Việc thu hút & sử dụng ODA của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội - Thực trạng & Giải pháp

Lời mở đầu Chỉ còn vài tháng nữa Việt Nam sẽ bước sang thiên niên kỉ thứ ba với những vận hội và thách thức mới đang chờ đón. Khoảng thời gian ngắn ngủi còn lại của thế kỉ thứ 20 đối với nước ta có tầm quan trọng đặc biệt trong việc hoàn thành những nhiệm vụ chiến lược của quốc gia để chuẩn bị tốt bước tạo đà cho thế kỉ hai mươi mốt. Điều đó đòi hỏi sự tập trung trí tuệ cho giai đoạn phát triển lịch sử này. Hà Nội là thủ đô, là trái tim của cả nước. Trong giai đoạn phát triển quan trọng này, H

doc95 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1076 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Việc thu hút & sử dụng ODA của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội - Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à nội đóng vai trò là đầu tầu cho cả nước nhằm hoàn thành tốt chỉ tiêu phấn đấu của Chính phủ đã đặt ra cho giai đoạn này là tăng trưởng kinh tế mỗi năm đạt 9-10%. GDP bình quân đạt 400 USD/ năm. Để đạt được mục tiêu đó cũng như hoàn thành tốt vai trò tiên phong của mình, Hà Nội đề ra mục tiêu phấn đấu trong năm cuối của thế kỉ 20 là 10-11 % tăng trưởng GDP, thu nhập bình quân đầu người đạt 1100 USD/ năm. Những chỉ tiêu đó mặc dù còn rất khiêm tốn nhưng trong điều kiện bị tác động bởi cuộc khủng hoảng tài chính khu vực vừa qua thì Hà nội của chúng ta cũng cần phải cố gắng rất nhiều, tận dụng và phát huy hiệu quả cả nội lực và ngoại lực, tạo ra sức mạnh tổng hợp thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trong số những nguồn lực có thể huy động được thì nguồn lực bên ngoài vẫn là phần quan trọng cho phát triển kinh tế. Đó là những khoản đầu tư và hỗ trợ của nước ngoài cho Hà nội. Và ODA là nguồn vốn đầu tư quan trọng của nước ngoài cho Hà nội trong giai đoạn này. Theo ước tính của Hà Nội thì hàng năm Hà Nội cần huy động lượng vốn đầu tư nước ngoài chiếm 50 % tổng vốn đầu tư, trong đó ODA chiếm khoảng 50 %. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là làm thế nào để thu hút được lượng vốn như vậy và sử dụng hiệu quả nguồn vốn này. Trong chuyên đề tốt nghiệp này của tôi, tôi muốn đưa ra một số biện pháp để giải quyết vấn đề này. Do điều kiện có hạn nên tôi chỉ nghiên cứu về ODA của Nhật Bản trên địa bàn Hà nội. Đề tài chuyên đề là “ Việc thu hút và sử dụng ODA của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội - Thực trạng và giải pháp “. Do thời gian có hạn và kinh nghiệm cũng như trình độ còn hạn chế, tôi rất mong sự quan tâm và chỉ bảo của các thầy cô giáo và các bạn để chuyên đề của tôi thêm hoàn thiện. Qua đây tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới GS - PTS Tô Xuân Dân, các thầy cô giáo, chú Nguyễn Đỗ Khuê cùng tập thể phòng ODA Sở Kế hoạch và Đầu tư đã giúp tôi hoàn thành đề tài này. Chương I Khái quát về viện trợ ODA của Nhật Bản I/ Những khái niệm chung về ODA của Nhật Bản 1/ Nguồn gốc lịch sử của ODA và các đối tác cung cấp ODA trên thế giới 1.1 Nguồn gốc của ODA Ngày 12 tháng 8 năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc các nước trên thế giới rơi vào tình trạng bị phá huỷ nặng nề chỉ còn nước Mỹ là nước duy nhất có tiềm lực kinh trế để giúp các nước khác. Thời kỳ này, Mỹ đã tiến hành cứu trợ lương thực và bồi thường chiến tranh cho Nhật và các nước châu Âu. Đây chính là hình thái sơ khai của viện trợ phát triển chính thức ODA có tính chất ngắn hạn và mang lại hiệu quả cho một loạt các nước viện trợ, dần dần hình thức này được chuyển sang viện trợ để khôi phục kinh tế. Năm 1948, kế hoạch Marshall (kế hoạch viện trợ khôi phục Châu Âu) ra đời nhằm giúp các nước Châu Âu phục hồi các ngành công nghiệp bị chiến tranh tàn phá. Để tiếp nhận viện trợ cuả kế hoạch Marshall, các nước Châu Âu đã đưa ra một chương trình phục hồi kinh tế có sự phối hợp và thành lập tổ chức kinh tế thế giới, gọi tắt là OECD. Trong khuôn khổ hợp tác phát triển các nước OECD đã lập ra những uỷ ban chuyên môn trong đó có Uỷ ban viện trợ phát triển (DAC) nhằm giúp các nước đang phát triển kinh tế và nâng cao hiệu quả đầu tư. Hiện nay tham gia uỷ ban này có 21 nước và ngoài ra còn có thêm Uỷ ban cộng đồng Châu Âu. Năm 1970, Đại hội đồng liên hiệp quốc lần đầu tiên đã chính thức thông qua chỉ tiêu ODA bằng 0,7% GNP của các nước đang phát triển, theo đó các nước đang phát triển phải đạt chỉ tiêu ODA bằng 0,7%GNP vào năm 1985 hoặc muộn nhất vào cuối thập kỷ 80 và phấn đấu đạt 1% GNP sớm nhất vào năm 2000. Viện trợ phát triển chính thức ODA được OECD coi là nguồn tài chính do các cơ quan chính thức (chính quyền nhà nước hay địa phương) của các tổ chức nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế và phúc lợi của nước này. Nó mang tính chất trợ cấp (ít nhất là cho không 25% kể từ tháng 1/1973). Nói một cách cụ thể hơn, viện trợ phát triển chính thức ODA là tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại, viện trợ hoàn lại hoặc tín dụng ưu đãi (cho vay dài hạn, lãi xuất thấp) của các chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống liên hiệp quốc chương trình phát triển của liên hiệp quốc- UNDP, quỹ nhi đồng liên hiệp quốc UNICEF, tổ chức y tế thế giới- WHO, tổ chức nông nghiệp và lương thực của liên hiệp quốc- FAO), các tổ chức tài chính quốc tế, gọi chung là các đối tác viện trợ nước ngoài dành cho chính phủ và nhân dân nước nhận viện trợ. Hình thức cung cấp ODA hết sức đa dạng, bao gồm viện trợ không hoàn lại, hợp tác kỹ thuật, viện trợ dưới hình thức cho vay lãi xuất thấp, thời hạn dài, có loại ODA kết hợp trong một gói gồm một phần viện trợ không hoàn lại, phần còn lại là cho vay nhẹ lãi khoảng 0,75%- 2%, trả dài hạn khoảng hai mươi năm đến 50 năm, trong đó có 10-15 năm ân hạn, không phải trả gốc. Các điều kiện trên phụ thuộc vào nước nhận viện trợ có được qui định là nước nghèo theo tiêu chuẩn của liên hiệp quốc hay không và còn tuỳ thuộc vào quan hệ chính trị giữa các nước cung cấp viện trợ với nước nhận viện trợ. Nói chung các nước và các tổ chức quốc tế chỉ viện trợ khoảng 50% đến 80% giá trị của một phần dự án, phần còn lại nước nhận viện trợ có nghĩa vụ đóng góp. Việt Nam hiện nay được coi là thuộc diện nước nghèo theo tiêu chuẩn của liên hiệp quốc nên phần đóng góp của Việt Nam vào dự án thường chiếm khoảng 20% đến 30% giá trị của dự án. Viện trợ phát triển chính thức ODA có thể ràng buôc (phải chi tiêu ở cấp viện trợ), hoặc không ràng buộc (có thể chi tiêu ở bất kỳ mức nào), hoặc có thể ràng buộc một phần (một phần chi tiêu ở cấp viện trợ, phần còn lại ở bất kỳ nước nào). Mục tiêu tổng quát của ODA là hỗ trợ các nước nghèo thực hiện chương trình phát triển và tăng phúc lợi của các nước này với các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản viện trợ cho vay ưu đãi về lãi xuất, thời hạn vay dài và khối lượng vay tương đối lớn. Từ giữa thập kỷ 80 trở lại đây, ODA tăng nhanh, trở thành nguồn tài trợ quan trọng và chủ yếu cho các nước phát triển. Hàng năm các nước đang phát triển nhận được nguồn viện trợ bao gồm: - Hỗ trợ phát triển chính thức ODA - Các nguồn tài trợ chính thức khác - Các nguồn tư bản tư nhân (đầu tư trực tiếp FDI) Cùng với sự tăng lên của toàn bộ tư bản chảy vào các nước đang phát triển, khối lượng ODA vào các nước này ngày càng tăng Bảng 1 : chu chuyển các nguồn tài chính vào các nước đang phát triển đơn vị : tỷ USD 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 Toàn bộ tư bản (tỷ USD) 75,7 86,0 98,7 115,3 125,7 122,4 151,9 161,3 169,4 Phần ODA (tỷ USD) 38,9 43,7 47,6 48,3 52,4 57,5 58,0 55,7 57,3 Tỷ lệ trên toàn bộ tư bản chảy vào các nước đang phát triển (%) 51,4 50,8 48,2 41,7 41,7 47 38.2 34,5 33,8 Tuy nhiên tính ưư đãi dành cho loại vốn này thường đi kèm các điều kiện ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao, vốn thanh toán). Do vậy để nhận được loại tài trị hẫp dẫn này với thiệt thòi ít nhất, cần phải xem xét dự án viện trợ trong điều kiện tài chính cụ thể. Nếu không việc tiếp nhận viện trợ có thể trở thành gánh nặng nợ nần lâu dài cho nước nhận viện trợ. Điều đó còn hàm ý rằng ngoài những yếu tố thuộc về nội dung dư án tài trợ, còn cần có nghệ thuật thoả thuận để vừa có thể nhận được vốn vừa có thể bảo tồn được các mục tiêu có tính nguyên tắc của mình. 1.2 Các đối tác cung cấp ODA trên thế giới. Hệ thống cung cấp ODA gồm hai loại: các tổ chức viện trợ đa phương và các nước viện trợ song phương 1.2.1 Các tổ chức viện trợ đa phương Các tổ chức viện trợ đa phương đang hoạt động gồm có các tổ chức thuộc hệ thống liên hiệp quốc, cộng đồng Chau Âu, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức tài chính quốc tế a. Các tổ chức thuộc hệ thống liên hiệp quốc Các tổ chức thuộc hệ thống liên hiệp quốc quan trọng nhất xét về mặt viện trợ phát triển bao gồm: -Chương trình phát triển của liên hiệp quốc (UNDP) - Quỹ nhi đồng liên hiệp quốc (UNICEF) - Quỹ dân số liên hiệp quốc (UNFPA) - Chương trình lương thực thực thế giới (WFP) - Tổ chức y tế thế giới (WHO) - Tổ chức nông nghiệp và lương thực liên hiệp quốc (FAO) - Tổ chức phát triển công nghiệp thế giới (UNIDO) Hầu hết viện trợ của các tổ chức thuộc hệ thống Liên hiệp quốcđều thực hiện dưới hình thức viện trợ không hoàn lại, ưư tiên cho các nước đang phát triển có thu nhập thấp và không ràng buộc về các điều kiện chính trị một cách lộ liễu. Viện trợ thường tập trung cho các nhu cầu có tính chất xã hội như văn hoá giáo dục, sức khoẻ dân số, xoá đói giảm nghèo.. còn viện trợ có qui mô nhỏ, phần chuyên gia, đào tạo chiếm tỷ lệ cao hơn so với phần thiết bị. b. Liên minh Châu Âu Liên minh châu Âu là tổ chức có tính chất kinh tế xã hội của 15 nước công nghiệp phát triển ở Châu Âu, EU có quỹ lớn, song chủ yếu ưu tiên viện trợ cho các thuộc địa cũ ở Châu Phi, Caribe, Nam Thái Bình Dương, nau bắt đầu chú ý đến Đông âu. Những lĩnh vực mà EU coi trọng là dân số, bảo vệ môi trường, phát triển dịch vụ. Quy chế viện trợ của EU thường rất phức tạp thường gắn liền với vấn đề chính trị nhất là nhận quyền. c. Các tổ chức phi chính phủ (NGO- Non government Organization): ủy ban y tế Việt Nam - Hà Lan (MCNV), tổ chức Carita của Đức... Trên thế giới có hàng trăm tổ chức phi chính phủ (NGO) hiọat động theo các mục đích, tôn chỉ khác nhau (từ thiẹn, nhân đạo,y tế, thể thao, tôn giáo) Vồn của các tổ cức này thường nhỏ, chủ yếu dựa vào nguồn quyên góp hoặc nhờ sự tài trợ của các chính phủ. Do vậy viện trợ này có đặc điểm - Đa dạng: có thể là vật tư, thiết bị hoặc lương thực. Thực phẩm thuốc men cũng có thể là quần áo đồ dùng. -Quy mô nhỏ: từ vài ngàn đến vài chục hoặc trăm ngàn đô la, nhưng thủ tục đơn giản, thực hiện nhanh, đáp ứng kịp thời các yêu cầu khẩn cấp khác (khắc phục thiên tai, dịch bệnh) - Khả năng cung cấp viện trợ và thực hiện viện trợ thất thườngvà nhất thời do phụ thuộc kết quả quyên góp - Ngoài mục đích nhân đạo, trong một số trường hợp còn mang màu sắc tôn giáo, chính trị khác nhau nên khó quản lý. d. Các tổ chức tài chính quốc tế - Quỹ tiền tệ quốc tế IMF Quỹ tiền tệ quốc tế IMF là tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế rất quan trọng được thành lập từ năm 1945, hiện có 173 nước thành viên Các loại tín dụng IMF đều thực hiện bằng tiền mặt và không bị ràng buộc bởi thị trường mua sắm - Ngân hàng thế giới (WB): là tên gọi chung của nhóm tổ chức tài chínhtiền tệ quốc tếlớn gồm: Ngân hàng tái thiết và phát triển được thành lập tháng 7/1944, hiện có 160 nước hội viên với số vốn là 170 tỷ USD. Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA) được thành lập nănm 1960, hiện có 142 nước hội viên, tổ chức bảo hiểm đầu tư đa biên MIGA) thành lập năm 1988, hiện có 5 nước là hội viên chính thức. Công ty tài chính quốc tế (IFC) được thành lập năm 1956 hiện có 146 nước hội viên. Việt Namlà thành viên chính thức của 4 tổ chức trên. Ngoài ra còn có Trung tâm quốc tế giải quyết các vấn đề tranh chấp đầu tư (ICSID), đây là một tổ chức của Ngân hàng thế giới hoạt động như một hội đồng trọng tài quốc tế giải quyết vấn đề tranh chấp vềđầu tư nước ngoài giữa các công ty nước ngoài với các hội viên cuả ICSID. - Ngân hàng phát triển Châu á (ADB). Thành lập tháng 12/1966, có 55 nước hội viên (39 nước trong khu vực và 16 nước ngoài khu vực). Hoạt động của ADB tập trung vào cung câp các khoản hỗ trợ cho vay kỹ thuật các nước đang phát triển hội viên cũng như khuyến khích phát triển đầu tư trong khu vực. ADB đặc biệt chú ý các nước nhỏ và kém phát triên nhất, ưu tiên cho các chương trình phát triển vùng, tiểu vùng và các dân tộc ít người để tạo ra sự phát triển kinh tế hài hoà của toàn vùng. Những lĩnh vực hoạt động của ADB là nông nghiệp năng lượng, hạ tầng cơ sở và thông tin liên lạc. - Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) OPEC được thành lập từ năm 1960 theo sáng kiến của Vênêzulêla, thành viên cuả OPEC bao gồm 13 nước, khai thác và xuất khẩu Dầu mỏ quan trọng. Ngoài viện trợ không hoàn lại, quỹ viện trợ của tổ chức OPEC dành nguồn tín dụng dài hạn, ưu đãi để hỗ trợ các nước kém phát triển (thời hạn trả 17-20năm, lãi xuất và phí dịch vụ 3% năm, có 5 năm ân hạn). Những lĩnh vực ưu tiên cho vay của quỹ là năng lưọng vận tải công nghiệp và nông nghiệp. - Quỹ Cô oét (KWAIT) Quỹ KWAIT là quỹ đặc biệt do các tổ hợp khai thác, chế biến dầu mỏ trên lãnh thổ KWAIT đóng góp. Quỹ KWAIT cũng cho các nước đang phát triển vay tín dụng ưu đãi dài hạn với điều kiện tương tự quỹ OPEC, tuy không mềm lắm nhưng thực hiện thuận lợi, cấp tiền mặt 100%, không bị ràng buộc bởi thị trường mua sắm thiết bị, vật tư, chuyên gia tư vấn, không phải qua thủ tục đấu thầu quốc tế. 1.2.2. Các nước viện trợ song phương. a) Các nước thành viên Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV, CMEA) là Liên Xô (cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu (cũ). Lâu nay vấn đề ODA thường không được các nước Đông Âu công bố, nên không có số liệu đầy đủ. Trong các nước Đông Âu thì viện trợ ODA chủ yếu do Liên Xô (cũ) cung cấp (89%-1986), phần còn lại tập trung vào 3 nước: Bungari, Tiệp Khắc và Cộng hòa dân chủ Đức. Hầu hết viện trợ của SEV là thực hiện trên cơ sở song phương, chỉ dưới 1% qua con đường đa phương. Từ năm 1990, nguồn viện trợ từ các nước thành viên SEV (CMEA) giảm đột ngột và chấm dứt do giải thể CMEA, Đông Âu tan rã, Liên Xô sụp đổ.... b) Các nước thuộc tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) có 24 nước thành viên, là những nước công nghiệp phát triển, những nước xuát khẩu tư bản và cung cấp ODA cho các nước đang phát triển, bao gồm: áo, úc, Bỉ, Canada, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Ai- xơ -len, ý, Nhật Bản, Luc-xăm-Bua, Hà Lan, Niu-di-Lân, Na Uy, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh, Mỹ. Các nước thuộc tổ chức OECD có tiềm lực kinh tế lớn, đồng thời cũng là những nước cung cấp ODA chủ yếu của thế giới. Trong số các nước OECD thì Mỹ và Nhật là hai nước cung cấp ODA lớn nhất thế giới. Năm 1989 sau khi ODA đạt gần 10 tỷ USD, Nhật đã vượt Mỹ và dẫn đầu thế giới, ngay sau đó, năm 1990 ODA của Nhật có thấp hơn Mỹ một chút nhưng từ năm 1991 lại đây, ODA của Nhật vượt xa các nước và ở vị trí đứng đầu thế giới (xem đồ thị 1). Tuy nhiên, tỷ lệ ODA/GNP của Nhật mới chỉ đạt khoảng 0,3% (xem bảng 2). c) Các nước đang phát triển. Một số nước đang phát triển là nguồn cung cấp ODA. Năm 1990 (Trước khi xẩy ra chiến tranh Vùng Vịnh), ả Rập Xê út cung cấp 3,7 tỷ USD, Cô Oét 1,3 tỷ USD và Các Tiểu Vương Quốc ả Rập Thống nhất gần 900 triệu USD, chủ yếu cho các nước trong vùng. Các nước ấn Độ, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc cung cấp trên dưới 100 triệu USD mỗi năm. Các nước ASEAN là những nước nhận viện trợ, nhưng gần đây một số nước như Singapore, Thái Lan cũng bắt đầu cung cấp ODA với khối lượng không đáng kể. Nhìn chung mỗi nước có chiến lược viện trợ riêng của mình, đồng thời cũng có điều kiện, thủ tục, quy chế cấp ODA không như nhau. Năng lực kinh tế là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến lượng ODA của nước tài trợ. Tuy nhiên ODA còn chịu tác động của các yếu tố khác sau đây: - Nhãn quan chính trị, quan điểm cộng đồng rộng rãi dựa trên quan tâm nhân đạo và hiểu biết về sự cần thiết đóng góp vào ổn định kinh tế - xã hội quốc tế. - Mối quan hệ truyền thống với các nước thế giới thứ ba. - Tầm quan trọng của nước đang phát triển đối với nước cung cấp viện trợ ODA (thị trường tiêu thụ, nơi cung cấp nguyên vật liệu, lao động). - Chính sách đối ngoại, an ninh, lợi ích chiến lược... của nước viện trợ. Trong các đối tác viện trợ trên, Nhật Bản là nước cung cấp ODA lớn nhất của Uỷ ban viện trợ phát triển (DAC), thuộc tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), đồng thời cũng là nước viện trợ song phương lớn nhất thế giới (phụ lục 1). Theo kế hoạch ODA lần thứ IV của Nhật Bản, trong năm năm từ 1993 đến 1997 Nhật Bản sẽ cung cấp ODA cho các nước đang phát triển với tổng giá trị khoảng 70 đến 75 tỷ USD (bình quân khoảng 14-15 tỷ USD một năm). Dưới đây, ta đi sâu vào nghiên cứu về viện trợ phát triển chính thức (ODA) của Nhật Bản. 2.Khái niệm ODA của Nhật Bản. 2.1. ODA của Nhật Bản là gì? ở Nhật Bản, trợ giúp phát triển kinh tế cho các nước đang phát triển được gọi là "hợp tác kinh tế". Sự hợp tác này được chia làm ba bộ phận: - Viện trợ phát triển chính thức (ODA): Viện trợ của Chính phủ Nhật Bản cho các nước đang phát triển. - Các nguồn chính thức khác (OOF): Bao gồm các nguồn tài chính do Ngân hàng xuất nhập khẩu Nhật Bản và các cơ quan khác của Chính phủ cấp như các khoản tín dụng xuất khẩu và đầu tư trực tiếp. - Các nguồn tư nhân (PF): Bao gồm các khoản tín dụng xuất khẩu, đầu tư trực tiếp và các khoản khác do tư nhân tài trợ. ODA được coi là hợp tác kinh tế ở cấp Chính phủ còn OOF và PF được coi là hợp tác kinh tế ở cấp phi Chính phủ. Viện trợ phát triển chính thức (ODA) của Nhật Bản là tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại, viện trợ hoàn lại và cho vay ưu đãi (thời gian vay dài, lãi suất thấp) của Chính phủ Nhật Bản dành cho Chính phủ và nhân dân các nước đang phát triển và các tổ chức nhằm phát triển kinh tế và phúc lợi của nước này. 2.2. Cơ cấu ODA của Nhật Bản. ODA Nhật Bản bao gồm: - Viện trợ song phương: Viện trợ trực tiếp của Chính phủ Nhật Bản cho Chính phủ và nhân dân các nước đang phát triển. Viện trợ song phương của Nhật Bản bao gồm 3 loại: + Viện trợ không hoàn lại + Hợp tác kỹ thuật + Viện trợ cho vay (cho vay ODA) - Viện trợ đa phương: Các khoản đóng góp của Chính phủ Nhật Bản cho các tổ chức đa phương (các tổ chức của Liên hợp quốc như UNDP, UNICEF.... các tổ chức tài chính quốc tế như WB, ADB,...). Phần ODA dành cho các khoản đóng góp đa phương ít liên quan trực tiếp đến phần viện trợ cho các nước đang phát triển. Dưới đây ta đi sâu vào nghiên cứu viện trợ song phương của Nhật. 3. Các cơ quan, quỹ viện trợ của Nhật Bản. 3.1. Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA: Japan International Cooperation Agency) Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) được thành lập tháng 8 năm 1974, tiếp nhận trách nhiệm của tổ chức hợp tác kỹ thuật hải ngoại (thành lập năm 1962) và tổ chức di cư hải ngoại (thành lập năm 1963) nhằm thực hiện các chương trình hợp tác kỹ thuật và viện trợ không hoàn lại cho các nước đang phát triển. Đặc biệt JICA là tổ chức duy nhất thực hiện các chương trình hợp tác kỹ thuật do Chính phủ Nhật Bản bảo trợ với mục tiêu chuyển giao công nghệ và kiến thức phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của các nước nhận viện trợ. Để thực hiện trách nhiệm này, JICA đã và đang triển khai các chương trình sau: 1. Hợp tác kỹ thuật và đào tạo tại Nhật Bản, cử chuyên gia, cung cấp thiết bị, hợp tác kỹ thuật theo dự án và nghiên cứu phát triển. 2. Cử thành viên của tổ chức những người nguyện hợp tác với nước ngoài của Nhật Bản (JOCV). 3. Đào tạo và tuyển dụng cán bộ có năng lực làm nhiệm vụ hợp tác kỹ thuật. 4. Giám sát và điều hành các chương trình viện trợ không hoàn lại. 5. Phát triển đầu tư và hỗ trợ tài chính. 6. Giúp đỡ những người Nhật Bản sinh sống ở nước ngoài. 7. Cứu trợ thiên tai Tổ chức JICA có Chủ tịch, hai Phó chủ tịch (trong đó có một Phó chủ tịch cao cấp), một thẩm định viên, bốn văn phòng, mười chín phòng chuyên môn và các văn phòng chi nhánh ở hải ngoại, ngoài ra còn có Ban Thư ký của đội cứu trợ thiên tai Nhật Bản. Hiện nay JICA có khoảng 1.100 nhân viên tại Nhật Bản và 50 văn phòng ở 48 nước trên thế giới. Tính toàn bộ, JICA có khoảng 1.200 nhân viên đang làm việc tích cực ở Nhật Bản cũng như ở nước ngoài. Gần một nửa chi phí cho hoạt động hợp tác kỹ thuật của JICA tập trung ở châu á. Kể từ 1992 đến nay, JICA đã tiếp nhận 218 cán bộ Việt Nam sang Nhật Bản, đào tạo và cử 13 chuyên gia sang Việt Nam để làm việc. Tính từ tháng 3 năm 1994, có 17 dự án và đang được khảo sát để thực thi. Đồng thời 9 dự án viện trợ không hoàn lại được thực hiện một cách suôn sẻ với sự hỗ trợ của JICA. Để xúc tiến các chương trình ở Việt Nam, JICA đã mở văn phòng tại Hà Nội từ tháng 4 năm 1995. 