Vấn đề tuần hoàn và chu chuyển vốn với việc vận dụng thực tế trong các Doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay

Lời nói đầu Thế kỉ XX qua đi ,thế kỉ XXI đã đến. Thế kỉ XX qua đi đã để lại nhiều thay đổi trong nền kinh tế nhân loại. Một số nước ngày càng giàu lên bên cạnh đó là sự nghèo đi của một số nước, song cùng với đó là xu thế phát triển chung khồng ngừng hướng tới một tầm cao mới của nền kinh tế nhân loại- kinh tế tri thức. Vậy có phải những nước giàu lên nhanh chóng là do họ đã biết tận dụng những cơ hội kinh tế và họ đã vận dụng thành công những quy luật kinh tế khách quan? Vậy quy luật kinh tế k

doc22 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1414 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vấn đề tuần hoàn và chu chuyển vốn với việc vận dụng thực tế trong các Doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hách quan đó là gì?. Nước ta thực tế đã chuyển từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lí của nhà nước. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tiến bộ nó phù hợp với quy luật phát triển khách quan, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là quan hệ sản xuất tiến bộ nhất trong lịch sử loài người. Nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn hợp với quy luật phát triển của tư nhiên. Thực tế những thành tựu kinh tế cuả nước ta đã đạt được bước đầu thật to lớn. Tính đến năm 1999 nước ta đã là một nước xuất khẩu gạo đứng thứ ba trên thế giới sau Hoa Kì và Thái Lan. Đời sống nhân dân ngày càng càng được cải thiện về mọi mặt khác nhau, GDP của nước ta tăng từ 4,8% năm 1999 lên 6,8%năm 2000, cao hơn mức tăng GDP của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, nước ta đi lên nền kinh tế thị trường với điều kiện xuất phát thấp, nước ta là một nước nông nghiệp lại chịu ảnh hưởng của phong kiến thực dân và chiến tranh liên liên miên, nên không thể tránh khỏi tình trạng thấp kém về sự phát triển kinh tế. Cơ sở hạ tầng thì xuống cấp, trình độ khoa học công nghệ kém triển, còn nhiều hạn chế trong phát huy hiệu quả đầu tư trong phát triển kinh tế quốc dân. Những thành tựu và hạn chế đó đã không ngừng thôi thúc Đảng và nhà nước ta phương hướng mới cho sự phát triển kinh tế đất nước. Phương hướng đó phải dựa trên cơn bản là nội lực bên trong kết hợp với những lợi thế do việc hội nhập kinh tế đem lại để phát triển kinh tế đi lên. Doanh nghiệp nước ta hiện nay vấn đề làm thế nào để đạt hiệu quả kinh sản xuất kinh doanh, trong đó cơ bản là vấn đề tạo lập và quản lí vốn. Trong đề án này em xin trình bày hai vấn đề cơ bản: ChươngI: Lí luận về tuần hoàn và chu chuyển tư bản của C.Mác. Chương II: Vân dụng lí luận tuần hoàn và chu chuyển tư bản của C.Mác vào thực tiễn các doanh nghiệp ở Việt Nam. Em xin chân thành cám ơn cô Trần Thanh Hương đã cho phép em được chọn đề tài này. Trong quá trình viết bài em không thể tránh khỏi những sai sót, em mong có sự đóng góp và phê bình của cô giáo để cho em hoàn thành tốt hơn nữa đề án này. Hà Nội T4/2000. Chương I Lí luận về tuần hoàn và chu chuyển tư bản của C. Mác I- tuần hoàn tư bản. 1- Khái niệm về tuần hoàn tư bản: Tuần hoàn tư bản là sự biến chuyển liên tục của tư bản qua ba giai đoạn trải qua ba hình thức ,thực hiện ba chức năng tương ứng ,để trở về hình thái ban đầu với lượng giá trị lớn hơn . 