. Vốn đầu tư sản xuất là toàn bộ các khoản chi phí nhằm duy trì hoặc gia tăng mức vốn sản xuất và được chia thành vốn đầu tư vào tài sản cố định và vốn đầu tư vào tài sản lưu động. Vốn đầu tư vào tài sản cố định lại được chia thành vốn đầu tư cơ bản và vốn đầu tư sữa chữa lớn. Vốn đầu tư cơ bản làm tăng khối lượng thực thể của tài sản cố định, bảo đảm bù đắp số tài sản bị hao mòn và tăng thêm phần xây lắp dở dang. Còn vốn sữa chữa lớn không làm tăng khối lượng thực thể của tài sản, do đó nó không có trong thành phần của vốn đầu tư cơ bản. Hoạt động đầu tư cho sản xuất là việc sử dụng vốn đầu tư để phục hồi năng lực sản xuất cũ và tạo thêm năng lực sản xuất mới, đó là quá trình tái sản xuất của loại tài sản sản xuất. Thông qua hoạt động đầu tư, vốn đầu tư trở thành vốn sản xuất. Lý do có hoạt động đầu tư: · Bù đắp lại giá trị hao mòn trong quá trình sản xuất, thực hiện tái sản xuất giản đơn. · Mở rộng năng lực sản xuất. · Do hao mòn vô hình . Các hình thức đầu tư: + Đầu tư trực tiếp là hình thức chủ đầu tư trực tiếp tham gia vào toàn bộ quá trình đầu tư cũng như việc thụ hưởng kết quả của hoạt động đầu tư. + Đầu tư gián tiếp: chủ đầu tư không tham gia trực tiếp vào việc đầu tư mà chỉ nhận lợi tức từ việc đầu tư. 1.2. Vai trò của yếu tố vốn đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Sự tác động của vốn đầu tư và vốn sản xuất đến tăng trưởng kinh tế không phải là quá trình riêng lẻ mà nó là sự kết hợp, đan xen lẫn nhau, tác động liên tục vào nền kinh tế. Vốn sản xuất là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng có tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Ở những nước đang phát triển sự đóng góp của yếu tố vốn sản xuất vào tăng trưởng kinh tế thường chiếm tỷ trọng cao nhất. Đó là sự thể hiện của tính chất tăng trưởng theo chiều rộng. Đối với vốn đầu tư; theo mô hình Harrod – Domar đã cho rằng, đầu ra của bất kỳ đơn vị kinh tế nào, dù là một công ty, một ngành hay toàn bộ nền kinh tế sẽ phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho đơn vị đó. Chúng ta có: g = s / k Trong đó: g : tốc độ tăng trưởng s : tỷ lệ tiết kiệm k : hệ số ICOR Hệ số ICOR nói lên rằng, vốn sản xuất được đầu tư dưới dạng nhà máy, trang thiết bị là yếu tố cơ bản của tăng trưởng, các khoản tiết kiệm của dân cư và các công ty chính là nguồn gốc cơ bản của vốn đầu tư. Đầu tư có thể tác động lớn đối với tổng cầu, nó tác động tới sản lượng và công ăn, việc làm. Khi đầu tư tăng lên, có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật liệu… tăng lên. Và do vậy nó làm cho đường tổng cầu chuyển dịch. Hình 1: Tác động của vốn đầu tư đến tăng trưởng kinh tế AD1 AS AD0 E1 E0 P P1 P0 Q0 Q1 Q Nếu như nền kinh tế, với đường tổng cầu AD0 đang cân bằng tại điểm E0 thì dưới tác động của tăng đầu tư sẽ làm dịch chuyển đường tổng cầu sang phải, vào vị trí AD1, thiết lập điểm cân bằng mới tại E1. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc làm cho mức sản lượng tăng từ Y0 đến Y1 và mức giá tăng từ P0 đến P1. Đầu tư sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất, nghĩa là có thêm các nhà máy, thiết bị, phương tiện mới đưa vào sản xuất, làm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế. Và sự thay đổi này tác động làm cho đường tổng cung dịch chuyển. Hình 2: Tác động của vốn sản xuất đến tăng trưởng kinh tế P AD AS0 E0 AS1 E1 Y0 Y1 Y Nếu như nền kinh tế, với đường tổng cung AS0 đang cân bằng tại điểm E0 thì dưới tác động của tăng vốn sản xuất sẽ làm dịch chuyển đường tổng cung sang phải, vòa vị trí AS1, thiết lập điểm cân bằng mới tại E1. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc làm cho mức sản lượng tăng từ Y0 đến Y1 và mức giá giảm từ P0 xuống P1. Vốn đầu tư và vốn sản xuất được coi là yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất. Vốn sản xuất vừa là yếu tố đầu vào, vừa là sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất. Vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất, tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp và của nền kinh tế, mà còn là điều kiện để nâng cao trình độ khoa học công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần tăng trưởng theo chiều sâu. 2. Quan điểm của Việt Nam về huy động và sử dụng vốn đầu tư. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII khẳng định chủ trương của Đảng trong giai đoạn 1996-2000 là: ”Tiếp tục phương châm huy động nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển, trong đó vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng, kết hợp tiềm năng sức mạnh bên trong với khả năng có thể tranh thủ ở bên ngoài. Về lâu dài phải huy động tối đa nguồn vốn trong nước để chiếm tỷ lệ cao trong đầu tư (tối đa 50%). Tuy nhiên, trong những năm đầu của thời kỳ công nghiệp hoá đòi hỏi nguồn vốn lớn, mà vốn trong nước còn hạn hẹp nên phải huy động thêm nguồn vốn bên ngoài cho nhu cầu đầu tư phát triển, trên nguyên tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế và trả được nợ”. Đại hội IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001) đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 – 2010. Mục tiêu cụ thể của chiến lược là đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2001; ổn định kinh tế vĩ mô; cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh và tăng dự trữ ngoại tệ; bội chi ngân sách, lạm phát, nợ nước ngoài được kiểm soát trong giới hạn an toàn và tác động tích cực đến tăng trưởng. Để đạt được các mục tiêu của chiến lược, tích lũy nội bộ ít nhất phải đạt trên 30%. Trong phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 – 2005 xác định tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 7.5%, dự kiến tỷ lệ đầu tư so với GDP khoảng 31 – 32% tương đương 59 – 61 tỷ USD, trong đó nguồn vốn trong nước chiểm 2/3. 2.1. Vấn đề huy động vốn đầu tư. 2.1.1. Định hướng và giải pháp thu hút vốn đầu tư. 2.1.1.1. Đối với nguồn vốn đầu tư trong nước: Được hình thành từ tiết kiệm trong nước bao gồm: Tiết kiệm của Chính phủ, tiết kiệm của các doanh nghiệp và tiết kiệm của các hộ gia đình. Thống nhất với chiến lược phát triển của nước ta, nguồn vốn trong nước được xác định là nguồn chủ đạo cho các hoạt động phát triển. Vì vậy cần có các biện pháp huy động và sử dụng nguồn vốn này một cách hiệu quả. · Ttiết kiệm của chính phủ: Ở đây, tiết kiệm của chính phủ chỉ giới hạn trong phạm vi tiết kiệm của NSNN. Về nguyên tắc, tiết kiệm của chính phủ = Thu NS – chi NS. Thu NS của Chính phủ chủ yếu là các khoản thuế, phí và lệ phí. Chi NS bao gồm chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên và chi trả nợ. Để tăng tiết kiệm của CP, có 2 hướng giải pháp đó là tăng thu NS và giảm chi NS. Ở nước ta, trong các nguồn thu NS, thuế chiếm tỷ trọng cao nhất. Vì vậy, chúng ta sẽ xét một số giải pháp để tăng nguồn thu từ thuế. Đó là phải mở rộng, nuôi dưỡng và phát triển diện thu thuế. Cụ thể, phải phát triển các doanh nghiệp trong nước, tạo cơ hội kinh doanh tốt, tạo cơ hội bỏ vốn cho các nhà đầu tư, xây dựng các sắc thuế mới phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh trong nước; nghiên cứu xây dựng các mức thuế suất phù hợp, tùy thuộc vào các sắc thuế khác nhau; nâng cao hiệu quả, hiệu suất của ngành thuế, công tác thu thuế và quản lý thuế. Biện pháp giảm chi NS: vì các khoản chi đầu tư phát triển là các khoản chi để thúc đẩy tăng trưởng do vậy không nên và cũng rất khó để giảm chi, tương tự như vậy, chi trả nợ là khoản chi bắt buộc, không thể không chi. Xu hướng giảm chi ngân sách hiện nay đó là giảm chi thường xuyên bằng cách: giảm biên chế, cải cách hành chính nhà nước theo hướng tái cơ cấu bộ máy hành chính công và thực hiện hợp lý hóa các khâu lương, thưởng. · Tiết kiệm của doanh nghiệp. Tiết kiệm của DN chủ yếu từ lợi nhuận và khấu hao. DN gồm có DN nhà nước và DN ngoài quốc doanh. Để tăng lợi nhuận cho các DNNN, cần tăng cường công tác quản lý, thực hiện sáp nhập, tái cơ cấu DNNN, giải thể các doanh nghiệp kém