Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

Lời nói đầu Chuyển từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình đầy khó khăn phức tạp. Đó là cuộc tìm tòi, sáng tạo không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, là sự đổi mới có ý nghĩa cách mạng cả về nhận thức, quan điểm, về thể chế chính sách, về bộ máy và cán bộ. Song, nền kinh tế thị trường đó có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế ở các trình độ phát triển lực lượng sản xuất khác nhau, vốn đã rấ

doc24 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1310 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t thấp, lại ở trong thời đại đòi hỏi quá cao của cách mạng khoa học kỹ thuật - công nghệ và của cách mạng quản lý; đồng thời phải phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của nhà nước. Những điều kiện đòi hỏi trên cho thấy vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta là hết sức quan trọng, đặc biệt là vai trò quản lý, điều tiết của Nhà nước về kinh tế. Vai trò quản lý, điều tiết của Nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường của nước ta trong giai đoạn hiện nay được khẳng định là chức năng quản lý kinh tế vĩ mô, định hướng, phối hợp, kính thích, tạo môi trường, kiểm soát và điều tiết chính sách xã hội; thông qua các công cụ pháp luật, kế hoạch, chính sách, sử dụng công cụ kinh tế (giá cả, thuế, lãi suất ngân hàng, tỷ giá hối đoái…) và của nguồn học kinh tế để quản lý, điều hành các mặt hoạt dộng kinh tế – xã hội có hiệu quả, góp phần tăng trưởng kinh tế. Vì thế, vấn đề: “Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” được chọn làm đề tài của đề án môn học. Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề án được trình bày trong hai phần: Cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường Một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước ta hiện nay. Cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường Các quan điểm về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế. Sau khi xã hội cộng sản nguyên thuỷ bị tan rã, xã hội loài người phân chia thành giai cấp, xuất hiện sự đối lập về lợi ích kinh tế giữa các nhóm người, các tập đoàn người, đã dẫn đến sự đấu tranh giữa họ ngày càng trở nên găy gắt. Trong điều kiện đó, để giữ cho xã hội trong vòng kỷ cương nhất định, giai cấp nắm trong tay những lực lượng sản xuất chủ yếu tìm cách tổ chức nên một thiết chế đặc biệt với những công cụ đặc biệt. Đó là thiết chế nhà nước. Như vậy, Nhà nước chỉ ra đời khi việc sản xuất và văn minh xã hội phát triển đến một trình độ nhất định. Nhà nước, về thực chất là một thiết chế quyền lực chính trị, là cơ quan thống trị của một giai cấp hoặc của một nhóm giai cấp này đối với một hoặc toàn bộ các giai cấp khác; đồng thời còn duy trì và phát triển xã hội mà Nhà nước đó quản lý trước các nhà nước khác. Ngay từ khi Nhà nước mới ra đời đã thực hiện vai trò và chức năng quản lý, lúc đầu là quản lý xã hội, quản lý hành chính, đảm bảo trật tự trị an, dần dần chuyển sang quản lý kinh tế. Cùng với sự pt quản lý, lúc đầu là quản lý xã hội, quản lý hành chính, đảm bảo trật tự trị an, dần dần chuyển sang quản lý kinh tế. Cùng với sự phát triển với quy mô và trình độ của nền kinh tế, vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế ngày càng tăng lên và chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế cũng luôn biến đổi, tuỳ theo chế độ chính trị, yêu cầu và xu hướng phát triển kinh tế của từng quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Trong lĩnh vực kinh tế, cùng với việc chuyển biến mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền ở các nước tư bản phát triển, để giải quyết những hiện tượng kinh tế xã hội mới nảy sinh đã có nhiều lý thuyết, quan điểm về vai trò thực tế của Nhà nước trong nền kinh tế, trong việc điều