2-Các giai đoạn tuần hoàn của tư bản: Tuần hoàn tư bản trải qua ba giai đoạn : a) Giai đoạn thứ nhất :nhà tư bản xuất hiện trên thị trường với tư cách là người mua và thực hiện hành vi T-H. Lúc này nhà tư bản có mặt trên thị trường hàng hoá và thị trường sức lao động với tư cách là người mua . Tư bản của nhà tư bản mang hình thái tiền tệ ,chức năng của nó là mua những yếu tố của quá trình sản xuất là sức lao động và tư liệu sản xuất . Căn cứ vào tính chất của ngành sản xuất mà nhà tư bản mua sức lao động và tư liệu sản xuất cho phù hợp cả về chất và lượng . Nhà tư bản có tiền ,nhân công có sức lao động ,hai bên mua bán lẫn nhau, nhà tư bản trả cho nhân công dưới hình thức tiền công, còn về phía công nhân phải bán sức lao động cho nhà tư bản . Trong quá trình mua và bán sức lao động giữa người bán là công nhân và người mua là nhà tư bản,thì việc mua bán này cũng như mọi hoạt động mua bán thông thường khác . Tuy nhiên , cái đặc biệt ở đây không phải là chỗ hàng hoá sức lao động-là để bán mà là ở chỗ sức lao động đã biến thành hàng hoá - hàng hoá sức lao động . Hoàn thành quá trình này, giá trị tư bản trút bỏ hình thái tiền tệ để tồn tại dưới hình thái hiện vật là sức lao động và tư liệu sản xuất ,dưới hình thái các yếu tố sản xuất tư bản chủ nghĩa ,tức là hình thành tư bản sản xuất. Kết quả là kết thúc giai đoạn thứ nhất tư bản tiền tệ biến thành tư bản sản xuất. b)Giai đoạn thứ hai: nhà tư bản tiêu dùng sản xuất các hàng hoá đã mua tức là tiến hành sản xuất. Sau khi mua sức lao động rồi ,nhà tư bản không thể đem nó đi bán được mà chỉ có quyền sử dụng nó trong một thời gian nhất định. ở đây, người sở hữu tiền muốn thu được tiền về thì phải có hàng hoá để bán, do đó buộc anh ta phải tiến hành sản xuất hàng hoá. Nói cách khác tiếp theo giai đoạn mua các yếu tố sản xuất thì nhà tư bản phải tiến hành sản xuất. Quá trình sản xuất ở đây cũng giống như mọi quá trình sản xuất của mọi hình thái xã hội là do sự kết hợp giưã hai yếu tố người lao động và tư liệu sản xuất lại mà có. Phương thức kết hợp đặc thù đó không chỉ là kết quả mà còn là yêu cầu của sự vận động tư bản, quá trình sản xuất vì vậy trở thành một chức năng của tư bản, trở thành quá trình sản xuất của tư bản chủ nghĩa. Trong khi làm chức năng của mình, tư bản sản xuất tiêu dùng các thành phần của bản thân nó để biến các thành phần ấy thành một khối lượng sản phẩm có giá trị lớn hơn. Kết quả của quá trình là một hàng hoá mới được tạo ra, khác về giá trị sử dụng và cả về lượng giá trị so với hàng hoá cấu thành tư bản sản xuất. Hàng hoá mới này là hàng hoá mang giá trị thặng dư. Như vậy, kết quả của giai đoận thứ hai là tư bản sản xuất biến thành tư bản hàng hoá. c) Giai đoạn thứ ba: nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là người bán, thực hiện hành vi H’-T’. Sản xuất hàng hoá rồi tư bản chưa thể ngừng sự vận động của nó lại được. Tư bản tồn tại dưới hình thái hàng hoá nên cần phải đem bán hàng hoá để thu tiền về thì mới tiếp tục công việc kinh doanh được. Quá trình này được trình bày bằng công thức H’-T’. Hàng hoá - tư bản ném vào lưu thông cũng không có gì phân biệt với hàng hoá thông thường, nó cũng chỉ thực hiện chức năng vốn có của hàng hoá là trao đổi để lấy tiền. Nhưng sở dỉ nó là tư bản hàng hoá vì ngay sau nó là quá trình sản xuất, nó đã là H’, đã mang trong mình giá trị của tư bản ứng trước và giá trị thặng dư. Vì vậy, chỉ cần tiến hành trao đổi thông thường theo đúng quy luật giá trị như các hàng hoá thông thường và nếu bán được H’ thì đảm bảo thu được T’ nghĩa là thu được số tiền trội hơn so với số tiền ban đầu. Kết thúc giai đoạn này tư bản hàng hoá đã biến thành tư bản tiền tệ. Đến đây mục đích của nhà tư bản đã được thực hiện. Tư bản lại trở lại hình thái ban đầu với lượng giá trị lớn hơn trước. Tóm lại qua ba giai đoạn tư bản vận động theo sơ đồ sau: T-H..sản xuất..H’-T’. 3- Mối quan hệ biện chứng giữa ba giai đoạn của tuần hoàn tư bản: Trong ba giai đoạn vận động của tư bản thì giai đoạn thứ nhất và giai đoạn thứ ba là diễn ra trong lưu thông, thực hiện các chức năng, mua các yếu tố sản xuất và bán hàng hoá có chứa đựng giá trị thặng dư. Giai đoạn hai diễn ra trong sản xuất, thực hiện chức năng sản xuất và giá trị thặng dư. Nhưng quá trình lưu thông cũng có tác dụng rất lớn, vì nếu không có lưu thông thì không thể có tái sản xuất tư bản chủ nghĩa, do đó tư bản không thể tồn tại. Tư bản chỉ có thể tồn tại được một cách bình thường trong điều kiện các giai đoạn được kế tiếp nhau