3.2. Quỹ hợp tác kinh tế với nước ngoài (OECF) Quỹ hợp tác kinh tế với nước ngoài (OECF): Overseas Economic Cooperation Fund) là một tổ chức thực hiện phần lớn các khoản cho vay song phương trong viện trợ phát triển chính thức (ODA) của Chính phủ Nhật Bản, được thành lập vào năm 1961. Bên cạnh các khoản cho vay ODA, đầu tư trực tiếp vốn cần thiết đối với Chính phủ của các nước đang phát triển, OECF còn thực hiện khoản cho vay vốn đầu tư ra nước ngoài nhằm hỗ trợ vốn cho các dự án phát triển của các Công ty tư nhân trong các ngành: nông nghiệp, thủy sản, khai khoáng. Trong các khoản cho vay của OECF, phần lớn là các dự án hỗ trợ cho việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng như các dự án về vận tải, điện lực, cung thoát nước.... Tính theo khu vực thì châu á chiếm khoảng 80% khoản vay ODA. OECF tiến hành cho các nước đang phát triển vay vốn ODA theo hai hình thức chính là cho vay ưu đãi theo các dự án và cho vay hàng hóa. (Phần này sẽ được trình bày rõ ở sau). OECF tiến hành đối thoại với Chính phủ các nước đang phát triển nhằm cung cấp viện trợ phù hợp với nhu cầu khác nhau của các nước, đồng thời tiến hành các hoạt động nghiên cứu những kinh nghiệm trong việc thực hiện chính sách phát triển của các nước Đông á, đặc biệt là của Nhật Bản nhằm góp phần hỗ trợ cho các nước đang phát triển trong những năm tới. Cho tới nay, OECF đã và đang tiến hành cung cấp viện trợ cho vay ODA cho 150 nước đang phát triển. OECF có trụ sở chính tại TOKYO nhưng văn phòng đại diện ở 17 nước trên thế giới trong đó có 14 nước đang phát triển với toàn bộ số nhân viên là 327 người. Tháng 11 năm 1992, OECF đã cung cấp cho Việt Nam khoản vay bằng hàng hóa trị giá 45 tỷ 500 triệu yên, tháng 1 năm 1994, cung cấp 7 khoản vay cho các dự án phát triển và 1 khoản vay cho dự án phục hồi với tổng giá trị 52 tỷ 304 triệu yên cho vay tài chính 94 và cam kết cho vay năm tài chính 95 của OECF cho Việt Nam là 70 tỷ yên. Ngoài ra, OECF còn tích cực hợp tác nhằm củng cố phương thức nhận viện trợ của Việt Nam như việc đưa dịch vụ tư vấn quản lý dự án vào tất cả các cơ quan thực thi dự án từ năm 1993. Để thực hiện có hiệu quả vai trò của mình, OECF đã mở văn phòng đại diện tại Hà Nội vào tháng 4 năm 1995. 3.3. Quỹ đầu tư hỗ trợ cho khu vực tư nhân (OECF- PSIF) Ngoài việc cung cấp vốn vay đồng Yên, OECF cũng tiến hành đầu tư tài chính khu vực tư nhân thông qua quĩ tín dụng OECF- PSIF dành cho khu vực tư nhân, với mục đích giúp khu vực tư nhân tại các nước đang phát triển có nguồn tài chính cần thiết để thực hiện các dự án phát triển hỗ trợ các dự án dưới hình thức vốn vay hoặc cổ phần Việt nam là nước ưu tiên quan trọng nhất của OECF- PSIF và OECF mong muốn hỗ trợ nhiều dự án tư nhân tại Việt NAm dưới hình thức PSIF cũng như vốn vay đồng. 3.4 Quỹ tín dụng MIYAZAWA Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á, hầu hết các nước trong khu vực này đã chịu ảnh hưởng, nền kinh tế bị tàn phá nưạng nề. để giúp các nước này khắc phục hậu quả sau khủng hoảng và phục hồi kinh tế, Bộ trưởng Tài chính Nhật Bản ông Miyazawa đã đưa ra sáng kiến thành lập một khoản tín dụng lấy tên là Miyazawa để giải quyết vấn đề này. Tiếp theo kế hoạch Miyazawa đã được Bộ trưởng Tài chính Nhật trình bày tại Hội nghị G7 và thường niên IMF, WB tháng 10/98, Nhật Bản đã cụ thể hoá và được gọi là Kế hoạch Miyazawa mới đựơc triển khai như sau : + Phương thức sử dụng : 15 tỷ USD tài trợ cho các nhu cầu vốn trung dài hạn cho các nước Châu á 15 tỷ USD tài trợ cho các nhu cầu vốn ngắn hạn theo các chương trình điều chỉnh kinh tế. 1.Miyazawa hỗ trợ cho các nhu cầu trung và dài hạn nhằm : Hỗ trợ cho cơ cấu lại các khoản nợ công ty trong khu vực tư nhân và các nỗ lực để khôi phục hệ thống tài chính ổn định và vững mạnh. Tăng cường mạng lưới an toàn xã hội Khuyến khích nền kinh tế (việc thực hiện các cam kết xã hội để tăng việc làm) Giải quyết các vướng mắc tín dụng : (Phương thức tài trợ thương mại và hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ) Để đáp ứng các nhu cầu vốn trung và dài hạn của các nước Châu á, Nhật sẽ dành hỗ trợ tài chính cho các nước nào sử dụng các biện pháp được liệt kê dưới đây: Trực tiếp hỗ trợ tài chính: Dành khoản tín dụng của JEXIM cho các nước châu á Mua các trái phiếu quốc gia do các nước Châu á phát hành Dành các khoản vốn vay ODA bằng đồng Yên cho các nước châu á Hỗ trợ các nước châu á trong việc nâng cao khả năng huy động vốn trên thị trường tài chính quốc tế : Sử dụng cơ chế bảo lãnh: + Sử dụng cơ chế bảo lãnh của JEXIM : @ JEXIM sẽ bảo lãnh các trái phiếu quốc gia do các nước châu á phát hành @ JEXIM sẽ bảo lãnh các khoản vay ngân hàng cho các nươc châu á + Cung cấp bảo hiểm xuất khẩu cho các khoản vay ngân hàng cho các nước châu á + Yêu cầu WB và ADB tăng cường nỗ lực của họ để cung cấp bảo lãnh cho các khoản vay ngân hàng và cả trái phiếu mà các nước châu á phát hành. Trợ cấp lãi suất Nhật sẽ thiết lập một thể thức hỗ trợ khủng hoảng tiền tệ Châu á. Thể thức này sẽ được sử dụng để cung cấp trợ cấp lãi suất cho các nước Châu á vay vốn từ ADB. Hỗ trợ tài chính theo hình thức đồng tài trợ với các ngân hàng phát triển đa phương : Nhật sẽ cung cấp đồng tài trợ với WB, ADB. Đặc biệt hỗ trợ cho các nước Châu á trong nỗ lực của họ để giải quyết việc cơ cấu lại các khoản nợ công ty, khôi phục sự ổn định của hệ thống tài chính. Trợ giúp kĩ thuật: WB và ADB sẽ đựơc yêu cầu cung cấp các hỗ trợ kĩ thuật cần thiết thông qua quỹ đặc biệt Nhật Bản cho các nước châu á để tiến hành nghiên cứu toàn diện để giải quyết vấn đề cơ cấu lại nợ công ty và phục hồi sự ổn định của hệ thống tài chính. Nhật chuẩn bị để tham gia bằng các biện pháp cung cấp TA cho các nước châu á này, có tính đến bối cảnh cụ thể của từng nước. 2. Hỗ trợ tài chính ngắn hạn : 15 tỷ còn lại Nhật sẽ hỗ trợ cho các nhu cầu về vốn ngắn hạn cho cải cách kinh tế dưới hình thức các hoán đổi tiền tệ (dùng đồng tiền ở địa phương để mua ngoại tệ để tăng dự trữ). Theo thông tin mới nhất hiện nay, Nhật đã thông báo cho một số chính phủ ASEAN, những nước chịu tác động của khủng hoảng về kế hoạch tài trợ của họ như sau : - Tài trợ cho Philipin : 1,4 tỷ USD - Indonesia : 2,4 tỷ USD - Thái Lan : 1,85 tỷ USD - Malaysia :1,5 tỷ USD - Hàn quốc : 8,5 tỷ USD - Việt Nam (Mới thông qua ngày 16/5/99) là 20 tỷ Yên 3.5 Mối quan hệ giữa JICA và OECF Như đã trình bày ở trên, JICA là cơ quan duy nhất thực hiện các chương trình hợp tác kỹ thuật do Chính phủ Nhật Bản bảo trợ nhằm mục đích chuyển giao công nghệ và kiến thức phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của các nước đang phát triển, còn OECF là tổ chức thực hiện phần lớn các khoản cho vay song phương trong viện trợ phát triển chính thức của Chính phủ Nhật Bản. Như vậy, có thể nói trong viện trợ phát triển chính thức (ODA) của Chính phủ Nhật Bản, OECF phụ trách về hợp tác vốn với các khoản cho vay ưu đãi, còn JICA phụ trách hợp tác về mặt kỹ thuật. Hai cơ quan với hai lĩnh vực hợp tác khác nhau, nhưng các nước đang phát triển đều thiếu cả vốn và công nghệ, vì vậy để hoàn thành và duy trì một dự án phát triển ở các nước này điều hiển nhiên là phải kết hợp hai hình thức hợp tác đó với nhau, chỉ khi đó mới có thể thực hiện dự án một cách có hiệu quả. Mối quan hệ mật thiết giữa OECF và JICA giúp cho Chính phủ Nhật Bản thực hiện có hiệu quả việc cung cấp viện trợ ODA cho các nước đang phát triển. Mối quan hệ này biểu hiện ở sự tham gia của nhân viên OECF vào đoàn điều tra khảo sát của JICA, sự tham gia của nhân viên OECF vào hội nghiên cứu viện trợ của JICA, sự tham gia của nhân viên JICA vào các đoàn thẩm định của OECF, việc phái cử chuyên gia của JICA vào các dự án được tiến hành một cách đồng bộ và có hiệu quả, các cuộc hội thảo, trao đổi giữa JICA và OECF được tiến hành theo định kỳ. 4. Các hình thức viện trợ ODA song phương của Nhật Bản và vai trò của nó đối với nước nhận viện trợ 4.1. Viện trợ không hoàn lại. a) Viện trợ không hoàn lại là gì? Viện trợ không hoàn lại là hỗ trợ về mặt tài chính cho nước nhận viện trợ mà không đòi hỏi nước này phải hoàn trả. Nói cách khác, đó là tất cả những khoản cho không trên cơ sở song phương, không kể những khoản cho không được xếp vào dạng hợp tác kỹ thuật. b) Các hình thức viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Nhật Bản đều do tổng ngân sách cung cấp. Khoản này chiếm một tỷ lệ rất thấp trong ODA (khoảng 15%-20%), chia thành 6 phần chi tiết như sau: - Viện trợ không hoàn lại tổng hợp: Viện trợ không hoàn lại tổng hợp là loại viện trợ được cung cấp cho nhiều lĩnh vực khác nhau trừ nghề cá, các hoạt động văn hóa, khắc phục thiên tai và lương thực, thực phẩm. Xét theo qui mô ngân sách thì đây là phần lớn nhất của khoản viện trợ không hoàn lại do Nhật Bản cung cấp. Viện trợ không hoàn lại tổng hợp nhằm mục đích góp phần phát triển kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển, nhằm vào những lĩnh vực cung cấp các nhu cầu cơ bản của con người (nông nghiệp, y tế, chăm sóc sức khoẻ công chúng, phúc lợi xã hội, môi trường) và công cuộc phát triển tài nguyên nhân lực (giáo dục, nghiên cứu, đào tạo...). - Viện trợ không hoàn lại cho ngành cá: Loại viện trợ này góp phần phát triển nghề cá ở các nước đang phát triển thông qua việc hợp tác theo các dự án có liên quan đến nghề cá, chẳng hạn như xây dựng các trung tâm đào tạo nghề cá, mua các tàu huấn luyện đánh cá, xây dựng các phòng thí nghiệm nghiên cứu nghề cá... cho các đang nước phát triển. - Viện trợ không hoàn lại để khắc phục thiên tai (viện trợ khẩn cấp) Loại viện trợ khẩn cấp được cung cấp để hỗ trợ cho các hoạt động cứu trợ trong các khu vực đang phát triển, nơi xẩy ra thảm họa. Trên tinh thần nhân đạo, loại viện trợ này được cung cấp dưới hình thức hàng cứu tế hoặc tiền mua hàng hóa, thuốc men.... - Viện trợ không hoàn lại cho các hoạt động văn hóa. Loại viện trợ này được bắt đầu thực hiện trong năm tài chính 1975 kết hợp với việc hợp tác trao đổi văn hóa quốc tế. Loại viện trợ này nhằm cung cấp tiền cho việc mua sắm những thiết bị và vật tư để phát triển công cuộc giáo dục và nghiên cứu bảo toàn và sử dụng những tài sản văn hóa, những di tích lịch sử, và để tổ chức các buổi công diễn triển lãm mang tính chất văn hoá ở các nước đang phát triển. - Viện trợ lương thực. Viện trợ lương thực cung cấp cho các nước đang phát triển thiếu lương thực. Nhật Bản tiến hành viện trợ lương thực trên ._.cơ sở công ước viện trợ lương thực năm 1989. - Viện trợ không hoàn lại để phát triển sản xuất lương thực. Mục đích của loại viện trợ này là góp phần giải quyết vấn đề thiếu lương thực ở các nước đang phát triển, bằng cách hỗ trợ những nỗ lực tăng gia sản xuất lương thực ở nước này. Để hỗ trợ cho những cố gắng, nỗ lực ấy, Nhật Bản đã thực hiện những dự án nông nghiệp thuộc nhiều loại khác nhau nhằm giúp sức phát triển sản xuất lương thực. Thêm nữa, từ năm tài chính 1977 trở đi, khi có dự phòng ngân sách đặc biệt để viện trợ phát triển sản xuất lương thực, Nhật Bản đã bắt đầu cung cấp các loại phân