Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích biến động giá trị sản xuất tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 1990-2005 và dự báo đến năm 2010

LỜI MỞ ĐẦU Trải qua những thăng trầm của lịch sử, nhân loại đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển nhưng chỉ đến thời kỳ công nghiệp hoá thì mới phát triển với tốc độ chóng mặt. Ở những nước đã công nghiệp hoá, các nhu cầu cơ bản của con người đã được đáp ứng và đang cố gắng quan tâm đến những nhu cầu khác. Vì thế, nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ tối quan trọng đối với sự phát triển của một đất nước. Mục tiêu của Việt Nam trong thời kỳ đầu cũng là công nghiệp hoá, hiện đại h

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1372 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích biến động giá trị sản xuất tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 1990-2005 và dự báo đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oá. Đảng và nhà nước ta đã xác định chú trọng phát triển công nghiệp cho đến năm 2020 về cơ bản nước ta đã trở thành một nước công nghiệp. Yêu cầu này đòi hỏi sự cố gắng rất lớn của chính quyền các cấp, từ trung ương đến địa phương. Muốn trở lên giàu mạnh, không phụ thuộc vào các nước khác thì không có con đường nào khác là công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thái Nguyên với vai trò là trung tâm công nghiệp ở các tỉnh miền núi phía bắc đã và đang góp phần vào mục tiêu chung của cả nước. Được sự quan tâm và chỉ đạo của chính quyền các cấp trong những năm qua giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh Thái Nguyên luôn đạt mức tăng trưởng cao nhưng vẫn chưa tương xứng với vị thế và tiềm năng của Vùng. Để đánh giá một cách cơ bản và toàn diện sự phát triển công nghiệp trong những năm đổi mới và dự đoán trong thời gian tới cần nghiên cứu đề tài: “ Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích biến động giá trị sản xuất tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 1990-2005 và dự báo đến năm 2010” Thông qua đề tài sẽ phần nào thấy được sự phát triển công nghiệp Thái Nguyên trong thời gian qua và có những kiến nghị nhỏ trong thời gian tới đóng góp vào sự phát triển của Thái Nguyên Hy vọng trong thời gian tới Thái Nguyên sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ, là đầu tàu trong phát triển kinh tế các tỉnh miền núi phía bắc. Xứng đáng với truyền thống anh hùng, xứng đáng là “thủ đô gió ngàn” Đề tài được chia thành ba chương không kể lời nói đầu và kết luận: Chương I: Những vấn đề lý luận chung về giá trị sản xuất công nghiệp Chương II: Một số phương pháp Thống kê nghiên cứu biến động của giá trị sản xuất Chương III: Vận dụng một số phương pháp thống kê nghiên cứu biến động giá trị sản xuất công nghiệp tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 1990-2005 và dự đoán đến năm 2010 Do thời gian và kiến thức còn hạn chế nên đề tài không thể không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong sự đóng góp của cô giáo để đề tài em được hoàn thiện hơn Em xin cảm ơn: TS. Trần Thị Kim Thu và tập thể cán bộ Cục Thống Kê Thái Nguyên đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN DỀ LÝ LUẬN CHUNG CỦA SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP I. Khái quát chung về công nghiệp 1. Đặc điểm của sản xuất công nghiệp Công nghiệp là một bộ phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân. Nó tiến hành khai thác tài nguyên, chế biến chúng thành sản phẩm và sửa chữa các sản phẩm đó trong quá trình sử dụng. vì vậy có thể chia công nghiệp thành ba công đoạn: Hoạt động khai thác là thời kỳ đầu của toàn bộ quá trình sản xuất công nghiệp. Nó bao gồm việc khai thác khoáng sản, nhiên liệu, nước, các loại động, thực vật tự nhiên( không qua hoạt động nuôi trồng của con người). Hoạt động chế biến là hoạt động mà thực chất là biến vật chất tự nhiên thành dạng vật có tính năng, tác dụng phù hợp với nhu cầu và khả năng sử dụng của con người, biến vật chất thành của cải vật chất. Hoạt động sửa chữa là hoạt động không thể thiếu được trong qúa trình sự dụng với các vật phẩm đã được tạo bởi sự hư hỏng không đồng bộ của các bộ phận cấu thành vật phẩm, bởi sự cần thiết phải đảm bảo an toàn khi sử dụng sản phẩm, nhất là các vật phẩm dùng làm tư liệu lao động và các tư liệu sinh hoạt có giá trị lớn và bởi nguyên tắc tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng mà con người vốn rất coi trọng Công nghiệp sửa chữa là hình thức có sau so với công nghiệp khai thác và chế biến, do sự phát triển phong phú của tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt và do sự phát triển phong phú của tư liệu sinh hoạt, và do sự phát triển của phân công lao động xã hội. Hoạt động sữa chữa có ngay trong hoạt động khai thác chế biến và đời sống của dân cư và do những người hoạt động trong các lĩnh vực đó tự làm, chia thành một hoạt động chuyên môn hoặc độc lập. Chỉ khi nhu cầu sửa chữa tăng lên về số lượng và chất lượng so với sự phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của sản xuất, sự tăng lên về số lượng và chất lượng so với sự phát triển cơ sở vật chât kỹ thuật Công nghiệp là một ngành sản xuất vô cùng quan trọng, bởi nó cung cấp các vật phẩm làm tăng sức lao động của con người, giải phóng con người khỏi các công việc nặng nhọc. Công nghiệp càng phát triển, nhu cầu con người càng dễ dàng được thoả mãn hơn. Ngành này cũng tập trung hàm lượng kỹ thuật cao rất lớn và có những đặc điểm riêng có để phân biệt với các ngành khác. Các đặc điểm đó là: a, Các đặc điểm kinh tế - xã hội: - Một là sự độc lập tương đối của các hoạt động khai thác, chế biến và sửa chữa đều được coi là công nghiệp, và chỉ bộ phận nào có sự độc lập tương đối mà thôi. - Sự độc lập tương đối được đánh giá trước hết về mặt lao động. Các hoạt động khai thác, chế biến và sửa chữa được coi là công nghiệp khi về lao động, nó là hoạt động được chuyên môn hoá. Mức độ chuyên môn hoá có thể cao thấp khác nhau, nhưng tối thiểu cũng phải là những hoạt động được cố định ở một lực lượng lao động nhất định, cao hơn nữa được tiến hành bởi các doanh nghiệp. Sự độc lập có thể ở công cụ và phương pháp công nghệ, thể hiện rằng nó là một nghề nhất định - Hai là, tính tiên tiến của công nghệ về quan hệ sản xuất, tổ chức lao động, tiến bộ khoa học kỹ thuật, quan hệ quản lý. Trên các phương diện đó, công nghiệp luôn là ngành đi đầu so với các ngành kinh tế quốc dân khác. Công nghiệp có điều kiện phát triển nhanh về kỹ thuật và tổ chức sản xuất. Đó cũng chính là sự phát triển nhanh của lực lượng sản xuất, nhân tố thúc đẩy sự phát triển về quan hệ sản xuất và quản lý. - Ba là, tính tiên tiến, khoa học và cách mạng cua phong cách công nghiệp thể hiện trong đội ngũ lao động công nghiệp. Điều đó, làm cho giai cấp công nghiệp luôn luôn phải là bộ phận tiên tiến của cộng đồng nhân dân mỗi nước b, Các đặc điểm về vật chất kỹ thuật của công nghiệp Cần thừa nhận một điều là, tuy nền sản xuất xã hội được chia thành một số ngành như công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, xây dựng cơ bản,… Song về thực chất có thể coi đó là một tổng thể của hai ngành cơ bản: công nghiệp và nông nghiệp. Các ngành khác suy cho cùng chỉ là các biến dạng của một trong hai ngành đó mà thôi. Do đó, đặc trưng vật chất- kỹ thuật của sản xuất công nghiệp được hiểu như là sự khác biệt về mặt này giữa công nghiệp và nông nghiệp. Có thể thấy giữa công nghiệp và nông nghiệp có sự khác nhau cơ bản sau đây: Sản xuất công nghiệp chủ yếu là quá trình tác đông cơ-lý- hoá trực tiếp của con người vào giới tự nhiên để lấy ra và biến đổi các vật chất tự nhiên thành của cải vật chất thích ứng với nhu cầu của con người. Trong khi đó thực chất của sản xuất nông nghiệp là sự phục vụ của con người đối với quá trình sinh học của sinh vật, giúp