Vai trò Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa

I, Các kiểu, hình thức nhà nước I.1, Khái niệm kiểu và hình thức nhà nước Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị thuộc về giai cấp nào,tồn tại trên cơ sở chế độ kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế-xã hội nào. Hình thức nhà nước là khái niệm dùng chỉ cách thức tổ chức và phương thức thực hiện quyền lực của nhà nước. I.2, Các kiểu và hình thức nhà nước trong lịch sử. Tương ứng với ba chế độ xã hội có đối kháng giai cấp trong lịch sử là hình thái kinh tế-xã hội chiếm

doc22 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1954 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Vai trò Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hữu nô lệ, hình thái kinh tế-xã hội phong kiến và hình thái kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa là ba kiểu nhà nước: nhà nước chiếm hữu nô lệ,nhà nước phong kiến, và nhà nước tư sản. Tuỳ theo tình hình kinh tế-xã hội cụ thể của mỗi quốc gia mà mỗi kiểu nhà nước được tổ chức theo những hình thức nhất định. Nhà nước chiếm hữu nô lệ:chỉ khác về cách tổ chức bộ máy nhà nước,nhưng noi chung chúng đều là bộ máy của giai cấp chủ nô, nhằm thực hiện chuyên chính đối với nô lệ. Nhà nước phong kiến: là nhà nước của giai cấp địa chủ phong kiến,cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau,nhưng dù tồn tại dưới bất cứ hình thức nhà nước nào thì nhà nước phong kiến cũng là chính quyền của giai cấp địa chủ, quý tộc. Nhà nước tư sản:là nhà nước của giai cấp tư sản,thích ứng với hình thái kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa.Cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng nói chung chỉ có hai hình thức cơ bản hình thức cộng hoà và hình thức quân chủ lập hiến. Hình thức của nhà nước tư sản rất phong phú, nhưng không làm thay đổi bản chất: là công cụ của giai cấp tư sản dùng áp bức bốc lột vô sản, quần chúng lao động. I.3 Khái niệm về Nhà nước pháp quyền Nhà nước pháp quyền là Nhà nước thể hiện thông qua 4 tiêu chí: Phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy Nhà nước phải do pháp luât quy định Nhà nước và công đan phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật Quyền lực của Nhà nước bao gồm: lập pháp, hành pháp, và tư pháp Có hệ thống pháp luật rõ ràng, rành mạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật trong xã hội. II>Một số lí luận về nhà nước pháp quyền Những lí luận của một số nhà triết học trước Mác về nhà nước pháp quyền. Như chúng ta đã biết, trong thời kì cổ đại đã tồn tại quan niệm ấu trĩ,ngụy biện cho rằng sức mạnh đẻ ra pháp luật, lẽ phải bao giờ cũng thuộc về kẻ mạnh. Những người nắm giữ công quền thả sức hoành hàn.Với vua chúa thì quyền lực của họ dường như không bị hạn chế.Khấp nơi thịnh hành học thuyết “đặc miễn quốc gia”, theo đó Nhà nước làm ra pháp luật thì phải đứng trên pháp luật. Tư tưởng về nhà nước pháp quền ra đời nhằm chống lại sự chuyên quyền, độc đoán,vô chính phủ, vô pháp luật đó, tức là gắn liền với việc xác lập và phát triển nền dân chủ. Salon, nhhà thông thái Hy Lạp (thế kỷ XI TCN) đã nêu ra tư tưởng tổ chức Nhà nước theo các nguyên tắc dân chủ. Ông ta cho rằng cần kết hợp sức mạnh với pháp luật trong viềc tổ chức Nhà nước Ai Cập cổ đại. Platon Nhà triết học ở Hy Lạp Platon (427-347 TCN ) đã viết :tôi nhìn thấy sự sụp đổ nhanh chóng của Nhà nước ở nơi nào mà pháp luật không có hiệu lực và nằm dưới quyền cuả một ai đó.Còn ở nơi nào mà pháp luật đứng trên các nhà cầm quyền và các nhà cầm quyền chỉ là các nô lệ của pháp luật thì ở đó tôi thấy có sự cứu thoát của Nhà nước. Ariston (384-322 TCN )khẳng định :pháp luật cần thống trị trên tất cả. Xixeron (104-44 TCN ) thể hiện tư tưởng về sự thống trị của pháp luật trong đời sống Nhà nước bằng cách đặt câu hỏi :Nhà nước là gì nếu không phải là trật tự chung.Theo ông, pháp luật là cội nguồn tạo ra chế độ Nhà nước. Ông cho rằng :Nhà nước là Nhà nước pháp quyền