Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay

Lời nói đầu Thực tiễn lịch sử phát triển cho thấy con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) của nước ta còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Nhất là trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế. Nguyên nhân chính ở đây là do chúng ta tiến lên CNXH từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH, chúng ta mắc phải sai lầm đó là áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp nhất là trong khi đất nước đa

doc21 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1367 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng được hoà bình thống nhất. Nhận thấy mô hình kinh tế này không đem lại hiệu quả, từ năm 1986, cụ thể là từ đại hội VI của Đảng đã có những nhận thức mới và thay đổi quan điểm về sự đổi mới cơ chế quản lý ở nước ta và được đại hội VII khẳng định: “tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chê thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Như vậy, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức được lợi ích to lớn mà cơ chế thị trường đem lại cho sự phát triển kinh tế – xã hội; đồng thời thấy được vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN. Có được nhận thức đó là do thực tế và kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới. Nhưng để thực hiện được thì cần có một thời gian dài xây dựng và phát triển. Từ những nhận thức trên, ta có thể thấy được Nhà nước có vai trò quan trọng như thế nào trong nền KTTT, đặc biệt là vai trò kinh tế của nó. Chính điều đó đã thôi thúc em chọn để tài: “Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay”. Trong quá trình thực hiện và hoàn thành đề tài này, dù đã hết sức cố gắng song cũng không thể tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Vì vậy, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô để bài làm của em được hoàn thiện hơn. Chương I- Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta. 1. Lý luận chung về vai trò kinh tế của Nhà nước Trong lịch sử xã hội loài người đã có thời kỳ không có Nhà nước, đó là thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ. Cơ sở kinh tế của chế độ cộng sản nguyên thuỷ là chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất ở trình độ sơ khai. Thời kỳ này chưa có sự phân chia thành giai cấp. Khi lực lượng sản xuất và năng suất lao động tăng thì xã hội bắt đầu hình thành 2 giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ. Một xã hội mới với sự phân chia giai cấp và sự đấu tranh giai cấp gay gắt không thể điều hoà, đòi hỏi phải có một tổ chức mới có khả năng dập tắt được cuộc xung đột giai cấp ấy; tổ chức đó là Nhà nước. Vậy Nhà nước là gì? “Nhà nước là công cụ của giai cấp thống trị được sử dụng để duy trì trật tự xã hội sao cho phù hợp với lợi ích của nó” Kể từ khi Nhà nước xuất hiện trong xã hội loài người cho đến thế kỷ XIX, ở tất cả mọi nơi nó đều thực hiện những chức năng tương tự như nhau. Đó là quốc phòng, xây dựng đường xá và đê điều, bảo vệ nguồn nước, đúc tiền, đề ra và thi hành pháp luật... Cuộc cách mạng công nghiệp hoàn thành ở một số nước vào cuối thế kỷ XIX đã làm thay đổi lối sống cổ truyền, buộc Nhà nước thực hiện “chức năng điều chỉnh” trong kinh tế nhằm đảm bảo tính hiệu quả của sự cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi của các cá nhân. Nhà nước thực hiện chức năng điều chỉnh như là “người trọng tài” duy trì các luật chơi của thị trường. Những quốc gia thực hiện công nghiệp hoá muộn thì đã làm cho Nhà nước càng đóng vai trò nặng nề hơn trong nền kinh tế. ở những nước này, Nhà nước không còn đứng bên ngoài điều chỉnh nữa mà đã can thiệp trực tiếp vào chính nội dung của hoạt động kinh tế thông qua một số hình thức như: đề ra các kế hoạch phát triển, thi hành một số chính sách khuyến khích hoặc kiềm chế một số lĩnh vực hoạt động kinh tế, thậm chí còn trực