quá trình đó sản sinh được nhanh nhất, nhiều nhất, các sinh vật thích dụng đối với con người. Trong đó, sản xuất nông nghiệp có tác động cơ- lý- hoá( làm đất, bơm nước, phun thuốc trừ sâu…) tuy được sử dụng phổ biến nhưng không tạo ra sản phẩm cuối cùng. Quá trình tạo ra sản phẩm của con người cần phải nằm trong quá trình sinh học của động, thực vật nuôi trồng. Ngược lại mọi tác động công nghiệp đều là sự biến đối trực tiếp vật chất tự nhiên thành vật liệu tiêu dùng cho con người. Đặc trưng trên đây nói lên: khả năng sản xuất mở rộng, tính sáng tạo, tính hiệu quả của các ngành công nghiệp cao hơn so với nông nghiệp 1.1. Phân loại. Tuỳ theo mục đích và yêu cầu nghiên cứu, quản lý, có thể phân loại công nghiệp thành các ngành theo mức độ và căn cứ khác nhau +, căn cứ vào công dụng kinh tế của sản phẩm Công nghiệp được chia thành: công nghiệp nhóm A( sản xuất tư liệu sinh hoạt) và công nghiệp nhóm B(sản xuất vật phẩm tiêu dùng).Khối lượng chủ yếu của những sản phẩm thuộc công nghiệp nhóm A do các doanh nghiệp của các ngành công nghiệp nặng sản xuất ra như: máy móc, thiết bị, thép,than, sản phẩm hoá học… Một số sản phẩm của các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm cũng được dùng vào sản xuất dưới dạng nguyên vật liệu như vải mành để làm lốp xe, đường để làm bánh kẹo… Khối lượng chủ yếu của những sản phẩm thuộc công nghiệp nhóm B là tư liệu tiêu dùng do những doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp thực phẩm sản xuất. Một số sản phẩm của các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp nặng được dùng vào mục đích tiêu dùng như than, quạt máy, điện… Sản phẩm của các doanh nghiệp công nghiệp được xếp vào công nghiệp nhóm A hay công nghiệp nhóm B là tuỳ vào công dụng thực tế của chúng. Những doanh nghiệp công nghiệp được xếp vào công nghiệp nặng hay công nghiệp nhẹ tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế- kỹ thuật của chúng. Sự phân loại công nghiệp nhóm A hay công nghiệp nhóm B có tác dụng trực tiếp đối với việc thực hiện tái sản xuất mở rộng trong công nghiệp, giải quyết quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng. Tuỳ thuộc vào đặc điểm của thời đại, mục tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội và đặc điểm, điều kiện kinh tế, xã hội của mỗi nước trong mỗi thời kỳ, mà xác định quy mô, quan hệ tỷ lệ và tốc độ thích hợp giữa phát triển công nghiệp nhóm A và công nghiệp nhóm B. Trong điều kiện của tiến bộ khoa học kỹ thuật và giao lưu, liên kết kinh tế giữa các nước có thể đẩy nhanh và có hiệu quả quá trình tái sản xuất, sự phát triển kinh tế, giải quyết tốt quan hệ giữa công nghiệp nhóm A và công nghiệp nhóm B của đất nước mình, nhờ chú trọng phát triển công nghiệp nhẹ và hướng vào xuất khẩu là chính +, Nếu căn cứ vào tính chất của sự tác động vào đối tượng lao động: Thì toàn bộ sản xuất công nghiệp được phân thành các ngành công nghiệp khai thác và các ngành công nghiệp chế biến Công nghiệp khai thác bao gồm những ngành có nhiệm vụ thực hiện việc cắt đứt mối liên hệ trực tiếp giữa đối tượng lao động với môi trường tự nhiên để tạo ra nguyên vật liệu cho công nghiệp hoặc cung cấp cho tiêu dùng. Nó bao gồm các ngành khai thác khoáng sản và khai thác tài nguyên động, thực vật. Công Nghiệp chế biến bao gồm những ngành chế biến nguyên liệu do các ngành công nghiệp khai thác và các ngành nông, lâm, ngư nghiệp tạo ra. Đó là các ngành: luyện kim, chế tạo máy, hoá chất, dệt may, chế biến lương thực và thực phẩm. Theo tính chất của công nghệ sản xuất, các ngành công nghiệp chế biến bao gồm: các ngành công nghiệp chế biến dựa vào công nghệ hoá học là chủ yếu( luyện kim, hoá chất, một số ngành sản xuất vật liệu xây dựng…) các ngành công nghiệp chế biến dựa vào công nghệ cơ học là chủ yếu( chế tạo máy, xẻ gỗ, may giày, da, dệt…) các ngành công nghiệp chế biến dựa vào công nghệ sinh học là chủ yếu( rượu, bia…) Cách phân loại công nghiệp thành các ngành công nghiệp khai thác và các ngành công nghiệp chế biến phục vụ cho việc nghiên cứu và giải quyết quan hệ giữa khai thác và chế biến nguyên liệu Dưới ảnh hưởng của tiến bộ khoa học kỹ thuật của giao lưu hợp tác quốc tế, để nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội ở nhiều nước trên thế giới: các ngành khai thác chế biến tài nguyên mà họ có thế mạnh đã được chú trọng phát triển, giảm xuất khẩu nguyên liệu thô, các ngành công nghiệp khai thác phát triển với tốc độ chậm hơn các ngành công nghiệp chế biến. Bởi vậy người ta có thể thay thế vật liệu hoá học, vật liệu tổng hợp, vật liệu mới cho vật liệu tự nhiên, vật liệu truyền thống, có thể giảm tổn thất và hao phí nguyên vật liệu trong qúa trình khai thác chế biến Ngoài ra, còn có thể phân nền kinh tế quốc dân nước ta gồm 20 ngành cấp I. Trên cơ sở các ngành cấp I, tổng cục thống kê thực hiện ngành cấp II, cấp III và cấp IV. hoặc phân ngành căn cứ vào triển vọng phát triển của ngành… 1.2. Vai trò của ngành công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân Nền kinh tế quốc dân bao gồm 3 lĩnh vực: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ Sự phát triển của công nghiệp là thước đo trình độ phát triển kinh tế, của xã hội loài người. Loài người đã trải qua: xã hội truyền thống, xã hội công nghiệp và đang ở xã hội hậu công nghiệp Trong tiến trình phát triển đó của lịch sử, Công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày càng cao, tỷ trọng của nông nghiệp ngày càng giảm: sau khi hoàn thành công nghiệp hoá thì tỷ trọng công nghiệp lại giảm, trong khi đó tỷ trọng dịch vụ lại tăng lên. Công nghiệp hoá là nấc thang tất yếu lịch sử mà bất kỳ một nước nào muốn đạt tới trình độ một nước phát triển đều phải trải qua. Trong điều kiện của tiến bộ khoa học- công nghệ hiện nay, của quốc tế hoá đời sống kinh tế, công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá. Đối với nước ta, chỉ có thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới có thể thoát khỏi tình trạng một nước nông nghiệp lạc hậu, khắc phục được nguy cơ lạc hậu. Phát triển công nghiệp là nội dung cơ bản, là điều kiện quyết định để thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp có vai trò quan trọng như vậy bởi vì: - Công nghiệp sản xuất ra tư liệu sản xuất để trang bị kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân, mà không ngành nào có thể làm thay được Công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản làm tăng giá trị của nông sản, thúc đẩy nông nghiệp phát triển Công nghiệp sản xuất ra phần lớn hàng tiêu dùng phục vụ cho đời sống và xuất khẩu Mỗi chuyên ngành công nghiệp có vai trò, vị trí nhất định trong nền kinh tế quốc dân, tuỳ thuộc vào công dụng của sản phẩm và hiệu quả kinh tế- xã hội mà nó mang lại. Các ngành công nghiệp khai thác: tạo nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp nhất là công nghiệp chế biến và chế tạo; tạo nguồn vốn tích luỹ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thông qua phát triển công nghiệp khai thác sẽ phát huy lợi thế về tài nguyên của mỗi nước Các ngành công nghiệp chế biến: tạo ra các sản phẩm trung gian và sản phẩm cuối cùng, đáp ứng hầu hết các nhu cầu của sản xuất, đời sống, xuất khẩu, thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế quốc dân( tạo điều kiện, tạo nhu cầu, tạo động lực) phát triển công nghiệp chế biến mang lại hiệu quả kinh tế- xã hội cao( tăng giá trị gia tăng, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, tạo nhiều việc làm…) Do việc phát triển công nghiệp chế biến, nhất là giá trị gia tăng của công nghiệp chế biến là tiêu chuẩn, là thước đo đánh giá trình độ phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế của một nước. 1.3. Tình hình phát triển công nghiệp Việt Nam Trong thời kỳ đổi mới, khi đất nước cơ bản thoát khỏi khủng hoảng, Đảng ta đưa ra những chủ trương chuyển