không phải do Nhà nước tuân thủ pháp luật của mình mà là vì cội nguồn,về bản chất, Nhà nước chính là pháp luật, pháp luật tự nhiên của nhân dân. Các nhà tư tưởng cổ đại không chỉ chú trọng tới tính tối cao của pháp luật, mà còn chú ý đến sự tổ chức hợp lý của hệ thống quyền lực Nhà nước, tổ chức các cơ quan Nhà nước phân định rõ ràng thẩm quyền của từng cơ quan đó. Marxist Những nhà tưởng vĩ đại đó tiếp tục được các nhà tư tưởng chính trị-pháp lý tư sản sau này phát triển như một thế giới mới. Đó là thế giới quan chống lại một cách kịch liệt sự chuyên quền phong kiến và tình trạng vô pháp luật, chống lại các chế độ chuyên chế độc tài và cảnh sát, khẳng định mạnh mẽ những tư tưởng nhân đạo,các nguyên tắc tự do và bình đẳng cá nhân, thừa nhận những quyền của con người không thể bị tước đoạt, tìm tòi những cơ cấu,hình thức và công cụ chống lại một cách không khoan nhượng tình trạng vô trách nhiệm của quyền lực đó đối với cá nhân và xã hội.Và chính đây là nội dung cốt lõi của một học thuyết mới -học thuyết Nhà nước pháp quyền tư sản. Học thuyết này ra đời phát triển ngày càng hoàn thiện qua các nhà tư tưởng vĩ đại thời kì này như Loccơ, Monterquieu, Cantơ, Heghen, Mohn, Kali…Cần phải thấy rằng, trong sự phát triển về mặt lịch sử và lý luận của học thuyết Nhà nước pháp quyền chịu ảnh hưởng của hai dòng tư tưởng: Một là, sự ngày càng khẳng định những quan niệm mới về tự do của con người thông qua việc tôn trọng tính tối cao của pháp luật-pháp luật tự nhiên. Hai là, vấn đề xác lập mối tương quan quyền lực chính trị mới giữa giai cấp tư sản đang lên về chế độ phong kiến đã lỗi thời. Hơn nữa, cần phải loại trừ tình trạng độc quyền, bán quyền lực trong một người hay một cơ quan. Học thuyết Nhà nước pháp quyền, vì lẽ đó, gắn liền với chủ nghĩa lập hiến tư sản. *Những lí luận của chủ nghĩa Mac-Lenin về vấn đề nhà nước pháp quyền 1-Nguồn gốc, bản chất, đặc trưng, chức năng của nhà nước. a-Nguồn gốc của nhà nước Xét sự phát triển của xã hội cộng sản nguyên thuỷ: ta thấy rằng ở xã hội cộng sản nguyên thuỷ thì các công cụ sản xuât đang còn thô sơ ,năng suất lao động đang còn thấp kém, vì thế người lao động chỉ đủ ăn chư chưa có sản phẩm dư thừa, quan hệ sản xuất của con người là làm chung và của cải làm ra đươc phân phát đều cho mọi người. Nhưng khi mà công cụ sản xuẩt đã được cải tiên thì làm xuất hiện sản phẩm dư thừa, khi đó một số người nắm giữ vai trò lãnh đạo sẽ chiếm làm của riêng và nó dẫn đến chỗ là quan hệ sản xuất cũ lạc sẽ bị phá bỏ và thay vào đó là một quan hế sản xuât mới và cũng dẫn đến việc ra đời của nhà nước chiếm hữu nô lệ. Nguyên nhân sau xa sự ra đời của nhà nước là do sự ra đời của quan hệ sản xuẩt chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuẩt. Còn nguyên nhân trực tiếp của sự ra đời của nhà nươc là sự đấu tranh giai cấp. Khi hai giai cấp đấu tranh quyết liệt thì sẽ xảy ra hai trường hợp là: Hai giai cấp đấu tranh trong thời gian dài sẽ dẫn đến xã hội không thể phát triển được. Hai giai cấp đấu tranh quyết liệt sẽ dẫn đến sự tiêu vong làm cho xã hội rối loạn không thể phát triển. Vì thế cần có một tổ chức đứng ra làm trung gian hoà giải,tổ chức đó chính là nhà nước.Nhưng chỉ có giai cấp nắm quyền bá chủ về kinh tế mới đủ sức thành lập nên nhà nước,vì thế nhà nước lại là công cụ của giai cấp nắm quyền về kinh tế để áp đặt lên các giai cấp khác, điều này càng làm cho mâu thuẫn thêm gay gẳt.Vì thế nhà nước vẫn luôn tồn tại và phát triển,thây đổi từ hình thức này sang hình thức. b-Bản chất nhà nước Nhà nước do giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế lập ra Nhà nước là một kiểu tổ chức xã hội có giai cấp. Nhà nước thực hiện sự chuyên chính về mặt giai cấp của giai cấp thống trị với các giai cấp khác. c-Đặc trưng của nhà nước. Quản lý dâu cư trên một vùng lãnh thổ. Có bộ máy quyền lực chuyên chính mang tính cưỡng chế với mọi thành viên. Hình thành hệ thống thuế để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị. d-Chức