bón, các loại hoá chất dùng cho nông nghiệp và máy móc nông nghiệp (máy xới sâu răng, xe ủi đất, máy bơm nước...), các loại phương tiện, vận tải.... c) Vai trò của viện trợ không hoàn lại Các chương trình hỗ trợ của Nhật Bản thông qua viện trợ không hoàn lại được khởi đầu vào năm 1968. Cho đến nay, cả giá trị kim ngạch và số lượng của viện trợ không hoàn lại cung cấp cho các nước đang phát triển đều được tăng một cách thực sự. Viện trợ không hoàn lại của Nhật Bản được ưu tiên dành cho những nước đang phát triển có trình độ phát triển tương đối thấp, đặc biệt là những nước kém phát triển nhất. Viện trợ không hoàn lại được cung cấp cho những lĩnh vực cần phải được ưu tiên nhất, góp phần cân đối sự phát triển kinh tế xã hội của nước nhận viện trợ, trực tiếp gắn liền với việc cải thiện mức sống của nhân dân chẳng hạn như chăm sóc y tế và sức khoẻ cộng đồng, giáo dục và nghiên cứu, phát triển sản xuất nông nghiệp, cải thiện môi trường kinh tế xã hội, nâng cấp và phát triển hệ thống thông tin và hệ thống giao thông vận tải.... Vai trò của viện trợ không hoàn lại là tạo ra những hiệu quả trực tiếp bằng cách góp phần phát triển kinh tế và cải thiện phúc lợi công cộng của nước nhận viện trợ. Thông qua sự hiểu biết của nhân dân các nước về viện trợ không hoàn lại của Nhật Bản, Nhật Bản muốn tăng cường sự hiểu biết sâu sắc hơn nữa của những nước này về Nhật Bản. Đó chính là vai trò quan trọng của viện trợ không hoàn lại trong việc thực hiện chính sách ngoại giao của Nhật Bản. 4.2. Hợp tác kỹ thuật a) Giới thiệu chung và tầm quan trọng của hợp tác kỹ thuật. Hợp tác kỹ thuật liên quan trực tiếp đến việc chuyển giao công nghệ. Nhật Bản rất coi trọng loại hình hợp tác này vì nó là bộ phận viện trợ không hoàn lại mà các nước đang phát triển rất mong đợi. Nó kéo theo một quan hệ trực tiếp thông qua việc trao đổi nhân sự và góp phần đáng kể vào việc "phát triển tài nguyên nhân lực". Lĩnh vực hợp tác kỹ thuật rất đa dạng: Nông nghiệp, công nghiệp, ngư nghiệp, cơ sở hạ tầng và y tế. Tỷ lệ phần hợp tác kỹ thuật trong ODA khoảng 25%. Các chương trình hợp tác kỹ thuật của Nhật vận dụng cơ chế như sau: Bộ Ngoại giao Nhật chuẩn bị kế hoạch cho những chương trình này cũng như xin ngân sách cần thiết. Còn trách nhiệm thực hiện kế hoạch thuộc về Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA). Mục đích của hợp tác kỹ thuật là phát triển "các nguồn nhân lực" để xây dựng đất nước tại các nước đang phát triển. Nói cách khác, hợp tác kỹ thuật nhằm để nâng cao tay nghề của các kỹ thuật viên tại các nước đang phát triển, những người có khả năng về kỹ thuật, có vai trò tích cực trong công cuộc phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. b) Các hình thức hợp tác kỹ thuật. Hợp tác kỹ thuật bao gồm hàng loạt các hoạt động rộng rãi từ việc nhận đào tạo sinh viên từ nước ngoài tới việc xuất bản và cung cấp sách vở, tài liệu kỹ thuật bằng ngôn ngữ địa phương.... Các chương trình hợp tác kỹ thuật bao gồm. - Nhận đào tạo các loại cán bộ và công nhân kỹ thuật. Các chương trình đào tạo cá nhân bao gồm các lĩnh vực như nông nghiệp, đánh cá, rừng, kiến trúc, xây dựng, khai mỏ, vận tải giao thông, phát thanh, y tế... Tham gia các chương trình đào tạo kỹ thuật của Nhật có các cơ sở đào tạo sau đây: Các Trung tâm đào tạo quốc tế của JICA, các viện nghiên cứu và thí nghiệm của các Bộ và các Cơ quan Chính phủ Nhật, các trường Đại học, các tổ chức tư nhân, Công ty.... Hiện nay do yêu cầu đa dạng về đào tạo kỹ thuật, các cơ sở huấn luyện chủ yếu bao gồm các cơ quan nghiên cứu và thí nghiệm của Chính phủ Nhật không còn đủ khả năng đáp ứng với tình hình. Do đó, thời gian tới Chính phủ phải lưu ý đến các tổ chức tư nhân và các Công ty trong việc chấp nhận đào tạo học viên từ các nước đang phát triển. Ngoài ra còn có chương trình đào tạo học viên tại nước thứ ba ngoài Nhật Bản. JICA ủng hộ việc đào tạo tại nước thứ ba qua việc chịu phí tổn đào tạo và gửi các chuyên viên hướng dẫn từ Nhật sang. Nhìn chung, hàng năm JICA tiếp nhận khoảng 7000 người để đào tạo kỹ thuật tại Nhật Bản. Đến nay, JICA đã nhật tất cả 104 nghìn người từ hơn 130 nước. - Cử chuyên gia Nhật sang các nước đang phát triển. - Cung cấp trang thiết bị và vật liệu. Nhật Bản bắt đầu sự hợp tác kỹ thuật bằng việc cung cấp thiết bị và vật liệu vào năm 1964 với mục đích cung cấp thiết bị và vật liệu cần thiết tạo điều kiện cho việc đào tạo về kỹ thuật, chuyển giao công nghệ và phổ biến công nghệ góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội của các nước đang phát triển. ở đây trang thiết bị và vật liệu là một bộ phận của chương trình hợp tác kỹ thuật chứ không trong khuôn khổ viện trợ chung không hoàn lại. JICA cung cấp thiết bị nhằm các mục đích cụ thể sau: * Hỗ trợ việc chuyển giao kỹ thuật của các chuyên gia và các thành viên của tổ chức tình nguyện hợp tác tại nước ngoài (JOCV). * Giúp đỡ các đồng nghiệp ở các nước nhận viện trợ tiếp tục công việc sau khi chuyên gia trở về Nhật Bản. * Giúp học viên trong chương trình đào tạo tại Nhật Bản sử dụng được các kiến thức và kỹ năng mới học được một cách hiệu quả ở nước họ. - Cử nhân viên tình nguyện từ tổ chức tình nguyện hợp tác tại nước ngoài của Nhật Bản (JOCV). - Hợp tác kỹ thuật theo từng dự án. Các chương trình hợp tác kỹ thuật do Chính phủ Nhật Bản giao cho JICA thực hiện gồm ba thành phần cơ bản: Đào tạo kỹ thuật tại Nhật, cử chuyên gia Nhật sang các nước, cung cấp thiết bị vật liệu cho hoạt động của các chuyên gia đó. Ba loại hình hợp tác kỹ thuật này có thể được thực hiện một cách độc lập nhưng để hợp tác một cách hiệu quả hơn, thông thường chúng được phối hợp với nhau và được gọi là "Hợp tác kỹ thuật theo từng dự án". Hình thức hợp tác này do phòng hợp tác kỹ thuật thuộc Vụ hợp tác kinh tế của Bộ ngoại giao Nhật phụ trách. Mục tiêu của nó là chuyển giao công nghệ cho các kỹ sư, kỹ thuật viên, nhân viên y tế, nông dân, cán bộ khuyến nông... của nước nhận viện trợ bằng cách cho họ tham gia vào các dự án phát triển thuộc các lĩnh vực cụ thể như nông lâm ngư nghiệp, khai khoáng, nghiên cứu về dân số và kế hoạch hóa gia đình... và các hoạt động nghiên cứu liên quan đến các lĩnh vực đó. * Chương trình hợp tác về y tế nhằm góp phần cải thiện phúc lợi xã hội của các nước đang phát triển bị nhiều bệnh dịch hoành hành. * Chương trình dân số và kế hoạch hóa gia đình. * Chương trình hợp tác về nông lâm ngư nghiệp nhằm phát triển nhân lực và cải tiến công nghệ trong các lĩnh vực này như trồng lúa, trồng dâu nuôi tằm, chăm sóc gia súc.... * Chương trình hợp tác về phát triển công nghiệp nhằm tạo ra và phát triển các ngành công nghiệp ỏ nước nhận viện trợ. - Khảo sát về phát triển: Khảo sát về phát triển là bước đầu tiên để hình thành mọi dự án. Cần tiến hành khảo sát về phát triển đối với mọi lĩnh vực kể cả giao thông vận tải, dịch vụ công cộng, bưu chính, y tế, giáo dục.... Các dự án thử nghiệm không thể không hoàn thành hoặc sinh lãi như việc kinh doanh trừ phi có các đổi mới và cải thiện về kỹ thuật. * Khảo sát và tư vấn kỹ thuật cho các dự án trên. Ngoài việc cấp vốn vay, JICA cử các chuyên gia để giải quyết khó khăn về kỹ thuật và mời các cán bộ địa phương đến đào tạo tại Nhật Bản. 4.3. Viện trợ dưới hình thức cho vay (cho vay ODA) a) Khái niệm: Viện trợ cho vay là khoản cho vay trực tiếp của Chính phủ Nhật cho các nước đang phát triển và được gọi là "Khoản vay ODA của Nhật" nó là dạng ODA và phải đáp ứng những điều kiện sau: - Phải do Chính phủ Nhật Bản hoặc các cơ quan thực hiện hợp tác kinh tế của Chính phủ Nhật Bản cung cấp. - Phải thực hiện với mục đích chủ yếu là khuyến khích sự phát triển kinh tế và xã hội của các nước đang phát triển. - Mang tính chất ưu đãi và "yếu tố cho không" ít nhất là 25% trong tổng số (2). Căn cứ vào việc nợ nước ngoài của từng nước, tính chất ưu đãi của các khoản vay sẽ được điều chỉnh cho phù hợp. Các khoản vay ưu đãi còn phụ thuộc vào một số yếu tố như cơ cấu kinh tế, kế hoạch phát triển và chính sách phân phối các quỹ phát triển mà sẽ được phân bổ cho các mục tiêu, lắp đặt các hệ thống thông tin liên lạc của nước nhận viện trợ. b) Các thể loại cho vay: Viện trợ cho vay chiếm một tỷ trọng lớn trong toàn bộ viện trợ ODA của Nhật. Viện trợ cho vay do quỹ hợp tác kinh tế với nước ngoài (OECF) thực hiện, bao gồm các hình thức chủ yếu sau: cho vay ưu đãi theo các dự án và cho vay hàng hóa. - Cho vay ưu đãi theo các dự án: (2) "yếu tố cho không" trong ODA được xác định vào việc so sánh mức lãi suất viện trợ với mức lãi suất tín dụng thương mại (tiêu chuẩn quy ước là 10%/năm). Với các khoản viện trợ không hoàn lại, "yếu tố cho không" là 100%, trường hợp vay thương mại (lãi suất 10%/năm)thì "yếu tố cho không" bằng 0. Công thức tính phức tạp do Uỷ ban viện trợ phát triển (DAC) đưa ra: GE : Nhân tố viện trợ không hoàn lại (yếu tố cho không) r : Lãi suất hàng năm a : Số lần trả nợ trong 1 năm G : Thời gian ân hạn M : Thời gian trả nợ d : Tỷ lệ chiết khấu Thể loại cho vay này cung cấp để mua hàng hóa và dịch vụ cần thiết cho việc thực hiện một dự án phát triển. Các dự án về kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội như Bưu chính viễn thông, giao thông vận tải, điện lực, thủy lợi, hệ thống cung, thoát nước... được Nhật Bản ưu tiên chú ý trong các khoản cho vay của mình, chúng chiếm đại bộ phận trong các khoản cho vay theo dự án. Những loại sau đây cũng nằm trong vốn vay cho dự án: * Vốn dịch vụ kỹ thuật: Vốn này chủ yếu cung cấp tài chính cần thiết cho những dịch vụ tư vấn có liên quan tới thiết kế chi tiết dự án. Những dịch vụ này cũng có thể bao gồm những hoạt động như xét duyệt sự nghiên cứu tính khả thi, chuẩn bị cho các tài liệu đấu thầu... * Vốn phục hồi: Nguồn vốn này được cung cấp để tài trợ cho việc mua hàng hóa và thanh toán các dịch vụ cần thiết cho việc nâng cấp những công trình, thiết bị hiện có nhưng chất lượng đã giảm do tính lỗi thời hoặc bảo dưỡng không thỏa đáng. * Vốn khu vực: Vốn này được cung cấp cho việc thực hiện một số các dự án có quy mô vừa và nhỏ trong một khu vực kinh tế cụ thể (ví dụ như vận tải, tưới tiêu hoặc đánh cá), kể cả việc tăng cường của các cơ quan thực hiện. Bằng cách này vốn khu vực hỗ trợ cho việc phát triển một khu vực kinh tế cụ thể đấy. * Vốn trung gian tài chính (vốn vay hai bước): Vốn này khuyến khích sự phát triển của khu vực tư nhân bằng cách cấp cho các xí nghiệp quy mô bậc trung hay nhỏ hoặc các nông trang viên thông qua các cơ quan tài chính trung gian của nước vay. Trường hợp này, thông thường khoản tiền cho vay được OECF giao cho các cơ quan tài chính của nước nhận viện trợ. Các cơ quan này dùng khoản vốn đó cho các doanh nghiệp, tư nhân nước nhận viện trợ vay lại. Dòng