hay hoạt động không hiệu quả, hoàn thiện cơ chế quản lý đối với DN. Đối với DNTN, cần tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các DN phát triển như thiết lập hành lang pháp lý, tạo sân chơi bình đẳng giữa DNNN và DNTN, nâng cao hiệu quả hoạt động của các trung gian tài chính, đưa ra các chính sách khuyến khích khu vực kinh tế ngoài quốc doanh như ưu đãi về thuế, ưu đãi về ngành nghề kinh doanh, cơ chế hợp tác… Để tăng nguồn khấu hao, có thể cho phép thực hiện chính sách khấu hao nhanh, nâng cao khả năng tích lũy, tạo điều kiện để đổi mới công nghệ… · Tiết kiệm của các hộ gia đình. Đây là một nguồn rất lớn, cần có các chính sách để huy động tiết kiệm của dân cư vào tái đầu tư như tăng lãi suất huy động… 2.1.1.2. Đối với vốn đầu tư nước ngoài: Vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta bao gồm các nguồn chính: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA), nguồn vốn của các tổ chức phi Chính phủ (NGO) và nguồn vốn tín dụng thương mại. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc huy động vốn nước ngoài được thể hiện trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Trong giai đoạn 1991-1995, Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII đã xác định nhiệm vụ huy động vốn nước ngoài như sau: ”Tranh thủ mọi khả năng và dùng nhiều hình thức thu hút vốn nước ngoài; tranh thủ viện trợ và vay dài hạn lãi suất thấp. Các doanh nghiệp trong nước có thể vay vốn nước ngoài để tự đầu tư  với điều kiện đảm bảo chắc chắn việc trả nợ, tranh thủ công nghệ tiên tiến.” Đây là nguồn bổ trợ quan trọng, giúp bù đắp các hố thâm hụt tiết kiệm – đầu tư, thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân thương mại. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI. Các định hướng: i Định hướng ngành: Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước đến năm 2010 và định hướng trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 cần ưu tiên thu hút ĐTNN vào các ngành có tác động lớn trên các phương diện như: thúc đẩy chuyển giao công nghệ nhất là công nghệ cao, công nghệ nguồn; gia tăng xuất khẩu; tạo việc làm; phát triển công nghiệp phụ trợ; các dự án sản xuất các sản phẩm, dịch vụ có sức cạnh tranh; các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng. Một số định hướng cụ thể: · Ngành Công nghiệp-Xây dựng: - Các ngành đặc biệt khuyến khích đầu tư gồm công nghệ thông tin, điện tử, vi điện tử, công nghệ sinh học…; chú trọng công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản; hết sức coi trọng thu hút FDI gắn với nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ. - Công nghiệp phụ trợ: Khuyến khích thu hút FDI vào ngành công nghiệp phụ trợ nhằm giảm chi phí đầu vào về nguyên-phụ liệu của các ngành công nghiệp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước. Để thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, cần tạo điều kiện để các dự án sản xuất lắp ráp các sản phẩm công nghiệp nhanh chóng mở rộng quy mô và thị trường tiêu thụ. · Ngành Dịch vụ: - Ngành dịch vụ còn dư địa lớn để đầu tư phát triển góp phần quan trọng trong nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Từng bước mở cửa các lĩnh vực dịch vụ theo các cam kết quốc tế, tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển như dịch vụ ngân hàng, tài chính; dịch vụ vận tải, bưu chính-viễn thông, y tế, văn hoá, giáo dục, đào tạo và các lĩnh vực dịch vụ khác. - Với định hướng trên, tiến hành xem xét, giảm bớt các lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh có điều kiện đối với ĐTNN có tính tới các yếu tố hội nhập và toàn cầu hóa theo lộ trình “mở cửa”; tạo bước đột phá trong thu hút ĐTNN bằng việc xem xét đẩy sớm lộ trình mở cửa đối với một số lĩnh vực dịch vụ, khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào phát triển hạ tầng. Cụ thể là: + Khuyến khích mạnh vốn ĐTNN vào các ngành du lịch, y tế, giáo dục-đào tạo. Mở cửa theo lộ trình các lĩnh vực dịch vụ “nhạy cảm” như ngân hàng, tài chính, vận tải, viễn thông, bán buôn và bán lẻ và văn hoá. + Khuyến khích ĐTNN tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật bằng các phương thức thích hợp gồm BOT, BT để xây dựng cảng biển, cảng hàng không, đường cao tốc, đường sắt, viễn thông, cấp nước, thoát nước… nhằm góp phần nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng nhanh của nền kinh tế. · Ngành Nông-Lâm-Ngư nghiệp: - Khuyến khích các dự án đầu tư về công nghệ sinh học để tạo ra các giống cây, con có năng suất, chất lượng cao đưa vào sản xuất đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. - Khuyến khích dự án đầu tư cho công nghệ chế biến thực phẩm, bảo quản sau thu hoạch để nâng giá trị sản phẩm, tạo ra thị trường tiêu thụ nông sản ổn định, đặc biệt xuất khẩu. - Khuyến khích FDI tham gia đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nông, lâm nghiệp như các công trình thủy lợi, sản xuất phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, hệ thống giao thông nội đồng... (ii) Định hướng vùng: Trong những năm tới, dự báo vốn FDI vẫn sẽ tập trung chủ yếu vào những địa phương có điều kiện thuận lợi về địa lý-tự nhiên, nhất là các vùng kinh tế trọng điểm. Để tăng cường thu hút ĐTNN tại những vùng có điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, bên cạnh những ưu đãi đối với FDI tại các vùng đó đòi hỏi phải tăng cường đầu tư xây dựng nhanh cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đường giao thông, điện, nước ở các vùng kinh tế khó khăn bằng nguồn vốn nhà nước, vốn ODA và nguồn vốn tư nhân. Tập trung thu hút đầu tư vào các khu kinh tế, Khu Công nghiệp đã được Chính phủ phê duyệt (như Chu Lai, Nhơn Hội…) góp phần đẩy nhanh việc thu hẹp khỏang cách phát triển giữa các vùng. (iii) Định hướng đối tác: Chú trọng thu hút FDI từ các tập đoàn đa quốc gia (TNCs): FDI trên thế giới chủ yếu là vốn của TNCs; hoạt động của các công ty này có tác động quan trọng đối với những nước tiếp nhận vốn FDI. Do đó việc thu hút các TNCs được khuyến khích cả hai hướng: Thực hiện những dự án lớn, công nghệ cao hướng vào xuất khẩu; tạo điều kiện để một số TNCs xây dựng các Trung tâm nghiên cứu, phát triển, vườn ươm công nghệ gắn với đào tạo nguồn nhân lực. · Ba đối tác chính : Hoa kỳ, Nhật Bản, EU. · Một số đối tác truyền thống: Đài loan, Hàn quốc, Singapore. Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) Theo Kế họach phát triển kinh tế -xã hội 5 năm 2006 - 2010, đến năm 2010, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt khoảng 1.050 USD. Do vậy, tỷ trọng nguồn vốn ODA có điều kiện ưu đãi cao trong tổng vốn ODA thời kỳ sau năm 2010 sẽ giảm xuống. Chính phủ xác định đây là giai đoạn cần triển khai công tác nghiên cứu việc sử dụng các khoản vay mới có điều kiện kém ưu đãi hơn như:điều chỉnh hướng sử dụng vốn ODA, tập trung chủ yếu cho các lĩnh vực ưu tiên có khả năng thu hồi vốn nhanh và đảm bảo trả vốn vay một cách bền vững. Đặc biệt, sẽ mở rộng các đối tượng thụ hưởng ODA, kể cả các thành phần kinh tế tư nhân. Để thu hút ODA hiệu quả trong giai đoạn tới, Thủ tướng yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương quản lý nguồn vốn đầu tư công một cách minh bạch và có trách nhiệm. Nguồn vốn của các tổ chức phi Chính phủ. (NGO) Nguồn vốn của các tổ chức NGO thường nhỏ và là viện trợ không hoàn lại. Hiện nay, loại viện trợ này được thực hiện nhiều bằng các chương trình phát triển dài hạn, có sự hỗ trợ của các chuyên gia thường trú. Đây cũng là một nguồn chúng ta cần thu hút. Giải pháp để thu hút nguồn vốn này thường là về mặt chính trị và nâng cao hiệu quả sử dụng. Gần đây còn xuất hiện thêm nguồn vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài (FII): Đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong những năm gần đây đã bắt đầu nhận được quan tâm và chú ý của các định chế tài chính, quỹ đầu tư nước ngoài trên khắp thế giới. Từ 1987 đến nay chúng ta chỉ tập trung mọi nỗ lực trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của các nước trong khu vực, đến giai đoạn nào đó của nền kinh tế, nền kinh tế đó vừa tạo điều kiện vừa có nhu cầu đối với việc thu hút đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII). Và Việt Nam chúng ta đang bước vào giai đoạn này, giai đoạn cần và có thể thu hút FII. Tuy nhiên để làm được điều ấy, chúng ta phải nỗ lực rất nhiều, trong đó trước tiên là phải tạo ra khung pháp lý cần thiết vì hiện nay chúng ta chưa có luật quy định cụ thể cho việc thu hút FII. Về mặt cơ chế mà nói, chúng ta cũng chưa có cơ chế sẵn sàng. Thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhỏ bé so với các nước xung quanh và ngay cả chính với nhu cầu của chúng ta. Một thị trường chứng khoán phát triển ổn định và lành mạnh là điều chúng ta phải quan tâm khi có khung pháp lý cần thiết. Chúng ta cũng phải nghĩ đến vấn đề tranh chấp và xử lý tranh chấp. Đây cũng là một vấn đề mà luật chúng ta đã có nhưng vẫn còn thiếu cơ chế cụ thể. Do luật còn thiếu cụ thể nên cơ chế xử lý tranh chấp còn chưa rõ ràng. Trong Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư chung vừa được Quốc hội thông qua đã có những tiến bộ có những rõ nét về xử lý tranh chấp, nhưng cần được cụ thể càng sớm càng tốt bởi các nhà đầu tư gián tiếp họ rất nhạy cảm và nhạy cảm hơn các nhà đầu tư FDI đối với mọi sự cố mà có thể xảy ra, vì nó đe đoạ đến hiệu quả đầu tư của họ. Trong Luật đầu tư chung có quy định “không hạn chế tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài ở những lĩnh vực mà không có điều kiện”, đây là một bước tiến nhảy vọt và những tiến bộ này đang được các nhà đầu tư FII theo dõi rất chặt chẽ, góp phần mạnh mẽ thu hút FII. Tuy nhiên, việc các nhà đầu tư gián tiếp băn khoăn khi bỏ vốn vào Việt Nam là việc mang vốn ra có dễ không? Và khi mang vốn ra thì phải tuân thủ những quy định gì, theo những quy chế như thế nào? Sự băn khoăn của các nhà đầu tư cũng chính là những việc là chúng ta cần phải làm để đón tiếp các nguồn đầu tư gián tiếp. Theo Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài được phép chuyển lợi nhuận ra nước ngoài trong khi đang hoạt động cũng như khi chấm dứt dự án đầu tư. Sau những thủ tục thanh lý theo luật định thì nhà đầu tư nước ngoài có quyền mang cả vốn lẫn lãi của mình ra. Tuy nhiên, đối với các nhà đầu tư gián tiếp thì hơi phức tạp hơn, bởi vì một lý do nào đó các đầu tư gián tiếp phải chấm dứt dự án đầu tư của mình và muốn thu hồi vốn thì họ phải tìm kiếm đối tác để chuyển nhượng hoặc bán lại dự án do mình đã và đang đầu tư. Để làm được điều này, ngoài những nghị định hướng dẫn cụ thể về quy chế đặc thù đối với đầu tư gián tiếp (hiện luật của chúng ta chưa có nghị định hướng dẫn cụ thể nào cho quy chế này), thì thị trường vốn chúng ta phải phát triển mạnh, đủ để có người mua - người bán và cần có nhiều công cụ chuyển nhượng vốn tinh vi hơn. Là thành phố trọng điểm kinh tế của cả nước, Tp.HCM đã đạt được mức tăng trưởng 11.8% trong năm qua so với mức tăng trưởng chung của cả nước là 7,4%. Để thu hút FII, về phần mình, việc làm trước mắt của Tp.HCM là giới thiệu những lĩnh vực mà các nhà đầu tư quan tâm và có thể bỏ tiền vào; tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các quỹ đầu tư đang hoạt động ở Việt Nam; mở cửa những lĩnh vực mà hiện nay họ đang quan tâm như bất động sản... Mặt khác, thành phố đang và sẽ kiến nghị với Chính phủ mở cửa thêm một số lĩnh vực mà các nhà đầu tư quan tâm, đồng thời tạo điều kiện tối đa cho thị trường vốn phát triển” 2.1.1.3. Các giải pháp thu hút. Về môi trường pháp lý: - Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách để sửa đổi, điều chỉnh hoặc loại bỏ các điều kiện không phù hợp cam kết WTO của Việt Nam và có giải pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư. Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. - Xây dựng văn bản hướng dẫn các địa phương và doanh nghiệp về lộ trình cam kết mở cửa về ĐTNN làm cơ sở xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư. - Ban hành Thông tư hướng dẫn một số nội dung chưa rõ ràng, cụ thể tại Nghị định số 108/2006/ NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư. - Nghiên cứu xây dựng cơ chế huy động vốn đầu tư cơ sở hạ tầng các KKT và Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng KCN. Tổ chức triển khai Nghị định quy định về KCN, KCX, KKT sau khi được ban hành. - Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, đảm bảo sự tương thích với các luật pháp hiện hành. - Chấn chỉnh tình trạng ban hành và áp dụng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trái với quy định của pháp luật. Tăng cường tập huấn, phổ biến nội dung và lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam. - Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như chính sách riêng đối với từng tập đoàn và mỗi nước thành viên EU, Hoa Kỳ. Về công tác quản lý nhà nước: - Tập trung vào việc đẩy mạnh vốn giải ngân, giảm khoảng cách giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện : + Phối hợp hỗ trợ, thúc đẩy nhanh việc giải ngân vốn đăng ký của các dự án đã được cấp GCNĐT, đặc biệt chú trọng đến công tác thúc đẩy triển khai các dự án quy mô vốn đầu tư lớn được cấp GCNĐT trong vài năm gần đây bằng cách tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục hành chính, về giải phóng mặt bằng .v.v. giúp cho các dự án này triển khai nhanh chóng. + Thường xuyên phối hợp với địa phương hỗ trợ giải quyết về luật pháp, chính sách, vướng mắc của các doanh nghiệp trong việc hình thành và hoạt động. Đồng thời, có kế hoạch nắm bắt cụ thể tình hình triển khai của các dự án ĐTNN có quy mô vốn đầu tư lớn (từ khi hình thành dự án đến khi hoạt động) - Nghiên cứu xây dựng, củng cố hệ thống quản lý thông tin ĐTNN, tiến đến dần kết nối các đầu mối quản lý đầu tư trong cả nước địa phương để đảm bảo tốt chính sách hậu kiểm. - Theo dõi, đôn đốc các Bộ, ngành, địa phương triển khai các biện pháp nêu tại Chỉ thị số 15/2007/CT-TTG ngày 22/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ về một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy ĐTNN vào Việt Nam để báo cáo Thủ tướng Chính phủ. - Tăng cường cơ chế phối hợp quản lý ĐTNN giữa Trung ương với địa phương và các Bộ, ngành liên quan. - Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm soát sau cấp phép nhằm hướng dẫn việc thực hiện đúng pháp luật và ngăn chặn các vi phạm pháp luật. Tiếp tục rà soát các dự án để có hình thức xử lý phù hợp, hỗ trợ dự án nhanh chóng triển khai sau khi được cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Thực hiện việc thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án không triển khai đúng tiến độ cam kết để dành quỹ đất cho các dự án mới. Chủ trì tổ chức các đoàn kiểm tra tình hình triển khai quy hoạch đầu tư, quy hoạch KCN, KKT và tình hình sử dụng vốn hỗ trợ ngân sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, KKT. - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến rộng rãi các cam kết song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký kết cho cơ quan quản lý nhà nước các cấp và các doanh nghiệp nhằm chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. - Tổ chức hướng dẫn các địa phương xây dựng Đề án quy hoạch phát triển KCN và phối hợp với các đơn vị nghiên cứu phương án điều chỉnh Quy hoạch phát triển các KCN cả nước với biện pháp bảo vệ môi trường. - Phối hợp với các đơn vị, cơ quan theo dõi, giải quyết kịp thời các vấn đề đình công, bãi công của công nhân trong KCN, đặc biệt là trong các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động và các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Về thủ tục hành chính: Tiếp tục tập trung hoàn thiện cơ chế ‘liên thông-một cửa’ ở các cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư và quản lý đầu tư. Tăng cường năng lực quản lý ĐTNN của các cơ quan chức năng và cơ chế phối hợp, giám sát và kiểm tra hoạt động đầu tư; giải