không ngừng. Nếu ngừng giai đoạn một thì tiền tệ không thể chuyển thành hàng hoá được và sẽ không có được các điều kiện để sản xuất hàng hoá. Nếu ngừng trệ ổ giai đoạn hai, thì tư liệu sản xuất không kết hợp với sức lao động, do đó cũng không thể tạo ra sản phẩm mới. Nếu ngừng trệ ở giai đoạn ba thì hàng hoá sẽ không bán được lưu thông bế tắc.Vì vậy mà Mác viết: “tuần hoàn hiện thực của tư bản công nghiệp ,trong sự liên tục của nó, không những là sự thống nhất của quá trình lưu thông và quá trình sản xuất mà cũng là sự thống nhất của cả ba tuần hoàn của nó” ( Tư bản, C.Mác, quyểnII, tập I, nhà xuất bản, sự thật, Hà nội, 1991, tr134). II- Chu chuyển tư bản của . 1-Khái niệm về chu chuyển tư bản: Chu chuyển tư bản chính là sự tuần hoàn của tư bản nếu xét nó là một quá trình định kì đổi mới và lặp đi lặp lại, chứ không phải là một quá trình cô lập riêng lẻ. 2-Thời gian chu chuyển của tư bản : Thời gian chu chuyển của tư bản là khoảng thời gian kể từ khi tư bản ứng ra dưới một hình thức nhất định (tiền tệ, sản xuất, hàng hoá) cho đến khi nó trở về tay nhà tư bản cũng dưới hình thức như thế, nhưng có thêm giá trị thặng dư. Tức là thời gian chu chuyển bằng tổng của thời gian sản xuất với thời gian lưu thông. Thời gian sản xuất của tư bản là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất. Thời gian sản xuất bao gồm: thời gian lao động - thời gian mà người lao động sử dụng tư liệu sản xuất tác động vào đối tượng lao động, thời gian gián đoạn lao động - thời gian để đối tượng lao động hoặc thành phẩm chịu sự tác động của tự nhiên và thời gian dự trữ sản xuất. Thời gian lưu thông của tư bản là thời gian tư bản nằm trong lãnh vực lưu thông. Trong thời gian lưu thông tư bản không làm chức năng sản xuất, do đó không sản xuất ra hàng hoá và cũng không tạo ra giá trị thặng dư. Thời gian lưu thông dài hay ngắn khiến cho quá trình sản xuất nhanh hay chậm, khiến cho một khối lượng tư bản nhất định làm chức năng tư bản sản xuất được tăng thêm hay bị rút bớt, do đó mà năng suất tạo ra giá trị thặng dư lớn lên hây giảm đi. Thời gian lưu thông là khoảng thời gian mà tư bản chuyển từ hình thức tiền tệ sang hình thức sản xuất, và từ hình thức sản xuất lại trở về hình thức tiền tệ. 3- Tư bản cố định và tư bản lưu động: Căn cứ vào phương thức chu chuyển khác nhau, người ta phân chia các bộ phận tư bản ra thành tư bản cố định và tư bản lưu động. Tư bản cố định là bộ phận tư bản tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó chỉ chuyển từng phần vào sản phẩm. Bộ phận tư bản cố định cũng lưu thông như bất kì một bộ phận nào đó.Toàn bộ giá trị tư bản được đưa vào một cuộc lưu thông không ngừng và xét như vậy thì tư bản nào cũng là tư bản lưu thông. Tuy nhiên, lưu thông của chúng ta đang xét dưới đây không phải là lưu thông bình thường. Trước hết tư bản cố định lưu thông phải dưới hình thức sử dụng nó. Chỉ có giá trị của nó lưu thông mà thôi, và sự lưu thông ở đây chỉ diễn ra dần,từng phần một theo nhịp độ đó mà giá trị của nó được chuyển vào sản phẩm và lưu thông dưới hình thái giá trị của hàng hoá. Trong suốt quá trình hoạt động của tư bản, nó có tính độc lập tương đối với những hàng hoá mà nó góp phần sản xuất ra. Tư bản cố định có một cách lưu thông đặc biệt thì cũng có một cách chu chuyển đặc biệt. Phần giá trị mà nó mất dần đi do hình thái tự nhiên của nó hao mòn gây ra, trong lưu thông nó tồn tại với tư cách là bộ phận trong giá trị của sản phẩm. Nhờ quá trình lưu thông ,sản phẩm hàng hoá chuyển dần từ hàng hoá thành tiền tệ. Như vậy, nhờ quá trình lưu thông của sản phẩm, hàng hoá mà giá trị của tư bản cố định cũng được lưu thông. Phần giá trị sẽ đi ra từ quá trình lưu thông dưới hình thái tiền tệ, từ đó mà tư liệu lao động đó dần dần không còn mang giá trị trong quá trình sản xuất nữa. Từ đó giá trị của tư bản cố định có hai hình thái khác nhau. Một bộ phận thì gắn liền với hình thái sử dụng tức là