vốn chia hai giai đoạn nên hình thức này gọi là khoản vốn vay hai bước. - Vốn phi dự án * Vốn điều chỉnh cơ cấu (SAL): Vốn này được cấp với điều kiện là bên vay sẽ tiến hành chương trình điều chỉnh cơ cấu do nước đó thảo ra và được sự đồng ý trước của những cơ quan cấp vốn. Các khoản vốn này được dùng để nhập các loại hàng hóa nói chung nhằm giảm bớt những khó khăn trong cán cân thanh toán quốc tế của nước nhận viện trợ. * Vốn điều chỉnh khu vực kinh tế: Vốn điều chỉnh khu vực kinh tế là loại vốn điều chỉnh cơ cấu nhằm khuyến khích cải tiến các chính sách và cải cách cơ cấu trong một hay nhiều khu vực kinh tế đặc biệt nào đấy. * Vốn chương trình khu vực: Là loại vốn nhằm hỗ trợ cho các chính sách phát triển trong một khu vực kinh tế ưu tiên đặc biệt nào đó. Đây là loại vốn hàng hóa với vốn đối ứng do bên vay thu thập được từ các cơ quan nhập khẩu hàng hóa dùng để tài trợ cho những dự án trong một khu vực kinh tế đặc biệt nào đấy. * Cho vay hàng hóa: Đối với các nước đang phát triển có tình trạng mất cân đối nghiêm trọng về cán cân thanh toán hoặc không đủ ngoại tệ để nhập đủ số lượng hàng hóa cơ bản, cần thiết cho nền kinh tế quốc dân, Nhật Bản áp dụng hình thức cho vay hàng hóa. Việc cấp một khoản vốn bằng hàng hóa nhằm giúp nước nhận viện trợ đối phó được với tình hình xấu đi nghiêm trọng của nền kinh tế. Những mặt hàng được coi là phù hợp trong các khoản vay hàng hóa của Nhật là những mặt hàng sẽ trực tiếp góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của nước nhận viện trợ như máy móc, thiết bị, nguyên liệu công nghiệp.... c) Vai trò và các lĩnh vực của viện trợ cho vay: Vai trò hàng đầu của viện trợ cho vay là bổ xung thêm các nguồn lợi bản địa cần thiết cho sự phát triển kinh tế xã hội của nước nhận viện trợ. Tuy nhiên lĩnh vực và khoản vay hướng vào tùy thuộc vào một số yếu tố như cơ cấu kinh tế, kế hoạch phát triển, chính sách phân phối của nước nhận viện trợ. Viện trợ cho vay ODA được cung cấp để phát triển nông nghiệp, cải tiến nâng cấp các công trình hạ tầng cơ sở như đường xá, đập nước, xây lắp các hệ thống thông tin liên lạc. II. Các thủ tục cần thiết để cấp viện trợ ODA của Nhật Bản cho một đề án. 1. Mục tiêu viện trợ ODA của Nhật Bản Đã 45 năm qua, kể từ 1954, Nhật Bản đã thực hiện chính sách viện trợ phát triển chính thức (ODA) và chính sách này ngày càng trở thành công cụ đắc lực về ngoại giao và bành chướng kinh tế của Chính phủ Nhật Bản. Mặc dù mục tiêu ban đầu của chính sách ODA của Nhật Bản là "Nhận thức được sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới" và "Những sự quan tâm mang tính nhân đạo", cũng như coi viện trợ phát triển là một công cụ khuyến khích phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội, đồng thời cung cấp một sự trợ giúp gián tiếp phục vụ cho việc tự trợ giúp đối với các nước đang phát triển, nhưng trong thực tế mục tiêu của ODA ngày càng mở rộng, không chỉ có mục tiêu nhân đạo hỗ trợ phát triển kinh tế mà còn là công cụ chính trị của Chính phủ Nhật Bản đối với các nước đang phát triển tiếp nhận viện trợ, là bàn đạp hỗ trợ cho các nhà kinh doanh Nhật Bản bành chướng thương mại và đầu tư trên thế giới. Thực tế chính sách ODA của Nhật Bản trong mấy chục năm qua đã cho thấy đây là một công cụ của chính sách đối ngoại và chính sách kinh tế tích cực của Chính phủ Nhật Bản. Ngoài những mục tiêu nhân đạo trợ giúp các nước đang phát triển (theo những tiêu chuẩn chính sách của chính sách đối ngoại), chính sách ODA còn có mục tiêu phục vụ cho chính Nhật Bản. Nhật Bản là một nước bị cách biệt về địa lý với thế giới, rất nghèo tài nguyên thiên nhiên. Do vậy để phát triển, Nhật Bản phải phụ thuộc nhiều vào nguồn tài nguyên ở bên ngoài, chủ yếu từ các nước đang phát triển (vào năm 1977 trao đổi thương mại với các nước đang phát triển chiếm 49% xuất khẩu và 57% nhập khẩu của Nhật Bản, vào năm 1987 các con số tương ứng là 32% và 47%). Vì vậy ODA trở thành công cụ quan trọng để gắn kết hơn nữa các nước đang phát triển với Nhật Bản và duy trì một thị trường quan trọng cho Nhật Bản. Chính sách viện trợ phát triển gắn kết chặt chẽ với lợi ích thương mại và đầu trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản tại nước tiếp nhận viện trợ. Cũng có thể nói viện trợ phát triển phục vụ cho cả lợi ích của các nhà kinh doanh và các nhà đầu tư Nhật Bản đang làm ăn với nước tiếp nhận viện trợ: cung cấp hàng hóa, thiết bị, dịch vụ, đấu thầu các công trình dự án lớn trên cơ sở tài trợ ODA, đảm bảo và thúc đẩy đầu tư trực tiếp của các nhà kinh doanh Nhật Bản vào nước tiếp nhận viện trợ. Các nước đang phát triển tiếp nhận viện trợ là những nước có lợi thế so sánh về giá nhân công rẻ trên thị trường thế giới, trong khi giá thành sản xuất và giá nhân công ở Nhật Bản ngày càng cao. Vì thế Nhật Bản đã tiến hành chuyển giao công nghệ và đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài. Mặt khác, khi đàm phán với Chính phủ các nước tiếp nhận viện trợ, Nhật Bản đặt ra những yêu cầu và những điều kiện nhất định đối với các nước này như hướng sử dụng viện trợ, các điều kiện đối tác, cách thức quản lý. Tầm quan trọng ngoại giao là một động lực của ODA của Nhật Bản đồng thời thông qua ODA tăng cường hiệu quả khuyến khích quan hệ giữa Nhật với các nước. Do vậy, ODA được coi là phương tiện quan trọng trong chính sách đối ngoại Nhật Bản, là một công cụ quan trọng của sự phát huy vai trò quốc tế của Nhật Bản. Hơn nữa Nhật Bản còn coi viện trợ kinh tế làm đòn bẩy để nâng cao vị trí chính trị trên trường quốc tế ngang tầm với sức mạnh kinh tế của mình. Như vậy, có thể kết luận, nguồn ODA vừa là chính sách quan trọng của nước viện trợ trong thực thi chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng và chính sách đối ngoại nói chung của nước viện trợ, đồng thời là công cụ và nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế của nước tiếp nhận viện trợ. Nó quan trọng cho cả 2 phía, vì vậy đòi hỏi cả hai phía phải hợp tác, tôn trọng lẫn nhau và có trách nhiệm với nhau. 2. Đặc điểm viện trợ ODA của Nhật Bản. Chính sách viện trợ ODA của các nước không giống nhau, phụ thuộc vào chính sách kinh tế và chính sách đối ngoại của từng nước. Nếu so sánh với viện trợ của Pháp và Mỹ, cách thức viện trợ của Nhật Bản có những điểm khác biệt. Viện trợ của Mỹ đặt trọng tâm vào "Nhu cầu cơ bản của con người" thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống của con người và phổ biến "Hệ thống giá trị của Mỹ", đặt tầm quan trọng ngoại giao của Mỹ cao hơn nhu cầu của nước nhận viện trợ. Còn Nhật Bản tiến hành viện trợ với điều kiện tiên quyết là khoản viện trợ phải đáp ứng đúng yêu cầu và dự án cụ thể do nước nhận viện trợ đưa ra và nhất thiết phải có điều tra khả thi đối với dự án. Về hình thức viện trợ, viện trợ của Mỹ hầu hết là viện trợ không hoàn lại (trên 90%) và có thể được xuất nhanh chóng bơỉ các quỹ hỗ trợ. Trong khi đó, viện trợ ODA của Nhật Bản chủ yếu là vốn vay bằng đồng Yên, thủ tục phức tạp mất nhiều thời gian (trung bình hai năm đối với dự án kể từ khi ký kết hiệp định vay đến khi bắt đầu triển khai thực thi dự án). Đố với viện trợ ODA của Pháp thì phần lớn viện trợ là dành cho các mối quan hệ sẵn có và sự truyền bá văn hóa và ngôn ngữ Pháp. So với các nước, viện trợ ODA của Nhật Bản có bốn đặc điểm sau: 2.1. Viện trợ cho vay chiếm tỉ lệ cao trong ODA Thông thường, tỷ lệ viện trợ có hoàn lại trong ODA của các nước viện trợ thấp. Các quốc gia viện trợ khác quan niệm rằng: đã là viện trợ sao còn phải hoàn trả cả vốn và lãi. ý kiến này, về một phương diện nào đó là đúng, bởi vậy, Nhật Bản ưu tiên viện trợ không hoàn lại nhiều cho những nước kém phát triển không có khả năng trả nợ. Chính sách viện trợ của Nhật Bản cho từng nước đang phát triển cũng thay đổi tùy thuộc vào những thành quả của quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nước đó. Ví dụ, Thái Lan luôn là một trong những nước nhận viện trợ ODA lớn nhất của Nhật Bản trong mọi hình thức viện trợ song phương của Nhật Bản nhưng từ năm 1993 Nhật Bản đã giảm lượng viện trợ không hoàn lại cho Thái Lan vì cho rằng nước này đã đạt mức thu nhập bình quân đầu người 1.200USD mỗi năm. Lãi suất cho vay cũng thay đổi căn cứ vào sự phát triển của nền kinh tế nước nhận viện trợ. Sau khi nối lại viện trợ cho Việt Nam năm 1992, Nhật Bản cam kết cho Việt Nam vay với điều kiện "mềm": lãi suất 1% cho các khoản vay của năm tài chính 1992, 1993, năm 1994 lãi suất cho vay ODA đã là 1,8% và sang năm tài chính 1995, các khoản vay ODA có lãi suất 2,3%. Nguyên tắc cơ bản trong chính sách ODA của Nhật Bản là tạo cơ sở phát triển cho nước nhận viện trợ, hỗ trợ cho sự phát triển tự lực, tự cường của các nước đang phát triển. Cho vay ODA gắn với nghĩa vụ hoàn trả, điều này buộc nước nhận viện trợ phải cân nhắc và cẩn thận trong sử dụng vốn là vì vậy các khoản viện trợ sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Đây chính là lý do phía Nhật đưa ra để lập luận cho tỷ lệ viện trợ có hoàn lại (cho vay ODA) cao trong cơ cấu ODA của mình. Dưới đây là ví dụ về tỉ lệ cho vay ODA trong cơ cấu ODA của một số nước nămư 1989: Nhật bản : 41,7% Đức : 17,3% Mỹ : 0,5% ý : 18,3% Pháp : 18,6% Năm 1994, trong cơ cấu viện trợ ODA của Nhật, viện trợ không hoàn lại là 17,8%, hợp tác kỹ thuật là 22,4%, viện trợ cho vay là 31,6% và phần đóng góp cho các tổ chức viện trợ đa phương là 28,1%. Nếu chỉ tính riêng viện trợ song phương của Nhật thì viện trợ không hoàn lại là 24,8%, hợp tác kỹ thuật là 31,2% và viện trợ cho vay là 44%. Các con số trên cho ta thấy, mặc dù viện trợ cho vay, khác với các nước khác vẫn chiếm một phần rất cao trong cơ cấu ODA của Nhật nhưng tỷ trọng có giảm dần, ngược lại, tốc độ tăng tỷ trọng viện trợ không hoàn lại và hợp tác kỹ thuật lại có xu hướng tăng nhanh. Nguyên nhân là do: Dưới áp lực của các nước đang phát triển và kém phát triển yêu cầu của Chính phủ Nhật Bản tăng khối lượng viện trợ không hoàn lại và hợp tác kỹ thuật, giảm viện trợ cho vay để giúp các nước này phát triển kinh tế - xã hội, tránh trường hợp sự trợ giúp lại trở thành gánh nặng nợ nần cho các nước đang và kém phát triển, đặc biệt là trước sự tăng giá của JPY, cộng với nhu cầu ngày càng lớn của những nước này về công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, Nhật Bản đã gia tăng lượng viện trợ không hoàn lại và chi phí cho hợp kỹ thuật. - Nhật Bản tập trung viện trợ ODA cho khu vực châu á, nhưng hiện nay, một số nước đang phát triển nhận viện trợ của Nhật ở châu á đã đạt tới trình độ phát triển kinh tế kỹ thuật khá cao, thậm chí một số nước đã bắt đầu cung cấp ODA cho các nước đang phát triển khác trên thế giới như Thái Lan, Malaysia... do đó tỷ trọng ODA dành cho