quyết kịp thời các thủ tục về đất đai, thuế, xuất nhập khẩu, hải quan,... nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động ĐTNN, qua đó tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam. Nâng cao trình độ toàn diện của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp quản lý ĐTNN. Về kết cấu hạ tầng: - Tiếp tục huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, trong đó ban hành quy chế khuyến khích tư nhân, đầu tư nâng cấp các công trình giao thông, cảng biển, dịch vụ viễn thông, cung cấp điện nước, phấn đấu không để xảy ra tình trạng thiếu điện cho hoạt động sản xuất kinh doanh. - Mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép đầu tư dịch vụ cảng biển, đặc biệt dịch vụ hậu cần (logistic) để tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các cảng lớn của các khu vực kinh tế như hệ thống cảng Hiệp Phước-Thị Vải, Lạch Huyện.v.v. - Tập trung thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu chính-viễn thông và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ tầng mạng. - Đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực (văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-viễn thông, hàng hải, hàng không) đã cam kết khi gia nhập WTO. Xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu, Về lao động, đào tạo nguồn nhân lực: - Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động, bao gồm: (i) Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động; (ii) Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc. - Triển khai các chương trình, dự án hỗ trợ người lao động làm việc trong các KCN, nhất là về nhà ở và điều kiện sinh hoạt của người lao động. - Tiếp tục tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu phát triển trong giai đoạn mới, kể cả về cán bộ quản lý các cấp và cán bộ kỹ thuật. - Phối hợp với các cơ quan tăng cường giám sát, hướng dẫn triển khai Nghị định số 03/2006/NĐ-CP ngày 6/1/2006 về quy định mức lương tối thiểu đối với lao động Việt Nam làm việc cho các doanh nghiệp ĐTNN, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại Việt Nam, tháo gỡ những khó khăn cho doanh nghiệp và địa phương trong quá trình triển khai. - Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Về xúc tiến đầu tư: - Tăng cường phối hợp hoạt động XTĐT giữa trung ương và địa phương. Các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển và quy hoạch phát triển ngành, địa phương. - Nhanh chóng ban hành Quy chế phối hợp và triển khai các bộ phận XTĐT ở một số địa bàn trọng điểm. Đổi mới phương thức XTĐT, chuyển mạnh sang hình thức vận động đầu tư theo dự án và đối tác trọng điểm, tiếp cận và vận động các công ty, tập đoàn lớn có thực lực về tài chính- công nghệ cao đầu tư vào Việt Nam. Tổ chức hiệu quả các hội thảo XTĐT ở trong và ngoài nước. Nâng cao chất lượng trang thông tin điện tử về ĐTNN bằng một số ngôn ngữ (các thứ tiếng : Anh, Nhật, Hàn, Trung và Nga) đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư. - Triển khai đúng tiến độ việc thực hiện Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình XTĐT quốc gia giai đoạn 2007-2010 để có thể bắt đầu thi hành từ ngày 01/01/2998 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. - Tăng cường các đoàn vận động XTĐT tại một số địa bàn trọgn điểm (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, EU và Hoa Kỳ) để kêu gọi đầu tư vào các dự án lớn, quan trọng. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam. Một số vấn đề khác: - Tiếp tục xây dựng chương trình thực hiện Sáng kiến chung Việt Nam-Nhật Bản giai đoạn III một cách hiệu quả; cũng như Cơ chế hợp tác giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Việt Nam) và Cơ quan Phát triển kinh tế- EDB (Singapore) phù hợp với tình hình mới. - Tiếp tục kiện toàn bộ máy tổ chức, nhân sự quản lý hoạt động ĐTNN các cấp đáp ứng nhu cầu tình hình mới. Đồng thời, đẩy mạnh công tác chống tham nh._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25020.doc