năng của nhà nước Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội Chức năng thống trị là chức năng mà Nhà nước làm công cụ chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự thống trị giai cấp đó với toàn xã hội. Chức năng xã hội của Nhà nước là chức năng Nhà nước thực hiện sự quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, thoả mãn một số nhu càu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước. Trong hai chức năng này thì hai chức năng thống trị chính trị là chức năng cơ bản nhất, chức năng xã hội phải phụ thuộc và phải phục vụ cho chức năng thống trị chính trị. Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại Cả hai chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Chúng là hai mặt của một nền thống nhất. Tính chất của chức năng đối nội quyết định đến tính chất của chức năng đối ngoại của nhà nước; ngước lại tính chất và những nhu cầu của chức năng đối ngoại có tác động mạnh mẽ trở lại chức năng đối nội. 2-Nhà nước chuyên chính vô sản Nhà nước chuyên chính vô sản là một nhà nước kiều mới Nhà nước chuyên chính vô sản là một nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Chuyên chính vô sản đống vai trò là thiết chế cần thiết để đảm bảo sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với nhân dân lao động đưa xã hội theo con đường xã hội chủ nghĩa. Chuyên chính vô sản là sự thống trị của giai cấp công nhân do cách mạng XHCN sản sinh và có sứ mạnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Trong lịch sử chưa từng có giai cấp nào bị áp bức bốc lột nào đạt được địa vị thống trị mà không phải trải qua chuyên chính. Chủ nghĩa Mac-Lênin chỉ ra rằng nhà nước vô sản là nhà nước đặc biệt ,nhà nước không còn nguyên nghĩa là nhà nước nửa nhà nước. Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Viêt Nam là một cột trụ trong hệ thống chính trị,là công cụ thực hiện quyền lực của nhân dân, là tổ chức thực hiện yền làm chủ của nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN. Nhà nươc quản lý mọi mặt đời sống bằng pháp luật, quản lý bằng kế hoạch, chính sách, đòn bảy kinh tế. Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước kiểu mới, được xây dựng trên nền tảng của chủ nghĩa Mac-LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là một Nhà nước đoàn kết toàn dân, dựa trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản. Đó là một Nhà nước khác về chất so với Nhà nước tư sản, và các kiểu Nhà nước trước đây chứa đựng thuộc tính áp bức bất bình đẳng và bất công Nhà nước CHXHCN Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc nhà nước pháp quyền của dân,do dân, vì dân,liên minh giai cấp công nhân và nhân dân,các từng lớp trí thức làm nền tảng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nhà nước được thành lập ra thông qua tổng tuyển cử toàn dân,dưới sự kiểm soát của nhân dân. Nhà nước thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nươc trong việc lập pháp,hành pháp,tư pháp. III-Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền 1-Sự ra đời của nhà nước pháp quyền ở Việt Nam Hồ Chí Minh Hồ Chí Minh-người khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà,trực tiếp đứng đầu Nhà nước đó trong 24 năm, đã lãnh đạo nhân dân ta nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử:giải phóng dân tộc,thống nhất đất nước và đưa đất nước tiến lên con đường chủ ấm no hạnh phúc,sánh vai cùng các nước tiên tiến trên thế giới. Trước khi ra đi tìm đường cứu nước,Hồ Chí Minh sống trong cảnh nước mất nhà tan từng chứng kiến cảnh nhân dân ta bị áp bức bốc lột nặng nề dưới chế độ hà khắc,bất chấp luật pháp của bọn thực dân Pháp trong và phong kiến Nam triều.Khi bôn ba hải ngoại,nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới, ý tưởng về nhà nước pháp quyền đã xuất hiện ở Hồ Chí Minh.Bởi vậy khi có điều kiện thể hiện ý tưởng của mình,người đã chớp thời cơ, đấu tranh để có được trước hết những quyền của người dân ghi trong pháp luật. Sau