khu vực này có xu hướng chững lại trong khi viện trợ cho khu vực châu Phi và Trung Nam Mỹ đang có xu hướng tăng lên. Đây là các khu vực tập trung những nước nghèo có mức thu nhập bình quân đầu người thấp nhất thế giới. Bởi vậy, viện trợ không hoàn trả lại và hợp tác kỹ thuật chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu ODA mà Nhật cung cấp cho các nước này dẫn đến tỷ trọng cho vay trong ODA nói chung của Nhật đang có xu hướng giảm đi. Hơn nữa, cho vay ODA giảm xuống còn do sự suy giảm của các khoản cho vay phi dự án do có sự cải thiện cán cân thanh toàn quốc tế của các nước đang phát triển, với các nguyên nhân trên, tỷ trọng cho vay ODA trong cơ cấu ODA của Nhật Bản có xu hướng giảm đi nhưng so với các quốc gia viện trợ khác, đây vẫn là một tỷ lệ khá cao. 2.2. Phần lớn ODA của Nhật Bản tập trung vào khu vực châu á. Nhật Bản có mối quan hệ sâu sắc với các nước châu á cả về mặt địa lý, lịch sử và quan hệ kinh tế. Nhật nằm ở Đông Bắc châu á, lại có quan hệ mậu dịch buôn bán lâu đời với các quốc gia trong khu vực. Mục đích của viện trợ phát triển chính thức (ODA) là trợ giúp sự phát triển kinh tế - xã hội cho các nước đang phát triển, cải thiện mức sống cho nhân dân các nước đang và kém phát triển có mức sống thấp mà châu á lại là nơi tập trung gồm 70% dân số của các nước này. Bởi vậy, theo lập luận của Nhật, hiển nhiên là ODA phải tập trung vào khu vực đông dân nghèo. Hơn nữa, châu á hiện nay là khu vực năng động có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới, lại đang có nhu cầu bức xúc về vốn và công nghệ để cải tổ nền kinh tế (công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển sang nền kinh tế thị trường của Việt Nam), cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Đây là khu vực có khả năng tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả viện trợ của Nhật Bản. Bên cạnh đó, châu á còn là một thị trường hấp dẫn đối với Nhật Bản với dân số đông vào bậc nhất thế giới tạo nên một thị trường tiêu thụ rộng lớn cho các hàng hóa của Nhật. Với Nhật Bản, một nước tách biệt với thế giới, rất nghèo tài nguyên thiên nhiên thì châu á còn là một thị trường phong phú có thể cung cấp cho Nhật nguyên nhiên vật liệu và nhân công rẻ mạt. Mặt khác, thông qua chính sách ODA, Nhật Bản muốn tăng cường vai trò chính trị của mình ở khu vực này. 2.3. Viện trợ ODA của Nhật Bản được cung cấp chủ yếu cho các dự án thuộc lĩnh vực hạ tầng cơ sở. Viện trợ ODA của Nhật Bản được cung cấp chủ yếu cho các dự án thuộc lĩnh vực hạ tầng cơ sở như vận tải, điện lực, nước sạch, nước thải.... Sở dĩ như vậy bởi mục đích ODA là nâng cao mức sống cho nhân dân nước nhận viện trợ. Mức sống nhân dân lại phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế. Tiềm lực kinh tế của các nước khác phụ thuộc vào đường lối, chính sách phát triển kinh tế của từng nước. Thế nhưng, ở các nước đang phát triển, cơ sở hạ tầng yếu kém là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng kém phát triển của nền kinh tế. Bởi vậy, ODA của Nhật Bản tập trung vào lĩnh vực này. Năm 1992, tỷ lệ viện trợ cho lĩnh vực hạ tầng cơ sở trên tổng ngạch viện trợ của một nước thuộc Uỷ ban viện trợ phát triển (DAC) như sau: Nhật Bản 27,4%; Mỹ 3,5%; Pháp 12,3%; Đức 13,3%; ý 21,4% úc 9,4%; Thụy Điển 10,3% Tổng cộng viện trợ cho lĩnh vực này của các nước thuộc DAC chiếm 14,3% tổng ODA. Năm 1994, Nhật Bản cung cấp ODA cho các dự án cơ sở hạ tầng kinh tế và dịch vụ là 6,27 tỷ USD chiếm 41,2% ODA. Các dự án liên quan đến cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội đòi hỏi một trình độ kỹ thuật công nghệ và một khối lượng vốn lớn. So với các nước viện trợ khác Nhật Bản hoàn toàn có tiềm lực về kinh tế và kỹ thuật để giúp các nước đang phát triển cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội của mình. 2.4. Các khoản vay của OECF phần lớn được thực hiện dưới hình thức "điều kiện chung không ràng buộc". Trong các hình thức cho vay của OECF thực hiện trên cơ sở đấu thầu, hình thức "Điều kiện chung không ràng buộc" cao so với các nước và ngày một tăng. "Điều kiện đấu thầu" có nghĩa là điều kiện mà một nước hay nhiều nước được tham gia đấu thầu hàng hóa và dịch vụ hay tham gia đấu thầu các công trình xây dựng để thực hiện các dự án vay vốn. "Điều kiện đấu thầu" của vốn vay do Chính phủ Nhật Bản quyết định tuỳ theo từng trường hợp cụ thể. Quỹ OECF đề ra ba hình thức của "Điều kiện đấu thầu". - "Điều kiện chung không ràng buộc" (General untied): Những nước được quyền tham gia đấu thầu cho vốn vay là bất kỳ nước đang phát triển nào và bất kỳ một nước thành viên nào của Uỷ ban viện trợ phát triển (DAC). - "Điều kiện không ràng buộc với các nước đang phát triển" (LDC untied): Những nước được quyền tham gia đấu thầu cho vốn vay là tất cả các nước đang phát triển và Nhật Bản. - "Điều kiện ràng buộc" chỉ có một nước duy nhất có quyền tham gia đấu thầu cho vốn vay là Nhật Bản. Trong những năm gần đây, điều kiện đấu thầu không ràng buộc được áp dụng hầu hết cho các vốn vay của OECF. Đặc biệt từ năm tài chính 1992, các khoản vốn vay của OECF áp dụng điều kiện đấu thầu dưới hình thức không ràng buộc chiếm trên 95%. Bảng 2. Điều kiện đấu thầu của các nước năm 1991 Nước Điều kiện đấu thầu có ràng buộc Đấu thầu không ràng buộc với các nước đang phát triển Đấu thầu ràng buộc Nhật 83,3 6,0 10,8 Mỹ 72,8 10,2 17,0 Anh 58,4 - 41,4 Đức 62,4 - 37,6 ý 44,5 - 55,5 Canada 62,4 14,6 23,0 DAC 66,0 5,6 24,0 Nguồn : Bộ Ngoại giao Nhật Bản Bảng 3. Điều kiện với viện trợ cho vay ODA của Nhật Đơn vị : (%) Điều kiện đấu thầu 1985 1989 1990 1991 1992 1993 1994 Điều kiện không ràng buộc 50,8 80,5 84,4 89,8 95,8 96,9 98,3 Không ràng buộc đối với những nước đang phát triển 47 19,5 15,6 10,2 4,2 3,1 1,7 Điều kiện ràng buộc 2,2 0 0 0 0 0 0 Tổng cộng 100% 100% 100% 100% 100% 100% 100% Trên cơ sở phân tích quá trình hình thành ODA và các đặc điểm của ODA của Nhật Bản, ta rút ra một số nhận xét sau: - Khối lượng ODA của Nhật Bản tăng nhanh, từ một nước nhận viện trợ chủ yếu của Mỹ và Ngân hàng thế giới (WB), Nhật Bản đã trở thành nước cung cấp ODA lớn nhất thế giới và có triển vọng vượt xa các nước khác. - Chất lượng ODA của Nhật Bản ngày càng được cải thiện, tỷ lệ ODA không ràng buộc tăng nhanh, các hình thức ODA ngày càng đa dạng. ODA của Nhật ngày càng đáp ứng tốt trước những nhu cầu phát triển của các nước nhận ODA, giúp nước nhận ODA tự lực cánh sinh trong phát triển kinh tế. - ODA của Nhật Bản có mặt khắp thế giới, từ chỗ chỉ tập trung vào châu á đã mở rộng sang các khu vực Trung Đông, châu Phi, Mỹ la tinh. Tuy nhiên châu á vẫn là ưu tiên hàng đầu. Trong suốt 4 thập kỷ qua kể từ khi Nhật Bản bắt đầu quá trình viện trợ của mình và cả trong thời gian tới. - Nhân tố kinh tế - thương mại luôn là yếu tố chủ yếu chi phối chính sách ODA của Nhật Bản. Tuy nhiên, nhân tố chính trị ngày càng tăng, bao trùm cả ý nghĩa đối với chính sách an ninh toàn diện của Nhật Bản, ODA hiện nay trở thành công cụ hữu hiệu phục vụ chính sách đối ngoại của Nhật Bản. Trong đó bối cảnh ngân sách viện trợ ODA của Nhật Bản ngày càng gia tăng và ưu tiên hàng đầu vẫn là châu á, Việt Nam nước có vị trí chính trị quân sự quan trọng ở Đông dương nói riêng và Đông Nam á nói chung thực hiện chính sách "đổi mới", chuyển đổi từ nền kinh tế quản lý tập trung sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần đang cần nhiều đầu tư để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Việt Nam là nước đông dân thứ hai ở Đông Nam á với khoảng 75 triệu dân, đây là một thị trường lớn cho việc tiêu thụ hàng hóa. Việt Nam cũng là một nước giàu tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là dầu mỏ và khí đốt, một thị trường nguyên vật liệu phong phú với nguồn nhân lực dồi dào và rẻ. Việt Nam lại đang có nhu cầu bức xúc trong việc cải tạo và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, đang có nhu cầu xây dựng và phát triển công nghiệp, nông nghiệp, văn hóa, khoa học và công nghệ.... Vì vậy, Nhật Bản không thể không phát triển quan hệ với Việt Nam cho dù có sự khác biệt về tư tưởng và chế độ chính trị - xã hội. Tháng 11 năm 1992, Nhật Bản quyết định nối lại viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam sau một thời gian gián đoạn do sự kiện hòa bình ở Cămpuchia. 3. Các thủ tục và điều kiện cho vay ODA của Nhật Bản. Một vốn của OECF được thực hiện theo một thủ tục tiêu chuẩn, bắt đầu là khâu xác định dự án, sau đó là khâu chuẩn bị, thẩm định, trao đổi công hàm, đàm phán vốn vay, thực hiện dự án và giám sát, và sau đó là khâu kết thúc đánh giá và theo dõi sau khi dự án hoàn thành. Toàn bộ các._.ăng lực. Các nguồn lực tổ chức cần phải được tăng cường. Điều này có nghĩa là càn phải chú ý nhiều hơn tới việc đào tạo chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lý và thực hiện ODA, tham khảo và công bố các kinh nghiệm trong nước và quốc tế, thiết lập hệ thống thông tin quản lý ODA. Đặc biệt là càn xây dựng một đội ngũ cán bộ nòng cốt trong toàn bộ hệ thống quản lý ODA. Những người có đủ năng lực nhận biết những vướng mắc, hình thành và thiết kế dự án và đảm bảo thực hiện công tác một cách có hiệu quả. * Tăng cường năng lực cho các đơn vị đầu mối ODA từ trung ương đến địa phương thông qua đào tọi cơ bản và nâng cao trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác ODA. 1.1.6. Quản lý rủi ro. * Cần phải có một chiến lược để quản lí những rủi ro về tỷ giá hối đoái. Điều cần thiết là Bộ Tài chính và Ngân hàng nhà nước quản lý tốt chính sách vay vốn, đảm bảo việc áp dụng các chuyên môn, các biện pháp kỹ thuật và cách thức quản lý nợ nước ngoài một cách thích hợp và đúng đắn. Trong khuôn khổ này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính nên hình thành một chiến luợơc quản ký nợ và Ngân hàng nhà nước thực hiện cụ thể các chính sách quản lý rủi ro. Sự bố trí này nhằm thể hiện một chính sách quản lý vay rõ ràng và có trách nhiệm của Chính phủ. * Lựa chọn tỷ giá hối đoái nhằm ổn định tiền tệ, ổn định giá cả, ổn định ngân sách nhà nước. Mặc dù tín dụng ODA điều kiện rất ưu đãi, lãi suất thấp song tiền vay thường tính bằng ngoại tệ mạnh, mức trượt giá thấp. Trong những năm qua Việt nam đã kiềm chế được nạn lạm phát nhưng so với một số ngoại tệ mạnh mức trượt gía của đồng nội tệ còn cao. Sự mất giá của đồng nội tệ so với ngoại tệ mạnh làm lãi suất thực tế của các khoản tín dụng ưu đãi tăng lên. Chính vì vậy, khi quyết định vay phải cân nhắc kỹ những biến động có thể xảy ra để thoả thuận về điều kiện vay. Tuy nhiên thời hạn thời hạn vay của các khoản tín dụng ODA thường dài, việc trù tính trước những biến động là rất khó, chính phủ cần có các biện pháp để hạn chế những biến động bất lợi lớn đồng