tiếp kinh doanh trong một số lĩnh vực. Thực tiễn lịch sử cũng đã chứng minh rằng trên thế giới ngày nay không có ở quốc gia nào – dù là chưa công nghiệp hoá hay đã ở thời kỳ hậu công nghiệp – mà không có sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế theo rất nhiều lý do khác nhau, xong mức độ can thiệp ở mỗi Nhà nước cũng rất khác nhau. Cụ thể: Trong thời đại chiếm hữu nô lệ, Nhà nước chủ nô - kiểu Nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã dùng quyền lực của mình can thiệp vào việc phân phối của cải được sản xuất ra. Những người nô lệ sản xuất ra của cải nhưng bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt bằng bạo lực. Trong thời đại phong kiến, Nhà nước phong kiến không chỉ can thiệp vào việc phân phối của cải mà còn đứng ra tập hợp lực lượng nông dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp, khuyến khích quan lại di dân đi mở mang các vùng đất mới, đề ra các chính sách ruộng đất thích hợp với từng thời kỳ. Bước sang thế kỷ XV, khi chủ nghĩa tư bản (CNTB) hình thành thì nền KTTT dần dần được hình thành. Các nước TBCN xác định rằng: muốn kinh tế phát triển nhanh thì không thể để cho nó tự do vận động và phát triển mà cần phải có sự hỗ trợ của Nhà nước. Vì vậy trong xã hội tư bản thì vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước dần dần được hình thành và nâng cao. Nhà nước tư bản can thiệp bằng cách đề ra các chính sách nhằm tích luỹ vốn tiền tệ như: tìm mọi cách tích luỹ tiền tệ không cho tiền chạy ra nước ngoài, hay trong chính sách ngoại thương thì sử dụng hàng rào thuế quan bảo hộ, đánh thuế nhập khẩu cao... Khi đã tích luỹ được một lượng của cải và tiền tệ đáng kể, đầu thế kỷ XVIII, các nước này tập trung phát triển mạnh sản xuất dẫn đến nhu cầu tự do cạnh tranh trong đời sống kinh tế ở các nước này. Bởi vậy, các nhà kinh tế học cổ điển đã ủng hộ tư tưởng tự do cạnh tranh. Họ đưa ra các lý thuyết kinh tế nêu lên tư tưởng, quan điểm của mình về tự do cạnh tranh trong nền kinh tế. Trong số đó nổi bật nhất là Ađam Smith (1723-1790) – người mà giới kinh tế gọi là “cha đẻ của CNTB” - đã đưa ra lý thuyết về “bàn tay vô hình” và nguyên lý “Nhà nước không can thiệp vào hoạt động của nền kinh tế”. Ông cho rằng: “sức mạnh của thị trường như bàn tay vô hình dẫn dắt hành động của các cá nhân, Nhà nước chỉ thực hiện chức năng điều chỉnh để duy trì luật chơi của thị trường trong những trường hợp cần thiết mà thôi” (1). Điều nay có nghĩa là để cho nền kinh tế phát triển lành mạnh thì Nhà nước không nên can thiệp vào nền KTTT. Người ta công nhận rằng: về bản chất, thị trường có những khuyết tật nhưng không vì thế mà họ cho rằng sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế là cần thiết mà sự can thiệp của Nhà nước bị coi là làm biến dạng hoạt động của thị trường, vậy nên không được hoan ngênh. Tuy nhiên, tư tưởng tự do kinh tế chỉ thống trị đến đầu những năm 30 của thế kỷ XX, khi mà những cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra liên tiếp và thường xuyên ở các nước TBCN. Đây chính là những minh chứng có thực cho thấy “bàn tay vô hình” không thể bảo đảm cho một nền kinh tế phát triển ổn định. Trong bối cảnh như vậy, các nhà kinh tế thấy rằng cần có sự nâng cao vai trò của Nhà nước hơn trong hoạt động kinh tế và mô hình KTTT tự do được cải biến với sự bổ sung một số chính sách can thiệp của bàn tay hữu hình của chính phủ theo các lý thuyết của Keynes và tân cổ điển. Trái ngược hẳn với Ađam Smith cho rằng thị trường quyết định tất cả, Nhà nước chỉ là một phần nhỏ, thậm chí hầu như không có, thì theo Keynes (1884 – 1946) – một nhà kinh tế học người Anh đã đưa ra lý thuyết “Nhà nước điều tiết KTTT” – cho rằng Nhà nước là chủ yếu còn thị trường là phụ. Theo Keynes, Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế ở cả tầm vi mô và vĩ mô. ở tầm vĩ mô thì Nhà nước sử dụng các công cụ như lãi suất, thuế, bảo