khi dành được chính quyền,trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ,Hồ Chí Minh đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách,trong đó nhiệm vụ thứ 3 là:Phải có một hiến pháp dân chủ,và đề nghị sớm tổ chức tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Đó là việc tiếp tục xây dựng một nhà nước pháp quyền,một nhà nước dân chủ ,hợp pháp,một nhà nước thực sự đại diện cho dân,do dân,do toàn dân bầu cử ra và quản lý xã hội bằng pháp luật.Cuộc tổng tuyển cử đầu tiên trong cả nước được thực hiện ngày 6 tháng 1 năm 1946 và đã bầu ra Quốc hội đầu tiên của cả nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng hiến pháp và pháp luật,khẳng định pháp luật của nhà nước ta là ý chí chung của nhân dân,của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt trong tư tưởng của chính trị của Người có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa pháp trị và đức trị.Người nói:không xử phạt là không đúng,song chút gì cũng trừng phạt là không đúng.Nhà nước là phải vừa giáo dục vừa sử dụng pháp luật để cải tạo họ,giúp họ trở nên lương thiện.Xây dựng nhà nước pháp quyền,yêu cầu mọi người sống và làm việc tuân thủ theo pháp luật là nội dung chủ đạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước.Hồ Chí Minh nói:Nhà nước ta là nhà nước của dân,bao nhiêu quyền hạn là của dân,vận mệnh quốc gia trong tay nhân dân. 2-Những nội dung chính trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam 2/9/1945 Tư tưởng của Người về Nhà nước của nhân dân.Dân bầu ra chính quyền Nhà nước ở Trung ương và chính quyền các cấp. Ngay sau ngày thành lập nước,Người yêu cầu tổ chức “càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”.Người nhấn mạnh : “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nhà nước.Trong cuộc tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì đều có quyền bầu cử.Lần đầu tiên toàn thể nhân dân Việt Nam lao động có quyền ứng cử và bầu cử. Đây là điều hết sức mới mẻ đối với nhân dân lao động Việt Nam.Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Tổng tuyển cử là dịp cho toàn thể quốc dân lựa chọn những người có tài,có đức để gánh vác công việc của nước nhà.Có như thế dân mới thực hiện được nguyện vọng và ý chí của mình. Đồng thời cũnn xuất phát từ tình hinh cấp bách phải chuyển từ chính phủ lâm thời sang chính thức để đối phó với nước ta lúc bấy giờ”. Đó là một ý tưởng tuyệt vời của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một nhà nước của dân. Nhận thức được vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nhà nước do. Điều đó có nghĩa là dân không chỉ lập ra nhà nước mà còn phải tham gia vào công việc quả lý nhà nước.Tất cả nhiệm vụ, quyền hạn đều của dân.Nhà nước do dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là dân tự làm, tự lo việc, thông qua các mối quan hệ xã hội,qua các đoàn thể, chứ không phải Nhà nước bao cấp,lo thay cho dân, làm cho dân thụ động, ỷ lại, chờ đợi.Chính vì vậy Nhà nước do dân xây dựng và làm chủ, đặt dưới sự kiểm tra và kiểm soát của nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn là nhà nước tin dân, mọi lực lượng đều ở nơi dân, do dân nắm mọi quyền hành.Nhà nước tin dân, dân tin ở sự lãnh đạo của nhà nước thì việc gì cũng làm được. Nhà nước do dân tức là dân phải tham gia vào công việc của nhà nước. Quốc hội nước ta tuy vị trí cao nhất song không phải là cơ quan tập trung tất cả quyền lực. Khi xuất hiện những công việc liên quan đến vận mệnh của quốc gia, thì sẽ được đưa ra nhân dân giải quyết, nếu ba phần tư tổng số đại biểu của quốc hội đồng ý (điều 22 Hiến pháp 1946). Hội đồng nhân dân được xem như là một cơ quan tự quản của dân, do dân địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương. Nhà nước do dân tức là mọi công việc xây dựng đất nước là trách nhiệm của quần chúng nhân dân. Do đó, phải phát huy vai trò của mặt trận, các đoàn thể trong công tác quản lý Nhà nước và xã hội, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề nhân dân thảo luận, phát huy sáng kiến và tìm cách giải quyết các vấn đề của đất nước. Người nói: “Dân như nước, mình như cá”, “lực lượng nhiều là ở dân hết”, “công việc đổi mới, xây dựng đất nước là trách nhiệm của dân”. Do vậy, Nhà nước muốn điều hành, quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả, nhất định phải dựa vào dân, dựa vào sáng kiến và trí tuệ của dân. “Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân...Chính phủ chỉ giúp kế hoạch cổ động.” Nhà nước do dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là dân tự làm, tự lo việc, thông qua các mối quan hệ trong xã hội, qua các đoàn thể, chứ không phải Nhà nước bao cấp, lo thay dân, làm cho dân thụ động, ỷ lại, chờ đợi. Người cho rằng: “Làm việc gì cũng phải có quần chúng tham gia bàn bạc, khó đến mấy cũng trở nên dễ dàng và làm được tốt... “Dễ mười lần không dân cũng chịu Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Chính vì vậy, Nhà nước do dân xây dựng và làm chủ, đặt dưới sự kiểm tra và kiểm soát của nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn là Nhà nước tin dân, mọi lực lượng đều ở nơi dân, do dân nắm mọi quyền hành. Nhà nước tin dân, dân tin ở sự lãnh đạo của Nhà nước thì việc gì cũng làm. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước vì dân là Nhà nước phục vụ lợi ích của nhân dân, đảm bảo quyền dân chủ rộng rãi và có hiệu quả trong đời sống xã hội. Đây là tư tưởng nhất quán,nổi bật trong đời hoạt động của Người từ những năm bôn ba nươc ngoài cho đến khi trở thành lãnh tụ tối cao của dân tộc Việt Nam, của Nhà nước Việt Nam. Trong cuộc họp đầu tiên của Uỷ ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc sau tháng 8 năm 1945, Ngưòi nêu rõ mục tiêu của nhà nước: Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành. Người còn nói: “chúng ta hy sinh phấn đấu để giành lại độc lập.Chúng ta đã tranh được nó…Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng chẳng để làm gì.Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Nhà nước vì dân không chỉ biết làm lợi cho dân mà còn phải kính dân.Người nói : “Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”.Trong lời dạy của Người thể hiện rõ sự kế thừa có sáng tạo các tư tưởng của các bậc tiền bối: Dân là gốc, là quý và phải đối đãi dân như thế nào thì dân mới kính mến, yên nhà cầm quyền. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước vì dân còn là Nhà nước sống trong lòng dân, tạo sự công bằng cho dân, đặt lợi ích của Nhà nước gắn chặt với lợi ích cuả quần chúng nhân dân.Như vậy, Nhà nước do dân xây dựng, phải là nhà nước hoạt động vì lợi ích của con người.Con người ở đây trước hết là nhân dân lao động nói chung,bao gồm công nhân, nông dân, trí thức và các giai tầng xã hội khác trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.Các giai cấp, tầng lớp ấy là lực lượng của toàn dân tộc, là những người gắn vận mệnh của mình với vận mệnh của toàn dân tộc.Vì dân, vì con người,vì sự nghiệp thúc đẩy tiến bộ của con người, của dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Để có một Nhà nước thực sự là của dân,do dân và vì dân, Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở phải xây dựng một bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh, đấu tranh với những bệnh tật như tham nhũng ,quan liêu, hách dịch, cửa quyền, vi phạm quyền và lợi ích của nhân dân lao động.Nhà nước vì dân còn là Nhà nước có trách nhiệm trước dân.Nhiều lần Người con dặn: “bất cứ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước dân”. “Chính sách của Đảng và Chính phủ phải hết sức chăm nom đến đời sống của dân, nếu dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi. Trong lịch sử,trong tư tưởng“lấy dân làm gốc” đã sơm xuất hiện ở những nhà lãnh đạo, những nhà chính trị lớn.Nhưng đến Hồ Chí Minh, tư tưởng về Nhà nước của dân, do dân và vì dân được phát triển sau sắc, phong phú về nội dung, với chất lượng mới, trở thành một quan điểm khoa