Vấn đề hoàn thiện địa vị pháp lý của Công ty TNHH trong giai đoạn hiện nay

Mục lục Trang Lời nói đầu 3 Chương I Những vấn đề chung về công ty trách nhiệm hữu hạn 5 I Sự ra đời và phát triển của công ty trách nhiệm hữu hạn 5 II Vị trí, vai trò của công ty trách nhiệm hữu hạn trong nền kinh tế thị trường 7 III Đặc điểm của công ty trách nhiệm hữu hạn 9 Chương II Địa vị pháp lý của công ty trách nhiệm hữu hạn theo pháp luật hiện hành 13 I Khái niệm và đặc điểm của công ty trách nhiệm hữu hạn theo pháp luật hiện hành 13 1 Công ty trách nhiệm hữu hạn

doc56 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1246 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vấn đề hoàn thiện địa vị pháp lý của Công ty TNHH trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hai thành viên trở lên 13 2 công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 14 II Thành lập, giải thể, phá sản công ty trách nhiệm hữu hạn 16 1 Quy chế thành lập công ty 16 2 Quy chế giải thể và phá sản công ty 23 III Quyền và nghĩa vụ của công ty trách nhiệm hữu hạn 27 1 Quyền của công ty trách nhiệm hữu hạn 27 2 Các nghĩa vụ của công ty trách nhiệm hữu hạn 31 IV Quy chế thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn 35 1 Xác lập và chấm dứt tư cách thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn 35 2 Quyền và nghĩa vụ của công ty trách nhiệm hữu hạn 38 V Tổ chức quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn 39 1 Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên 39 2 Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 43 Chương III Vấn đề hoàn thiện địa vị pháp lý của công ty trách nhiệm hữu hạn trong giai đoạn hiện nay 45 I Những đổi mới của Luật doanh nghiệp về địa vị pháp lý của công ty trách nhiệm hữu hạn 45 1 Thực trạng hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn 49 2 Những vấn đề pháp lý đặt ra cần giải quyết 51 II Một số ý kiến về địa vị pháp lý của công ty trách nhiệm hữu hạn trong giai đoạn hiện nay 51 1 Một số ý kiến về công ty trách nhiệm hữu hạn trong giai đoạn hiện nay 51 2 Các giải pháp pháp luật bảo đảm cho hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn 53 Kết luận 54 Tài liệu tham khảo 56 Lời nói đầu Công ty trách nhiệm hữu hạn(TNHH) đã xuất hiện từ lâu, đầu tiên ở Đức năm 1982 là kết quả của hoạt động lập pháp. Đúng như dự đoán của các nhà làm luật sau khi có Luật công ty TNHH, ngay lập tức nó nhận được sự hưởng ứng của các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư có vốn nên nó kết hợp được ưu điểm về chế độ trách nhiệm của công ty cổ phần và ưu điểm về chế độ trách nhiệm hữu hạn của công ty đối vốn, đồng thời nó còn kết hợp được ưu điểm về chế độ chịu trách nhiệm của công ty cổ phần và ưu điểm của các thành viên quen biết nhau trong công ty đối nhân. Từ khi ra đời đến nay, số lượng các công ty TNHH đã phát triển nhanh chóng, quy mô và là một trong những loại hình công ty quan trọng trên thế giới. Nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên khi tham gia công ty, Nhà nước cần có sự điều chỉnh đối với các hoạt động của công ty. Năm 1990 với sự ra đời của Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân thì sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân mới được Chính phủ thừa nhận. Đây là bước chuyển biến cơ bản có vị trí đặc biệt quan trọng mở đầu cho quá trình đối mới nền kinh tế quốc dân và được lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến kỳ họp ngày 12/6/1999 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Luật doanh nghiệp thay thế cho Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân, trong đó quy định về công ty TNHH. Luật doanh nghiệp được ban hành đã thể chế hoá đường lối đổi mới nền kinh tế của Đại hội Đảng VI thành pháp luật và được lối này thực tế đã khẳng định sự đúng đắn của nó. Luật doanh nghiệp được ban hành là một đảm bảo pháp lý cho các nhà đầu tư, giúp họ thực hiện quyền tự do kinh doanh của mình. Luật doanh nghiệp ra đời để thực hiện đường lối phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, huy động và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả, tạo thêm nhiều việc làm, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người góp vốn đầu tư, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh. Luật doanh nghiệp quy định về các loại hình doanh nghiệp trong đó có công ty TNHH, luật đã quy định về quyền và nghĩa vụ của công ty, cách thức thành lập, phạm vi hoạt động, điều kiện của thành viên công ty. Ưu điểm lớn nhất của công ty là chế độ TNHH, công ty chỉ chịu trách nhiệm về khoản nợ của công ty trong phạm vi tài sản của mình. Do có chế độ TNHH mà nó giúp cho các nhà đầu tư mạnh dạn đầu tư vào bất kỳ lĩnh vực nào của nền kinh tế. Thực tế cho thấy công ty TNHH, các tổ chức thông thường là người quen biết, có sự tin cậy nhất định vào nhau, nó rất phù hợp với những doanh nghiệp có quy mô trung bình và nhỏ. Theo thống kê thực tế cho thấy hơn mười năm qua trong cả nước đã có hơn 35.000 doanh nghiệp gồm các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần được thành lập. Nhìn chung sự phát triển của công ty diễn ra khá nhanh. Trong một thời gian ngắn nó đã phát huy được tác dụng tích cực đối với việc huy động vốn, giải quyết việc làm, đám ứng được yêu cầu của thị trường, kích thích tính năng động sáng tạo và thức tỉnh ý thức kinh doanh tự vươn lên hạn chế sự trông chờ, ỷ lại của các công ty vào Nhà nước. Tuy nhiên, cho đến nay trước yêu cầu của công cuộc đổi mới kinh tế, qua thực tiễn áp dụng Luật công ty ở nước ta đã xuất hiện nhiều điểm bất cập, không phù hợp với nền kinh tế hiện nay. Chính vì vậy, vẫn còn nhiều vấn đề cần phải được nghiên cứu, trao đổi thêm nhằm giúp cho Luật doanh nghiệp có thể thực sự phát huy tác dụng và đi vào cuộc sống, đồng thời nhằm hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của công ty TNHH, một loại hình doanh nghiệp có nhiều điểm phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay. Bố cục của khoá luận được thực hiện qua các phần sau: - Lời nói đầu. - Chương I: Những vấn đề chung về Công ty trách nhiệm hữu hạn. - Chương II: Địa vị pháp lý của Công ty trách nhiệm hữu hạn. - Chương III: Vấn đề hoàn thiện địa vị pháp lý của công ty trách nhiệm hữu hạn trong giai đoạn hiện nay. - Kết luật. - Tài liệu tham khảo. Chương I Những vấn đề chung về công ty trách nhiệm hữu hạn I. Sự ra đời và phát triển của công ty trách nhiệm hữu hạn. Trong nền kinh tế nước ta hiện nay tư trước tới nay có nhiều đơn vị gọi là công ty, khái niệm công ty được sử dụng cho các đơn vị kinh tế chuyên hoạt động thương nghiệp, dịch vụ để phân biệt với các doanh nghiệp chuyên hoạt động sản xuất. Khái niệm công ty không được hiểu theo bản chất pháp lý mà được hiểu theo hình thức kinh doanh. Trong nền kinh tế hàng hoá không có Luật công ty. Theo khái niệm trên thì có nhiều loại công ty, với những mục đích khác nhau trong đó có các loại hình công ty thương mại hay kinh doanh là phổ biến ngoài ra còn có các loại hình công ty dân sự. Từ khái niệm trên, công ty kinh doanh có những đặc điểm cơ bản sau: - Công ty là sự liên kết nhiều cá nhân và pháp nhân, sự liên kết này được thể hiện ở hình thức bên ngoài là một một tổ chức. - Các thành viên phải bỏ ra một số tài sản của mình để góp vốn vào công ty. Đây là điều kiện quan trọng để thành lập công ty. Tuy nhiên, vai trò góp vốn của các loại công ty khác nhau. Mục đích của việc thành lập công ty là để kinh doanh kiếm lời. Như vậy, về thực chất, công ty kinh doanh là loại hình doanh nghiệp có sự liên kết ít nhất là hai bên, các bên tham gia có thể là nhân, pháp nhân, nó hoàn toàn khác với doanh nghiệp một chủ sở hữu. Cũng như các hoạt động kinh tế khác, công ty ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện nhất định. Trong xã hội, khi nền tảng hàng hoá đã phát triển ở lĩnh vực nhất định để mở mang kinh doanh, các nhà kinh doanh cần phải có nhiều vốn để đáp ứng nhu cầu về vốn buộc các nhà kinh doanh phải liên kết với nhau trên cơ sở vốn và tin tưởng lẫn nhau, sự liên kết theo các hình thức nhất định tạo ra mô hình tổ chức mới là công ty. Mặt khác, khi sản xuất hàng tiêu dùng, hàng hoá phát triển thì sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng khắc nghiệt hơn. Các nhà doanh nghiệp có vốn đầu tư thấp thường ở vào vị trí bất lợi trong quá trình cạnh tranh vì vậy, các nhà kinh doanh phải liên kết với nhau thông qua hình thức là góp vốn để thành lập một doanh nghiệp vững chắc trên thị trường. Hơn nữa, trong kinh doanh thường gặp rủi ro, các nhà kinh doanh phải liên kết với nhau để nếu có rủi ro xảy ra thì nhiều người cùng gánh chịu, điều này có lợi so với doanh nghiệp một chủ. Mô hình liên kết này tỏ ra hấp dẫn, phù hợp với nền kinh tế thị trường và những người kinh doanh. Do vậy, công ty đã được các nhà kinh doanh tiếp thu và áp dụng. Như vậy, sự ra đời của công ty là một quy luật khách quan trong nền kinh tế thị trường. Công ty ra đời là kết quả của việc thực hiện nguyên tắc tự do kinh doanh, tự do quy ước, tự do lập hội. Sự ra đời của công ty kinh doanh đã kéo theo những nhu cầu cần phải có luật về công ty. Pháp luật công ty là một tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ phát sinh trực tiếp trong quá trình thành lập, hoạt động, phát triển và kết thúc hoạt động của công ty. Pháp luật công ty bảo vệ lợi ích chung của công ty. ở Việt Nam, Luật công ty ra đời muộn và chậm phát triển. Mặc dù hoạt động thương mại đã có từ lâu và trong lịch sử hoạt động thương mại để điều chỉnh cân bằng thông lệ thương mại, ở Việt Nam xuất hiện nhiều loại công ty dưới hình thức hội, vì thế Luật công ty gắn liền với Luật dân sự và Luật thương mại. Từ sau năm 1854 đất nước chia làm hai miền, do đó, có hai hệ thống pháp luật khác nhau. ở miền Bắc bắt đầu xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với hai thành phần kinh tế chủ yếu là quốc doanh và tập thể nên không có công ty và Luật công ty. ở miền Nam, Bộ luật thương mại Sài Gòn 1972 cũng có quy định về hội YNHH gần giống với các đặc điểm đặc trưng của công ty TNHH. Từ năm 1986, Đảng ta quyết định chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày 12/12/1990 Quốc hội đã thông qua Luật công ty, quy chế pháp lý của công ty TNHH và công ty cổ phần. Điều này đã đánh dấu mốc quan trọng trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Thực tế cho thấy rằng, Luật công ty đã có những đóng góp tích cực vào thành công phát triển kinh tế xã hội ở nước ta trong gần 10 năm qua. Tuy nhiên, bên cạnh đó Luật công ty cũng dần dần bộc lộ nhiều thiếu sót, chưa theo kịp sự phát triển của nền kinh tế và sự hội nhập quốc tế. Nhận thức được yêu cầu của thực tế trên, ngày 12/6/1999 Quốc hội đã thông qua Luật doanh nghiệp năm 1999 thay thế cho Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. II. Vị trí, vai trò của công ty trách nhiệm hữu hạn trong nền kinh tế thị trường. Vai trò quan trọng của Công ty TNHH không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường nên khi Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường thì cần phải có loại hình công ty này. Ra đời năm 1982 tại Đức, công ty TNHH được luật pháp các nước Châu Âu lục địa thừa nhận và phát triển mạnh mẽ cho tới ngày nay. ở các nước phát triển đặc biệt là các nước tư bản chủ nghĩa, công ty TNHH đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động thương mại cũng như trong nền kinh tế tự tư bản chủ nghĩa. Đây là loại công ty kết hợp được những ưu điểm về chế độ TNHH của công ty cổ phần và ưu điểm các thành viên quen biết nhau của công ty đối nhân. Nó khắc phục được nhược điểm về sự phức tạp khi thành lập và quản lý của công ty cổ phần, nhược điểm không phân chia được rủi ro của công ty đối nhân. Chính vì vậy mà hiện nay công ty TNHH trở nên quan trọng bậc nhất và đã được phần lớn các nhà kinh doanh lưu tâm tới. Trong nền kinh doanh thị trường, chế độ trách nhiệm hữu hạn tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh hạn chế rủi ro bằng cách chia sử trách nhiệm cho nhiều người, giúp cho các nhà đầu tư mạnh dạn đầu tư vào bất kỳ lĩnh vực kinh tế nào có lợi cho xã hội. Công ty đã tạo điều kiện cho bất kỳ nhà đầu tư nào cũng có thể góp vốn của họ. Điều này đã thu hút được nhiều các nhà đầu tư cũng như người có vốn quan tâm đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì thế, có thể nói công ty TNHH đã chiếm vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Việc thu hút đầu tư từng bước đưa nền kinh tế phát triển, mở rộng quy mô địa bàn và đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh. Số lượng các công ty TNHH ngày càng tăng đã dần dần chứng minh được tầm quan trọng của nó. Thực tế ở Việt Nam cho thấy các nhà đầu tư cũng rất thích thú với loại hình kinh doanh này. Nhất là trong tình hình hiện nay nước ta đang từng bước đổi mới nên kinh tế toàn diện trong đó có cơ cấy kinh tế hoà nhập với nền kinh tế của các nước trên thế giới. Trước năm 1986, nền kinh tế nước ta có đặc điểm là xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chủ yếu là hai thành phần quốc doanh và tập thể. Trong thời kỳ này kinh tế tư nhân không có điều kiện phát triển do hoàn cảnh lịch sử. Thành phần kinh tế tư nhân lại dựa trên cơ sở sản xuất nhỏ và là thành phần kinh tế không thuần nhất. Nói chung về mặt kinh tế họ đều là những sở hữu nhỏ, tiến hành hoạt động kinh tế bằng chính lao động của mình. Nền kinh tế Việt Nam giai đoạn này là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp chứ không phải là nền kinh tế hàng hoá với sự đa dạng của các thành phần kinh tế. ở đó không có sự cạnh tranh mà chỉ có hai thành phần là kinh tế quốc doanh và tập thể với vai trò bao trùm của Nhà nước từ khâu sản xuất đến khâu phân phối, lưu thông, Nhà nước không khuyến khích làm giàu, không khuyến khích tư nhân phát triển kinh tế. Tư nhân không được phép đầu tư vào các dự án lớn, vì vậy thời kỳ này không có cạnh tranh nên không có rủi ro. Cơ chế đó đã làm vai trò của nền kinh tế tư nhân trong giai đoạn này không phát triển và không có vị trí trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp ở nước ta. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 do có sự nhận thức đúng đắn tình hình kinh tế của nước ta lúc bấy giờ nên Nhà nước ta chuyển nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế Việt Nam trước đây chủ yếu là tự cấp tự túc với cơ chế cấp phát giao nộp tiền thì hiện nay nền kinh tế của Việt Nam đã chuyển đổi để phù hợp với sự phát triển của đất nước. Nhà nước đã dần dần giảm bớt các chỉ tiêu pháp lệnh có tính áp đặt và xoá bỏ sự không có giới hạn vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế, chuyển dần việc điều chỉnh của mình thông qua việc quản lý vĩ mô như thuế, pháp luật... Các thành phần kinh tế nước ta, tập thể và tư nhân có thể thay đổi về vai trò và cơ chế hoạt động trong đó có vai trò chủ đại vẫn thuộc về thành phần kinh tế quốc doanh, nghĩa là quốc doanh vẫn nắm giữ một số ngành then chốt, thông qua kinh tế quốc doanh, Nhà nước tác động vào nền kinh tế. Mục đích của việc giữ vai trò chủ đạo cho nền kinh tế quốc doanh là nhằm đảm bảo cho sự phát triển ổn định và có hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, các thành phần kinh tế khác như kinh tế tập thể, hợp tác xã cũng có những thay đổi theo hướng giảm dần sự can thiệp của Nhà nước. Vì vậy, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường của Việt Nam không chỉ đơn giản là sự chuyển biến thuần tuý về mặt kinh tế mà phải gắn liền với sự thay đổi căn bản về mặt xã hội và tạo ra sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng tiến bộ xã hội. Hiện nay chúng ta đang xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, các thành phần kinh tế đều được khuyến khích phát triển. Các doanh nghiệp đều bình đẳng với nhau trong hoạt động kinh doanh và bình đẳng trước pháp luật. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phạm vi hoạt động, lĩnh vực hoạt động của kinh tế quốc doanh sẽ thu hẹp nhưng nó vẫn giữ vai trò chủ đạo bởi nó vẫn sẽ tồn tại và phát triển ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế. Nhà nước cần phải có những công ty TNHH ở những lĩnh vực khác nhau can thiệp vào nền kinh tế thị trường. Sự tồn tại duy nhất của công ty TNHH trong nền kinh tế thị trường và đặc biệt là ở nước ta hiện nay là một tất yếu khách quan. Để công ty TNHH phát huy được vai trò chủ đạo của mình đòi hỏi Nhà nước phải có chính sách hợp lý với công ty TNHH. Đó là yếu tố quan trọng chi phối qua trình thành lập và điều chỉnh pháp lý đối với việc tổ chức và hoạt động của công ty TNHH. III. đặc điểm của công ty trách nhiệm hữu hạn. Như bất kỳ một hiện tượng kinh tế nào, công ty ra đời phát triển và tồn tại trong những điều kiện lịch sử nhất định. Trong xã hội, khi nền kinh tế xã hội phát triển thì nhu cầu mở rộng kinh doanh cũng dần được hình thành. Để đáp ứng được nhu cầu vốn cho kinh doanh buộc các nhà kinh doanh phải liên kết với nhau, họ đã liên kết theo hình thức nhất định và tạo ra mô hình kinh doanh mới đó là công ty. Lúc đầu công ty chỉ xuất hiện ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, nơi có những nguyên nhân, điều kiện, môi trường kinh doanh thuận lợi. Sau đó công ty ngày càng phát triển và mở rộng trên thế giới. Theo quy định chung của các thương gia trong quá trình hoạt đoạt động kinh doanh của mình, dưới sự tác động của những biến đổi trong đời sống kinh tế xã hội, tiến hành thành lập các doanh nghiệp phù hợp với pháp lý điều chỉnh nó. Nhưng đối với công ty TNHH lại có con đường hình hành riêng. Công ty TNHH ra đời tại Đức năm 1892, lịch sử hình thành của nó sẽ chứng minh và làm sáng tỏ bản chất pháp lý của nó. Trong hoàn cảnh lịch sử lúc đó, bên cạnh các công ty cổ phần ra đời trước với một quy mô lớn, các nhà đầu tư thấy thiếu một loại hình công ty thích hợp cho các loại hình đầu tư vừa và nhỏ. Song họ muốn tận dụng khả năng “đối vốn” của công ty cổ phần lại không chịu quy chế trách nhiệm vô hạn như công ty hợp danh. Họ muốn có một mô mới đáp ứng được yêu cầu vốn vừa và nhỏ, số lượng thành viên ít, quy chế hợp pháp đơn giản và chịu TNHH. Trước yêu cầu này, các nhà lập pháp người Đức đã nghiên cứu và ban hành Luật công ty TNHH vào năm 1892, công ty TNHH kết hợp được nhiều lợi thế cơ bản của các loại hình là công ty hợp danh và công ty cổ phần. Do đó, ngay từ khi mới ra đời nó đã khẳng định được vị trí độc lập của mình và trở thành một loại hình công ty quan trọng được các nhà kinh doanh ưu chuộng, số lượng công ty TNHH tăng nhanh và hiện nay nó là một trong những công ty quan trọng nhất ở Cộng hoà liên bang Đức. Sau năm 1892 hầu hết các nước Châu Âu lục địa, Nam Mĩ cũng có Luật công ty TNHH. Thực tế chứng minh ở Việt Nam cũng có rất nhiều các nhà đầu tư thích thành lập công ty TNHH. Từ khi có Luật công ty đến nay, số lượng công ty TNHH nhiều hơn hẳn công ty cổ phần. Tuy nhiên đặc điểm của công ty đối nhân là sự quen biết giữa các thành viên nhưng công ty TNHH vẫn được sắp xếp vào loại công ty đối vốn. Theo Luật doanh nghiệp 1999, công ty TNHH được hiểu như sau: Công ty TNHH là loại hình công ty, gồm không quá năm mươi thành viên góp vốn thành lập và công ty chỉ phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài sản của mình. Theo Điều 2 và Điều 46 Luật doanh nghiệp Nhà nước thì công ty TNHH có những đặc điểm cơ bản sau: Về thành viên: công ty TNHH là loại hình công ty không quá năm mươi thành viên trong suốt quá trình hoạt động. Thành viên công ty có thể là các cá nhân, tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân hay tổ chức xã hội. Thông thường các thành viên quen biết nhau tuy rằng không thân thiết như loại hình công ty đối nhân. Như vậy, theo quy định của loại Luật doanh nghiệp 1999 công ty TNHH được chia làm hai loại: Công ty TNHH có từ hai thành viên trở lên và công ty TNHH 1 thành viên. Trong trường hợp công ty TNHH một thành viên chủ sở hữu phải là một tổ chức. Về tư cách pháp lý: công ty TNHH có tư cách pháp nhân, có tài sản độc lập, có các quyền tài sản và các quyền khác. Công ty chỉ phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi tài sản của công ty. Đối với công ty TNHH một thành viên thì chủ sở hữu công ty chịu TNHH về các khoản nợ và các khoản nợ khác của công ty trong phạm vi vốn điều lệ của công ty. Về vốn: Vốn điều lệ được chia thành từng phần, mỗi thành viên có thể góp nhiều, ít khác nhau và bắt buộc phải góp đủ khi công ty thành lập. Nguyên tắc này được thể hiện rõ trong quá trình góp vốn, sử dụng vốn và phân chia lợi nhuận, phần góp vốn của các thành viên công ty được ghi trong điều lệ, việc chuyển nhượng vốn của các thành viên công ty trước hết phải ưu tiên cho người ngoài không phải là thành viên của công ty nếu các thành viên cong lại không mua hoặc mua không hết. Công ty TNHH chỉ có thể huy động vốn bằng cách tăng vốn điều lệ hoặc tiếp nhận thêm thành viên mới. Với trường hộ công ty TNHH một thành viên, tăng giảm vốn điều lệ được thực hiện bằng hai cách: Tăng, giảm vốn góp của chủ sở hữu công ty, điều chỉnh mức vốn điều lệ tương ứng với giá trị tài sản của công ty. Về tổ chức quản lý: Luật doanh nghiệp 1999 quy định cơ cấu quản lý phụ thuộc vào số lượng thành viên công ty. Công ty TNHH một thành viên có thể tổ chức thành hội đồng quản trị và giám đốc(tổng giám đốc). Công ty TNHH có từ hai thành viên trở lên phải có hội đồng thành viên, chủ tịch hội đồng thành viên, giám đốc (tổng giám đốc). Khi công ty có trên 11 thành viên phải tổ chức ban kiểm soát. Chương II địa vị pháp lý của công ty trách nhiệm hữu hạn theo pháp lệnh hiện hành I. Khái niệm và đặc điểm của công ty trách nhiệm hữu hạn theo pháp lệnh hiện hành. Công ty TNHH là một pháp nhân, do đó, nó cũng giống như công ty cổ phần và cũng chính là dấu hiệu phân biệt với các công ty đối nhân. Do công ty là một pháp nhân nên đối với pháp luật khi quy định chế độ trách nhiệm của công ty, công ty chỉ chịu trách nhiệm tài sản của mình, áp dụng nguyên tắc phân tách tài sản của công ty, tách rời tài sản của công ty và của thành viên. Nguyên tắc này được áp dụng trong mọi quan hệ tài sản, nợ nần và trách nhiệm của công ty kể cả trong trường hợp các thành viên là người trực tiếp điều hành công ty. 1. Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên. Theo Điều 26 Luật doanh nghiệp 1999 ta có thể đưa ra định nghĩa về công ty TNHH có hai thành viên như sau: Công ty TNHH không có quyền phát hành cổ phiếu, có số thành viên không quá 50 và mỗi thành viên phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ, các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Đặc trưng của công ty TNHH có hai thành viên trở lên là: - Công ty TNHH trong suốt quá hình hoạt động là một pháp nhân, có tài sản độc lập, có trụ sở ổn định, có mục tiêu kinh doanh rõ ràng và có thể là nguyên đơn, bị đơn trước pháp luật, số thành viên luôn từ hai đến năm mươi. - Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết vào doanh nghiệp. - Phần góp vốn của các thành viên chỉ được chuyển nhược theo quy định tại Điều 32 của Luật này. - Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng thành viên không vượt quá 50. - Công ty TNHH không hạn chế quyền phát hành cổ phiếu. - Công ty TNHH có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. 2. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Công ty TNHH một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu(chủ sở hữu công ty) chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn điều lệ. Đặc trưng của công ty TNHH một thành viên là: - Chủ sở hữu công ty có quyền chuyển nhượng một phần hay toàn bộ vốn điều lệ của công ty cho tổ chức, cá nhân khác. - Công ty TNHH một thành viên không được quyền phát hành cổ phiếu. - Công ty TNHH có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Do công ty TNHH một thành viên là loại hình công ty trung gian giữa công ty cổ phần và công ty đối nhân với một loạt các ưu điểm của hai loại hình công ty nên công ty TNHH cũng mang các đặc điểm cần được pháp luật chú ý. Do chế độ trách nhiệm hữu hạn nên việc bảo vệ chủ nợ rất cần thiết và vì vậy, luật có những quy định đặc biệt với công ty TNHH nó được thể hiện qua các đặc điểm sau: Thứ nhất, công ty TNHH là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, có các quyền về tài sản và các quyền khác, có thể là nguyên đơn hoặc bị đơn trước cơ quan tài phán. Thứ hai, phần vốn góp của các thành viên phải được đóng đầy đủ ngay sau khi thành lập công ty dù phần vốn góp đó là hình thức nào(tiền, hiện vật, bản quyền sở hữu...). Là loại công ty có chế độ TNHH nên quy định đóng đủ ngay phần vốn góp nhằm bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba có giao dịch với công ty. Tuy rằng ở đây có quan điểm khác so với công ty cổ phần, ở các công ty cổ phần nếu phần góp của các thành viên công ty bằng tiền thì khi thành lập công ty họ chỉ cần đóng góp một nửa giá trị số cổ phần nhận mua là đủ để trở thành thành viên của công ty(tuy nhiên họ sẽ phải nộp đủ số còn lại trong thời gian nhất định được quy định trong điều lệ). ở đây, cần được lưu ý thời điểm công ty được thành lập về mặt pháp lý là khi được ghi tên vào đăng ký kinh doanh và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Từ thời điểm này, công ty có tư cách pháp nhân và được tiến hành mọi hoạt động kinh doanh của mình. Thứ ba, phần vốn góp của các thành viên công ty không được thể hiện dưới hình thức nào(giấy tờ có giá trị như cổ phiếu mà nó được ghi nhận trong điều lệ công ty), trong điều lệ có ghi rõ phần góp vốn của các thành viên công ty và họ được cấp một bản sao điều lệ công ty và lấy nó làm bằng chứng cho tư cách thành viên của mình. Đặc điểm này của công ty TNHH khác với công ty cổ phần. Theo pháp luật của các nước thuộc địa theo hệ thống pháp luật Anh - Mĩ quy định chỉ có một loại hình công ty đối vốn Corporation. Trong đó có hai hình thức Corporation. Loại thứ nhất tương ứng với công ty TNHH, loại thứ hai tương đương với công ty cổ phần. Thứ tư, công ty không được phát hành bất cứ một loại chứng khoán nào ra bên ngoài công chúng để huy động vốn như cổ phiếu, trái phiếu. Công ty chỉ có thể huy động vốn bằng việc tăng cường vốn điều lệ, vay vốn của ngân hàng và các khoản vay tín dụng khác. Do vậy, khả năng huy động vốn của công ty TNHH là hết sức hạn chế so với công ty cổ phần (công ty cổ phần có thể phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu ra công chúng để huy động vốn. Người mua cổ phiếu lập tứ trở thành thành viên công ty, còn người mua trái phiếu là chủ nợ của công ty. Cổ phiếu và trái phiếu được tự do chuyển nhượng nên đã tạo điều kiện thuận lợi cho những người sở hữu). Thứ năm, việc chuyển nhượng phần vốn góp của công ty bị hạn chế. Điều 32 Luật doanh nghiệp quy định “thành viên muốn chuyển nhượng vốn phải chào bán phần vốn góp đó cho tất cả thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty với cùng điều kiện. Chỉ được chuyển nhượng cho người không phải là thành viên công ty nếu các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc không mua hết”. Đây là điểm khác so với công ty cổ phần, phần vốn góp của cổ đông được thể hiện bằng cổ phiếu mà cổ phiếu được tự do chuyển nhượng trừ các cổ phiếu có ghi tên. Đặc điểm này của công ty TNHH làm cho người ta nghĩ tới việc nó vẫn mang một số đặc điểm của công ty đối nhân. Trong các công ty đối nhân, việc thay đổi thành viên có thể là lý do để giải thể công ty. Các thành viên có mối quan hệ tương đối chặt chẽ nên phải xem xét tới nhân thân của người muốn vào công ty và phải xem họ có đủ tin cậy, uy tín để vào công ty hay không. Thứ sáu, các bảng hiệu, hoá đơn, quảng cáo và các tài liệu, giấy tờ giao dịch khác đều phải ghi tên của công ty kèm theo chữ “trách nhiệm hữu hạn”. Đây là biện pháp để bảo vệ quyền lợi cho người giao dịch với công ty và cũng là thông báo cho họ biết về sự chịu trách nhiệm của công ty về các khoản nợ của mình. Theo pháp luật của một số nước, nếu như công ty vi phạm nghĩa vụ này thi sẽ phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với công chứng giao dịch với mình, bởi vì, những vi phạm sẽ được coi là lừa dối trong kinh doanh. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về vấn đề này. Thứ bảy, cơ cấu quản lý thường gọn nhẹ và phụ thuộc vào số lượng thành viên. Cụ thể, số lượng thành viên dưới 12 người thì việc thành lập, quản lý công ty được tiến hành theo những quy định hết sức đơn giản, họ sẽ họp toàn thể thành viên phân công nhau đảm nhiệm chức trách quản lý, khảo sát công ty, cử hoặc thuê giám đốc. Nếu công ty có 12 thành viên trở lên thì phải tiến hành đại hội, bầu hội đồng quản trị, bầu chủ tịch, giám đốc công ty và kiểm soát viên. II. Thành lập, giải thể và phá sản công ty trách nhiệm hữu hạn. 1. Quy chế thành lập công ty. Nhiều nước trên thế giới, những người muốn thành lập công ty để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ cần làm thủ tục đăng ký kinh doanh tại toà án thương mại hoặc toà án kinh tế là có quyền kinh doanh hợp pháp. Do hoạt động quản lý kinh doanh ở nước ta trong giai đoạn đầu của nền kinh tế còn non yếu, các công cụ để quản lý như pháp luật, các cơ quan quản lý kinh doanh còn thiếu đồng bộ. Việc đưa ra quy định về xin phép và cấp phép thành lập công ty là hết sức cần thiết nhằm hạn chế những thiệt hại có thể xảy ra cho xã hội như việc sản xuất hàng giả, hàng hoá kém phẩm chất so với tiêu chuẩn đã đăng ký, trốn thuế, lừa đảo, lừa khách huy động vốn quá lớn so với khả năng kinh doanh, khả năng thanh toán dẫn đến phá sản. Để thành lập công ty TNHH pháp luật phải quy định một cách chặt chẽ ai là người có đủ điều kiện để tham gia thành lập, góp vốn vào công ty. 1.1. Điều kiện đủ để thành lập công ty TNHH. Điều 8 Nghị định 03/2000/NĐ-CP ngày 3/2/2000 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp “mọi tổ chức không cần nơi đăng ký địa chỉ, trụ sở chính, mọi cá nhân không phân biệt nơi cư trú, nếu không thuộc đối tượng bị cấm thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định tại Điều 9 Luật doanh nghiệp đều có quyền thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của Luật doanh nghiệp”. Công ty là một loại hình doanh nghiệp mà tài sản của công ty không thuộc riêng về một thành viên nào nên quyền chỉ đạo hoạt động của công ty được thực hiện trên cơ sở một bộ phận mà do các thành viên của công ty bầu lên, trách nhiệm của họ rất lớn, bởi vì, hoạt động của công ty còn liên quan đến bạn hàng, người tiêu dùng và các lĩnh vực kinh tế xã hội khác nhau. Điều 9 Luật doanh nghiệp quy định nghiêm cấm cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản của Nhà nước và công quỹ để thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn vào doanh nghiệp thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình. Ngoài ra, pháp luật còn quy định người chưa thành niên, người thành niên bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự không đủ khả năng tự đem tài sản góp vào công ty hay bảo vệ lợi ích chính đáng của họ thì cũng không được thành lập công._. ty. Vì vậy, việc pháp luật quy định cấm đối với người chưa thành niên, người