sang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu sớm đưa nước ta ra khỏi nước kém phát triển, đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá. Công nghiệp trở thành động lực, trở thành đầu tàu tăng trưởng kinh tế. Công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn 1990-2005 đạt 14,5%, đây là mức tăng trưởng cao. Nó đặc biệt có ý nghĩa về nhiều mặt khẳng định con đường phát triển mà Đảng ta đã chọn là đúng đắn bởi các lý do sau: Thứ nhất: Công nghiệp tăng trưởng cao góp phần tích cực và trực tiếp đối với tốc độ tăng trưởng chung của toàn bộ nền kinh tế Thứ hai: Cha ông ta đã dạy “ phi công bất phú” nếu chỉ dựa vào nông nghiệp thì chỉ đủ ăn, chỉ bảo đảm được sự ổn định, còn đất nước sẽ không giàu có được. Đất nước có nguy cơ tụt hậu rất lớn Thứ Ba: Công nghiệp tăng trưởng có tác dụng đối với các ngành kinh tế khác. Đối với nông nghiệp, công nghiệp đã tác động trên một số mặt. Ở đầu vào, công nghiệp cung cấp tư liệu sản xuất, trang bị thiết bị, kỹ thuật hiện đại cho nông nghiệp. Trong quá trình sản xuất, công nghiệp góp phần bảo quản, chế biến làm tăng giá trị tăng hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản. Ở đầu ra, công nghiệp là thị trường tiêu thụ nông sản rộng lớn, khắc phục tình trạng độc canh, tình trạng tự cấp tự túc, đưa nông dân hội nhập vào kinh tế thị trường ở trong nước và thế giới. Trong giai đoạn 1990-2005, là giai đoạn giá trị sản xuất công nghiệp tăng liên tục với mức tăng trưởng cao. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi giai đoạn này xảy ra rất nhiều khó khăn như cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, giá nguyên vật liệu đầu vào tăng cao như giá xăng dầu tăng, giá sắt thép… hạn hán lũ lụt .. làm cho cung về điện thất thường. Ở đầu ra thì, tiêu thụ các sản phẩm công nghiệp gặp khó khăn. Các sản phẩm công nghiệp xuất khẩu vấp phải sự cạnh tranh khốc liệt từ chính các nước đó và các nước xuất khẩu khác như hàng may mặc xuất khẩu thì vấp phải cạnh tranh của hàng may mặc Trung Quốc… Các sản phẩm trong nước cũng phảI cạnh tranh vớI hàng ngoạI nhập do chúng phảI mở cửa thị trường để hộI nhập. Giá trị sản xuất công nghiệp nước ta tăng mạnh do những lý do sau: Một là, Sự ra đớI của Luật doanh nghiệp tạo điều kiện cho cho gần chục nghìn doanh nghiệp ngoài nhà nước ra đờI hình thành khu vực công nghiệp ngoài nhà nước phát triển rất nhanh. Khu vực này đang dần chứng tỏ ưu thế về phát triển của mình như thu hút được nhiều doanh nhân trẻ vớI những ưu thế về trình độ ngoại ngữ, tin học, tinh thần năng động, dám nghĩ, dám làm.. Đây là một khu vực công nghiệp phát triển năng động thu hút nhiều lao động cần tạo sân chơi bình đẳng để phát triển Hai là, Công nghiệp khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng trưởng cao, chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong toàn ngành công nghiệp của Việt Nam. VớI chính sách mở cửa nền kinh tế, khu vực công nghiệp này đã có những bước phát triển quan trọng. Nó phát triển nhanh do nhở thế mạnh vốn có của khu vực này về các mặt: có nguồn vốn lớn, có thiết bị, kỹ thuật công nghiệp hiện đạI hơn, có khả năng tiếp thị, tiêu thụ tốt hơn nhờ có các công ty mẹ đứng đằng sau. Thêm vào đó, nhà nước có chính sách thông thoáng hơn tạo điều kiện cho khu vực này phát triển. Các doanh nghiệp thuộc khu vực này đã tận dụng được cơ hộI các nước trong khu vực giảm thuế suất thuế nhập khẩu khi thực hiện cam kết hộI nhập AFTA, … Tốc độ tăng bình quân năm giá trị sản xuât công nghiệp Việt Nam qua các thờI kỳ(%) Tuy đạt được nhiều kết quả, nhưng sản xuất công nghiệp hiện vẫn còn những hạn chế, bất cập và đứng trước những thách thức không nhỏ. Công nghiệp khu vực nhà nước tăng thấp. Các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo ài chiếm đa số. Có nhiều địa phương giá trị sản xuất tăng thấp. Chất lượng , hiệu quả và sức cạnh tranh của công nghiệp còn thấp. Biểu hiện rõ nhất là tốc độ tăng giá trị tăng them của công nghiệp thấp xa so vớI tốc độ tăng giá trị sản xuất của ngành này. 2. Phương pháp tính giá trị sản xuất công nghiệp 2.1. Phạm vi, nguyên tắc và phương pháp tính a, khái niệm Giá trị sản xuất công nghiệp là toàn bộ giá trị của các sản phẩm vật chất và dịch vụ hữu ích do lao động công nghiệp của doanh nghiệp làm ra trong một thờI kỳ và là bộ phận chủ yếu của chỉ tiêu GO chung của toàn doanh nghiệp công nghiệp b, Nguyên tắc nguyên tăc thường trú- tính theo lãnh thổ kinh tế tính theo thờI điểm sản xuất: Sản phẩm được sản xuất ra trong thờI kỳ nào được tính vào kết quả sản xuất của thờI kỳ đó. Theo nguyên tắc này, chỉ tính vào giá trị sản xuất chênh lệch cuốI kỳ đầu kỳ nửa thành phẩm và sản phẩm dở dang, tức là phảI loạI trừ tồn kho đầu kỳ hai loạI kể trên vì nó là kết quả sản xuất của kỳ trước tính theo giá thị trường tính toàn bộ giá trị sản phẩm: theo nguyên tắc này, cần tính vào giá trị sản xuất cả giá trị nguyên vật liệu của khách hang tính toàn bộ kết quả sản xuất: theo nguyên tắc này cần tính vào giá trị sản xuất không chỉ thành phẩm mà cả nửa thành phẩm và sản phẩm dở dang c, Phương pháp tính Giá trị sản xuất công nghiệp được tính theo phương pháp doanh nghiệp, có nghĩa là chỉ tính vào giá trị sản xuất công nghiệp các kết quả hoạt động cuốI cùng của các doanh nghiệp, không tính các kết quả trung gian( chu chuyển nộI bộ doanh nghiệp) Giá trị sản xuất cuả các ngành này bao gồm: Giá trị thành phẩm sản xuất bằng nguyên vật liệu của doanh nghiệp Giá trị chế biến sản phẩm bằng nguyên vật liệu của ngườI đặt hang+ giá trị nguyên vật liệu của ngườI đặt hang đem chế biến Giá trị công việc có tính chất công nghiệp làm cho bên ngoài Sửa chữa lớn thiết bị cho bên ngoài và cho mình Giá trị sản phẩm tự chế tự dung theo quy định, giá trị csc phế liệu thu hồi. Riêng bộ phận giá trị thu hồI phế liệu về bản chất không nên tính vào kết quả sản xuất mà nên tính vào giảm chi phí trung gian( không nên xem phế liệu là sản phẩm xã hộI). Hiện nay cơ quan thống kê các nước và Việt Nam không quy định được tính vào giá trị sản xuất. Điều này không ảnh hưởng đến kết quả tính giá trị tăng them và GDP, nhưng có ảnh hưởng đến nộI dung kinh tế và ý nghĩa chỉ tiêu giá trị sản xuất tính được Doanh thu cho thuê thiết bị, máy móc.. Chênh lệch giá trị cuốI ky- đầu kỳ của nửa thành phẩm, sản phẩm dở dang.. Tổng giá trị sản xuất của các ngành công nghiệp theo các giá thích hợp( thực tế, kế hoạch, hiện hành, cố định hay so sánh) GO của hoạt động sản xuất công nghiệp tính theo giá sử dụng cuốI cùng gồm các yếu tố sau: Doanh thu thuần của hoạt động sản xuất công nghiệp( gồm doanh thu thuần bán sản phẩm hang hoá công nghiệp và doanh thu thuần cung cấp dịch sản xuất công nghiệp) trợ cấp của nhà nước chênh lệch( cuốI kỳ trừ đầu kỳ) của sản phẩm trung gian, công cụ mô hình tự chế chênh lệch( cuốI kỳ trừ đầu kỳ) thành phẩm tồn kho chênh lệch (cuốI kỳ trừ đầu kỳ) hàng gửI bán thuế sản xuất khác = giá trị sản xuất theo giá cơ bản thuế sản phẩm= giá trị sản xuất theo giá sản xuất cước vận tảI và phí thương nghiệp= giá trị sản xuất theo giá sử dụng cuốI cùng 2.2. Nội dung giá trị sản xuất công nghiệp a, theo số liệu sản xuất, GO gồm các yếu tố: +, giá trị thành phẩm( sản phẩm chính, phụ và nửa thành phẩm) sản xuất bằng nguyên vật liệu của doanh nghiệp +, Giá trị chế biến thành phẩm làm bằng nguyên, vật liệu của khách hàng( khi nhận gia công, doanh nghiệp không được khách hàng cung cấp thống tin về giá cả vật tư mang đến đặt hàng, nên không cần phảI tách giá trị vật tư) +, Giá trị phế phẩm, phế liệu thu hồI đã tiêu thụ +, Chênh lệch sản phẩm trung gian( nửa thành phẩm, sản phẩm dở dang) , công cụ, mô hình tự chế giữa cuốI và đầu kỳ +, giá trị dịch vụ công nghiệp hoàn thành cho bên ngoài( sửa chữa, bảo dưỡng TSCĐ, gia công ngắn hay hoàn chỉnh sản phẩm) +, Giá trị cho thuê máy móc, thiết bị và nhà xưởng trong dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp b, Theo số liệu tiêu thụ: GO bao gồm các khoản sau: +, Doanh thu tiêu thụ thành phẩm( chính, phjụ và nửa thành phẩm) do lao động của doanh nghiệp làm ra; +, Doanh thu tiêu thụ thành phẩm tương tự như trên (làm bằng nguyên, vật liệu của doanh nghiệp) thuê gia công bên ngoài +, Doanh thu từ hợp đồng chế biến sản phẩm cho khách hàng +, Doanh thu tiêu thụ sản phẩm của hoạt động sản xuất phụ( khi không thể hạch toán riêng về ngành phù hợp) +, thu nhập từ hàng hoá mua vào bán ra không qua chế biến +, Doanh thu bán phế liệu, phế phẩm +, Chênh lệch giá trị sản phẩm trung gian và công cụ mô hình tự chế giữa cuốI và đầu kỳ +, Chênh lệch giá trị thành phẩm tồn kho giữa cuốI và đầu kỳ +, Doanh thu cho thuê nhà xưởng, máy móc, thiết bị trong dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp +, kết quả tính toán GO theo hai cách trên có thể không khớp nhau, do nguyên nhân:(1) mỗI cách dựa vào nguồn số liệu riêng;(2) Ở giác độ tiêu thụ có nhiều khoản thu hơn;(3) Ở góc độ sản xuất thường tính theo giá so sánh và giá hiện hành, còn ở góc độ phân phốI chỉ tính theo giá hiện hành Thống kê doanh nghiệp công nghiệp dùng giá so sánhvà giá hiện hành của giá sử dụng cuốI cùng( hay giá thị trường) loạI giá này được hình thành như sau: +, Giá nhân tố = Chí phí trung gian+thu nhập lần đầu của người lao động + Thặng dư sản xuất+ khấu hao TSCĐ +, Giá cơ bản= Giá nhân tố+ thuế sản xuất khác( trừ trợ cấp) +, Giá sử dụng cuối cùng=giá sản xuất+ cước vận tải+ Phí thương nghiệp 2.3. Ý nghĩa của chỉ tiêu GO trong hoạt động sản xuất công nghiệp Phản ánh qui mô về kết quả của hoạt động sản xuất công nghiệp của doanh nghiệp Là cơ sở tính các chỉ tiêu VA và NVA của doanh nghiệp Là căn cứ tính các chỉ tieu hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp Và cuốI cùng, được dùng để tính GDP, GNI của nền kinh tế quốc dân GO bao gồm đủ(C+V+M) nên có thể có sự trùng lặp về giá trị trong tính toán 3.Tính hình phát triển công nghiệp Thái Nguyên 3.1. Định hướng của đảng bộ Để thực hiện mục tiêu trọng tâm là phát triển kinh tế dựa trên những thế mạnh sẵn có. ĐạI hộI Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI đã xác định: kinh tế Thái Nguyên sẽ chuyển từ có cấu kinh tế nông- lâm nghiệp, công nghiệp, dịch vụ đến năm 2005 và cơ cấu công nghiệp, dịch vụ, nông- lâm nghiệp vào năm 2010 Thực hiện mục tiêu đó, Thái Nguyên sẽ xây dựng nền kinh tế đa dạng, lấy công nghiệp làm nòng cốt vớI quy mô vừa và nhỏ; phát trỉen và mở rộng khu công nghiệp và cụm công nghiệp, bao gồm khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên vớI ngành công nghiệp luyện kim giữ vai trò chủ đạo; khu công nghiệp Sông Công vớI mục tiêu chuyên môn hoá vao về sản xuất cơ khí và phát triển mạnh các ngành công nghiệp nhẹ, phát triển cụm công nghiệp ở các huyện, thành phố, thị xã, trong đó tập trung phát triển công nghiệp khai khoáng và sản xuất vật liệu xây dựng. Phát triển mạnh các loại hình dịch vụ theo hướng nâng cao chất lượng và từng bước hiện đạI hoá các loạI hình dịch vụ. Coi trọng và phát triển du lịch, trước hết là du lịch sinh thái và văn hoá lịch sử. Xây dựng và phát triển kinh tế nông-lâm nghiệp ổn định và bền vững, theo hướng chuyển mạnh cơ cấu cây trồng, vật nuôi, mùa vụ; lựa chọn các tập đoàn giống cây, con có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao vào sản xuất, hình thành và phát triển các vùng sản xuất hàng hoá lớn, thúc đẩy phát triển các vùng sản xuất hàng hoá lớn, thúc đẩy phát triển công nghiệp chế biến chè xuất khẩu. Trên cơ sở đó tạo sự chuyển biến mạnh hơn nữa về cơ cấu kinh tế theo hướng thúc đẩy phát triển nhanh công nghiệp và dịch vụ, làm thay đổi căn bản đờI sống vật chất,tinh thần của nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Từ đó hình thành nền kinh tế ổn định và có khả năng phát triển nhanh với cơ cấu kinh tế công nghiệp, dịch vụ, nông- lâm nghiệp, tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển ở trình độ cao hơn sau năm 2010. Thái Nguyên là một trong những tỉnh được ưu tiên đầu tư phát triển công nghiệp sớm nhất trong cả nước( trên dướI 40 năm). trảI qua nhiều thăng trầm của ngành công nghiệp Việt Nam và của tỉnh, công nghiệp vẫn được đánh giá là ngành kinh tế mũi nhọn. Bởi vì, trong thời kỳ nào đảng bộ và chính quyền các cấp cũng xây dựng chương trình phát triển kinh tế-xã hộI mà trọng tâm là đẩy nhanh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp, luôn tích cực triển khai nhiều chính sách, biện pháp khuyến khích phát triển phù hợp của tỉnh và của ngành như: tập trung đầu tư chiều sâu, cảI thiện môi trường đầu tư, triển khai các chính sách ưu đãi đối với đầu tư trong và ngoài nước.. Nhằm phát huy những thành quả đã đạt được, đồng thờI dỡ bỏ mọI rào cản để hướng tớI sự phát triển bền vững, Sở công nghiệp Thái Nguyên đang phốI hợp cùng viện nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp- bộ công nghiệp tiến hành xây dựng dự án quy hoạch phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2005-2015 có tính đến năm 2020. Ông Bùi Quang hân- Giám đốc sở công nghiệp Thái Nguyên cho biết:” mục đích của dự án này nhằm làm rõ các tiềm năng, nguồn lực và đặc thù của tỉnh Thái Nguyên để xây dựng các quan điểm, định hướng phát triển cho công nghiệp Thái Nguyên một cách đúng đắn và lâu dài; xây dựng cơ cấu, mục tiêu phát triển công nghiệp thích ứng vớI các giai đoạn phát triển. Các mục tiêu phát triển của từng giai đoạn là luận cứ khoa học và thực tiễn để hoạch định các kế hoạch 5 năm và các kế hoạch hàng năm phát triển công nghiệp của tỉnh. Quy hoạch công nghiệp cũng là cơ sở phục vụ cho công tác chỉ đạo quản lý, hoạch định các chính sách công nghiệp của các cấp lãnh đạo trong tỉnh. Việc xây dựng và triển khai dự án này sẽ giúp ngành công nghiệp Thái Nguyên tiếp tục bứt phá theo hướng nhanh, mạnh và bền vững” 3.2. Sơ lược về tình hình phát triển tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 1990-2005 Tỉnh Thái Nguyên nằm ở trung tâm vùng Việt Bắc, kề sát với vùng đồng bằng và khu kinh tế trọng điểm: Hà Nội -Hải Phòng-Quảng Ninh; có điều kiện giao thông thuận lợi với đường bộ, đường sắt, đường sông và gần cảng hàng không nội bài, gần cảng biển nước sâu Cái Lân-Quảng Ninh, cảng Hải Phòng. Thái Nguyên là một trong các tỉnh Phía Bắc có hệ thống cung cấp điện lưới quốc gia khá sớm và ổn định, mạng lưới thông tin liên lạc hoàn chỉnh. Thái Nguyên là một trong số ít tỉnh có nguồn tài nguyên khoáng sản vào loạI đa dạng, phong phú nhất cả nước, vớI 176 mỏ và điểm quặng được chia thành 4 nhóm: nhóm khoáng sản nhiên liệu( bao gồm than antraxit, than mỡ); nhóm khoáng sản kim loạI( kim loạI đen, quặng titan và kim loạI màu); nhóm khoáng sản phi kim loạI( barit, pyrit, phot-phorit); nhóm khoang sản phục vụ cho ngành sản xuất vật liệu xây dựng( cát, đất sét,caolin, đá vôi..) trong đó nhóm kim loạI chủ yếu là quặng sắt có trữ lượng trên 30 triệu tấn, chì kẽm trên 30 triệu tấn, quặng vonfram gần 200 nghìn tấn, ngoài ra còn có các mỏ, điểm quặng vàng, thuỷ ngân, niken….. Thêm vào đó, Thái Nguyên là trung tâm giáo dục lớn thứ ba của cả nước. Đến tháng 7 năm 2004, toàn tỉnh có 6 trường đại học, 2 trường cao đẳng, 12 trường trung học chuyên nghiệp và đào tạo công nhân kỹ thuật, vớI số lượng 5-6 nghìn sinh viên tốt nghiệp/ năm, đáp ứng nhu cầu của tỉnh và các tỉnh, thành khác trong cả nước. Năm 2003, số lượng lao động đã qua đào tạo là 43642 ngườI, trong đó lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên chiếm 30,89%, trình độ trung học chiếm 16,61%, đào tạo nghề chiếm 15,2%. Trên đây là những điều kiện rất thuận lợI để phát triển một ngành công nghiệp mạnh, có tốc độ phát triển cao và bền vững. Vì thế, Thái Nguyên cũng là địa phương có nhiều khu công nghiệp được đầu tư xây dựng sớm nhất trong cả nước.Trong đó, khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên(được xây dựng từ những năm 1960)- nơi sản xuất thép từ quặng duy nhất ở Việt Nam- đang được đầu tư chiều sâu. Khu công nghiệp Sông Công được chính phủ quyết định thành lập từ năm 1999 vớI diện tích 320ha, đã thu hút 17 dự án( tỷ lệ lấp đầy đạt 50% diện tích giai đoạn I). Ngoài ra, uỷ ban nhân dân tỉnh đã phê duyệt quy hoạch 02 cụm công nghiệp tạI thành phố Thái Nguyên và 23 cụm công nghiệp tại các huyện, thị xã vớI tổng diện tích 440ha. Trước năm 1997, tỉnh Bắc Thái chưa tách thành tỉnh Thái Nguyên và tỉnh Bắc Cạn. nên giai đoạn năm 1990-1997 và giai đoạn 1998-2005 có sự khác nhau về chất. Giá trị sản xuất công nghiệp ở hai giai đoạn này cũng có ý nghĩa khác nhau. Giai đoạn trước là giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh Bắc Thái, giai đoạn sau là gi._.