hiểm... ở tầm vi mô, Nhà nước tham gia vào việc phát triển các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ công cộng. Khi đưa ra lý thuyết này, Keynes hoàn toàn tin tưởng rằng nó sẽ đem lại một kết quả tốt đẹp hơn cho sự phát triển kinh tế – xã hội của một quốc gia. Nhưng thực tế kiểm nghiệm cho thấy cũng như mô hình kinh tế dựa trên tư tưởng tự do cạnh tranh bị thất bại thì mô hình kinh tế dựa trên lý thuyết “Nhà nước điều tiết KTTT” của Keynes cũng không đem lại kết quả tốt hơn. Trước tình hình đó, xuất hiện tư tưởng phối hợp “bàn tay vô hình” với “Nhà nước điều tiết nền KTTT”. Thực ra có rất nhiều nhà kinh tế học đi theo hướng này, song nổi bật nhất phải nói đến Samullson – một kinh tế gia người Mỹ với quan điểm “kinh tế hỗn hợp” của mình. Ông cho rằng điều hành một nền kinh tế không có cả chính phủ lẫn thị trường cũng như “ định vỗ tay bằng một bàn tay”. Cơ chế thị trường xác định giá cả và sản lượng trong nhiều lĩnh vực. Trong khi đó chính phủ điều tiết thị trường bằng các chương trình thuế, chỉ tiêu và luật lệ. Cả hai bên: thị trường và chính phủ đều có vai trò như nhau trong hoạt động phát triển nền kinh tế. Kế tiếp của CNTB là hệ thống XHCN được hình thành. Với xã hội này, Nhà nước phải gánh lấy sứ mệnh tính toán và tổ chức thực hiện các phương án tối ưu của việc phân phối hợp lý các nguồn lực và của cải của xã hội, sự can thiệp đến tận chi tiết của Nhà nước đã có lúc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế diễn ra nhanh chóng hơn. Nhưng việc t uyệt đối hoá vai trò điều khiển toàn bộ nền kinh tế của Nhà nước và phủ nhận hoàn toàn vai trò của thị trường, cộng với những sai lầm trong tính toán phương hướng đầu tư của bộ máy quản lý tập trung đã làm cho nền kinh tế bị suy thoái. Việc chuyển sang cơ chế thị trường và có sự thay đổi trong quản lý của Nhà nước là một minh chứng cho điều đó. 2. Tính tất yếu khách quan và vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta. Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước XHCN, đất nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Xuất phát từ quan niệm cho rằng: nền kinh tế XHCN là một nền kinh tế phát triển có kế hoạch nên Nhà nước đã lấy kế hoạch làm công cụ chủ yếu để quản lý nền kinh tế. Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung là nền kinh tế mà trong đó Nhà nước nắm hầu hết các hoạt động sản xuất – kinh doanh, Nhà nước trực tiếp thực hiện đầu tư, phát triển và đưa ra những quy định cho hầu hết mọi hoạt động kinh tế. Chính vì vậy mà trong nền KTTT, khu vực tư nhân chỉ có vai trò thứ yếu, hỗ trợ và cùng với Nhà nước tham gia vào quá trình phat triển kinh tế – xã hội. Đặc trưng cơ bản của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp này là: Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu. Các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất – kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở nhưng lại không chịu trách gì về mặt vật chất đối với các quyết định của mình; không tự nhận khuyết điểm về mình. Bỏ qua quan hệ hàng hoá - tiền tệ và hiệu quả kinh tế, quản lý nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu. Từ những đặc điểm trên dẫn đến bộ máy quản lý rất cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng động, đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý, không thạo nghiệp vụ kinh doanh, trình độ hiểu biết kém; đã thế phong cách lại hống hách, quan liêu cửa quyền; cơ sở vật chất cũ kĩ, lạc hậu, năng suất thấp. Chính những sự việc đó đã gây ra nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế gặp nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm, vốn đầu tư chủ yếu dựa vào vay và viện trợ của nước ngoài. Đến cuối những năm 80, giá cả leo thang, khủng hoảng kinh tế đi liền với lạm phát cao làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút, thậm chí một số địa phương nạn đói đang rình rập. Trước