thành niên bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự là dựa trên cơ sở bảo vệ quyền lợi của chính người đó, để tạo cho công ty hoạt động có hiệu quả. Ngoài ra ở công ty TNHH có một thành viên, người bị mất năng lực hành vi dân sự sẽ gây khó khăn cho hoạt động của công ty. Hạn chế đối với người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay người đang chấp hành phạt tù hoặc bị toà án tước quyền hành nghề nếu để họ thành lập công ty có thể gây ra nhiều tiêu cực nên quy định này có giá trị ngăn ngừa trước. Đối với một số ngành nghề kinh doanh đặc biệt như in, khắc con dấu, sao chụp, nghề kinh doanh có sử dụng chất nổ, chất độc mạnh, chất phóng xạ.... Những người không được làm các nghề kinh doanh đặc biệt này bao gồm: - Những người đang bị quản chế, cải tạo không giam giữ, bị án tù nhưng cho hưởng án treo. - Người có tội án về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc có tội khác quan hệ trực tiếp tới nghề kinh doanh đặc biệt ma họ phải xin phép kinh doanh, người có tiền án mà họ đã lợi dụng hoạt động kinh doanh ngành nghề đặc biệt để hoạt động phạm tội. - Những người đã bị khởi tố về hình sự hoặc đang có liên quan trực tiếp đến các vụ án hình sự mà cơ quan thẩm quyền đang tiến hành điều tra. Các quy định trên đây nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, giữ trật tự an toán xã hội, ngắn ngừa việc lợi dụng kinh doanh để hoạt động phi pháp. Theo Điều 8 Nghị định Chính phủ số 03/2000/NĐ-CP ngày 03/2/2000 hướng dẫn thi hành một số điều Luật doanh nghiệp quy định: “Mọi tổ chức không phân biệt nơi đăng ký địa chỉ trụ sở chính, mọi cá nhân không phân biệt nơi cứ trú, nếu không thuộc đối tượng bị cấm thành lập doanh nghiệp theo quy định tại Điều 9 Luật doanh nghiệp, đều có quyền thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở Việt Nam có quyền thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của Luật doanh nghiệp”. Luật quy định cấm cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản của nhà nước và công quỹ để thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn vào doanh nghiệp thu lợi nhuận riêng cho cơ quan, đơn vị mình. Quy định này thể hiện rõ nguyên tắc bất khả kiêm nhiệm, bởi vì, đã là cơ quan nhà nước thì không được kinh doanh vì đâu không phải là chức năng của họ, mọi chi phí của cơ quan nhà nước do Nhà nước cấp. Nếu không có hạn chế này thì họ chỉ chú ý đến việc kinh doanh kiếm lời riêng cho cơ quan mà không hoàn thành được những nhiệm vụ được giao. Nhà nước ta thừa nhận quyền tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật đồng thời cũng quy định chặt chẽ việc thực hiện quyền đó để bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, các tổ chức kinh tế khác, của toàn xã hội. Pháp luật quy định: Người quản lý điều hành hoạt động kinh doanh phải có trình độ chuyên môn tư vấn mà pháp luật đòi hỏi đối với một ngành nghề. Vì trong thực tế, không ít lĩnh vực người ta không quản lý, điều hành công ty nếu họ không nắm vững chuyên môn ngành nghề kinh doanh, chạy theo lợi nhuận cũng có thể gây ra thiệt hại không thể lường trước được cho người tiêu dùng và cho toàn xã hội (như kinh doanh dịch vụ khám chữa bệnh, kinh doanh dược phẩm, kinh doanh dịch vụ kiểm toán, kinh doanh thiết bị công trình...) 1.2. Các điều khoản khác. Ngoài những yêu cầu về mặt chủ thể pháp luật còn đưa ra những yêu cầu khác như sau: - Mục tiêu ngành nghề kinh doanh rõ ràng, có phương hướng kinh doanh ban đầu, có trụ sở giao dịch. - Có vốn điều lệ phù hợp với quy mô ngành nghề kinh doanh. Vốn điều lệ không được thấp hơn vốn pháp định do Chính phủ quy định. - Xác định mục tiêu ngành nghề rõ ràng, giúp cho bản thân những người muốn thành lập công ty, hướng cho hoạt động của mình, đồng thời là cơ sở cho việc quản lý của Nhà nước. Địa điểm làm việc chính thức của công ty là trụ sở giao dịch, ở đây có bộ máy quản lý điều hành và tiến hành các hoạt động giao dịch trong mọi quan hệ. Đối với xã hội, cần phân biệt trụ sở giao dịch chính của công ty với các phân xưởng sản xuất, cửa hàng đại lý bán lẻ sản phẩm của công ty ở trong và ngoài tỉnh. Về sở hữu trụ sở của công ty có thể là tài sản riêng của công ty hoặc do công ty thuê mướn. Đơn xin phép thành lập công ty phải xuất trình các văn bằng, chứng chỉ, hợp đồng thuê mướn được cơ quan công chứng chứng thực trong trường hợp thuê mướn của người khác. Có thể có nhiều trụ sở giao dịch ở nhiều địa bàn khác nhau trong một công ty song đều đảm nhận là đầu mối giao dịch và tiến hành các hoạt động kinh doanh. Nước ta hiện nay do hoạt động kinh doanh còn có quy mô hạn chế thông thường trụ sở giao dịch được đặt tại các cửa hàng dịch vụ buôn bán sản phẩm hàng hoá của công ty. Việc quy định công ty có trụ sở giao dịch là cần thiết nhằm đảm bảo tính chính thức, tính công khai được mọi người thừa nhận. Phương án kinh doanh cụ thể được xây dựng trên những điều kiện giao dịch để tính toán hiệu quả kinh tế, khả năng mang lại lợi nhuận, tạo việc làm cho người lao động. Phương án xác định tính cần thiết, tính khả thi của công ty, phương án kinh doanh cần nêu ra các biện pháp bảo vệ môi trường như xử lý ô nhiễm., xử lý chất thải. Vốn điều lệ do các thành viên công ty góp vốn và được ghi vào điều lệ. Vốn pháp định là vốn tối thiểu phải có để được thành lập công ty do pháp luật quy định đối với từng ngành nghề(vốn pháp định để thành lập công ty được quy định ở Điều 5 Nghị định 03/2000/NĐ_CP ngày 3/2/2000). 1.3. Thủ tục thành lập công ty TNHH. Người muốn thành lập công ty phải nộp đủ hồ sơ kinh doanh theo quy định của Luật doanh nghiệp đối với từng loại công ty tại cơ quan đăng ký kinh doanh thuộc uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính, phải tự chịu trách nhiệm về tính xác thực trung thực của hồ sơ kinh doanh. Cơ quan đăng ký kinh doanh không có quyền yêu cầu người thành lập doanh nghiệp trình các giấy tờ, hồ sơ khác ngoài hồ sơ mà Luật doanh nghiệp quy định đối với từng loại doanh nghiệp. Cơ quan đăng ký kinh doanh chỉ chịu trách nhiệm về tính luật lệ của hồ sơ đăng ký kinh doanh. Trong quá trình thành lập, thành viên sáng lập hoặc người đại diện theo uỷ quyền của nhóm thành viên sáng lập ký kết hợp đồng phục vụ cho việc thành lập công ty. Hợp đồng này được doanh nghiệp tiếp nhận quyền và nghĩa vụ trong trường hợp doanh nghiệp được thành lập. Nếu doanh nghiệp không được thành lập thì người giao kết hợp đồng hoàn toàn hay liên đới chịu trách nhiệm về việc thực hiện hợp đồng đó. Để trách tình trạng tranh chấp sau này, khi chuẩn bị thành lập, các thành viên sáng lập cần thoả thuận với nhau trách nhiệm thực hiện hợp đồng trong trường hợp doanh nghiệp không được thành lập (Điều 11 Luật doanh nghiệp). Đăng ký kinh doanh không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với bản thân các công ty mà còn có ý nghĩa về mặt quản lý nhà nước. Theo Luật doanh nghiệp, các doanh nghiệp có quyền đăng ký kinh doanh hoạt động các ngành nghề có điều kiện do pháp luật quy định. Vì vậy, chỉ thông qua công tác quản lý kinh doanh Nhà nước mới quản lý được các doanh nghiệp. Nội dung đăng ký kinh doanh còn là thông tin cần thiết để xử lý trong quan hệ kinh doanh với các doanh nghiệp khác. Theo Luật doanh nghiệp hồ sơ đang ký kinh doanh gồm: - Đơn đăng ký kinh doanh (Điều 14 Luật doanh nghiệp). - Điều lệ doanh nghiệp (Điều 15 Luật doanh nghiệp). - Danh sách các thành viên công ty(Điều 16 Luật doanh nghiệp). - Trong trường hợp doanh nghiệp phải đăng ký kinh doanh các ngành nghề phải có vốn pháp định còn phải có thêm xác nhận của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về việc có đủ vốn pháp định(Điều 13 Luật doanh nghiệp). Đơn đăng ký kinh doanh được làm theo mẫu thống nhất do cơ quan đăng ký kinh doanh quy định và có nội dung quy định tại Điều 14 Luật doanh nghiệp. Cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm giải quyết việc đăng ký kinh doanh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký kinh doanh hợp lệ(khoản 3 Điều 2 Luật doanh nghiệp). Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì phải thông báo bằng văn bẳn cho người thành lập doanh nghiệp biết. Thông báo phải nêu rõ lý do và các yêu cầu bổ sung, sửa đổi. Doanh nghiệp được cung cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nếu đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 7 Luật doanh nghiệp. Doanh nghiệp có quyền hoạt động kinh doanh kể từ ngày được chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trong quá trình kinh doanh nếu thay đổi tên, địa chỉ, trụ sở chính, chi nhánh văn phòng đại diện(nếu có), mục tiêu và ngành nghề kinh doanh vốn điều lệ, thay đổi người quản lý, người đại diện theo pháp luật của công ty và các vấn đề khác trong nội dung hồ sơ đăng ký kinh doanh, công ty phải đăng ký thay đổi nói trên với các cơ quan đăng ký kinh doanh chậm nhất 15 ngày trước khi thực hiện việc thay đổi. Trong trường hợp có thay đổi trong nội dung giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận thay đổi đăng ký kinh doanh. Để đảm bảo sự quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp theo khoản 1 Điều 20 Luật doanh nghiệp thì cơ quan đăng ký kinh doanh có nghĩa vụ gửi bản sao giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho cơ quan thuế, cơ quan thống kê, cơ quan quản lý ngành kinh tế, kỹ thuật cùng cấp, uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nơi doanh nghiệp có trụ sở chính trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày cấp. Để phục vụ cho hoạt động của mình, cá nhân, cơ quan, tổ chức, có quyền yêu cầu các cơ quan đăng ký kinh doanh cung cấp thông tin về nội dung đăng ký kinh doanh, cung cấp bản sao giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận thay đổi đăng ký kinh doanh, hoặc bản trích nội dung đăng ký kinh doanh phải trả hợp lệ. Cơ quan đăng ký kinh doanh có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin về nội dung đăng ký kinh doanh cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có yêu cầu. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy chứng nhận thay đổi đăng ký kinh doanh, công ty phải đăng báo địa phương, phải đăng báo hàng ngày của trung ương về nội dung chủ yếu sau: Tên công ty, địa chỉ trụ sở chính, chi nhánh văn phòng(nếu có) mục tiêu và ngành nghề kinh doanh, vốn điều lệ... tên, địa chỉ của các thành viên sáng lập và người đại diện theo pháp luật của công ty, nơi đăng ký kinh doanh. Thủ tục chuyển quyền sở hữu vốn góp vào công ty. Để đảm bảo cho công tác kinh doanh của công ty cũng như trách nhiệm của công ty trong kinh doanh. Điều 22 Luật doanh nghiệp quy định: Sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh người cam kết góp vốn vào công ty TNHH phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản góp cho công ty theo quy định đối với tài sản có đăng ký hoặc giá trị quyền sử dụng đất thì người góp vốn phải có đầy đủ giấy tờ sở hữu và làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản đó hoặc quyền sử dụng đất cho công ty tại các cơ quan có thẩm quyền. Việc chuyển quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn không phải chịu lệ phí trước bạ. Đối với tài sản không đăng ký quyền sở hữu việc góp vốn phải được thực hiện bằng cách giao nhận tài sản góp vốn có xác nhận bằng biên bản. Tiến hành định giá các tài sản góp vốn. Tất cả các thành viên sáng lập là người định giá góp vốn vào công ty khi thành lập. Việc định giá các tài sản góp vốn được tiến hành theo nguyên tắc nhất trí. Trong quá trình hoạt động Hội đồng thành viên của công ty TNHH là người thực hiện định giá tài sản, góp vốn. Việc định giá phải được tiến hành khách quan, phù hợp với giá trị tài sản tại thời điểm định giá. Nếu trường hợp người định giá sai thì phải liên đới chịu trách nhiệm thanh toán phần chênh lệch cho công ty và phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường cho người bị hại. Trường hợp người có quyền, nghĩa vụ và lợi ích liên quan chứng minh được tài sản góp vốn được định giá so với giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn thì yêu cầu các cơ quan đăng ký kinh doanh buộc người giáp định phải đánh giá lại hoặc chỉ định tổ chức giám định để giám định lại tài sản vốn góp. 2. Quy chế giải thể và phá sản công ty. Chấm dứt hoạt động của công ty có thể là một hành động phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của công ty hoặc một hành vi của cơ quan có thẩm quyền. Luật quy định hai trường hợp chấm dứt hoạt động của công ty đó là giải thể và phá sản. 2.1. Giải thể. Giải thể công ty là chấm dứt sự tồn tại của công ty. Giải thể công ty trước hết là quyền của các thành viên trong công ty bởi họ đã tự nguyện hùn vốn thành lập công ty thì họ có quyền thoả thuận việc giải thể công ty. Mặt khác, công ty còn bị giải thể trong trường hợp luật định. Theo Điều 111 Luật doanh nghiệp, công ty bị giải thể trong các trường hợp sau: Kết thúc thời hạn đã ghi trong điều lệ mà không quyết định ra hạn. khi thành lập công ty, thời gian hoạt động của công ty được các thành viên thoả thuận và ghi vào điều lệ. Điều lệ của công ty là các cam kết của các thành viên về việc thành lập và hoạt động của công ty. Khi hết thời hạn đã ghi trong điều lệ (nếu các thành viên công ty không muốn tham gia hoạt động thì công ty đương nhiên phải tiến hành giải thể). Công ty giải thể theo quyết định của hội đồng thành viên chủ sở hữu. Giải thể công ty thuộc quyền quyết định của các thành viên công ty. Các thành viên công ty đã tự nguyện hùn vốn vào công ty thì họ cũng có quyền cùng nhau quyết định việc giải thể. Công ty giải thể khi công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định trong thời hạn sáu tháng liên tục. Có đủ số lượng thành viên tối thiểu là một trong những điều kiện pháp lý để công ty tồn tại và hoạt động. Pháp luật quy định số lượng thành viên tối thiểu cho mỗi loại hình công ty khác nhau, khi không có đủ số lượng thành viên tối thiểu công ty phải kết nạp thêm thành viên trong thời hạn sáu tháng kể từ ngày công ty không còn đủ số thành viên tối thiểu. Nếu không công ty phải giải thể. Bị tịch thu giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là căn cứ pháp lý không thể thiếu cho sự hoạt động và tồn tại của các doanh nghiệp nói chung và công ty nói riêng. Khi công ty kinh doanh vi phạm các quy định của pháp luật và bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì công ty không thể tiếp tục tồn tại hoạt động. Trong trường hợp này công ty phải giải thể theo yêu cầu của cơ quan đăng ký kinh doanh. - Thủ tục giải thể công ty. Để tiến hành giải thể, công ty phải thông qua quyết định giải thể công ty với nội dung chủ yếu sau: + Tên, trụ sở doanh nghiệp. + Lý do giải thể. + Thời hạn, thủ tục thanh lý hợp đồng và thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp, thời hạn thanh toán nợ, thanh lý hợp đồng không được vượt quá sáu tháng kể từ ngày thông qua quyết định giải thể. + Phương án xử lý các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng lao động. + Thành lập tổ thanh lý tài sản, quyền và nhiệm vụ của tổ thanh lý tài sản được quy định trong phụ lục kèm theo quyết định giải thể. + Chữ ký của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Sau khi thông qua quyết định giải thể công ty phải gửi quyết định giải thể đến cơ quan đăng ký kinh doanh, chủ nợ, người có quyền, nghĩa vụ, lợi ích liên quan trong vòng bảy ngày. Khi gửi quyết định giải thể cho chủ nợ, công ty phải gửi kèm theo thông báo về phương án giải quyết nợ. Thông báo này phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của chủ nợ, số nợ, thời hạn, địa điểm và phương thức thanh toán số nợ đó, cách thức và thời hạn giải quyết khiếu nại của chủ nợ. Thanh lý tài sản, thanh toán các khoản nợ của công ty. Đây là vấn đề quan trọng, chủ yếu khi công ty giải thể. Việc thanh toán các khoản nợ là rất phức tạp vì nó liên quan đến nhiều người, do đó phải tiến hành theo trình tự, thủ tục nhất định. Sau đó chia tài sản còn lại của công ty cho các thành viên. Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày thanh toán nợ của doanh nghiệp, tổ thanh tra phải gửi hồ sơ giải thể doanh nghiệp đến cơ quan đăng ký kinh doanh. Trường hợp công ty bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, công ty phải giải thể trong thời hạn sáu tháng kể từ ngày bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. 2.2. Phá sản. Phá sản là hiệu quả tất yếu của nền kinh tế thị trường, khi các nhà kinh doanh hoạt động trong điều kiện kinh tế thị trường phải tuân theo các quy luật khách quan của nó: Quy luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh và hậu quả của cạnh tranh tất yếu sẽ dẫn đến phá sản. Có thể do yếu kém của năng lực kinh doanh về tổ chức và quản lý kinh doanh, về sự thích ứng với các điều kiện của thị trường. Bên cạnh đó còn có các nguyên nhân khách quan như thời tiết, thiên tai, lũ lụt, chiến tranh, sự biến động về tài chính của khu vực và thế giới, những ảnh hưởng khác như tình hình chính trị - xã hội. Vì vậy, khi thừa nhận sự tồn tại và hoạt động của các loại hình công ty thì pháp luật đồng thời cũng phải thừa nhận hiện tượng phá sản và đưa ra quy chế pháp lý điều chỉnh vấn đề đó. Điều 2 Luật phá sản doanh nghiệp 1999 quy định “Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động sản xuất kinh doanh sau khi áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn”. Như vậy, khi công ty lâm vào tình trạng phá sản tức là doanh nghiệp bị thua lỗ hai năm liên tiếp đến mức không trả được các khoản nợ đến hạn, không trả đủ lương cho người lao động theo thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao động trong ba tháng liền. Khi xuất hiện dấu hiệu lâm vào tình trạng khó khăn về mặt tài chính, doanh nghiệp đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết nhưng vẫn không khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Biện pháp tài chính cần thiết gồm: - Doanh nghiệp phải có các phương án để tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý chặt chẽ các khoản thu chi của doanh nghiệp, tìm kiếm thị trường và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. - Tiến hành thu hồi các khoản nợ và tài sản của doanh nghiệp cho các doanh nghiệp khác vay hoặc bị các doanh nghiệp khác chiếm dụng. - Thương lượng với các chủ nợ để hoãn nợ, tìm người mua nợ, bảo lãnh nợ. - Tích cực tìm các biện pháp để xử lý hàng hoá, vật tư tồn đọng... Nguyên nhân dẫn đến phá sản hết sức đa dạng có thể từ những rủi ro trong kinh doanh, từ sự yếu kém về năng lực tổ chức, quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, là sự thiếu khả năng thích ứng với thị trường, là sự vi phạm các chế độ, thể lệ quản lý tài chính, quản lý kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy ngoài những nguyên nhân chủ quan trên thì mọi sự bất trắc và biến động khách quan trong nền kinh tế thị trường đều có thể gây ra tình trạng mất khả năng thanh toán của các doanh nghiệp. Phá sản không thuộc phạm vi quyền chủ thể, nó khác với giải thể là quyền công ty. Nếu như việc giải thể là do người chủ sở hữu đó tự mình quyết định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thì thẩm quyền tuyên bố phá sản thuộc về Toà án nhân dân. Thủ tục tiến hành giải thể doanh nghiệp là thủ tục hành chính còn thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp là thủ tục tư pháp. Trên cơ sở đơn xin tuyên bố phá sản của công ty hoặc đơn yêu cầu của một số hay nhiều nhân sự, kiến nghị của cơ quan có thẩm quyền, tuyên bố phá sản của cơ quan có thẩm quyền sẽ làm chấm dứt tư cách pháp nhân của công ty. Trình tự thủ tục phá sản thực hiện theo quyết định của pháp luật về phá sản. Trong nền kinh tế thị trường, giải thể và phá sản doanh nghiệp là hiện tượng không thể trách khỏi, doanh nghiệp muốn tồn tại không còn cách nào khác là phải nhạy bén và thích ứng với thị trường, năng động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Nó là động lực kích thích công ty luôn tự đổi mới, hoàn thiện hơn cách thức hoạt động của mình để đáp ứng yêu cầu của thị trường. III. Quyền và nghĩa vụ của công ty trách nhiệm hữu hạn. Quyền và nghĩa vụ của công ty là một bộ phận quan trọng trong hệ thống pháp lý của công ty, nó thể hiện năng lực pháp lý, năng lực hành vi của công ty. 1. Quyền của công ty trách nhiệm hữu hạn. Theo quy định tại Điều 7 Luật doanh nghiệp 1999, công ty có các quyền sau: - Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của doanh nghiệp. - Chủ động lựa chọn ngành nghề, địa bàn đầu tư, hình thức đầu tư(kể cả liên doanh, góp vốn vào doanh nghiệp khác, chủ động mở rộng quy mô, ngành nghề kinh doanh). - Chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và ký hợp đồng. - Lựa chọn hình thức và cách thức huy động vốn. - Kinh doanh xuất khẩu và nhập khẩu. - Tuyển, thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu kinh doanh. - Tự chủ kinh doanh, chủ động áp dụng phương thức quản lý khoa học, hiện đại và nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh. - Từ chối và tố cáo mọi yêu cầu cung cấp các nguồn lực không được pháp luật quy định của bất kỳ cá nhân, cơ quan hay tổ chức nào, trừ các khoản đóng góp vì mục đích nhân đạo và công ích. - Các quyền khác do pháp luật quy định. Công ty cũng như các chủ thể kinh doanh khác muốn tồn tại và hoạt động thì phải có tài sản và những quyền năng nhất định đối với tài sản đó. Xuất phát từ quyền sở hữu được pháp luật cho phép thực hiện việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình theo ý muốn. Quyền sở hữu bao giờ cũng gắn liền với chủ thể, do đó, nó là quyền tuyệt đối. Doanh nghiệp có quyền chiếm hữu đó là việc nắm giữ, quản lý tài sản thuộc sở hữu của mình. Quyền định đoạt của doanh nghiệp là quyền quyết định số phận pháp lý và số phận thực tế của tài sản trong doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp quy định việc chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn của các thành viên tại Điều 22 như sau: - Đối với tài sản có đăng ký hoặc giá trị quyền sử dụng đất thì người góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản đó hay quyền sử dụng đất cho công ty tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. - Việc chuyển quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn không phải chịu lệ phí trước bạ. - Đối với tài sản không đăng ký quyền sở hữu, việc góp vốn phải được thực hiện bằng việc giao nhận tài sản góp vốn có xác nhận bằng biên bản. - Biên bản góp nhận phải có nội dung chủ yếu: Tên, địa chỉ, trụ sở giao dịch chính của công ty; tên, địa chỉ người góp vốn, loại tài sản và số đơn vị tài sản góp vốn, tổng giá trị số tài sản góp vốn và tỷ lệ tổng tài sản đó trong vốn điều lệ của công ty, ngày giao nhận, chữ kỹ của người góp vốn và người đại diện theo pháp luật của công ty. Đây cũng là điểm khác biệt giữa quyền của công ty đối với tài sản so với nhiều doanh nghiệp khác (như doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân). Trên cơ sở xác định nguyên tắc tự do kinh doanh, việc lựa chọn ngành nghề và quy mô kinh doanh sao cho phù hợp với pháp luật, khả năng công ty về tài chính cũng như trình độ chuyên môn, với nhu cầu của thị trường và các điều kiện khách quan khác. Việc lựa chọn ngành, nghề đúng đắn quyết định sự thành công hay không trong kinh doanh. Vì vậy, tuỳ thuộc vào quy luật cung cầu của thị trường, khả năng thực tế của bản thân mà lựa chọn ngành nghề kinh doanh. Quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật. Công ty không được phép kinh doanh một số ngành nghề mà pháp luật cấm và một số ngành nghề phải tuân thủ theo các quy định chặt chẽ về thủ tục và điều kiện. Điều 6 Luật doanh nghiệp quy định: “Cấm kinh doanh các ngành nghề gây phương hại đến quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, truyền thống lịch sử văn hoá, đạo đức, thuần phong mĩ tục Việt Nam và sức khoẻ của nhân dân”. Chính phủ công bố danh mục ngành, nghề cấp kinh doanh như sau: Đối với các doanh nghiệp kinh doanh các ngành nghề mà luật, pháp lệnh hoặc nghị định quy định phải có điều kiện thì doanh nghiệp chỉ được kinh doanh các ngành nghề đủ các điều kiện theo quy định. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh các ngành nghề, mà luật, pháp lệnh hoặc nghị định đòi hỏi phải có vốn pháp định hoặc chứng chỉ hành nghề thì doanh nghiệp đó chỉ được đăng ký kinh doanh khi có đủ vốn hoặc chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật. Trong quá trình kinh doanh, công ty có quyền thay đổi mục tiêu ngành nghề kinh doanh (Điều 19 Luật doanh nghiệp). Quyết định này có tính năng động giúp cho công ty thích ứng nhu cầu thị trường và tình hình thực tế. Trong quá trình hoạt động, công ty có quyền lựa chọn địa bàn đầu tư, hình thức đầu tư, có quyền xác định mô hình kinh doanh. Pháp luật chỉ quy định vốn tối thiểu phải có để thành lập công ty trong một số ngành nghề chứ không hạn chế sự phát triển về vốn. Với tư cách là chủ thể kinh doanh độc lập, công ty được pháp luật quy định cho quyền chủ động trong mọi hoạt động kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, việc lựa chọn khách hàng để quan hệ làm ăn là vấn đề đặc biệt quan trọng, pháp luật không cấm đoán việc lựa chọn bạn hàng để giao dịch, ký kết hợp đồng. Việc giao dịch với ai là phụ thuộc vào ý chí của công ty. Công ty có quyền trực tiếp giao dịch để ký kết hợp đồng theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi không phân biệt các thành phần kinh tế, không trái pháp luật. Trong kinh doanh, vốn là yếu tố quan trọng, công ty muốn phát triển và mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh thì phải huy động vốn ở nhiều nguồn khác nhau. Mỗi loại công ty có cách thức và hình thức huy động vốn khác nhau và có quyền lựa chọn những hình thức huy động vốn thích hợp với điều kiện cụ thể theo quy định của pháp luật. Công ty TNHH chỉ huy động vốn bằng cách kết nạp thêm thành viên mới hoặc tăng phần góp vốn của các thành viên công ty hay đi vay vốn ở các cơ quan, tổ chức khác. Việc ghi nhận quyền kinh doanh xuất khẩu và nhập khẩu cho các doanh nghiệp là yêu cầu tất yếu trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, nó đồng thời cũng phù hợp với nguyện vọng của đông đảo các nhà kinh doanh. Quyền kinh doanh xuất nhập khẩu là đảm bảo pháp lý quan trọng cho các doanh nghiệp cũng như công ty có một sân chơi đủ rộng và bình đẳng để phát triển hoạt động kinh doanh. Theo nội dung của nguyên tắc này, công ty có quyền trực tiếp tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá của mình bằng xuất khẩu cũng như nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, phù hợp với chức năng kinh doanh đã được xác nhận trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của công ty. Hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu của công ty phải tuân thủ theo những quy định của pháp luật. Việc tuyển lao động, thuê mướn lao động là quyền của công ty. Căn cứ vào yêu cầu kinh doanh, công ty có quyền tuyển dụng về số lượng lao động, chất lượng chuyên môn, tay nghề kỹ thuật... sẽ do ngành nghề kinh doanh và quy mô kinh doanh quyết định, Nhà nước không can thiệp vào việc tuyển dụng lao động của công ty. ở nước ta đang dần dần hình thành thị trường lao động nên việc lựa chọn, tuyển dụng và thuê mướn lao động là yếu tố vô cùng thuận lợi cho công ty để đáp ứng với nhu cầu sản xuất kinh doanh khi doanh nghiệp của mình. Hiện nay công ty áp dụng chế độ hợp đồng lao động. Trong hợp đồng lao động, các bên tự thoả thuận những nội dung về quyền và nghĩa vụ lao động mình, về điều kiện lao động, an toàn lao động. Hợp đồng lao động được xây dựng trên cơ sở pháp lý. Trong phạm vi ngành, nghề đã đăng ký kinh doanh, công ty có quyền tự mình quyết định những vấn đề phát sinh trong hoạt động kinh doanh, có quyền chủ động các phương thức quản lý khoa học để xây dựng các phương án sản xuất kinh doanh và tổ chức thực hiện các kế hoạch nhằm nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh. Thị trường sẽ là nơi quyết định đúng đắn hiệu quả của kế hoạch. Theo khoản 8 Điều 7 Luật doanh nghiệp thì công ty có quyền từ chối và tố cáo mọi yêu cầu cung cấp các nguồn lực không được pháp luật quy định của bất kỳ cá nhân, cơ quan hay tổ chức nào trừ những khoản tự nguyện đóng góp vì mục đích nhân đạo và công ích. Công ty có quyền tự mình quyết định các hoạt động của công ty, không một tổ chức, cá nhân nào có quyền can thiệp vào hoạt động hợp pháp của công ty. Công ty có quyền đặt chi nhánh, văn phòng ở ngoài nơi đặt trụ sở chính của công ty. Chi nhánh và văn phòng đại diện của công ty là những bộ phận mà công ty thành lập nhằm mục đích mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh và tạo điều kiện trong giao dịch. Công ty còn có thể liên doanh, liên kết với các chủ thể kinh doanh khác trên cơ sở bình đẳng và thông qua hợp đồng kinh tế. Đây là một trong những quyền chủ động kinh doanh quan trọng nhằm kết hợp tối đa ưu điểm, lợi tức của các bên liên doanh để sản xuất có hiệu quả cao. Các hình thức có thể góp vốn đầu tư liên doanh trên cơ sở hợp đồng quy định rõ quyền hạn và nghĩa vụ của các bên, phương án phân chia sản phẩm, lợi nhuận. 2. Các nghĩa vụ của công ty trách nhiệm hữu hạn. Quyền của các doanh nghiệp bao giờ cũng gắn liền với nghĩa vụ phải thực hiện và tạo thành thẩm quyền của chủ thể kinh doanh nói chung, của công ty nói riêng. Theo quy định của pháp luật, công ty có các nghĩa vụ sau (Điều 8 Luật doanh nghiệp). - Hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã đăng ký. - Lập sổ kế toán, ghi chép sổ kế toán, hoá đơn chứng từ và lập báo cáo tài chính trung thực, chính xác. - Đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật. - Bảo đảm chất lượng hàng hoá theo tiêu chuẩn đã đăng ký. - Kê khai định kỳ, báo cáo chính xác, đầy đủ các thông tin về doanh nghiệp và tình hình tài chính của doanh nghiệp với cơ quan đăng ký kinh doanh; khi phát hiện các thông tin đã kê khai hay báo cáo không chính xác, đầy đủ hoặc giả mạo thì phải kịp thời hiệu đính lại với cơ quan đăng ký kinh doanh. - Ưu tiên sử dụng lao động trong nước, bảo đảm quyền lợi, lợi ích của người lao động theo quy định của pháp luật về lao động; tôn trọng quyền tổ chức công đoàn theo pháp luật về công đoàn. - Tuân thủ quy định pháp luật về quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ tài nguyên môi trường, bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh. - Thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Trong nền kinh tế thị trường, việc kinh doanh theo ngành, nghề nào là tuỳ thuộc vào sự lựa chọn của công ty. Khi đã lựa chọn được ngành, nghề kinh doanh công ty phải đăng ký kinh doanh. Trong quá trình kinh doanh, công ty có nghĩa vụ phải kinh doanh theo đúng ngành nghề đã đăng ký trong giấy phép kinh doanh. Nếu công ty muốn thay đổi ngành nghề kinh doanh cho phù hợp với nhu cầu thị trường thì công ty phải làm thủ tục thay đổi ngành, nghề kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh. Pháp luật bắt buộc công ty kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã đăng ký trong giấy phép kinh do._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0017.doc