á trị sản xuất công nghiệp của tỉnh Thái Nguyên. Mặc dù các cơ sở công nghiệp lớn đều tập trung ở tỉnh Thái Nguyên. Đây là đặc điểm riêng có rất cần phải lưu ý khi phân tích cả giai đoạn phát triển công nghiệp của tỉnh Thái Nguyên CHƯƠNG II: MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP THỐNG KÊ NGHIÊN CỨU BIẾN ĐỘNG GIÁ TRỊ SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP I. Lựa chọn phương pháp Thống Kê nghiên cứu biến động giá trị sản xuất 1. Lý luận chung về phân tích Thống kê 1.1. Khái niệm. Phân tích Thống kê là quá trình xem xét đánh giá một cách sâu sắc các biểu hiện số lượng của các biểu hiện kinh tế xã hội nhằm tìm ra bản chất và tính quy luật cũng như sự phát hiện các mối quan hệ tiềm ẩn trong những số liệu đã thu thập được, xử lý và tổng hợp. Phân tích thống kê có ý nghĩa quan trọng trong phân tích Thống Kê. Đây là khâu cuối cùng trong nghiên cứu Thống Kê, nó biểu hiện tập trung kết quả của quá trình nghiên cứu. Trên thực tế, phân tích và dự đoán thống kê không chỉ có ý nghĩa nhận thức hiện tượng kinh tế xã hội mà trong chừng mực nhất định còn góp phần cải tạo kinh tế xã hội. Để thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ nói trên thì phân tích và dự đoán thống kê phải thực hiện các vấn đề sau: Phải tiến hành trên cơ sở phân tích và lý luận kinh tế xã hội. Do các hiện tượng kinh tế xã hội có tính chất và xu hướng phát triển khác nhau nên thông qua phân tích và lý luận ta hiểu được tính chất phát triển của hiện tượng. trên cơ sở đó mới dùng số liệu và các phương pháp phân tích khẳng định bản chất của nó. Phải căn cứ vào toàn bộ sự kiện và đặt chúng trong mối liên hệ ràng buộc với nhau Đối với những hiện tượng có tính chất và trình độ phát triển khác nhau phải áp dụng các phương pháp khác nhau 1.2. Những vấn đề chủ yếu của phân tích và lựa chọn thống kê Phân tích thống kê là sử dụng hàng loạt các phương pháp Thống kê tính toán hàng loạt các chỉ tiêu và rút ra kết luận về bản chất của hiện tượng. Khi phân tích Thống kê phải xem xét các vấn đề sau: Xác định nhiệm vụ cụ thể của phân tích Thống kê là xem xét đợt phân tích đó nhằm giải quyết nhiệm vụ gì. Vì một hiện tượng có nhiều khía cạnh khác nhau, do đó mỗi lần phân tích ta chỉ giải quyết được một số vấn đề. Khi xác định nhiệm vụ cụ thể phân tích Thống Kê phải dựa vào sự cần thiết, cấp bách của từng nhiệm vụ, từng vấn đề. Lựa chọn và đánh giá tài liệu: Khi phân tích và dự đoán thống kê có nhiều số liệu, và nhiều hình thức thu thập thông tin. Để đảm bảo yêu cầu của phân tích phải lựa chọn tài liệu. Khi lựa chọn tài liệu phải tiến hành đánh giá: xem tài liệu có đủ độ tin cậy hay không. Nguồn số liệu có đủ để đáp ứng kịp thời yêu cầu phân tích, số liệu có hợp logic không. Lựa chọn, đánh giá tài liệu là một vấn đề quan trọng để phân tích và dự đoán Thống Kê. Mỗi số liệu cho ta một khía cạnh của hiện tượng, một tính chất và quy luật của hiện tượng. Lựa chọn các phương pháp và chỉ tiêu dùng để phân tích: sự lựa chọn các phương pháp phân tích là cần thiết vì thống kê có rất nhiều phương án và phương pháp phân tích khác nhau: phương pháp phân tổ, phương pháp dãy số thời gian, phương pháp chỉ số, phương pháp hồi quy tương quan, …. Các phương pháp này đều có đặc điểm riêng. Vì vậy, chọn phương pháp thích hợp là phải dựa vào yêu cầu, mục đích và nguồn số liệu thu thập được, tác dụng của mỗi phương pháp. So sánh đối chiếu các chỉ tiêu với nhau: sau khi lựa chọn các phương pháp và chỉ tiêu thống kê thì ta phải so sánh đối chiếu các chỉ tiêu với nhau. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ phải dự đoán các mức độ có thể xảy ra trong tương lai. Là dự đoán về khả năng số lượng, bản chất hoặc các vấn đề có thể xảy ra trong tương lai. Muốn dự đoán phải căn cứ vào các số liệu ban đầu để dự đoán khả năng. Việc phân tích và dự đoán nhằm rút ra kết luận về bản chất, tính quy luật đặc điểm, khó khăn thuận lợi của các hiện tượng mà ta nghiên cứu sau đó đề ra các quyết định giải pháp. 2. Lựa chọn các phương pháp phân tích Thống Kê 2.1. Nguyên tắc lựa chọn. Thống kê có rất nhiều phương pháp phân tích nên khi phân tích ta phải lựa chọn phương pháp thích hợp, có thể là nhiều phương pháp cùng phân tích các mặt của một vấn đề. Khi lựa chọn các phương pháp phân tích cần phải có những nguyên tắc sau: Phải căn cứ vào mục đích và phạm vi nghiên cứu để lựa chọn các phương pháp. Bởi vì, các vấn đề trong thực tế vốn rất phức tạp, và có nhiều tiêu thức có thể không lượng hoá được mà mỗi phương pháp có một tác dụng nhất định nên cần phải dựa vào phạm vi nghiên cứu và mục đích của vấn đề mới lựa chọn được phương pháp thích hợp tránh tính trạng phân tích vấn đề lan man, không đi vào trọng tâm nghiên cứu. Phải căn cứ vào nguồn sô liệu, xem số liệu có chính xác không, có đủ độ tin cậy hay không. Dựa vào nguồn số liệu để lựa chọn phương pháp phân tích vì nếu không có số liệu thì không thể phân tích và sử dụng các phương pháp phân tích được. tuỳ thuộc vào số liệu phân tích thuộc dạng nào, và ở các tiêu thức nào mà lựa chọn phương pháp phân tích Trong quá trình phân tích về một vấn đề thì lựa chọn được càng nhiều phương pháp phân tích vấn đề đó càng tốt.Việc phân tích sẽ càng có độ tin cậy cao vì mỗi một phương pháp có ưu nhược điểm riêng. Sử dụng nhiều phương pháp để tận dụng các ưu điểm và hạn chế nhược điểm của chúng 2.2. Lựa chọn một số phương pháp phân tích Dựa vào nguồn số liệu, mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài thì cần phải sử dụng các phương pháp sau: phương pháp dãy số thời gian: Giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh Thái Nguyên qua các năm là một dãy số thời gian, tức là nó là một dãy các trị số của chỉ tiêu Thống kê được sắp xếp theo thứ tự thời gian. Sử dụng phương pháp dãy số thời gian có thể nghiên cúu các đặc điểm về sự biến động của hiện tượng theo thời gian, vạch rõ xu hướng, tính quy luật của sự phát triển. Ta có thể thấy được sự phát triển về giá trị sản xuất công nghiệp tỉnh Thái nguyên qua các Năm và vạch ra được xu hướng phát triển để dự đoán cho những năm tiếp theo phương pháp Chỉ số: sử dụng phương pháp này để so sánh các mức độ của hiện tượng nghiên cứu. Nó nghiên cứu biến động của hiện tượng qua thời gian, cho phép xác định vai trò và ảnh hưởng của các nhân tố khác nhau dưới sự biến động của hiện tượng. Đây là những yêu cầu của đề tài nghiên cứu nên cần phải sử dụng phương pháp này để nghiên cứu biến động giá trị sản xuất công nghiệp tỉnh Thái Nguyên. Phương pháp hồi quy tương quan: các sự vật hiện tượng luôn có mối quan hệ với nhau. Phương pháp hồi quy tương quan lượng hoá các nhân tố ảnh hưởng đến tiêu thức nghiên cứu và phân tích chúng. Do đó sẽ thấy được xu hướng biến động và bản chất của hiện tượng nghiên cứu và dự báo chúng với độ chính xác tương đối cao. Đây là những ưu điểm rất lớn của phương pháp hồi quy tương quan. Thông qua phương pháp sẽ thấy được sự vận động nội tại của sự vật, rất cần thiết để nghiên cứu. II. Đặc điểm vận dụng các