hình thái tự nhiên của nó, và nằm trong quá trình sản xuất. Bộ phận khác không nằm trong quá trình sản xuất, nó tách rời hình thái sản xuất và nó không còn tồn tại dưới hình thức tự nhiên của nó, nó tồn tại ở hình thái tiền tệ. Trong thời gian tư bản cố định hoạt động, các bộ phận giá trị của nó tồn tại ở hình thái tự nhiên không ngừng giảm bớt, ngược lại bộ phận chuyển hoá thành tiền lại không ngừng tăng lên, cho đến khi nó không còn tồn tại, toàn bộ giá trị của nó rời khỏi nó, chuyển hoá hết thành tiền. Tư bản lưu động là một bộ phận tư bản sản xuất mà giá trị của nó khi tham gia sản xuất thì chuyển toàn bộ giá trị của nó vào sản phẩm. Và nó có thể hoàn lại giá trị cho nhà tư bản sau khi đã bán xong sản phẩm. Đó là bộ tư bản dưới hình thức lao động và tư liệu sản xuất khác. Mặt khác, tư bản lưu động sau khi hoàn lại cho nhà tư bản thì giá trị hoàn lại không chỉ là giá trị cũ của nó, mà nó đã tăng thêm một lượng giá trị mới. Đó là giá trị thặng dư do lao động của người công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất. Tư bản lưu động còn luôn gắn liền vào quá trình sản xuất do sự đổi mới không ngừng của nó. Việc phân chia tư bản cố định và tư bản lưu động là một sự phân chia khoa học và cần thiết về mặt quản lí kinh tế. Tuy nhiên, cần có sự phân biệt rõ ràng đâu là tư bản lưu động và đâu là tư bản cố định, để tránh sự nhầm lẫn giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến. Tư bản cố định chu chuyển chậm hơn tư bản lưu động. Trong khi tư bản cố định chu chuyển được một vòng thì tư bản lưu động đã chui chuyển được nhiều vòng. Ngay trong tất cả các bộ phận cấu thành nên tư bản cố định, thời gian chu chuyển của các yếu tố khác nhau cũng không giống nhau nghĩa là chúng hao mòn khác nhau. Hao mòn tư bản có thể là hao mòn hữu hình hoặc hao mòn vô hình, hao mòn hữu hình là hao mòn do quảtình sử dụng và do tác động của tự nhiên làm cho những bộ phận tư bản đó dần dần bị hao mòn đi, rồi hư hỏng và sẽ đến lúc ta không còn sử dụng chúng được nữa. Còn hao mòn vô hình là hao mòn trong những trường hợp máy móc còn tốt nhưng lại bị mất giá trị vì với sự phát triển không ngừng của khoa học kĩ thuật làm cho máy móc ngày càng bị lạc hậu do đó nó trở nên là bị mất giá trị. Như vậy, đối với tư bản cố định nhà tư bản phải luôn có sự bảo dưỡng định kì và những sửa chữa cần thiết nhằm duy trì sự hoạt động tốt của máy móc trong quá trình sử dụng. Nghĩa là nhà tư bản phải có những quỹ khấu hao, để dùng nó cho việc đại tu, sửa chữa cơ bản hoặc được dùng để mua máy móc mới, xây dựng nhà xưởng... còn đối với tư bản lưu động thì nhà tư bản cần phải quay vòng nhanh quá trình sản xuất để tránh hao mòn vô hình. 4- Tác dụng của việc tăng tốc độ chu chuyển tư bản và phương pháp để tăng tốc độ chu chuyển tư bản. Tốc độ của việc chu chuyển tổng tư bản ứng trước được tính bằng tốc độ chu chuyển trung bình của tư bản cố định và tư bản lưu động. Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản thì sẽ tăng được hiệu suất sản xuất và mang lại giá trị thặng dư nhiều hơn cho nhà tư bản. Tăng tốc độ chu chuyển tư bản cố định nhà tư bản có thể tránh được hao mòn vô hình,và còn có thể tăng cường sử dụng quỹ khấu hao vào mở rộng cải tiến sản xuất. Đặc biệt với tư bản lưu động, tăng tốc độ chu chuyển tư bản có tác dụng rất lớn. Đối bộ phận tư bản bất biến lưu động, tức là bộ phận tư bản bỏ ra mua nguyên liệu, nhiên liệu và vật liệu... nếu chu chuyển nhanh thì sẽ tiết kiệm được tư bản ứng trước, hoặc nếu giữ số tư bản lưu động ấy như cũ thì sẽ có điều kiện để mở rộng sản xuất. Đối với tư bản khả biến lưu động, tác dụng của việc tăng tốc độ chu chuyển tư bản lại càng qua trọng và có ý nghĩa quyết địng trong việc tăng thêm giá trị thặng dư. Thời gian chu chuyển tư bản gồm có thời gian sản xuất và thời gian lưu thông, nên muốn tăng tốc độ chu chuyển tư bản thì phải ra sức rút ngắn các khoảng thời gian ấy. Phương pháp