tình hình đó buộc chúng ta phải xem xét lại cơ chế đó và có những biện pháp để đổi mới nhanh chóng nền kinh tế và cơ chế quản lý đối với nó. Phương hướng cơ bản của sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta đã được đánh dấu bằng đại hội VI, tiếp tục bằng đại hội VII,VIII và IX của Đảng: Tại đại hội VI, Đảng ta chủ trương: “phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN”. Đến đại hội VII, Đảng ta xác định rõ việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đang diễn ra việc đó, tức là “chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền KTTT có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”. Đến đại hội VIII, Đảng ta xác định “... tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”. Đến đại hội IX, Đảng ta khẳng định: “tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN, từ chỗ chủ yếu chỉ có 2 thành phần là kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể đã chuyển sang nền kinh tế có nhiều thành phần trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo”. Như vậy là nước ta đã chuyển đổi sang nền kinh tế với cơ chế kinh tế là cơ chế thị trường. Vậy trước tiên ta phải hiểu cơ chế thị trường là gì? Hiện nay còn tồn tại rất nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm cơ chế thị trường. Sau đây là một vài khái niệm: “ Cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ, môi trường, động lực và quy luật chi phối sự vận động của thị trường” (2) “Cơ chế thị trường là thiết chế kinh tế chi phối ý chí và hành động của người sản xuất và người tiêu dùng, người bán và người mua thông qua thị trường và giá cả” (3) “Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó cá nhân người tiêu dùng và các doanh nghiệp tác động qua lại lẫn nhau trên thị trường để xác định vấn để trung tâm của tổ chức kinh tế là: sản xuất cái gì? Như thế nào? Cho ai”(4) Song dù có hiểu như thế nào đi chăng nữa thì nói tới cơ chế thị trường là phải nói tới “bộ máy” tự điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, điều tiết sự vận động thông qua sự tác động của các quy luật kinh tế của nền KTTT, đặc biệt là quy luật giá trị – quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông hàng hoá, quy luật cạnh tranh, quan hệ cung cầu hàng hoá... Trong đó lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động của nó. Nói tóm lại ta có thể hiểu: cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó giải quyết 3 vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là: cái gì? Như thế nào? Cho ai?. Cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung, cầu và giá cả thị trường. Nói như trên không có nghĩa rằng cơ chế thị trường là một sự hỗn độn các quy luật kinh tế tác động một cách không định hướng vào hoạt động sản xuất mà nó là một trật tự kinh tế, một bộ máy tinh vi phối hợp một cách không có ý thức hoạt động của người tiêu dùng với các nhà sản xuất thông qua hệ thống giá cả thị trường; không ai tạo ra nó mà tự nó phát sinh và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hoá. Thực tế cũng đã chứng minh cơ chế thị trường là một cơ chế hoàn toàn phù hợp và ưu việt. Nó ngày càng phát huy những ưu điểm vốn có của nó, đó là: Kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ. Do đó phát huy tính năng động, sáng tạo của các chủ thể kinh doanh. Huy động một cách nhanh chóng các nguồn lực của xã hội vào việc phát triển kinh tế. Trong cơ chế thị trường, người sản xuất buộc phải giảm hao phí lao động xuống mức thấp nhất có thể được bằng cách áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ vào quá trình sản xuất nhằm nầng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm. Có như vậy thì mới có thể tiếp tục cạnh tranh và đứng vững được trên thị trường; và cũng chỉ có như vậy mới thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển để sử dụng có hiệu quả nhất những khoa học kỹ thuật tiên tiến đó. Cơ chế thị trường dẫn tới sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của sã hội; điều này có nghĩa là có thể đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong phú về các loại sản phẩm của người dân. Đây là một việc làm mà nếu để Nhà nước đảm nhận thì sẽ khó thực hiện được vì đây là một khối lượng công việc lớn, đòi hỏi thời gian rất lâu, chi phí và công suất lớn. Cơ chế thị trường mềm dẻo hơn Nhà nước, có khả năng thích nghi cao hơn khi những điều kiện kinh tế thay đổi. Bởi lẽ nền kinh tế luôn có những biến động không thể lường trước được, vậy nên dù Nhà nước có phân tích kỹ lưỡng đến đâu thì cũng sẽ có lúc không thể thích nghi nhanh và có những chính sách thay đổi kịp thời để phù hợp với những điều kiện hiện tại. Trong khi đó cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết cho nên chắc chắn khả năng thích nghi của nó sẽ cao hơn và từ đó sẽ làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất và nhu cầu của xã hội. Cùng với những ưu điểm trên, cơ chế thị trường cũng bộc lộ hàng loạt những khuyết tật mang tính chu kỳ như: biến động lên xuống của khủng hoảng kinh tế, lạm phát, phân hoá giàu nghèo, gây ô nhiễm môi trường... Trong đó có những khuyết tật trở thành những vấn đề mang tính chất toàn cầu đang được đặt ra để tìm hướng giải quyết tốt nhất. Tất cả gây nên tình trạng không bình thường trong quan hệ kinh tế và dẫn tới sự mất ổn định xã hội. Bởi vậy nên nó đòi hỏi phải có sự kiểm tra, điều tiết, định hướng một cách có ý thức đối với sự vận động của cơ chế thị trường, đồng thời chính sự vận động đó có thể hạn chế những khuyết tật. Đó là những lý do cần thiết phải thiết lập vai trò quản lý của Nhà nước ở tất cả những nước mà nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết. Nhà nước có thể dựa vào quyền lực của mình can thiệp ở một mức độ hợp lý nhằm sửa chữa “những thất bại của thị trường” đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định. Nền KTTT càng phát triển thì vai trò của Nhà nước càng thể hiện được tầm quan trọng. Những vai trò đó là: Một là: Nhà nước lập ra luật pháp, các quy định và quy chế để điều tiết: Các chính phủ quy định khung luật pháp, trên cơ sở đó đặt ra những điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và sự hoạt động của thị trường. Cùng với Nhà nước, chính quyền ở mọi cấp cùng điều tiết hành vi kinh tế bằng cách đặt ra những quy định chi tiết cho sự hoạt động của các doanh nghiệp. Các quy chế điều tiết như: quy chế điều tiết về y tế và an toàn, các điều luật chống tội gian lận và ngăn cấm những người cạnh tranh thoả thuận với nhau để định giá, luật chống độc quyền... Sau đây là một vài trường hợp cụ thể: Ta biết rằng một trong những nguyên nhân dẫn tới tính kém hiệu quả của sản xuất và tiêu dùng đó là độc quyền. Các nhà độc quyền có thể thu các khoản lợi nhuận cao bằng cách hạn chế số lượng đem bán đồng thời nâng giá bán. Sở dĩ họ làm được như vậy là vì họ là những người bán duy nhất nên họ không lo sợ bị những người cạnh tranh bán với giá thấp hơn và vì thế kết cục là người tiêu dùng phải trả mức giá cao hơn mức mà lẽ ra họ phải trả. Nền kinh tế được thúc đẩy bằng cạnh tranh hoàn hảo sẽ đạt hiệu quả cao nhưng cạnh tranh sẽ làm cho các tổ chức độc quyền bị hạn chế khả năng đạt lợi nhuận độc quyền. Vì vậy họ thường cố gắng giảm bớt cạnh tranh.Vậy trong trường hợp này Nhà nước phải làm sao để bảo vệ cạnh tranh, chống độc quyền đây? Câu trả lời đó là: Nhà nước phải điều tiết những công ty như vậy bằng cách kiểm soát giá cả mà họ được phép đòi phải trả, hoặc chính phủ có thể tự mình đảm đương việc cung cấp các sản phẩm có liên quan. Chính phủ cũng có thể can thiệp vào bằng các luật về cạnh tranh nhằm làm cho sự cạnh tranh mạnh mẽ hơn, đồng thời ngăn ngừa các công ty độc quyền cũng như các mưu toan khác hòng kiểm soát sự cung ứng Một nguyên nhân khác cũng làm ảnh hưởng đến kinh tế và xã hội , đó là