học, nhân đạo về bản chất của Nhà nước mới – Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nếu nhà nước “lấy dân làm gốc” là tư tưởng chính trị truyền thống thì đến Hồ Chí Minh, tư tưởng ấy được diễn đạt trong một mệnh đề chủ động hết sức giản dị, tự nhiên : “Dân là gốc nước” đúng như mấy câu thơ của Người: “Gốc có vững thì cây mới bền Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” Ngày nay, chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa và lấy tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân của Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng cho chúng ta trong công cuộc xây dựng đó. IV-Vai trò của Nhà nước pháp quyền trong việc xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay Quốc hội Việt Nam ngày 13/4/2007 Trên cơ sở tổng kết thực tiễn 45 năm xây dựng Nhà nước cách mạng Việt Nam; từ kết quả vận hành của bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1980; tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới, Đại hội VI (12/1986), đặc biệt là Đại hội VII (6-1996) đã xác định nhiệm vụ cấp bách trong xây dựng, củng cố Nhà nước là sửa đổi Hiến pháp, tạo cơ sở pháp lý để tiếp tục cải cách bộ máy nhà nuớc.Tại kỳ họp thứ 11 (từ ngày 24-3 đến 15-4-1992), Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp mới - Hiến pháp 1992, có hiệu lực từ ngày 15-4-1992. Hiến pháp 1992 đã kế thừa những Hiến pháp trước đó, nhất là Hiến pháp 1946 của Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp mới đã có những phát triển mới trên nhiều nội dung, phù hợp với thực tiễn của công cuộc đổi mới. Có thể thấy, bước phát triển rõ nét nhất của Hiến pháp 1992 (sửa đổi) chính là sự khẳng định tiếp tục “xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Thực tiễn đổi mới trong những năm qua đã khẳng định yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng như một xu thế tất yếu, mang tính quy luật của quá trình đi lên CNXH trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nói cách khác, Nhà nước pháp quyền Việt Nam là công cụ cơ bản, chủ yếu để xây dựng CNXH. Cơ sở kinh tế của Nhà nước pháp quyền Việt Nam là nền kinh tế thị trường XHCN. Cơ sở chính trị là nền dân chủ XHCN. Cơ sở xã hội của Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN là khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo Vai trò của Nhà nước pháp quyền ở nước ta với chế độ chính trị: Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả. Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động cùng với cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác; tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách hoà bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới. Vai trò của Nhà nước ta với nền kinh tế. Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng. Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị trường thế giới. Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước tạo điều kiện để củng cố và mở rộng các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả Kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh.Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển. Nhà nước thống nhất quản lý và mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, phát triển các hình thức quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và cùng có lợi, bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước. Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế; bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hoá.Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước. Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách; phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý Nhà nước giữa các ngành, các cấp; kết hợp lợi ích của cá nhân, của tập thể với lợi ích của Nhà nước.Nhà nước có chính sách bảo hộ quyền lợi của người sản xuất và người tiêu dùng. Vai trò của Nhà nước ta về văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ : Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hoá Việt Nam: dân tộc, hiện đại, nhân văn; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân. Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hoá. Nghiêm cấm truyền bá tưtưởng và văn hoá phản động, đồi trụy; bài trừ mê tín, hủ tục. Nhà nước tạo điều kiện để công dân phát triển toàn diện, giáo dục ý thức công dân, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, giữ gìn thuần phong mỹ tục, xây dựng gia đình có văn hóa, hạnh phúc, có tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, có tinh thần quốc tế chân chính, hữu nghị và hợp tác với các dân tộc trên thế giới. Nhà nước đầu tư phát triển văn hoá, văn học, nghệ thuật, tạo điều kiện để nhân dân được thưởng thức những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị; bảo trợ để phát triển các tài năng sáng tạo văn hóa, nghệ thuật. Nhà nước phát triển các hình thức đa dạng của hoạt động văn học, nghệ thuật, khuyến khích các hoạt động văn học, nghệ thuật quần chúng. Nhà nước phát triển công tác thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình, điện ảnh, xuất bản, thư viện và các phương tiện thông tin đại chúng khác. Nghiêm cấm những hoạt động văn hoá, thông tin làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam. Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển các di sản văn hoá dân tộc; chăm lo công tác bảo tồn, bảo tàng, tu bổ, tôn tạo, bảo vệ và phát huy tác dụng của các di tích lịch sử, cách mạng, các di sản văn hoá, các công trình nghệ thuật, các danh lam, thắng cảnh. Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích các nguồn đầu tư khác.Nhà nước phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ thống văn bằng. Nhà nước phát triển cân đối hệ thống giáo dục: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiêp, giáo dục đại học và sau đại học, phổ cập giáo dục tiểu học, xoá nạn mù chữ; phát triển các hình thức trường quốc lập, dân lập và các hình thức giáo dục khác. Nhà nước thực hiện chính sách ưu tiên bảo đảm phát triển giáo dục ở miền núi, các vùng dân tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn. Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách khoa học, công nghệ quốc gia; xây dựng nền khoa học, công nghệ tiên tiến; phát triển đồng bộ các ngành khoa học nhằm xây dựng luận cứ khoa học cho việc định ra đường lối, chính sách và pháp luật, đổi mới công nghệ, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao trình độ quản lý, bảo đảm chất lượng và tốc độ phát triển của nền kinh tế; góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia. Nhà nước đầu tư và khuyến khích tài trợ cho khoa học bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, ưu tiên cho những hướng khoa học, công nghệ mũi nhọn; chăm lo đào tạo và sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật nhất là những người có trình độ cao, công nhân lành nghề và nghệ nhân; tạo điều kiện để các nhà khoa học sáng tạo và cống hiến; phát triển nhiều hình thức tổ chức, hoạt động nghiên cứu khoa học, gắn nghiên cứu khoa học với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học, đào tạo với sản xuất, kinh doanh. Nhà nước đầu tư, phát triển và thống nhất quản lý sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, huy động và tổ chức mọi lực lượng xã hội xây dựng và phát triển nền y học Việt Nam theo hướng dự phòng; kết hợp phòng bệnh với chữa bệnh; phát triển và kết hợp y dược học cổ truyền với y dược học hiện đại; kết hợp phát triển y tế Nhà nước với y tế nhân dân; thực hiện bảo hiểm y tế, tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khoẻ.Nhà nước ưu tiên thực hiện chương trình chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào miền núi và dân tộc thiểu số. Nhà nước và xã hội phát triển nền thể dục, thể thao dân tộc, khoa học và nhân dân. Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp phát triển thể dục, thể thao._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0549.doc
Tài liệu liên quan