rút ngắn thời gian sản xuất được thực hiện bằng cách áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất, mở rộng phạm vi phân công hiệp tác, cải tiến tổ chức và quản lí lao động, kéo dài ngày lao động và tăng cường độ lao động... tất cả các cách đó đều nhằm rút ngắn thời gian lao động, rút ngắn quá trình chịu ảnh hưởng tự nhiên của vật sản xuất cũng như rút ngắn được dự trữ sản xuất. Song các phương pháp đó lại buộc các nhà tư bản lại phải tăng thêm tư bản ứng trước, và nhất lại phải tăng thêm bóc lột, cho nên lại làm tăng thêm mâu thuẫn trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Như vậy là do mâu thuẫn đối kháng của bản thân chủ nghĩa tư bản, việc rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thông, do đó cả việc tăng tốc độ chu chuyển của tư bản gặp nhiều trở ngại. Tình trạng năng lực sản xuất thường xuyên không được sử dụng hết ở các nước đế quốc cùng mức độ cạnh tranh, giành giật gay gắt trên thị trường giữa các nước này hiện nay càng xác minh rõ điều đó. III- Mối quan hệ giữa tuần hoàn và chu chuyển tư bản : Tuần hoàn và chu chuyển tư bản là hai mặt của một vấn đề là vận động của tư bản. Chu chuyển tư bản chỉ có thể tiếp tục được khi có tuần hoàn trôi chảy. Mặt khác quá trình tuần hoàn của tư bản là quá trình thống nhất giữa lưu thông và sản xuất. Khi nào mà giai đoạn dùng tiền mua hàng và bán hàng và thu tiền về là những hành vi của lưu thông thì lưu thông của tư bản là một bộ phận của lưu thông hàng hoá. Nhưng nếu chỉ coi nó là những giai đoạn với những chức năng nhất định của tuần hoàn thì tư bản thì tư bản hoàn thành vòng tuần tuần hoàn của bản thân nó ở bên trong quá trrình lưu thông giúp cho nhà tư bản trút bỏ hình thái tiền tệ và mang hìng thái mơí khiến cho nó có thể tham gia vầo quá trình sản xuất. ở giai đoạn thứ ba, lưu thông chung của hàng hoá giúp cho nhà tư bản trút bỏ hình thái hàng hoá để bắt đầu trở lại vòng tuần hoàn mới của nó,đồng thời tạo thêm một món hời cho nhà tư bản bỏ túi ,đó là giá trị thặng dư. Nhưng quá trình chu chuyển của tư bản có nhanh thì cũng mới giúp cho việc tuần hoàn được quay lại quá trình tuần hoàn để trở lại hình thái ban đầu của nó được nhanh chóng. Vì vậy việc tăng tốc độ chu chuyển của tư bản và tìm mọi biện pháp để tăng tốc độ chu chuyển vốn là yêu cầu của mọi nền sản xuất. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có khả năng để thực hiện tốt vấn đề ấy. Vận dụng tốt quy luật trên sẽ giúp ViệtNam nhanh chóng có một nền kinh tế phát triển lành mạnh, nhanh chóng tạo được cơ sở vật chất vững chắc để xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công. Chương II Vận dụng lí luận về tuần hoàn và chu chuyển tư bản của C.Mác vào thực tiễn trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay I- Một số đặc điểm nền kinh tế nước ta trong nền kinh tế thị trường. Nước ta bước vào thời kì đổi mới với bao biến dổi thăng trầm. Nhưng nhìn chung hiện nay mà nói cơ bản nước ta vẫn là một nước nông nghiệp. Sau nhiều đợt cải tổ laị nền kinh tế, Đại hội Đảng VI đã khẳng định “Nước ta tiến theo con đường xã hội chủ nghĩa... thực hiện sự cải tổ lại nền sản xuất để làm cho lực lượng sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”. Thực tế nước ta đã thực hiện nhiều cuộc cải tổ lại nền kinh tế theo các mô hình khác nhau, song đến cuối những năm 80 nền kinh tế nước ta vẫn còn lạc hậu và yếu kém. Những tồn tại có thể thấy được đó chưa giải quyết được thoả đáng vấn đề lợi ích mà “lợi ích của cá nhân mỗi người, của toàn xã hội gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp “Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứVII, đảng cộng sản việt nam, nhà xuất bản sự thật, Hà Nội, 1991, trang 8). Có động lực thúc đẩy thì mới tạo ra sự hăng say trong lao động. Thực tế cho thấy cơ chế thị trường vẫn là cơ chế kinh tế tiến bộ của loài người nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường là một điều