chỉnh nền kinh tế thị trường. Từ cuối thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX, trường phái kinh tế cổ điển và tân cổ điển chỉ coi nhà nước tư bản là người canh gác bảo vệ tài sản cho chủ nghĩa tư bản, phái này ủng hộ nguyên tắc tự do kinh tế, coi thị trường là trung tâm, nhà nước giữ vai trò thứ yếu. Đại diện cho trường phái này là Adam Smith (1723-1790), một nhà kinh tế học người Anh. Trong cuốn “Sự giàu có của các quốc gia”, ông cho rằng hoạt động kinh tế của con người là hoạt động tự do, do “bàn tay vô hình” hay quy luật khách quan chi phối. Nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế, mà thích hợp nhất với một số chức năng nòng cốt (cung cấp hàng hoá cộng đồng, bảo đảm an ninh, giáo dục công dân và buộc thực hiện các hợp đồng) được coi là cốt lõi nhất cho sự phát triển thị trường. Sang thời kỳ của đại tư bản công nghiệp, chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng nhờ các nguồn vốn tích luỹ to lớn, người ta chỉ phê phán những sự tiêu dùng xa xỉ làm giảm nguồn tích luỹ chứ cũng chưa thấy rõ vai trò cần thiết của nhà nước trong việc điều tiết quá trình phát triển, khắc phục các mất cân đối (như David Ricardo, 1772 –1823) Chủ nghĩa tư bản càng phát triển càng bộc lộ nhiều mâu thuẫn và nhược điểm: không những mâu thuẫn về giai cấp mà cả mâu thuẫn giữa các ngành kinh tế, giữa thành thị và nông thôn… Trước đòi hỏi của thực tế, nhiều nhà kinh tế tư sản đã đưa ra các học thuyết khác nhau để lý giải các mâu thuẫn, chỉ ra những thất bại của thị trường và tìm đến các vai trò của nhà nước trong việc giải quyết tình trạng mất cân đối trong quá trình tái sản xuất và giảm nhẹ tác hại của khủng hoảng mang tính chu kỳ. Tiêu biểu có các nhà kinh tế: L.Walras, nhà kinh tế học người Pháp đưa ra lý thuyết “cân bằng tổng quát giữa các thị trường” với khuyến nghị là nhà nước cần tiến hành dự báo và can thiệp tích cực vào quá trình sản xuất, tạo ra cạnh tranh lành mạnh, hạn chế đầu cơ, ổn định giá cả và phù hợp với tiền lương. B.Clark, trong lý thuyết “năng suất tối đa” của mình, cho rằng việc mở rộng sản xuất và thay đổi cơ cấu kinh tế tích cực sẽ làm tăng thu nhập cho cả nước và nhà nước đóng vai trò tích cực trong việc khai thác tối đa các yếu tố sản xuất, chống độc quyền, hạn chế sự đình công. A.Pigou đưa ra lý thuyết “kinh tế phồn vinh”, trong đó thừa nhận những mâu thuẫn khách quan giữa quyền lợi tư nhân và quyền lợi xã hội. Ông cho rằng để cho nền kinh tế phát triển cần phải ưu tiên những yếu tố quyết định, những yếu tố chuẩn mực và bằng các công cụ thích hợp (thuế, tín dụng…) mà thực hiện quá trình điều chỉnh cho sự phồn vinh chung của đất nước. Các nhà kinh tế trên đều thấy một thực tế là theo đà phát triển của sản xuất, chức năng của nhà nước ngày càng mở rộng, và do vậy vai trò của nhà nước sẽ tăng. Tuy vậy, họ vẫn cho rằng tự do kinh tế là sức mạnh hoạt động của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Song, cuộc khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa (bắt đầu từ năm1825) trở nên thường xuyên hơn vào những năm 30 của thế kỉ XX đã chứng tỏ “bàn tay vô hình” không thể nào đảm bảo cho kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển bình thường. Hơn nữa, xu hướng xã hội hoá càng cao đã cho thấy phải có một lực lượng nhân danh xã hội can thiệp vào quá trình kinh tế, điều tiết kinh tế và sửa chữa những thất bại của thị trường. Đại diện cho trường phái can thiệp này là J.M.Keynes (1884-1946), nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh, người đã sáng tạo ra lý thuyết “tư bản chủ nghĩa được điều tiết”. Ông cho rằng Nhà nước không chỉ dừng lại ở việc thực hiện một số biện pháp để tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh của nhà tư bản, mà phải thực hiện chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế với việc nghiên