phương pháp. 1. Phương pháp dãy số thời gian. 1.1. Khái niệm chung về phương pháp dãy số thời gian. a, Khái niệm Dãy số thời gian là một dãy các trị số của chỉ tiêu thống kê được sắp xếp theo thứ tự thời gian b, Kết cấu Dãy số thời gian bao gồm hai thành phần: Thời gian và chỉ tiêu về hiện tượng được nghiên cứu thời gian có thể là ngày, tháng, quý, năm. Độ dài giữa hai thời gian liền nhau gọi là khoảng cách thời gian Chỉ tiêu về hiện tượng nghiên cứu có thể là số tương đối, số tuyệt đối hoặc số bình quân. Chỉ tiêu về hiện tượng nghiên cứu bao gồm: +, Tên chỉ tiêu +, Trị số của chỉ tiêu: được gọi là các mức độ của dãy số thời gian yi(i=1,n). n là số lượng các mức độ c, Tác dụng Phương pháp dãy số thời gian cho phép nghiên cứu các đặc điểm về sự biến động của hiện tượng theo thời gian, vạch rõ xu hướng tính quy luật của hiện tượng trong tương lai Phương pháp dãy số thời gian còn có thể dự đoán các mức độ của hiện tượng trong tương lai d, Phân loại Căn cứ vào đặc điểm tồn tại của hiện tượng qua thời gian thì người ta chia làm hai loại: dãy số thời điểm và dãy số thời kỳ dãy số thời điểm: phản ánh mặt lượng của hiện tượng tạo những thời điểm nhất định thường dùng với những số liệu thường xuyên biến động dãy số thời kỳ: biểu hiện quy mô khối lượng của hiện tượng trong từng khoản thời gian nhất định Căn cứ vào tính chất của chỉ tiêu hay vào các mức độ khác nhau thì người ta chia thành 3 loại: dãy số tuyệt đối: là dãy số mà các chỉ tiêu có mức độ là tuyệt đối như quy mô, khối lượng… dãy số tương đối: là dãy số mà các chỉ tiêu có mức độ là tương đối: tốc độ phát triển, tốc độ tăng giảm… Dãy số bình quân: là dãy số mà các chỉ tiêu có trị số là các số bình quân e, yêu cầu Khi xây dựng dãy số thời gian phải đảm bảo tính chất có thể so sánh được giữa các mức độ trong dãy số. Cụ thể: + Phải thống nhất về nội dung và phương pháp tính chỉ tiêu qua thời gian + Phải thống nhất phạm vi tổng thể nghiên cứu + Các khoảng cách thời gian trong dãy số nên bằng nhau, nhất là đối với dãy số thời kỳ phải bằng nhau 1.2. Các chỉ tiêu trong dãy số thời gian Để phân tích đặc điểm biến động của hiện tượng theo thời gian người ta thường sử dụng 5 chỉ tiêu chính sau đây: 1.2.1. Mức độ bình quân theo thời gian. Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đại diện cho tất cả các mức độ tuyệt đối trong dãy số thời gian. Việc tính các chỉ tiêu này phải phụ thuộc vào dãy số thời gian đó là dãy số thời điểm hay dãy số thời kỳ a, Đối với dãy số thời kỳ: Mức độ bình quân được tính theo công thức sau: trong đó: yi(i=) Các mức độ của dãy số thời kỳ n: Số lượng các mức độ trong dãy số b, Đối với các dãy số thời điểm có khoảng cách bằng nhau: Áp dụng công thức: Trong đó: Yi: (i=) Các mức độ của dãy số thời điểm có khoảng cách thời gian bằng nhau c, Đối với dãy số thời điểm có khoảng cách thời gian không bằng nhau Áp dụng công thức: Trong đó: Yi: (i=) Các mức độ của dãy số thời điểm có khoảng cách thời gian không bằng nhau ti(i=): độ dài thời gian có mức độ Yt 1.2.2. Lượng tăng (giảm) tuyệt đối Chỉ tiêu này phản ánh sự thay đổi về trị số tuyệt đối của chỉ tiêu trong dãy số giữa hai thời gian nghiên cứu. Nếu mức độ của hiện tượng tăng thì trị số của chỉ tiêu mang dấu (+) và ngược lại mang dấu(-) Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, chúng ta có lượng tăng(giảm) tuyệt đối liên hoàn, định gốc hay bình quân a, Lượng tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn Phản ánh mức chênh lệch tuyệt đối giữa mức độ nghiên cứu(Yt) với mức độ kỳ liền trước đó(Yt-1) công thức: (i=) trong đó: i: lượng tăng( giảm) tuyệt đối liên hoàn n: Số lượng các mức độ trong dãy số thời gian b, lượng tăng( giảm) tuyệt đối định gốc Là mức độ chênh lệch tuyệt đối giữa mức độ kỳ nghiên cứu (yi) và mức độ của một kỳ được chọn làm gốc, thông thường mức độ của kỳ gốc là mức độ đầu tiên trong dãy số(Y1). Chỉ tiêu này phản ánh mức tăng(giảm) tuyệt đối trong những khoảng thời gian dài. gọi là lượng tăng (giảm) tuyệt đối định gốc, ta có: (i=). Giữa tăng giảm tuyệt đối liên hoàn và tăng (giảm) tuyệt đối định gốc có mối liên hệ được xác định theo công thực: (i=). Công thức này cho thấy lượng tăng(giảm) tuyệt đối định gốc bằng tổng đại số lượng tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn c, Lượng tăng (giảm) tuyệt đối bình quân Là bình quân cộng của các mức tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn. nếu ký hiệu là lượng tăng( giảm) tuyệt đối bình quân, ta có công thức: Lượng tăng( giảm) tuyệt đối bình quân không có ý nghĩa khi các mức độ của dãy số không có cùng xu hướng ( cùng tăng hoặc cùng giảm) vì hai xu hướng trái ngược nhau sẽ triệt tiêu lẫn nhau làm sai lệch bản chất của hiện tượng. Do chỉ phụ thuộc vào yo và y1 nên chỉ được áp dụng trong trường hợp khi mà dãy số có các I xấp xỉ bằng nhau. 1.2.3. Tốc độ phát triển Tốc độ phát triển là số tương đối phản ánh tốc độ và xu hướng phát triển của hiện tượng theo thời gian. Tuỳ theo các loại nghiên cứu ta có các loại tốc độ phát triển sau: a, Tốc độ phát triển liên hoàn. Phản ánh sự phát triển của hiện tượng giữa hai thời gian liền nhau: ti: có thể được tính theo lần hoặc phần trăm( %) b, Tốc độ phát triển định gốc Phản ánh sự phát triển của hiện tượng trong những khoảng thời gian dài. Chỉ tiêu này được xác định bằng cách lấy mức độ của kỳ nghiên cứu ( yi) chia cho mức độ của một kỳ được chọn làm gốc, thường là mức độ đầu tiên trong dãy số (yi) Công thức: (i=) Giữa tốc độ phát triển liên hoàn và tốc độ phát triển định gốc có các mối quan hệ sau: Thứ nhất, tích các tốc độ phát triển liên hoàn bằng tốc độ phát triển định gốc: (i=) Thứ hai, thương của hai tốc độ phát triển định gốc liền nhau bằng tốc độ phát triển liên hoàn giữa hai thời gian liền đó: (i=) Tốc độ phát triển định gốc được tính theo số lần hoặc % c, Tốc độ phát triển bình quân Là số bình quân nhân của các tốc độ phát triển liên hoàn, phản ánh tốc độ phát triển đại diện cho các tốc độ phát triển liên hoàn trong một thời kỳ nào đó. Gọi là tốc độ phát triển bình quân, ta có: hay: Do chỉ phụ thuộc vào yo và y1 nên chỉ được áp dụng trong trường hợp các ti xấp xỉ bằng nhau. 1.2.4. Tốc độ tăng( giảm) Chỉ tiêu phản ánh mức độ của hiện tượng nghiên cứu giữa hai thời kỳ đã tăng(+) hoặc giảm(-) bao nhiêu lần ( hoặc bao nhiêu %). Tương ứng với mỗi tốc độ phát triển, chúng ta có các tốc độ tăng( giảm) sau: a, Tốc độ tăng( giảm) liên hoàn: Phản ánh sự biến động tăng( giảm) của hai thời gian liền nhau, là tỷ số giữa lượng tăng( giảm) liên hoàn kỳ nghiên cứu (yi) với mức độ liền trước trong dãy số thời gian (yt-1) Gọi ai là tốc độ tăng( giảm) liên hoàn, ta có: (i=). hay: ai= ti -1 ( nếu tính theo đơn vị lần) ai=ti-100( nếu tính theo đơn vị %) b, Tốc độ tăng( giảm) định gốc Phản ánh sự biến động của thời kỳ nghiên cứu so với kỳ được chọn làm kỳ gốc: Công thức: (i=) hay: ( nếu tính theo đơn vị lần) Ai=Ti- 100( nếu tính theo đơn vị %) c, Tốc độ tăng( giảm) bình quân Phản ánh tốc độ tăng( giảm) đại diện cho các tốc độ tăng ( giảm) liên hoàn trong cả thời kỳ nghiên cứu. Nếu ký hiệu là tốc độ tăng( giảm) bình quân, ta có: ( lần) (%) Do tốc độ tăng( giảm) bình quân được tính theo tốc độ phát triển bình quân nên nó cũng có hạn chế khi áp dụng giống như với tốc độ phát triển bình quân 1.2.5. Giá trị tuyệt đối của 1% tốc độ tăng (giảm) liên hoàn. Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1% tăng( giảm) của tốc độ tăng ( giảm) liên hoàn thì tương ứng với một trị số tuyệt đối là bao nhiêu: Giá trị của 1% tăng( giảm) được xác định theo công thức: Trong đó: gi: giá trị tuyệt đối của 1% tăng( giảm) ai: Tốc độ tăng (giảm) liên hoàn tính theo đơn vị % còn được tính theo công thức sau: (i= Chỉ tiêu này được tính cho tốc độ tăng (giảm) liên hoàn, đối với tốc độ tăng( giảm) liên hoàn, đối với tốc độ tăng( giảm) định gốc thì không tính vì kết quả luôn là một số không đổi và bằng: y1/100 1.3. Một số phương pháp biểu hiện xu hướng biến động ngắn hạn Sự biến động của hiện tượng qua thời gian chịu sự tác động của nhiều nhân tố. ngoài các nhân tố chủ yếu cơ bản quyết định xu hướng biến động của hiện tượng còn có những nhân tố ngẫu nhiên gây ra những sai lệch cơ bản khỏi xu hướng. Xu hướng được hiểu là chiều hướng tiến triển chung nào đó, một sự tiến triển kéo dài qua thời gian. Việc xác định xu hướng biến động cơ bản của hiện tượng có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu thống kê. Vì vậy, cần sử dụng những phương pháp thích hợp, loại bỏ tác động của các yếu tố ngẫu nhiên để nêu nên xu hướng và tính quy luật về sự biến động của hiện tượng. 1.3.1. Phương pháp mở rộng khoảng cách thời gian Phương pháp này sử dụng cộng dồn các mức độ của dãy số với nhau. Từ đó hình thành một dãy số mới có sự điều chỉnh để loại bỏ sự ảnh hưởng của các nhân tố ngẫu nhiên gây tác động đến mô hình nghiên cứu Áp dụng đối với dãy số thời kỳ. và có số năm nghiên cứu tương đối nhiều. Dùng phương pháp mở rộng khoảng cách thời gian ta hạn chế tác động của các yếu tố ngẫu nhiên 1.3.2. Phương pháp số trung bình tượt (di động) Phương pháp san bằng các sai lệch ngẫu nhiên, là số trung bình cộng của một nhóm nhất định các mức độ của dãy số được tính bằng cách lần lượt loại bỏ dần các mức độ đầu đồng thời thêm vào các mức độ tiếp theo sao cho tổng các mức độ tham gia tính số trung bình không đổi. Việc lựa chọn nhóm bao nhiêu mức độ để tính trung bình trượt đòi hỏi phải dựa trên đặc điểm biến động của hiện tượng và số lượng các mức độ của dãy số thời gian. 1.3.3. Phương pháp hồi quy Biểu diễn các mức độ của hiện tượng bằng một mô hình hồi quy mà trong đó biến độc lập là thứ tự thời gian. Để lựa chọn đúng đắn dạng của phương trình hồi quy đòi hỏi phải dựa vào sự phân tích biến động của hiện tượng qua thời gian. Hàm xu thế tổng quát có dạng: trong đó: :hàm xu thế tuyến tính t: là thứ tự thời gian tương ứng với một mức độ trong dãy số ao,a1,…,an: Các tham số của hàm xu thế, Các tham số này thường được xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất: Do sự biến động của hiện tượng là vô cùng đa dạng nên có hàm xu thế tương ứng sao cho sẹ mô tả là gần đúng nhất so với xu hướng biến động thực tế của hiện tượng. 1.3.4. Phương pháp biểu hiện xu hướng biến động của thời vụ Biến động thời vụ là biến động có tính chất lặp đi lặp lại trong từng thời gian nhất định trong năm a, Chỉ số thời vụ đối với dãy số thời gian không có xu thế công thức sau: với i= Trong đó: ITV(i): chỉ số thời vụ của thời kỳ thứ i trong năm : số bình quân cộng các mức độ cùng kỳ thứ i : số bình quân cộng tất cả các mức độ trong dãy số b, Chỉ số thời vụ đối với dãy số thời gian có xu thế Công thức tính với i= trong đó: : mức độ thời kỳ thứ i năm j : mức độ lý thuyết của kỳ thứ i năm j ( thường được xác định nhờ hàm xu thế) m: số năm 2. Phương pháp hồi quy tương quan. 2.1. Khái niệm chung về phương pháp hồi quy tương quan a, khái niệm Hồi quy tương quan là phương pháp đánh giá mối quan hệ tương quan giữa các hiện tượng với nhau nhằm rút ra những kết luận làm cơ sở đề ra những biện pháp cải thiện nâng cao hiệu quả của tiêu thức trong mối liên hệ. Trong phương pháp phân tích này một hiện tượng được chọn ra làm tiêu thức kết quả còn tiêu thức kia có thể là một hay nhiều tiêu thức nguyên nhân. Qua phương pháp đó ta rút ra được mức độ tương quan giữa hai tiêu thức. Các hiện tượng kinh tế xã hội đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến và nhiều vẻ, chứ không phải tồn tại một cách riêng lẻ với nhau. Nếu xét theo mức độ chặt chẽ tồn tại hai mối liên hệ đó là liên hệ hàm số và liên hệ tương quan. Liên hệ hàm số: là mối liên hệ hoàn toàn chặt chẽ tức là khi hiện tượng( tiêu thức nguyên nhân) này thay đổi thì hoàn toàn quyết định sự thay đổi của hiện tượng có liên quan( tiêu thức kết quả) theo một tỷ lệ tương ứng chặt chẽ. Mối liên hệ không chỉ được biểu hiện ở tổng thể mà còn được biểu hiện trên từng đơn vị Liên hệ tương quan: là mối liên hệ hoàn toàn không chặt chẽ. Tức là khi hiện tượng này thay đổi thì có thể làm cho hiện tượng có liên quan( tiêu thức kết quả) thay đổi theo nhưng không hoàn toàn quyết định. Mối liên hệ không được biểu hiện ở đơn vị cá biệt mà chỉ được biểu hiện ở tổng thể. Do vậy, yêu cầu của phương pháp hồi quy tương quan là phải xác định rõ biến phụ thuộc( biến kết quả) và biến độc lập ( biến nguyên nhân). Vì khi không xác định rõ khi xây dựng mô hình hồi quy thì kết quả sẽ khác nhau. b, Nhiệm vụ Xác định được mô hình hồi quy phản ánh mối liên hệ: tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu cụ thể ta có thể lựa chọn một biến phụ thuộc( tiêu thức kết quả) và nhiều biến nguyên nhân( tiêu thức nguyên nhân). Từ đó xây dựng được mô hình hồi quy bằng mối liên hệ đó: Một tiêu thức nguyên nhân- một tiêu thức kết quả, ta có hồi quy đơn nhiều tiêu thức nguyên nhân- một tiêu thức kết quả ta có hồi quy bội Để xác định được mô hình hồi quy ta có thể căn cứ vào đồ thị và kỹ thuật thống kê khác Đánh giá mức độ chặt độ chặt chẽ của mối liên hệ tương quan. Nếu giữa các biến có mối liên hệ tương quan thì giữa chúng có tính chất đối xứng. Hồi quy thì có tính chất quan hệ nhân quả c, ý nghĩa - Đây là phương pháp thường hay sử dụng nghiên cứu mối liên hệ trong thống kê - Đây là phương pháp thường dùng để xây dựng các mô hình kinh tế - dùng để dự đoán sự phát triển của sự vật và hiện tượng trong tương lai - Dùng trong các nghiên cứu thống kê khác: Phân tích dãy số thời gian… Trong phâp tích Thống kê giá trị sản xuất nông nghiệp GOCN thì theo phương pháp này: Giá trị sản xuất công nghiệp được coi là tiêu thức kết quả(y), còn các tiêu thức nguyên nhân là(x) +, Vốn đầu tư vào công nghiệp +, Lao động đang làm việc trong công nghiệp +, Tiến bộ khoa học công nghệ… 2.2. Liên hệ tương quan tuyến tính giữa hai tiêu thức số lượng 2.2.1. Phương trình hồi quy Để tìm mối liên hệ tương quan giữa hai tiêu thức số lượng thì ta phải tiến hành tìm phương trình hồi quy. Phương trình hồi quy thể hiện trên đồ thị thì được gọi là đường hồi quy. và người ta chia ra thành đường hồi quy lý thuyết và đường hồi quy thực nghiệm Đường hồi quy thực nghiệm là đường hình thành bởi các nguồn điều tra thực tế Đường hồi quy lý thuyết là đường điều chỉnh bù trừ các chênh lệch ngẫu nhiên, vạch ra xu hướng cư bản cua mối liên hệ và phương trình hồi quy lý thuyết = a+bx x: giá trị của tiêu thức nguyên nhân : trị số điều chỉnh của tiêu thức kết quả y theo quan hệ với x a,b: các tham số của phương trình hồi quy -cách xác định tham số: a,b phải được xác định sao cho đường hồi quy lý thuyết mô tả gần đúng nhất mối liên hệ thực tế và người ta thường dùng phương pháp bình phương nhỏ nhất với nội dung: tổng bình phương các độ lệch giữa giá trị thực tế và giá trị lý thuyết của biến phụ thuộc là nhỏ nhất Để thoả mãn điều kiện trên a,b phải thoả mãn hệ phương trình Hoặc tính trực tiếp bằng công thức: b= a= - ý nghĩa của a và b: +, a: là tham số tự do, nói lên mức độ ảnh hưởng của các nguyên khác ngoài x tới sự biến động của y. +, b: hệ số hồi quy nói lên ảnh hưởng của tiêu thức nguyên nhân x tới tiêu thức kết quả y. Cụ thể: mỗi khi x tăng thêm 1 đơn vị thì y tăng bình quân b đơn vị 2.2.2. Hệ số tương quan Là chỉ tiêu đánh giá trình độ chặt chẽ của mối liên hệ tương quan tuyến tính cách tính: - cách tính hệ số tương quan Xác định các tổng bình phương độ lệch trong đó: SS(y)=: tổng bình phương chung SSR=: Tổng bình phương được giải thích bởi phương trình hồi quy SSE=: Tổng bình phương sai số từ đó tính: Tác dụng của hệ số tương quan: + Xác định cường độ của mối liên hệ để chọn ra tiêu thức có tác dụng chủ yếu hoặc thứ yếu từ đó quyết định có nghiên cứu hay không + xác định phương hướng cụ thể của