hợp với quy luật phát triển tự nhiên, Văn kiện đại hội Đảng VIII đã khẳng định rõ vấn đề này “Nước ta là một nước có nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí cuả nhà nước”. Việc tồn taị một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một điều hợp lí trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay vì nó cho phép kết hợp được mọi lợi ích tạo ra một sức mạnh tổng hợp để phát triển nền kinh tế nước. Định hướng theo cơ chế thị trường là đúng đắn vì cơ chế thị trường là tự do cạnh tranh do đó sẽ kích thích được người sản xuất có động lực lợi nhuận thúc đẩy họ tăng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, mẫu mã chủng loại khác nhau... do đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế “Là một kiểu tổ chức nền kinh tế trong đó cá nhân người tiêu dùng và doanh nghiệp tác động qua laị lẫn nhau thông qua thị trường để giải quyết ba vấn đề cơ bản là sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào (Kinh tế học ,Adam samuelson, tập I, Viện quan hệ quốc tế, 1989, trang 51). Nền kinh tế thị trường tuy là tiến tệ nhưng để nó tự vận động sẽ đến một lúc nào đó nó bộc lộ những nhược điểm của nó, cơ chế thị trường là bàn tay “vô hình”, mà không ai có thể vỗ tay bằng một bàn tay vì vậy nhà nước với vai trò “Bà đỡ” của mình sẽ làm cho nền kinh tế thị trường hoạt động có hiệu quả hơn. Do đó tất yếu phải có sự quản lí của nhà nước. Tuy vậy, một thực trạng không thể phủ nhận ở nước ta hiện nay đó là ở các vùng nông thôn, miền núi nước ta còn mang nặng dấu ấn kinh tế tự cung tự cấp, sản xuất còn rất lạc hậu. Ngay cả ở những khu đô thị lớn, quan hệ thị trường cũng phát triển ở một trình độ nhất định. Về cơ bản nước ta vẫn là một nước nông nghiệp với trên 70% dân số và lao động sống trong nông nghiệp. Các quan hệ kinh tế bị trói buộc sau một thời gian dài thực hiện cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao đến nay vẫn chưa thể khắc phục được hoàn toàn, các quan hệ tài chính tín dụng phát triển thấp, chưa hình thành được cơ chế thị trường đồng bộ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Cơ sở vật chất kĩ thuật của nền kinh tế còn thấp kém nhưng đang được đầu tư đổi. Sản xuất hàng hoá chưa theo kịp được với các nước trong khu vực và trên thế giới, các chính sách của nhà nước còn quá nhiều, mang nặng tính hành chính không thu hút hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài... Mặc dù vậy những thành quả kinh tế chúng ta đạt được như ngày nay cũng không phải là nhỏ. Hơn 10 năm thực hiện đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể về kinh tế.Tình hình chính trị ổn định là điều kiện thuận lợi cho bảo đảm kinh tế phát triển tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP chiếm 22,7% năm 1990 lên đến 30,1% năm 1995, tỷ trọng ngành dịch vụ từ 38,6% năm 1990 lên đến 42,4% năm 1995. Đời sống nhân dân ta ngày càng được cải thiện và nâng cao. Nếu như năm 1999 GDP nước ta tăng 4,8% thì đến năm 2000 GDP nước ta đã là 6,7%. Cùng với sự phát triển chung của các nước châu á khác sau khi đã trải qua khủng hoảng tài chính năm 1997. Tính đến năm 1999 nước ta đã là nước xuất khẩu gạo đứng thứ ba thế giới sau Hoa kì và Thái Lan. Cộng với đó là các chính sách về đầu tư cơ sở hạ tầng, giáo dục, ytế đã có nhiều cải tiến đáng kể khuyến khích ngày càng nhiều nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư vào ta. (Khơi thông tiềm năng vốn tạo năng lực mới phát triển kinh tế xã hội - Vũ văn Ninh, tạp chí tài chính, số 9/2000, trang 6-7). Điều đó khẳng định nước ta đang khẳng định mình trên phạm vi toàn cầu. Những thành tựu đã đạt được thì ta ngày càng phải phát huy đồng thời phải hạn chế những tồn tại đã mắc phải, giải quyết tốt vấn đề này không chỉ trong nay mai mà nó phải là một quá trình lâu dài. Tiếp tục phát triển kinh tế “nước ta cơ bản vẫn dựa vào nguồn lực trong nước là chủ yếu đi đôi với nguồn lực tận dụng từ bên