cứu các dự báo xu thế phát triển trong tương lai, xây dựng các kế hoạch để tạo ra “cầu tích cực” và đề ra biện pháp can thiệp, điều chỉnh thích hợp nhằm khắc phục những mâu thuẫn của quá trình tái sản xuất. Những năm 1960,1970 các trường phái ủng hộ lý thuyết “bàn tay vô hình” và trường phái Keynes cũng đã tiến lại gần nhau hình thành nên trường phái chính hiện đại. Đại diện là P.A.Samuelson, trong tác phẩm “Kinh tế học”, ông đưa ra lý thuyết “hai bàn tay”. Điều hành một nền kinh tế không có chính phủ hoặc thị trường thì cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay. Thực tiễn đã chứng tỏ trong thời đại ngày nay hầu hết các nước trên thế giới đều chuyển sang mô hình kinh tế thị trường hỗn hợp, nghĩa là kết hợp “bàn tay vô hình” của nền kinh tế tự do với “bàn tay hữu hình” tức là sự quản lý, điều tiết của nhà nước. Đối với nước ta, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nên sự quản lý điều tiết kinh tế thị trường là theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Tính tất yếu khách quan cần phải có vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế. 2.1. Thực trạng về vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước về kinh tế. Quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta trong nhiều năm trước đây với cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp và cả trong những năm đổi mới theo cơ chế thị trường vẫn còn nhiều khuyết điểm: Vừa hạ thấp vai trò nhà nước, làm giảm hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước đối với các thành phần kinh tế, lại vừa gây ra nhiều vướng mắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh, làm trì trệ thêm sự phát triển và gây ra những khó khăn mới cho đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Đã có một thời kỳ dài chúng ta phủ nhận kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội, nhưng khi chúng ta nhận thức lại, chuyển đổi cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường thì vẫn có những sai lầm, chưa nhận thức đúng đắn vai trò nhà nước trong quản lý nền kinh tế nhằm hướng sự phát triển của nền kinh tế đảm bảo tính ổn định, công bằng, hiệu quả. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung: do yêu cầu xây dựng nền kinh tế theo chế độ công hữu, phi hàng hoá và được quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung cao độ nên nhà nước đã đảm nhận vai trò quản lý tuyệt đối toàn bộ đời sống kinh tế xã hội, nắm và chi phối toàn bộ hoạt động kinh tế của đất nước. Với cơ chế này, nhà nước đã thực hiện được những mục tiêu kinh tế và chính trị – xã hội, xây dựng lực lượng quốc phòng hùng mạnh, thực hiện các chính sách xã hội quan trọng như giáo dục, y tế, công bằng xã hội… thể hiện tính ưu việt của xã hội chủ nghĩa trên nhiều mặt. Song chức năng kinh tế của nhà nước được đề cao quá mức thể hiện trên những điểm chủ yếu sau đây: Thứ nhất: Trong cơ chế cũ, nhà nước mở rộng quá đáng kinh tế quốc doanh, gần như đồng nhất kinh tế quốc doanh với chủ nghĩa xã hội. Tuyệt đối hoá kinh tế quốc doanh và kinh tế thị trường đến mức phủ nhận các thành phần kinh tế khác. Đến Đại hội Đảng VI, mặc dù đã có sự đổi mới nhận thức nhưng vẫn còn nhấn mạnh kinh tế quốc doanh phải chiếm tỷ trọng trong cả sản xuất và lưu thông. Do đó, chưa chú ý đúng mức trong chỉ đạo phát triển các thành phần kinh tế khác. Thứ hai: Nhà nước đóng vai trò trung tâm và gần như đọc tôn trong linhc vực đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, nắm độc quyền ngân hàng, ngoại thương, ngoại hối, bao cấp tín dụng và do đó chưa khai thác được nguồn lực khác đầu tư cho phát triển. Thứ ba: Nhà nước can thiệp quá sâu vào các hoạt động kinh tế, trực tiếp điều hành các hoạt động kinh tế, coi cả nước là “một công trường lớn” trong đó các đơn vị kinh tế cơ sở chỉ là những người thừa hành một cách thụ động mệnh lệnh chỉ huy từ trên xuống. Thứ tư: Nhà nước muốn nắm toàn bộ khâu phân phối lưu thông, dùng sức mạnh tổng hợp của chuyên chính vô sản, kết hợp chặt chẽ ba biện pháp: Kinh tế, hành chính, giáo dục để nắm nguồn hàng vào tay mình. Với cơ cấu kinh tế công hữu và phi hàng hoá, cơ chế quản lý tập trung cao độ cũng bộc lộ nhiều khuyết tật, về cơ bản là triệt tiêu động lực phát triển, nền kinh tế kém phát triển, rơi vào tình trạng khan hiếm, dẫn tới khủng hoảng kinh tế – xã hội, còn nhà nước thì bao biện làm thay thị trường và xã hội dẫn tới cồng kềnh, quan liêu, quản lý kém hiệu lực, hiệu quả. Thực trạng đó buộc chúng ta phải cải tổ, cải cách, đổi mới quản lý nền kinh tế, chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đồng thời tiến hành cải cách nhà nước cho phù hợp và có khả năng quản lý kinh tế thị trường. Trong thời kỳ đổi mới, nhà nước vừa phải thực hiện hai nhiệm vụ cơ bản song song và đan xen lẫn nhau, đó là vừa đổi mới, cải cách hệ thống quản lý bao gồm cải tạo cơ cấu kinh tế cũ, xây dựng cơ cấu kinh tế mới, cải cách nền hành chính nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước phù hợp với cơ chế mới; vừa phải điều hành nền kinh tế trong quá trình đổi mới, phải xử lý nhiều vấn đề mới nảy sinh hết sức phức tạp và khó khăn. Mặt khác, nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế hết sức đa dạng, linh hoạt, luôn biến động do thực tế cuộc sống đặt ra. Nhưng nhà nước của ta đã đạt được những thành tựu đáng kể, đó là: Nhà nước ta đã phát huy vai trò trách nhiệm trong quản lý kinh tế – xã hội, tiến hành công cuộc đổi mới quản lý kinh tế nhưng vẫn giữ vững ổn định chính trị, xã hội, đảm bảo tăng trưởng kinh tế khá, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, đưa nước ta cơ bản ra khỏi khủng hoảng; đã mạnh dạn đổi mới cơ chế, chính sách quản lý kinh tế và điều hành, xử lý các tình huống hết sức phức tạp có hiệu quả tốt. Nhà nước cũng đã mạnh dạn đổi mới hệ thống kinh tế nhà nước, đổi mới hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước, từng bước phân định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng, quản lý nhà nước về kinh tế với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh; đổi mới và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước phù hợp với cơ chế mới… Do đó, đã góp phần to lớn vào phát triển kinh tế xã hội và thành công của công cuộc đổi mới. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong quá trình đổi mới, quản lý nhà nước về kinh tế còn có nhiều mặt hạn chế và yếu kém: Quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới, chưa phát huy đầy đủ mặt tích cực và hạn chế được tính tự phát, tiêu cực của kinh tế thị trường. Đất đai, vốn và tài sản nhà nước chưa được quản lý chặt chẽ, sử dụng lãng phí và thất thoát nghiêm trọng, chưa tăng cường được vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách chưa đồng bộ, chưa nhất quán, thực hiện chưa nghiêm. Quản lý lĩnh vực tài chính, ngân hàng, tiền tệ, giá cả, kế hoạch, thương mại, phân phối thu nhập, đất đai, vốn và tài sản nhà nước chưa tốt, chưa hiệu quả và chậm đổi mới. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước còn nặng nề, quan hệ phân công và hiệp tác chưa rõ ràng và còn nhiều vướng mắc, tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phân tán cục bộ còn nghiêm trọng; cán bộ và công chức nhà nước còn nhiều hạn chế cả về trình độ, năng lực và phẩm chất, chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ. Thực trạng trên đòi hỏi nhà nước phải tiếp tục đổi mới quản lý, tăng cường vai trò quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế. Đó là một tất yếu khách quan. 2.2. Cơ chế thị trường - đặc trưng và những ưu, khuyết điểm của nó 2.2.1. Khái niệm cơ chế thị trường: Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các qui luật kinh tế vốn có của nó; cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là cái gì, như thế nào, và cho ai. Cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung, cầu và giá cả thị trường. 