sự tác động tiêu cực của ngoại sinh. ảnh hưởng của ngoại sinh xảy ra khi một hãng hay một người làm lợi hoặc làm thiệt hại tới người khác bên ngoài thị trường.Thông thường các chính phủ chú ý tới tác động tiêu cực của ảnh hưởng ngoại sinh nhiều hơn so với tác động tích cực của nó. Hãy thử xem xét vấn đề ô nhiễm. Ví dụ: một hãng sản xuất các hoá chất và tống rác thải xuống một hồ. Chất thải gây ô nhiễm nguồn cung cấp nước địa phương, giết hại cá và chim chóc, và tạo ra một mùi khó chịu.Khi mức sản xuất các hoá chất tăng lên thì tác động càng lan tỏa.Lúc đó tiêu cực sẽ trở thành mối đe doạ khủng khiếp. Trước tình trạng đó chính phủ đóng môt vai trò hết sức quan trọng. Chính phủ sẽ can thiệp vào bằng cách đưa ra các quy định nhằm kiểm soát ảnh hưởng ngoại sinh như ô nhiễm không khí và nước, chất thải độc hại, thuốc và thực phẩm không an toan, hay các chất phóng xạ...Chính phủ có những biện pháp cứng rắn trong việc nghiêm trị những hành động vi phạm các quy định đã ban hành. Hai là:Nhà nước góp phần vào việc xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội nước ta theo các mục tiêu mong muốn. Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, các doanh nghiệp được quyền tự do lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh, Nhà nước không can thiệp vào quyết định của họ về sản xuất cái gì?bằng cách nào?tiêu thụ ở đâu? Trong khi lựa chọn các phương án sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp lấy lợi nhuận làm thước đo hiệu quả, đồng thời làm mục tiêu định hướng cho hành vi của họ. Mặt khác trong nền kinh tế nước ta hiện nay cũng có rất nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau; họ cạnh tranh gay gắt với nhau nhằm đạt mục tiêu mà họ mong muốn.Điều này có thể làm triệt tiêu các nguồn lực kinh tế dẫn đến môi trường kinh doanh bị phá huỷ và nền kinh tế không thể nào phát triển được. Khác với các doanh nghiệp, vai trò kinh tế của Nhà nước là ở chỗ theo đuổi mục tiêu chung của dân tộc, tức là làm cho dân giàu, nước mạnh, nền kinh tế tăng trưởng một cách ổn định, vững chắc, đảm bảo hiệu quả và công bằng xã hội. Thực chất của việc định hướng sự phát triển của nền kinh tế là thống nhất các lợi ích khác nhau, qui tụ các lợi ích khác nhau về một lợi ích để sao cho trong khi mỗi người theo đuổi lợi ích cá nhân của mình cũng đồng thời góp phần của mình vào việc theo đuổi lợi ích dân tộc.Nói cách khác vai trò định hướng nền kinh tế của Nhà nước thể hiện ở chỗ: chính Nhà nước là người hoạch định các chương trình phát triển kinh tế-xã hội mà mỗi chương trình là mỗi cơ hội đầu tư mở rộng phát triển sản xuất cho các doanh nghiệp. Như vậy, bằng việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế,Nhà nước dẫn dắt các doanh nghiệp, chỉ cho họ thấy chỗ nào là có thể và nên đầu tư vào nơi nào là có lợi cho mình, đồng thời có lợi cho dân tộc. Bằng việc hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, Nhà nước có thể thực hiện được ý đồ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, theo vùng lãnh thổ, khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên, đưa thị trường trong nước hoà nhập vào thị trường thế giới làm cho nền kinh tế phát triển tăng trưởng, ổn định, vững chắc, công bằng và có hiệu quả. Ba là: Nhà nước tạo môi trường thuận lợi cho nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần. Mỗi cơ chế chỉ có thể hoạt động khi có môi trường với những điều kiện kinh tế-xã hội cần và đủ. Thực tiễn cho thấy rằng: con đường lịch sử tự nhiên của các nước có nền KTTT phát triển thường rất lâu dài. Ngày nay, khi kinh nghiệm lịch sử của các nước đã trở thành lý luận của ,các nước đi sau có thể rút ngắn chặng đường phát triển của mình bằng cách: Nhà nước chủ động sử dụng kiến trúc thượng tầng – quyền lực Nhà nước để tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp yên tâm đầu tư mở rộng phát triển sản xuất. Để hoàn thành