ngoài. Tiếp tục xây dựng nền kinh tế hội nhập với khu vực và trên thế giới. Để thực hiện mục tiêu này chúng ta cần phải xây dựng cơ chế kinh tế hợp lý, có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất với khoa học công nghệ tiến bộ, tiếp tục tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hoá để phát triển kinh tế tạo một cơ sở kinh tế vững chắc cho nước ta xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa”. (Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng Sản Việt nam, nhà xuất bản sự thật Hà Nội, năm 1996, trang 90-100). Và nó tiếp tục được khẳng định hơn khi một lần nữa Đảng và Nhà nước ta đề cập đến trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội “ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp đến năm 2020, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng thời phải xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững. Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, kết hợp với phát triển xã hội với tăng cường an ninh quốc phòng. Cụ thể là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trọng tâm, phát triển kinh tế nhiều thành phần tiếp tục taọ lập đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường, tăng cường vai trò quản lý của nhà nước, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển khoa học công nghệ và môi trường ...” (Dự thảo báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương Đảng khóa VIII trình đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, trang 11-19). II. Thực trạng về các doanh nghiệp Việt nam trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Kinh tế nước ta hiện nay “là nền kinh tế nhiều thành phần trong đó thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể giữ vai trò chủ đạo làm nền tảng cho sự phát triển và định hướng nền kinh tế của nước ta” (Dự thảo báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương Đảng khóa VIII trình đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, trang 11-19). Doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế cùng các doanh nghiệp khác làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế đất nước. Doanh nghiệp nước ta theo luật doanh nghiệp “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế riêng phải có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định được đăng kí kinh doanh theo quy định của phát luật nhằm mục đích thực hiện hoạt động kinh doanh” (Luật doanh nghiệp, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1999, trang 7 - 8). Như vậy ở nước ta có các loại doanh nghiệp như doanh nghiệp nhà nứơc, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hợp tác xã, công ty (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp doanh... ) và kinh tế hộ gia đình. Một vấn đề cốt lõi của doanh nghiệp nước ta hiện nay là vấn đề tuần hoàn và chu chuyển vốn. Vấn đề phát huy vốn và sử dụng nó như thế nào để đạt hiệu quả là mục đích cơ bản của các doanh nghiệp. Căn cứ vào nội dung kinh tế ta chia vốn thành hai nguồn: vốn chủ sở hữu và vốn vay. Nguồn vốn chủ sở hữu về pháp lý thể hiện dưới hình thức tài sản của doanh nghiệp. Từ đó ta phân loại thành vốn cố định và vốn lưu động. Vốn lưu động có hình thức biểu hiện tài sản lưu động, vốn cố định có hình thức biểu hiện dưới hình thức tài sản cố định. Nguồn vốn gồm có các loại: các loại tài sản như nhà xưởng, máy móc thiết bị, bằng phát minh sáng chế, lợi thế thương mại... Vốn vay nợ gồm có tín dụng ngân hàng, phát hành trái phiếu doanh nghiệp, tín dụng thương mại. Việc phân loại các nguồn vốn có tác dụng to lớn trong việc quản lý vốn của các doanh nghiệp. Với các loại tài sản cố định ta có thể tính khấu hao, với tài sản lưu động ta phải xác định lượng cần thiết và làm tăng tốc độ chu chuyển... việc phân loại vốn theo hình thức sở hữu làm tăng chế độ hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp tạo sự phát triển cạnh tranh làm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế cũng như các doanh nghiệp ( Làm thế nào để quản lý tốt vốn doanh nghiệp, PTS.Vũ Lực, tạp chí xây dựng, số 7, năm 1998, trang 20 ). Một số thực tế của doanh nghiệp nước ta trong những năm qua và số lượng doanh nghiệp ngày càng được tinh giản về cả số lượng và chất lượng, như năm 1989 ta có 12300 doanh nghiệp đã giảm xuống 5280 doanh nghiệp vào năm 2000, là do các doanh nghiệp làm ăn bị thua lỗ do đó dẫn đến cổ phần hoá doanh nghiệp, liên kết với các doanh nghiệp lớn, giải thể... Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của kinh tế quốc doanh là 11.7% (giai đoạn 1991 - 1995), gấp rưỡi khu vực ngoài quốc doanh. Tổng sản phẩm do doanh nghiệp nhà nước tạo ra năm 1996 tăng so với 1994 là 22,7%. Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước đã góp phần thay đổi một bước cơ cấu vốn và lao động của doanh nghiệp. Số vốn bình quân cho một doanh nghiệp tăng từ 5,4 tỷ đồng năm 1993 lên đến hơn 18 tỷ đồng năm 1998. Cơ cấu vốn thay đổi theo chiều hướng tăng tỷ lệ tự bổ sung. Các doanh nghiệp có số lao động dưới 100 người giảm và số doanh nghiệp có từ 500 đến 1000 người tăng lên. Bằng việc trợ cấp của chính phủ và chính sách giải quyết việc làm cho phần lớn số lao động dôi dư trong các doanh nghiệp trong việc sắp xếp lại doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế là các doanh nghiệp đang đứng trước thực trạng yếu kém về nhiều mặt như sản xuất, cạnh tranh yếu, quy mô nhỏ, thiếu vốn, lãi suất thấp hơn lãi vay ngân hàng. Mức đóng góp thực tế vào ngân sách của nhà nước giảm thấp hơn so với nguồn lực đầu vào. Thêm vào đó, trong bộ máy doanh nghiệp hoạt động chồng chéo về ngành nghề kinh doanh và quản lý doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phân tán nhỏ lẻ, manh mún thiếu sự liên kết. Một số doanh nghiệp đã thực hiện lại việc cải tổ lại bộ máy doanh nghiệp nhưng nhìn chung thì doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm số đông ( 45% với tổng số các doanh nghiệp Việt nam ), số doanh nghiệp cần chuyển đổi chiếm 43% tổng số doanh nghiệp, số doanh nghiệp thua lỗ trên hai năm chiếm 7,5%. ( Sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, PGS, TS Phạm Quang Huấn, tạp chí nghiên cứu lý luận, số 5/2000, trang 30-32 ). Một đặc điểm nổi bật nữa của doanh nghiệp Việt nam là chất lượng sản phẩm không cao thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm. Theo tính toán, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 43 - 45% GDP, sản xuất nông nghiệp chiếm 27% GDP, sản phẩm của các doanh nghiệp quốc doanh chiếm 25 - 28% GDP. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với số vốn đăng kí là 33,142 triệu USD. Vấn đề hội nhập và phát triển liên doanh liên kết thu hút đầu tư nước ngoài nhằm tạo vốn mở rộng sản xuất và phát triển kinh doanh ( Doanh nghiệp Việt nam trong phát triển hội nhập, tiến sĩ Võ Văn Đức, tạp chí nghiên cứu lý luận, số 5/2000, trang 54 ). Mặt khác, trong các năm 1991-1995 tỷ lệ vốn nước ngoài đầu tư vào Việt nam chiếm 25,7% và từ năm 1996 đến nay chiếm gần 30% tổng số vốn đầu tư xã hội. Vậy khi có đầu tư nước ngoài thì vấn đề sản xuất kinh doanh thế nào cho hiệu quả không chỉ là việc riêng của doanh nghiệp nào. Thực tế các doanh nghiệp ở Việt nam hoạt động chưa hiệu quả là do chưa biết vận dụng đúng đắn lý luận tuần hoàn chu chuyển vốn của C.Mác vào việc quản lý vốn và nguồn lực của mình cho hiệu quả. Một trong lý do đó có thể là trong công tác huy động tạo lập vốn cho doanh nghiệp mình thì họ chưa tìm được các nguồn vốn thực sự đủ lớn từ nội lực trong nước, cũng như từ nước ngoài. Song tuy vậy, vấn đề ở đây là sử dụng vốn như thế nào thì lại không biết và mong đợi có sự liên doanh đầu tư nước ngoài với sự góp vốn bằng đất đai để hưởng lợi. Đôi khi còn ỷ lại vào sự trợ cấp của nhà nước mà không chịu tìm các._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35066.doc
Tài liệu liên quan