2.2.2. Các đặc trưng cơ bản của cơ chế thị trường: Trước hết, thông qua cơ chế thị trường mà các vấn đề có liên quan đến việc phân bổ sử dụng các nguồn tài nguyên sản xuất khan hiếm như lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên về cơ bản được quyết định một cách khách quan thông qua sự hoạt động của các qui luật kinh tế đặc biệt là qui luật cung cầu. Thông qua qui luật cung - cầu mà hình thành nên giá cả thị trường, giá cả thị trường lên xuống xung quanh giá trị thị trường và nó là kết quả thoả thuận giữa người mua với người bán, nó tạo lên mức lợi nhuận trên thị trường mà từ đó có tác động chuyển dịch cơ cấu đầu tư sản xuất vào các lĩnh vực cho lợi nhuận cao Thứ hai, trong cơ chế thị trường, tất cả các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế được tiền tệ hoá thông qua giá cả thị trường, làm cho các hoạt động kinh tế phát triển nhanh và dễ dàng hơn. Thứ ba, trong cơ chế thị trường, động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và lợi ích kinh tế được biểu hiện tập trung ở mức lợi nhuận. Thứ tư, cơ chế thị trường tạo cho các chủ thể kinh tế tự do lựa chọn phương án sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng. Dựa trên các qui luật kinh tế và tính tự chủ, các mối quan hệ kinh tế, các nhà sản xuất, kinh doanh lựa chọn cho mình phương án sản xuất và kinh doanh phù hợp nhất để thu được lợi nhuận tối đa, và người tiêu dùng được tự do lựa chọn tiêu dùng vì các quan hệ kinh tế đã được tiền tệ hoá. Thứ năm, thông qua sự hoạt động của các qui luật kinh tế, đặc biệt là sự linh hoạt của hệ thống giá cả, nền kinh tế thị trường luôn duy trì được thế cân bằng giữa mức cung và cầu của tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ, ít gây ra sự khan hiếm và thiếu thốn hàng hoá. Thứ sáu, cạnh tranh là môi trường và động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả của sản suất. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh diễn ra một cách phổ biến trong cả lĩnh vực sản xuất và trong cả lĩnh vực lưu thông, hình thức và những biện pháp của cạnh tranh có thể rất phong phú nhưng động lực và mục đích cuối cùng cuả cạnh tranh chính là lợi nhuận. Thứ bảy, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, mối quan hệ giữa mục tiêu tăng cường tự do cá nhân và mục tiêu và công bằng xã hội, giữa đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống cũng có sự phát triển tương ứng. Thứ tám, cơ chế thị trường đặt người tiêu dùng vào vị trí hàng đầu. Nhờ sự phát triển sức sản xuất mới và các nhu cầu mới, cơ chế thị trường có xu hướng thoả mãn nhu cầu biến đổi không ngừng của các nhóm dân cư sao cho phù hợp với lối sống của họ, thay cho nguyên tắc sản xuất, cung ứng hàng loạt, bất chấp nhu cầu. Thứ chín, nhà doanh nghiệp là nhân vật trung tâm trong hoạt động thị trường, là nhân tố sống động của cơ chế thị trường. Nhà nước không đứng ngoài cơ chế thị trường. Không có nhà doanh nghiệp thì không có cơ chế thị trường. 2.2.3. Ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường: Thực tế khó đánh giá đầy đủ những ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường. Tuy nhiên, có thể nêu lên những ưu điểm của cơ chế thị trường như sau: Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động, huy động được nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế. Cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm hao phí lao động cá biệt đến mức thấp nhất có thể được bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, nhờ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng và số lượng hàng hoá. Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu xã hội, nhờ đó có thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản xuất về hàng ngàn, hàng vạn loại sản phẩm khác nhau. Những nhiệm vụ này nếu Nhà nước làm sẽ phải thực hiện một khối lượng công việc khổng lồ, có khi không thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao trong việc đưa ra các quyết định. Cơ chế thị trường mềm dẻo hơn Nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn khi những điều kiện kinh tế thay đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất với nhu cầu xã hội. Nhờ vậy cơ chế thị trường giải quyết được những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế: Cần sản xuất loại hàng hoá gì với số lượng bao nhiêu do người tiêu dùng quyết định; Lợi nhuận lôi cuốn các doanh nghiệp vào sản xuất mặt hàng có mức lợi cao, đáp ứng nhu cầu xã hội. Sản xuất bằng phương pháp nào, công nghệ gì được quyết định bởi cạnh tranh để cho tối đa hoá được lợi nhuận và tối thiểu hoá chi phí. Hệ thống giá cả là tín hiệu cho một phương pháp công nghệ thích hợp. Sản xuất hàng hoá cho ai (phân phối) được quyết định bởi quan hệ cung – cầu trên thị trường các nhân tố sản xuất. Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội chứng minh rằng cơ chế thị trường là cơ chế điều tiết nền kinh tế hàng hoá đạt hiệu quả kinh tế cao. Song cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự hoàn hảo, mà nó vốn có những khuyết tật, đặc biệt về mặt xã hội. Có thể chỉ ra một số khuyết tật sau đây của cơ chế thị trường: Hiệu lực của cơ chế thị trường phụ thuộc vào mức độ không hoàn hảo của cạnh tranh, cạnh tranh càng không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường càng giảm. Cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo. Một nền kinh tế được thúc đẩy bởi cạnh trnah hoàn hảo sẽ dẫn tới phấn bố và sử dụng hiệu quả nhất đầu vào của sản xuất và đầu ra, tức là nền kinh tế đứng trên đường giới hạn khả năng sản xuất. Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội phải gánh chịu, do đó hiệu quả kinh tế – xã hội không được đảm bảo. Có những mục tiêu xã hội mà dù cơ chế thị trường có hoạt động tốt cũng không thể đạt được. Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự phân hoá giàu nghèo, tác động xấu đến đạo đức và tình người Một nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ. Người ta nhận thấy rằng một nền kinh tế hiện đại đứng trước một vấn đề nan giải của kinh tế vĩ mô không một nước nào trong thời gian dài lại có được lạm phát thất nghiệp thấp và công ăn việc làm đầy đủ. Như vậy, cơ chế thị trường với một loạt những khuyết tật trên đòi hỏi phải có sự can thiệp của nhà nước với vai trò kinh tế của mình 2.3.4 Vai trò quản lý và điều tiết kinh tế của Nhà nước. Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước: Kinh tế thị trường tạo ra động lực mạnh mẽ, làm cho các hoạt động kinh tế trở nên sôi động, tận dụng và tiết kiệm nguồn lực, hướng tới việc đáp ứng nhanh nhạy những nhu cầu ngày càng tăng của xã hội với năng suất, chất lượng và hiệu quả, song cần phải có sự can thiệp của nhà nước. Nhà nước thực hiện vai trò quản lý kinh tế thị trường thông qua các công cụ kế hoạch, chính sách kinh tế, pháp luật, các biện pháp kinh tế và bằng nguồn lực của kinh tế nhà nước. Về kế hoạch hoá: xác định phát triển kinh tế tổng thể; kế hoạch dự đoán về kinh tế vĩ mô, lựa chọn phát triển ngành, vùng, hạ tầng cơ sở như giao thông, điện,… không có tính áp đặt đối với các doanh nghiệp mà tạo cho họ phương hướng phát triển kinh tế phù hợp với yêu cầu của đất nước. Về các chính sách kinh tế: Chính sách giá cả, tỷ giá trong nền kinh tế thị trường: trên cơ sở phân biệt rõ giá cả trong trường hợp cạnh tranh và trong trường hợp độc quyền; phải biết chi phí thực và giá thực của hàng hoá, phản ánh khá đúng quan hệ cung – cầu, giá trị sức mua đồng tiền, và tình hình thực tế của thị trường trong nước cũng như của nước ngoài Quản lý ngoại thương: hạn chế nhập khẩu, bảo hộ khuyến khích sản xuất trong nước và khuyến khích nhập khẩu. Chính sách tài chính – tiền tệ: đặc biệt là ngân sách, tín dụng, lãi suất và thuế suất là chính sách trợ cấp tài chính và miễn giảm thuế, tạo điều kiện cho hoạt động bình thường giữa các thành phần kinh tế. Chính sách phát triển kinh doanh Chính sách chi tiêu ngân sách: tránh lãng phí và nâng cao hiệu quả kinh tế. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế. Tăng cường dự trữ nhà nước và khi cần thiết nhà nước sử dụng nguồn lực kinh tế nhà nước của mình để can thiệp vào nền kinh tế. b. Vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước: Sự điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường phải dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật kinh tế khách quan. Sự điều tiết của Nhà nước thể hiện ở các mặt sau đây: Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi: Trong kinh tế thị trường các chủ thể thị trường được tự chủ, nhưng quyền tự chủ đó phải được thể chế hoá thành pháp luật và mọi hành vi đều tuân theo pháp luật. Hệ thống pháp luật đồng bộ bao trùm mọi hoạt động kinh tế, nhưng có thể quy về những lĩnh vực sau: Luật xác định các chủ thể pháp lý Luật về các quyền: quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền thừa kế, quyền chuyển nhượng… Luật hợp đồng Luật về sự đảm bảo của Nhà nước đối với các điều kiện chung của nền kinh tế: bảo hộ lao động, bảo vệ môi trường, chống, hạn chế cạnh tranh, chăm sóc những người không có khả năng lao động, bảo hiểm xã hội… Các luật về tổ chức Nhà nước, ngăn ngừa việc lạm dụng quyền lực Nhà nước, loại trừ việc cấu kết giữa quyền lực Nhà nước với quyền lực kinh tế. Nhà nước tạo môi trường kinh tế xã hội ổn định bằng cách xây dựng kết cấu hạ tầng sản xuất (quan trọng nhất là giao thông vận tải, thông tin liên lạc) và kết cấu hạ tầng xã hội (quan trọng nhất là giáo dục đào tạo), cùng với các dịch vụ công cộng khác như đảm bảo an ninh, dịch vụ tín dụng… Nhà nước soạn thảo kế hoạch, quy hoạch, các chương trình phát triển kinh tế – xã hội và ban hành những chính sách để hướng các chủ thể thị trường thực hiện các kế hoạch, quy hoạch và chương trình ấy bằng cách sử dụng các đòn bẩy kinh tế. Thí dụ: ưu đãi về thuế, về lãi suất cho vay những ai đầu tư vào những ngành, những vùng mà Nhà nước cần ưu tiên phát triển… Nhà nước sử dụng những biện pháp hành chính khi cần thiết, chẳng hạn cấm xuất khẩu gỗ để bảo vệ rừng, phạt những hành vi làm ô nhiễm môi trường… Đặc trưng của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 3.1. Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta. Trong lịch sử nhân loại đã diễn ra những mô hình kinh tế khác nhau: kinh tế tập trung và kinh tế thị trường. Theo thời gian, chúng ta đã có một cách nhìn đầy đủ và một sự lựa chọn kinh tế. Mô hình kinh tế tập trung có những ưu điểm đảm bảo tính tập trung thống nhất, thích hợp với điều kiện chiến tranh, nhưng khi chuyển sang xây dựng và phát triển kinh tế thì mô hình kinh tế tập trung tỏ ra không phù hợp. Sau giải phóng miền Nam, chúng ta vẫn duy trì cơ chế tập trung, sản xuất kém phát triển, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, thời điểm gay cấn nhất là khi không còn viện trợ nước ngoài. Nhưng trongkhó khăn đã xuất hiện những hiện tượng khác lạ, những tìm tòi thử nghiệm từ phong trào quần chúng, từ đơn vị kinh tế cơ sở có sức thuyết phục như khoán trong nông nghiệp, xé rào tự cân đối, tự trang trải trong công nghiệp, giá cả - lĩnh vực nhạy cảm và cốt lõi của cơ chế cũ, đã có những cuộc thử nghiệm (điều chỉnh giá năm 1981, tổng điều chỉnh giá - lương – tiền năm 1985, thử nghiệm xoá bỏ phân phối theo định lượng ở một số tỉnh phía Nam… ) Trước những đòi hỏi bức bách của cuộc sống và những thử