vai trò đó ở nước ta,Nhà nước cần phảI: +/ Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tự do hoá giá cả, thuơng mại hoá nền kinh tế. +/ Quy định và bảo đảm các quyền của người chủ sở hữu về tư liệu sản xuất. +/ Đa dạng hoá chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất. +/ Xây dựng hệ thống pháp luật của nền KTTT. +/ ổn định về chính trị và xã hội. Bốn là: Nhà nước có thể phân phối lại thu nhập đối với các nhóm khác nhau thông qua các chương trình khuyến khích công bằng và sử dụng thuế. Trên thực tế thị trường không nhất thiết phải tạo ra sự phân phối thu nhập, bảo đảm sự bình đẳng hay công bằng về mặt xã hội vì thị trường hoạt động một cách tự nhiên, không tính đến khía cạnh nhân đạo và xã hội. Nó có thể tạo ra sự bất bình đẳng không thể chấp nhận được về thu nhập và tiêu dùng. Sở dĩ như vậy là do thu nhập phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: sự nỗ lực, trình độ giáo dục...cho nên kết quả là phân phối thu nhập không bình đẳng, từ đó dẫn tới sự tiêu dùng cũng sẽ có tính bất hợp lý.Nhưng đó không phải là khuyết tật của thị trường; và cũng không phải là không thể điều chỉnh lại phân phối thu nhập.Lúc này Nhà nước sẽ đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Nhà nước có thể can thiệp bằng một số biện pháp nhằm phân phối thu nhập một cách công bằng nhất, đảm bảo cho các thành viên trong xã hội có một mức sống ổn định, đời sống của người dân được nâng cao như chính sách phân phối, bảo hiểm xã hội, phúc lợi xã hội, thuế... Ví dụ như Nhà nước có thể đánh thuế với người có thu nhập càng cao thì phải đóng thuế càng nhiều. Hay thông qua quỹ phúc lợi xã hội để trợ cấp một khoản tiền cho người cao tuổi, người mù, người tàn tật, gia đình có công với cách mạng...Như vậy có thể đảm bảo một phần đời sống cho những người nghèo khổ. Năm là: Nhà nước có thể can thiệp vào quá trình kinh tế khi cần thiêt. Định hướng, tạo môi trường, phân phối thu nhập...là những công việc cần thiết thể hiện vai trò của Nhà nước trong một chiến lược dài hạn. Trong quá trình thực hiện các chiến lược đó, dưới ảnh hưởng của cơ chế cung, cầu,giá cả trong thị trường nội địa, đồng thời dưới ảnh hưởng của quan hệ kinh tế quốc tế không tránh khỏi những’’cú sốc” làm chệch các mục tiêu.Trong trường hợp đó, bằng việc sử dụng các công cụ như lãi suất, thuế, khôí lượng tiền tệ và chi tiêu ngân sách sẽ làm giảm những chấn động do cú sốc gây ra nhằm đưa nền kinh tế đi theo định hướng. Sáu là: Nhà nước quản lý tài sản quốc gia, góp phần phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý. Trong nền KTTT hướng tới ở nước ta, Nhà nước cùng một lúc phải hoàn thành hai nhiệm vụ lớn trong lĩnh vực kinh tế, đó là: Thứ nhất: điều khiển sự vận động của nền kinh tế bằng cách hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế-xã hội dài hạn và ngắn hạn, quyết định các phương án phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân sao cho bình đẳng, công bằng, hiệu quả; tạo môi trường thuận lợi, hướng dẫn các doanh nghiệp làm ăn, can thiệp vào nền kinh tế mỗi khi có ‘’cú sốc’’ xảy ra, chúng ta vẫn chủ động được. Thứ hai: cùng với chức năng đIều khiển nền kinh tế, Nhà nước còn phải đóng vai trò là người quản lý tài sản quốc gia, phân bổ các nguồn lực của sản xuất một cách hợp lý. Nhà nước ta là người thay mặt nhân dân quản lý các đặc quyền đặc lợi về kinh tế trong cương vực quốc gia. Về mật đối ngoại, Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ các nguồn lực, ngăn chặn mọi âm mưu từ bên ngoài đến các vùng đặc quyền đặc lợi trong lòng đất, vùng trời và vùng biển. Về mặt đối nội, Nhà nước là người chủ sở hữu các nguồn lực này; phân bổ , sử dụng giữa các thành phần kinh tế sao cho hợp lý. Đồng thời, Nhà nước còn là chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước. Với tư cách là chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước quản lý trực tiếp và đóng