mối liên hệ: r>0: mối liên hệ thuận r<0: mối liên hệ nghịch + dùng trong nhiều trường hợp dự đoán và tính sai số dự đoán Tính chất của hệ số tương quan + hệ số tương quan r luôn nằm trong khoảng -1r1 +nếu r=1 hoặc r=-1 thì mối liên hệ hoàn toàn chặt chẽ + nếu r=0 thì không có mối liên hệ tương quan tuyến tính + càng gần 1 thì mối liên hệ càng chặt chẽ + à mối liên hệ rất chặt chẽ +0,70,9 à mối liên hệ tương đối chặt chẽ +0,5 0,7à mối liên hệ bình thường đánh giá mô hình hồi quy: + kiểm định tham số của mô hình hồi quy + Hệ số xác định r2: đánh giá sự phù hợp của mô hình, cụ thể nó chỉ ra tỷ lệ % sự thay đổi của y được giải thích bởi mô hình hồi quy( đã được xác định) trong mối quan hệ với x 2.3. Liên hệ tương quan phi tuyến giữa hai tiêu thức số lượng Liên hệ tương quan phi tuyến là mối liên hệ tương quan giữa các tiêu thức không biểu hiện được bằng các đường thẳng mà bằng các đường cong có hình dáng khác nhau 2.3.1.Phương trình hồi quy a, Phương trình parabol Được vận dụng khi tiêu thức nguyên nhân tăng hoặc giảm với một lượng đều nhau thì tiêu thức kết quả biến động với một lượng không đều nhau. Phương trình hồi quy có dạng: =a+ bx+cx2 a,b,c là các tham số của phương trình hồi quy và cũng được xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất do đó: a,b,c phải thoả mãn hệ phương trình: b, Phương trình Hypabol Được vận dụng khi tiêu thức nguyên nhân tăng thì tiêu thức kết quả giảm với tốc độ đều nhau Phương trình HyPabol: a,b : Tham số được xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất Ta có thể: a= c, Phương trình hàm mũ Vận dụng khi trị số của tiêu thức kết quả thay đổi theo cấp số nhân a,b tham số được xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất a,b thoả mãn hệ phương trình sau: 2.3.2. Tỷ số tương quan a, Định nghĩa: là chỉ tiêu đánh giá trình độ chặt chẽ của mối liên hệ tương quan phi tuyến b, Cách tính: 2 Bước B1: Tính các phương sai Phương sai chung: Phản ánh sự biến thiên của y do ảnh hưởng của tất cả các nguyên nhân trong đó có x Phương sai phản ánh sự biến thiên của y do ảnh hưởng riêng của biến thiên của x: Phương sai phản ánh sự biến thiên của y do ảnh hưởng của các nguyên nhân khác ngoài x: à B2: Tính tỷ số tương quan: Tuy nhiên, tỷ số tương quan có hạn chế là chỉ đánh giá được trình độ chặt chẽ chứ không nêu lên được chiều hướng của mối liên hệ 2.4. Liên hệ tương quan giữa nhiều tiêu thức số lượng( hồi quy tương quan bội) 2.4.1. Phương trình hồi quy Khi phân tích mối liên hệ giữa nhiều tiêu thức trước hết phải căn cứ vào mục đích nghiên cứu để chọn ra những tiêu thức nào có mối liên hệ với nhau trong đó chỉ có một tiêu thức là kết quả và chỉ chọn những tiêu thức nào có ý nghĩa nhất có ảnh hưởng tới tiêu thức kết quả - Chú ý: + các tiêu thức được chọn phải có thể biểu hiện được bằng số lượng, nguồn tài liệu phải đầy đủ, tin cậy + Nếu có nhiều tiêu thức cùng phản ánh một đặc điểm nào đó thì chỉ chọn những tiêu thức có ảnh hưởng lớn nhất + Số đơn vị điều tra nên nhiều gấp 5-10 lần tiêu thức nguyên nhân thì kết quả phân tích mới có ý nghĩa - Phương trình hồi quy trong đó: bi(i=) có thể xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất xi(i= ) các nhân tố tác động đến y cách xác định: bi Giả sử có hai biến x1,x2 tác động tới y: Các tham số b0, b1,b2 phải thoả mãn hệ phương trình Hoặc tính bằng công thức trực tiếp r: Hệ số tương quan tuyến tính từng cặp ý nghĩa của các tham số: +b0: ảnh hưởng của các nguyên nhân khác ngoài các nguyên nhân nghiên cứu(xi) tới sự thay đổi của y +bi: hệ số hồi quy: phản ánh mức ảnh hưởng của các nhân tố xI tới sự thay đổi của y. Cụ thể: mỗi khi xi tăng thêm một đơn vị thì tiêu thức kết quả y thay đổi trung bình bi đơn vị Nếu các tiêu thức nguyên nhân xi không cùng đơn vị tính thì các bi chỉ nói lên mức ảnh hưởng của từng xi chứ không giúp ta so sánh mức ảnh hưởng của các nhân tố đó 2.4.2. Hệ số tương quan Dùng để đánh giá trình độ chặt chẽ của mối liên hệ tương quan bội và người ta thường dùng hai loại sau: - Hệ số tương quan bội(R): dùng để đánh giá trình độ chặt chẽ của mối liên hệ giữa những tiêu thức kết quả với tất cả các tiêu thức nguyên nhân được nghiên cứu hệ số tương quan có tính chất giống với hệ số tương quan của hồi quy hai biến 3. Phương pháp chỉ số 3.1. Khái niệm chung về phương pháp chỉ số a, Khái niệm Chỉ số là chỉ tiêu tương đối biểu hiện quan hệ so sánh giữa hai mức độ của một hiện tượng nghiên cứu Chỉ số dùng để so sánh các hiện tượng cùng loại. Nó khác với số tương đối là số tương đối có thể so sánh hiện tượng cùng loại hoặc khác loại nhưng chỉ số thì chỉ dùng để biểu hiện quan hệ so sánh giữa các hiện tượng cùng loại b, Phân loại Căn cứ vào việc thiết lập quan hệ so sánh theo thời gian hay không gian: chỉ số phát triển: biểu hiện quan hệ so sánh theo thời gian chỉ số không gian: biểu hiện quan hệ so sánh theo không gian căn cứ vào phạm vi tính toán: Chỉ số đơn(cá thể): nêu lên biến động của từng phần tử, từng đơn vị trong tổng thể. Ví dụ: chỉ số giá từng mặt hàng trên thị trường Chỉ số chung: nêu lên biến động của cả tổng thể nghiên cứu VD: chỉ số giá tiêu dùng(CPI): chỉ số chung CPI phản ánh biến động chung về giá bán của các mặt hàng tiêu dùng Căn cứ vào tính chất của chỉ tiêu: - Chỉ số chỉ tiêu số lượng: là chỉ tiêu được thiết lập đối với chỉ tiêu số lượng. Là chỉ tiêu biểu hiện quy mô, số lượng của hiện tượng nghiên cứu VD: chỉ số sản phẩm Chỉ số chỉ tiêu chất lượng: được thiết lập đối với chỉ tiêu chất lượng, là chỉ tiêu biểu hiện quan hệ so sánh mức độ phổ biến, mối liên hệ của hiện tượng VD: chỉ số giá là chỉ số chỉ tiêu chất lượng Căn cứ vào phương pháp tính toán: Chỉ số tổng hợp: để tính chỉ số chung trên cơ sở xác định tổng các mức độ của từng đơn vị phần tử trong tổng thể Chỉ số bình quân: ( chỉ số chỉ tiêu bình quân) được vận dụng để tính chỉ số chung, từ các chỉ số đơn theo công thức số bình quân c, Đặc điểm của phương pháp chỉ số trong thống kê - Phương pháp chỉ số là phương pháp của thống kê nghiên cứu sự biến động của các hiện tượng kinh tế phức tạp bao gồm nhiều đơn vị phần tử mà các đại lượng không thể trực tiếp cộng được với nhau VD: giá bán đơn vị các mặt hàng Xây dựng chỉ số đối với hiện tượng kinh tế phức tạp thì biểu hiện về lượng của các phần tử được chuyển về dạng chung để có thể trực tiếp cộng được với nhau dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa nhiều yếu tố nghiên cứu với các nhân tố khác Khi có nhiều nhân tố tham gia trong phương pháp chỉ số việc phân tích biến động của một nhân tố được đặt trong điều kiện giả định các nhân tố khác không đổi d, Quyền số của chỉ số thống kê Quyền số của chỉ số là nhân tố được giữ cố định trong công thức chỉ số chung CPI= q là một quyền số Ý nghĩa:- nói lên tầm quan trọng hay vai trò của mỗi phần tử trong tổng thể - Quyền số chuyển các phần tử vốn không trực tiếp cộng được với nhau thành dạng chung để có thể tổng hợp, từ đó thiết lập quan hệ so sánh - vấn đề lựa chọn quyền số cho chỉ số thống kê + lựa chọn các nhân tố liên quan + mục đích của các nhân tố liên quan + xác định thời kỳ cho quyền số( tuỳ thuộc điều kiện dữ liệu, tuỳ thuộc yêu cầu thông tin phân tích, thời kỳ quyền số của chỉ số chung có thể bao gồm kỳ gốc, kỳ báo cáo hoặc một kỳ nào đó thích hợp e, Tác dụng của chỉ số trong phân tích thống kê - Nghiên cứu sự biến động về mức độ của hiện tượng qua thời gian. - So sánh theo không gian: so sánh được chênh lệch, khác biệt về mức độ hiện tượng qua không gian - Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch về các chỉ tiêu kinh tế - Cho phép xác định vai trò và ảnh hưởng biến động của các nhân tố khác nhau đối với sự biến động của hiện tượng phức tạp được cấu thành từ nhiều nhân tố 3.2. Phương pháp tính chỉ số 3.2.1. Chỉ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36512.doc
Tài liệu liên quan