nghiệm có sức thuyết phục, Đảng ta đã nhạy cảm tổng kết thành cơ chế chính sách tạo đà cho công cuộc đổi mới. Nghị quyết 6 (Khoá VI) – 1979: “cho sản xuất bung ra”, “cho tự do lưu thông”, chỉ thị khoán 100 của Ban bí thư Trung ương đến nhóm và người lao động (1981), khoán 10 (khoán hộ 1988) của Bộ Chính trị, quyết định 25, 26 CP (1985 –1986), … Nhưng tất cả mới là những thử nghiệm tìm tòi mang giải pháp tình thế, chưa có sự thay đổi căn bản về quan điểm. Đại hội lần thứ VI của Đảng sau khi phê phán cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã nhất quán chuyển sang kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, mở rộng kinh tế đối ngoại. Về cơ chế quản lý đó là cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh, tôn trọng nguyên tắc tập trung dân chủ. Tổng kết hai năm thực hiện Đại hội Đảng VI, sản xuất phát triển, nhất là nông nghiệp, kinh tế ngoài quốc doanh và kinh tế đối ngoại, càng khẳng định nềm tin để đẩy tới một bước về cơ chế. Hội nghị Trung ương 6 (khoá VI) bắt đầu sử dụng cụm từ “cơ chế thị trường”. Đại hội lần thứ VII của Đảng nhất quán chuyển sang cơ chế thị trường với ba quan điểm kinh tế cơ bản: chấp nhận thị trường một cách cơ bản, tổng thể lâu dài; một thị trường thống nhất thông suốt hoà nhập thị trường thế giới, thị trường là đối tượng quản lý của Nhà nước và cơ chế vận hành nền kinh tế nước ta là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội lần thứ VIII của Đảng khẳng định những chuyển đổi theo chiều sâu sớm hình thành thị trường đồng bộ, đổi mới kế hoạch hoá, hệ thống pháp luật và các chính sách kinh tế. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng trên cơ sở tổng kết toàn diện những thành công và những tồn tại, những bài học chủ yếu của công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước đã xác định mục tiêu giai đoạn đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đạt mục tiêu được đề ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội: tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau. 3.2. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng có tính chất chung của nền kinh tế: nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của kinh tế thị trường, có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước để giảm bớt những “thất bại của thị trường”. Nhưng do điều kiện lịch sử – xã hội của mỗi nước biến động khác nhau, đặc biệt là do chế độ xã hội khác nhau, nền kinh tế thị trường ở các nước có những đặc điểm riêng. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có những đặc trưng sau: Thứ nhất, là nền kinh tế gồm nhiều thành phần dựa trên cơ sở cơ cấu đa dạng về hình thức sở hữu; trong đó kinh tế Nhà nước dựa trên sở hữu nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta tồn tại ba hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Từ đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, cần được khuyến khích phát triển để hình thành nền kinh tế thị trường rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu, đơn vị kinh tế tư doanh, các hình thức hợp tác liên doanh giữa trong và ngoài nước. Tuy nhiên, trong cơ cấu nhiều thành phần đó, kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo. Đó là sự khác biệt có tính bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường ở các nước khác. Bởi lẽ, mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó, kinh tế Nhà nước, nói đúng là kinh tế dựa trên chế độ công hữu bao gồm kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác, tạo cơ sở kinh tế cho chế độ xã hội mới – xã hội chủ nghĩa. Vì vậy cần quan tâm tới vấn đề cơ cấu lại khu vực kinh tế Nhà nước và đổi mới cơ bản cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước để chúng hoạt động có hiệu quả._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35265.doc
Tài liệu liên quan