vai trò độc quyền các thị trường quan trọng, quyết định sự tồn tại của thể chế. Với tư cách là người chủ quản lý đất nước, Nhà nước là người trọng tàI, là chủ thể của quá trình phân công lại vai trò giữa các thành phần kinh tế để chúng không làm triệt tiêu lợi ích chung của toàn xã hội. Bảy là: Nhà nước thông qua thuế, chi tiêu và điều tiết tiền tệ để ổn định nền kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát, đồng thời khuyến khích tăng trưởng. Bất kỳ nền KTTT nào cũng khó tránh khỏi bị chấn động bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế, đều phải trải qua các chu kỳ kinh doanh, tức là những dao động lên xuống của GNP hoặc GDP kèm theo đó là các dao động lên xuống về mức độ thất nghiệp, lạm phát. Đây là căn bệnh kinh niên từ khi nền KTTT ra đời. Vậy ai sẽ là người ‘’phòng và chữa’’ những căn bệnh kinh niên đó đây? Vâng! Đó chính là Nhà nước. Thực tiễn lịch sử đã cho thấy: bằng việc sử dụng cẩn thận các chính sách tài khoá và tiền tệ, Nhà nước có thể tác động đến sản lượng, việc làm và lạm phát. Đó chính là hai chính sách kinh tế vĩ mô nhằm ổn định và tăng trưởng kinh tế. Chính sách tài khoá thể hiện: chính phủ, thông qua sự kiểm soát thuế khoá, chi tiêu và thông qua năng lực kiểm soát số lượng tiền trong nền kinh tế, thường hay cố gắng làm dịu những dao động lên xuống trong chu kỳ kinh doanh. Có thể ví dụ như: khi ở tình trạng suy thoái, Nhà nước có thể giảm thuế, nhờ đó có thể tăng chi tiêu của dân chúng dẫn đến GDP sẽ được nâng cao. Còn chính sách tiền tệ bao gồm: việc xác định mức cung tiền tệ và lãI suất. Chẳng hạn khi xảy ra lạm phát cao, ngân hàng Trung ương có thể áp dụng biện pháp’’thắt chặt tiền tệ’’ nhằm làm giảm lạm phát. Trên đây chỉ là những vai trò hết sức cơ bản cuả Nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Với sự tham gia điều tiết của Nhà nước, nền KTTT ngày càng phát triển ổn định và tăng trưởng. Như vậy là trong nền kinh tế hỗn hợp, cả Nhà nước và thị trường đều đóng vai trò quan trọng như nhau. Thị trường được coi là’’bàn tay vô hình’’, còn Nhà nước được coi là ‘’bàn tay hữu hình’’. Không ai vỗ tay chỉ bằng một bàn tay cả. Cũng như vậy một nền kinh tế muốn phát triển lành mạnh thì cả Nhà nước và thị trường đều rất cần thiết. Vì vậy Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định:phát triển nền KTTT có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Chương II- Mục tiêu quản lý vĩ mô của Nhà nước và một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và tăng cường vai trò của Nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. 1. Mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Từ sự phân tích ở trên ta khẳng định vai trò của Nhà nước trong nền KTTT là không thể phủ nhận. Vậy thì tại sao Nhà nước lại phải can thiệp vào nền KTTT. Nói cách khác mục tiêu của sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế là gì? Câu trả lời là: Nhà nước quản lý nền kinh tế nhằm 4 mục tiêu sau: Một là: Tăng sản lượng hàng hoá: Ngày nay, Nhà nước hết sức chú trọng đến vấn đề này. Nhà nước, thông qua các chính sách kinh tế nhằm phát triến sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Có như vậy mới có thể tạo ra được một nền kinh tế hàng hoá phát triển đa dạng và phong phú.Tổng sản lượng hàng hoá tăng lên thì cũng chính là tổng sản phẩm xã hội tăng lên và kéo theo tổng thu nhập cũng tăng lên. Như vậy sẽ làm tăng thu nhập của dân cư và đời sống của người dân sẽ ổn định.Điều này phản ánh một nền kinh tế phát triển cao. Hai là: ổn định giá cả thị trường: Giá cả trên thị trường là sự gặp nhau giữa người bán và người mua. Giá cả lên xuống xoay quanh giá trị.Chức năng ôưn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng là nhằm tạo ra sự phát triển ổn định,không có nhiều biến động lên xuống,làm cho hai yếu tố cung,cầu hà._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35423.doc
Tài liệu liên quan