thời chủ động đối phó với những biến động đó. Một trong những biện pháp chủ đạo là lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái. Lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái không bao giờ đơn giản vì nó chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Mức tỷ giá thấp có thể thuận lợi cho việc thu hút vốn đàu tư nước ngoài (ODA và FDI), cho hoạt động xuất khẩu nhưng lại làm cho các khoản nợ tăng lên. Xuất phát từ xu thế phát triển của thời đại mở cửa và điều kiện của nước ta, tôi cho rằng chính phủ nên lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý. Tỷ giá này cho phép chúng ta thực hiện một chính sách tiền tệ độc lập, chính sách giá ổn định vì chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý vừa theo quy luật cung cầu của thị trưoừng vừa phát huy vai trò của nhà nước, kết hợp sự điều tiết kinh tế bằng cả bàn tay ”vô hình” và ” hưu hình”. Chính sách đó sẽ giúp phản ánh đúng sức mua của đồng tiền Việt nam, đồng thời bảo đảm tính linh hoạt của tỷ giá trong tình hình đang chuyển biến nhanh. Điều chỉnh tỷ giá hối đoái tỷ giá hối đoái đồng Việt nam với ngoại tệ mạnh cho phù hợp với tốc độ trượt giá của đồng Việt nam là có lợi nhất cho xuất khẩu và thu hút vốn nước ngoài vào đầu tư và chủ động trong tính toán thu chi ngân sách, đặc biệt là thu chi ngoại tệ. Phải chủ động điều chỉnh dần dần, không tăng với cấp số nhân tỷ giá hối đoái. Trong vài năm vừa qua đồng Việt nam đã được đánh giá cao lên nhiều so với USD do vậy làm tăng nhạap siêu và tích tụ những điều kiện cho cơn sốt ngoại tệ có thể xảy ra trong những năm tới. Theo ông Vũ Quang Việt, một chuyên gia của liên hợp quốc: hối suất thấp như hiện nay sẽ là nguy cơ cho nền kinh tế trong thời gian tới. Bài học của Mê-hi-cô, giữ hối suất thấp trong nhiều năm tạo ra tình hình ổn định giả tạo, cuối cùng lạm phát tăng vọt, đồng tiền giảm giá nghiêm trọng, mất khả năng trả nợ,. .. Việt nam nên rút kinh nghiệm. Trong điều kiện lạm phát còn cao, tỷ giá hối đoái cần được điều chỉnh thường xuyên, duy trì tỷ giá hối đoái thực tế. Hiện nay tỷ giá hối đoái vẫn được điều chỉnh nhưng người ta chưa rõ phương pháp luận điều chỉnh tỷ giá hối đoái, do vậy khó dự kiến về những thay đổi của tỷ giá hối đoái trong tương lai, hạn chế phần nào việc tính toán hiệu quả. Có nhiều nhân tố cần tính tới khi điều chỉnh tỷ giá hối đoái như mức lạm phát, thay đổi trong tương quan cung cầu tiền tệ, mức độ nhập siêu, lựa chọn chiến lược hướng ngoại hay hướng nội, mức độ cần thiết phải điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Với điều kiện cụ thể của Việt nam nhân tố lạm phát là nhân tố chủ yếu cần tính tới trước tiên để điều chỉnh tỷ giá hối đoái tức là duy trì tỷ giá hối đoái thực tế. Duy trì tỷ giá hối đoái thực tế giúp duy trì các cân đối của nền kinh tế, cho phép dự báo những thay đổi về tỷ giá hối đoái làm cho việc sử dụng ngoại tệ được an toàn hơn. Cần điều chỉnh sớm và điều chỉnh thường xuyên để tránh những biến động lớn gây sốc cho nền kinh tế. Việc điều chỉnh sớm cũng dễ dàng hơn cho ngân hàng nhà nước, ngân hàng nhà nước có thể mua bán USD để điều chỉnh tăng tỷ giá hối đoái trong khoảng giao động hẹp. 1.1.7. Khuyến khích và phát triển các nguồn lực tài chính trong nước (phát huy nội lực): * Bảo đảm nguồn trong nước để hấp thụ vốn đầu tư nước ngoài trong đó có Nhật Bản. Kinh nghiệm cho thấy, muốn hấp thụ vốn đầu tư nước ngoài (cả ODA và FDI) có hiệu quả phải có một lượng vốn đầu tư trong nước thích hợp, vì vậy cần đề cao các biện pháp huy động vốn trong nước vừa đáp ứng nhu cầu dài hạn về vốn, vừa từng bước giải quyết những mất cân đối ngắn hạn. * Kết hợp chặt chẽ nguồn ODA và FDI, khai thác triệt để thế mạnh của mỗi hình thức để bổ sung cho nhau, thông qua đầu tư bằng nguồn ODA để mở rộng FDI. Sự phối hợp giữa ODA và FDI có thể thực hiện cụ thể ở hệ thống dự án kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài. Khi soạn thảo hệ thống dự án cần xem xét tính chất, vai trò và khả năng sinh lợi của từng dự án. Những dự án FDI được ưu tiên trên một số địa bàn có vốn ngân sách hoặc vốn ODA đầu tư vào kết cấu hạ tầng, thúc đẩy triển khai mạnh mẽ vốn này theo cơ cấu lãnh thổ hợp lý, nâng cao hiệu quả kinh tế- xã hội của ODA và FDI. * Phát triển thị trường vốn, đa dạng hoá hình thức vay vốn thông qua bán trái phiếu Chính phủ và cổ phần của các công ty ra nước ngoài tạo điều kiện thu hút vốn dưới nhiều hình thức đa dạng. * Đẩy mạnh hoạt động ngoại thương, đặc biệt là xuất khẩu, thực hiện chiến lược hướng ngoại để phát triển kinh tế và tăng tích luỹ cho đất nước. Tăng nguồn thu ngoại tệ bằng chính nguồn hàng hoá dịch vụ xuất khẩu của mình là tăng khẳ năng trả nợ cho đất nước, ổn định tiền tệ, giá cả, cải thiện tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán. ã Phát triển hình thức ODA tín dụng ưu đãi dành cho các doanh nghiệp sản xuất nhằm đầu tư chiều sâu để tăng khả năng cạnh trang của các sản phẩm nội địa trên thị trường thế giới. ã Thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, tăng hàm lượng công nghiệp trong lượng hàng xuất khẩu, giảm mạnh và đi đến chấm dứt xuất khẩu nguyên liệu thô, sơ chế, giá trị thấp, xây dựng các mặt hàng chủ lực của nước ta cho thị trường các nước khác nhau theo hướng tăng cường quan hệ thương mại với các thị trường truyền thống và mở rộng thị trường mới, có tính toán hiệu quả. ã Phải tìm ra thị trường hàng hoá mà chúng ta có lợi thế về nguyên liệu tại chỗ, giá nhân công thấp để tạo lợi thế cho xuất khẩu mà không phải nhờ vào việc duy trì tỷ giá hối đoái thấp. Việc nhập khẩu phải gắn liền với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tiết kiệm ngoại tệ để trả nợ. 1.1.8- Xây dựng cơ chế hoàn trả nợ nước ngoài : Theo tài liệu của ngân hàng thế giới WB sự tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển trong tương lai sẽ bị 3 yếu tố làm tê liệt đó là gánh nặng nơ nước ngoài trầm trọng, những khó khăn trong cán cân thanh toán và tình trạng thiếu vốn đầu tư mới... Theo sự phân loại của quỹ tiền tệ quốc tế IMF Việt Nam nằm trong nước nợ chính thức, tuy không phải là nước nợ nhiều nhưng lại nằm trong số 45 nứơc có nền kinh tế nhỏ và mức thu nhập thấp, nghĩa là khó trả nợ. Xét về nợ tuyệt đối thì nợ của Việt Nam không cao nắm nhưng xét về tỷ xuất dịch vụ nợ thì là nước có mức cao nhất. Năm 1990 Việt Nam nợ 14,5 tỷ USD chiếm tới 60% tổng giá trị xuất khẩu. Xét theo cánh tính được các chuyên gia kinh tế nhất trí thì tỷ xuất dịch vụ nợ từ 20% trở nên là nghiêm trọng, như vậy chúng ta ở mức độ rất nghiêm trọng. Hỗ trợ phát triển chính thức cho Việt Nam gần đây chủ yếu dưới hình thức vốn ưu đãi, trong những năm tới hình thức tín dụng hỗn hợp (tín dụng ưu đãi và tín dụng thương mại) sẽ phổ biến hơn vì vậy ODA thực chất là các khoản nợ phải trả. Cần phải có biện pháp giải quyết nợ nước ngoài nói chung và các khoản tín dụng ODA nói riêng sao cho hợp lý và có hiệu quả- đây cũng là một biện pháp quan trọng để tăng cường khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả ODA. * Giải pháp về cơ chế vay và trả nợ nước ngoài ã Xây dựng quỹ trả nợ: Để đảm bảo thanh toán các khoản vay cho các nước và các tổ chức quốc tế cần phải thành lập quỹ trả nợ. Nguồn để nhập quỹ này chủ yếu lấy từ phần chi ngân sách hàng năm đã được quốc hội phê duyệt để trả nợ nước ngoài và phần đóng góp theo quy định đối với những dự án sử dụng ODA đã bắt đầu thu hồi vốn. Số dư quá định mức của quỹ ” lấy viện trợ nuôi viện trợ” cũng có thể được chuyển vào quỹ này. ã Phải có cơ chế xác định giới hạn tối đa được phép vay nợ nước ngoài. Việc phê chuẩn giới hạn vay, trả nợ nước ngoài hàng năm thuộc thẩm quyền quốc hội, nhưng các cơ quan quản lý kinh tế của chính phủ (cụ thể là Ngân hàng nhà nước và Bộ tài chính) phải đảm bảo và chịu trách nhiệm tổng hợp vay nợ để chuẩn bị cho Quốc hội phê duyệt. ã Thiết lập và sử dụng hệ thống chỉ tiêu thông tin để quản lý và theo dõi. Phải có các thông tin chính xác, cập nhật về các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như tốc độ tăng trưởng GDP, thu chi ngân sách, cán xân thanh toán quốc tế, tín dụng nội địa và một số chỉ tiêu chuyên dùng để đánh giá khả năng hấp thụ nợ, khả năng vay thêm và khả năng hoàn trả nợ... ã Viện trợ không hoàn lại tuy không nhiều nhưng phải được quản lý chặt chẽ. Các khoản viện trợ của nước ngoài cho chính phủ và các cấp chính quyền phải được đưa vào ngân sách nhà nước để cân đối và sử dụng, không hình thành quỹ riêng. Những khoản tài trợ của các tổ chức quốc tế và cá nhân cho các dự án ngoài ngân sách và cho các tổ chức xã hội cũng phải được chuyển vào ngân hàng để quản lý và chỉ được cấp phát bằng tiền Việt nam theo tỷ giá chính thức ở thời điểm sử dụng, không cấp phát bằng ngoài tệ. Chính phủ cần thành lập một tổ chức trực tiếp nhận và quản lý ODA cũng như các khoản nợ nước ngoaì khác do thứ trưởng hoặc bộ trưởng bộ tài chính đứng đầu. Cơ quan này không những nắm vững các khoản ODA, các khoản nợ của chính phủ, của các cấp chính quyền mà còn phải hiểu được các khoản nợ của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Đó là yêu cầu quản lý vĩ mô của nhà nước trong điều kiện nền kinh tế mở bởi vì chỉ xét riêng trong cán cân vay lãi, cán cân thanh toán quốc tế thì không phải chỉ có nợ của chính phủ mới nằm trong đó mà nợ của các doanh nghiệp tư nhân của cả nước cũng phải đưa vào và khi trả nợ dù là ai trả cũng phải lấy một phần từ GDP. 1.2. đối với UBND Thành phố Hà Nội Ngoài việc áp dụng những kiến nghị nêu tại phần trên trong khuôn khổ chung của Chính phủ và quốc gia, căn cứ vào các điều kiện và tình hình thực tế của Thành phố Hà Nội, UBND Thành phố Hà Nội cần có các biện pháp : 1.2.1 hình thành chiến lược thu hút và sử dụng ODA - Thông qua nghiên cứu quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của thành phố để xây dựng một chiến lược có mục tiêu đón ODA. Lập danh mục dự án cần đầu tư bằng ODA và thứ tự ưu tiên của các dự án này. Xây dựng kế hoạch và các biện pháp cụ thể kể cả việc chuẩn bị vốn đối ứng thực hiện dự án. - Cần phải có kế hoạch dài hạn cụ thể hơn nhằm thu hút triệt để các nguồn tài trợ của Nhật Bản đặc biệt chú ý khai thác các nguồn vốn mới như MITI, Myiazawa với lượng vốn cam kết lên đến hàng tỷ Yên. Theo thông báo của Chính phủ Nhật Bản, quỹ hợp tác Kinh tế Hải ngoại của Nhật Bản (OECF) sẽ sáp nhập với ngân hàng EXIMBANK Nhật Bản để trở thành Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản vào tháng 10/1999. Ngân hàng này sẽ là một công cụ mới để Nhật Bản thực hiện khoản ODA trị giá 30 tỷ USD do Bộ trưởng Bộ tài chính Nhật Bản - Ông Kiichi Myiazawa đề xuất vào tháng 12/1998. Ngoài ra Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản sẽ tiếp quản vai trò của OECF trong việc giải ngân nguồn vốn ODA của Chính phủ Nhật Bản và nhiệm vụ của Ngân hàng xuất nhập khẩu Nhật Bản về thương mại và đầu tư tài chính cho vay bảo lãnh. Có thể dễ dàng nhận thấy rằng tiềm lực tài chính của tổ chức này sẽ mạnh lên rất nhiều và đây cũng là cơ hội cho Thành phố Hà Nội tranh thủ thêm nguồn vốn ODA tù tổ chức này. - Thành phố cần phải hình thành một danh mục các dự án kêu gọi ODA (kèm theo với các nghiên cứu cụ thể) trong đó nêu rõ những lĩnh vực cần đầu tư, những ưu tiên, mức độ đóng góp của phía Việt Nam, lượng vốn ODA yêu cầu,. .. để các nhà tài trợ có điều kiện tham khảo cũng như tin utưởng rằng dự án đã được Thành phố dành cho những quan tâm và ưu đãi. Hiện tại cần tập trung ODA cho các lĩnh vực ưu tiên như : Giao thông đô thị (hạ tâng giao thông đô thị, giao thông công cộng), nhà ở (nhà và hạ tầng khu tái định cư), môi trường, htoát nước. - Thành phố dành một phần kinh phí thích đáng cho việc nghiên cứu quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, nghiên cứu khả thi chuẩn bị cho các dự án đầu tư có quy mô lớn đòi hỏi có sự tham gia của nhiều ngành và cho việc xúc tiến kêu gọi viện trợ cho thành phố. 1.2.2. Tập trung quản lý điều phối và lập kế hoạch ODA 1.2.2.1- Tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về ODA tại Hà Nội : - Tập trung quản lý ODA vào một đầu mối để đảm bảo nguyên tắc “một cửa”. Trên cơ sở các quy định của Nhà nước và những đặc điểm thực tế của thành phố để xây dựng một cơ chế quản lý phù hợp. Phân định rõ ràng và cụ thể chức năng của từng cơ quan quản lý. - Ngoài ra cơ chế quản lý trên phải xây dựng trên tinh thần tạo điều kiện cho việc thực hiện thuận lợi các dự án ODA, tránh những hó khăn vưỡng mắc có thể làm chậm quá trình thực hiện dự án. Các qui định hành chính cần phải được đơn giản hoá và hệ thống hoá một cách rõ ràng, đặc biệt là các qui định về di dân, giải phóng mặt bằng, thẩm định xây dựng, đấu thầu,... - Thiết lập một hệ thống thông tin có hiệu quả từ cơ quan quản lý cấp trung ương đến cơ quan chủ quản ở địa phương và chủ dự án. Cơ quan chủ quản của thành phố Hà nội phải thường xuyên liên hệ với Bộ kế hoạch và đầu tư và các cơ quan tổng hợp khác (Bộ ngoại giao, Bộ tài chính...) để nắm vững thông tin về các nguồn ODA có thể có. Khi đã nắm được các thông tin đó, cơ quan chủ quản của thành phố cần thông báo, hướng dẫn các chủ dự án lập dự án hoặc điều chỉnh dự án cho phù hợp với loại vốn và nước cấp ODA. Các chủ dự án cần liên hệ chặt chẽ với cơ quan chủ quản để thông báo kịp thời tiến trình của dự án, những khó khăn tồn tại trong quá trình thực hiện dự án để cùng giải quyết hay kiến nghị lên trên, tránh tình trạng hiện nay là: chỉ khi nào vướng mắc không thực hiên được mới báo cáo thành phố. 1.2.2.2.Tập trung hơn nữa sở hữu nhà nước đối với các dự án ODA - UBNN thành phố nên giao cho UB kế hoạch thành phố chủ trì phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở tài chính- vật giá. Cục đầu tư phát triển Hà nội và các Sở chuyên ngành lập kế hoạch định kỳ hàng năm và đột xuất để bố trí ngân sách cho các dự án ODA của Nhật Bản được thực hiện đúng tiến độ. - Tính hiệu quả về kinh tế và tài chính cần phải được xenm xét, cân nhắc và tính toán cẩn thận trong giai đoạn hình thành dự án. CHủ dự án và tư vấn trong giai đoạn này cần phỉa nâng cao hơn nữa trách nhiệm và năng lực đánh giá, phân tích hiệu quả kinh tế của dự án để có thẻ lập được một dự án có chất lượng và tính khả thi cao, tránh tình trạng phỉa sử đổi, điều chính lại dự án sau này. Công tác thẩm định dự án của sở Kế hoạch và Đầu tư cầng phải được chú trọng hơn nữa để đảm bảo giúp chủ đầu tư thấy rõ những htiếu sót, đảm bảo cho thành công sau nàycủa dự án. Công việc thẩm định phải đưựoc tiến hành một cách khoa học, chọn lọc, tránh sa vào tính hình thức. - Hiện nay tỉ lệ viện trợ không hoàn lại ngày càng ít, ngược lại các dự án vay tín dụng ngày càng nhiều (đặc biệt các dự án vay tín dụng OECFnb), do vậy các cơ quan quản lý cấp Thành phố, các chủ dự án cần phải có chung một nhận thức về trách nhiệm đối với dự án. Tư tưởng cho rằng mốn nợ sẽ do nhà nước trản, các hình thức tahm những, thiếu trách nhiệm trong công việc cần phải được loại bỏ. - Sử dụng ODA của Nhật Bản thường phải nhập thiết bị kỹ thuật, vật tư của nước đó, vì vậy trong giai đoạn lập dự án nên để các hãng hay công ty của Nhật tham gia ngay từ đầu. Sự tham gia của các hãng này làm cho dự án phù hợp với quy chế sử dụng ODA Nhật và thúc đẩy Chính phủ Nhật quyết định tài trợ. Tuy nhiên, trong quá trình đàm phán cần thận trọng để không bị hớ, cần nghiên cứu kĩ lưỡng chất lượng hàng và giá quốc tế để tránh bị các công ty Nhật Bản đưa giá cao hơn thị trường quốc tế dẫn đến làm giảm hiệu quả kinh tế của dự án. Chủ dự án nên phối hợp với các cơ quan hữu quan để nắm được các thông tin trước khi đàm phán. Đặc biệt cần tham khảo giá thiết bị, khi cần có thể gợi ý công ty cung cấp thiết bị ở nơi ta giới thiệu. - Sau khi dự án đã được phê duyệt, thành phố cần hỗ trợ các điều kiện để đảm bảo thực hiện các cam kết đối với đối tác tài trợ (JICA, OECF) như đã ghi trong dự án. Đối với các dự án lớn cần kiểm điểm thường xuyên trong các cuộc giao ban của UBNN thành phố. - Hiện nay với các khoản vay ưu đãi của OECF, mức độ rút vốn của ta còn quá thấp, nhiều dự án được phê duyệt nhưng vấn chưa được triển khai. Vì vậy, thời gian tới Thành phố phải đẩy nhanh tiến độ rút vốn để tranh thủ những năm đầu ân hạn không phải hoàn trả gốc. 1.2.2.3. Đảm bảo có sự tham gia thích hợp của các bên Việt Nam : - Cần phải tăng cường hơn nữa sự phối hợp giữa hệ thống tiép nhận quản lý ODA của UBND Thành phố Hà Nội và hệ thống quản lý điều phối của Chính phủ. Sự phối hợp này phải chặt chẽ, bổ sung cho nhau, có trao đổi thông tin. Sở KHĐT phải đảm bảo là cầu nối giữa UBND Thành phố với các cơ quan TW như Bộ KH & ĐT, Văn phòng Chính phủ, Bộ tài chính, Bộ Ngoại giao,... - UBND Thành phố thông qua Sơ KH&ĐT phải tăng cường công tác chỉ đạo, quản lý đièu hành và giám sát một cáhc thích hợp đối với các cơ quantham gia vào một dự án ODA. Sự hướng dẫn chỉ đạo thích hợp, can thiệp đúng mức của UBND Thành phố cũng như sự chấp hành nghiêm chỉnh, báo cáo chính xác, kịp thời của các chủ dự án, các cấp chính quyền đại phương là điều kiện đảm bảo cho thành công trong việc thực hiện dự án. - Sự tham gia và ủng hộ của cộng đồng là hết sức quan trọng để triển khai thuận lợi dự án và đảm bảo tính hiệu quả sau này. Việc công bố rộng rãi cac chính sách của nhà nước và của Thành phố, tuyên truyền phổ biến kết hợp giáo dục nhận thức cho người dân, bàn bạc trao đổi để đi đến thống nhất,. ..sẽ giúp loại bỏ những trở ngại trong các bước đền bù giả phóng mặt bằng cũng như trong giai đoạ vận hành dự án. - Sự tham gia của tư nhân và một dự án là một điều cần phải lưu ý. Trong khi nhà nước, Thành phố có những điểm mạnh về thể chế, chính sách và tiềm lực ngân sách, thì các công ty tư nhân lại có những tiềm năng về kiến hạ tầngức, khả năng thích ứng một cáhc linh hoạt. Sự tham gia này của tư nhân cần được nhìn nhận dưới một góc độ tích cực hơn và Thành phố Hà Nội phải có tiêng nói ủng hộ cũng như khuyến khích khu vực tư nhân này tham dụ vào quá trình thực hiện dự án ODA. Sự tham gia của tư nhân vào việc tư vấn, xây dựng kinh doanh,... chắc chắn sẽ tạo động lực mới để thực hiện nhanh chóng, có chất lượng và thành công cho dự án ODA. Điều này càng có nghĩa quan trọng khi OECF Nhật Bản đang triển khai hình thức tài trợ mới cho Thành phố Hà Nội (mà tập trung vào đầu tư chủ yếu cho khu vực tư nhân) là Tài chính đầu tư khu vực tư nhân - PSIF (Private Sector Investment Finance). 1.2.3-Xây dựng và tăng cường năng lực quản lý, điều phối và thực hiện các dự án ODA của Thành phố Hà Nội : - Nghiên cứu một số hệ thống tổ chức về kinh tế đối ngoại có chân rết ở các sở, ban, ngành có nhiều dự án như: Sở giao thông công chính, Sở giáo dục đào tạo, Sở y tế, Sở lao động thương binh và xã hội, Sở khoa học công nghệ và môi trường... trong đó có chức danh quản lý chuyên trách các dự án ODA Nhật Bản. - Các cấp ở cơ sở cần có cán bộ theo dõi kiểm nghiệm. Các chân rết phải chịu sự chỉ đạo chuyên môn từ các cơ quan phụ trách xuống (hiện nay là Sở Kế hoạch và đầu tư). - Xây dựng lực lượng cán bộ chuyên viên làm công tác quản lý ODA mạnh về chuyên môn. Tổ chức lớp tập huấn bồi dưỡng về nghiệp vụ, nâng cao trình độ cho đội ngũ làm công tác viện trợ cho thành phố. Thành phố cần biên chế thêm cán bộ cho đơn vị này vì hiện nay lực lượng này qua mỏng không đảm nhiệm hết chức năng của mình.Thành phố Hà Nội cần phải hình thành một chiến lược quản lý rủi ro cho các dự án ODA của Thành phố trong khuôn khổ chung với chiến lược quản lí rủi ro của Chính phủ. Ngoài việc chú trọng tới rủi ro về lãi suất và tỷ giá hối đoái (đặc biệt là đối với các dự án vay tín dụng bằng đồng Yên của Nhật Bản, cũng cần tính tới các rủi ro sau : + Rủi ro về xây dựng (Dự án không được xây dựng và hoàn thành đúng tiến độ để có thể đi và vận hành và có nguồn thu để hoàn trả vốn vay). + Rủi ro hàng hoá (nhu cầu sử dụng sản phẩm của dự án không đủ để phát sinh nguồn thu thành toán vốn vay). Điều này có ý nghĩa khi phần lớn các dự án vay ODA (đặc biệt ODA của Nhật Bản) đang tập trung cho các dự án về hạ tầng cơ sở như giao thông, thoát nước, môi trường, là những dự án mà khả năng sinh lời rất nhỏ. + Rủi ro chính trị (là trường hợp có sự can thiệp của nhà nước vào dự án hoặc có những biến cố về nguồn tài chính cho dự án từ nước cung cấp ODA khiến cho dự án không thể tiếp tục triển khai). 2-Đối với mối quan hệ giưa các cơ quan Chính phủ Việt Nam và phía các nhà tài trợ. 2.1 ở tầm Chính phủ : - Cần phải cải thiện, tăng cường và phát triển hơn nữa các mối quan hệ giữa các cơ quan Chính phủ Việt Nam và các cơ quan tài trợ nước ngoài. Chính sách ngoại giao của Chính phủ cần phải khéo léo, linh hoạt và thực sự thuyết phục được cộng đồng quốc tế, thể hiện thiện chí và quyết tâm đổi mới, cải cáhc kinh tế, khuyến khích đầu tư tư nhân của Chính phủ Việt Nam. - Các nhà tài trợ cũng cần phải tìm hiểu và có tiếng nói chung với chính phủ trong giải quyết các bất đồng và vướng mắc. Các qui định, điều kiện của các nhà tài trợ cần phải xuất phát từ điều kiện thực tế của Việt Nam và phải được vận dụng một cách linh hoạt trong thực tế. 2.2. ở tầm Thành phố Hà Nội : - UBND Thành phố Hà Nội cần phải phát triển hơn nữa mối quan hệ hiện có với các cơ quan đại diện tài trợ cho Thành phố. Cần có sự tiếp xúc, gặp gỡ định kì, trao đổi thông tin, bàn bạc tháo gỡ khó khăn trên cơ sở hợp tác cùng có lợi. Đặc biệt công tác đối ngoại cần phải được tăng cường để phục vụ hiệu quả cho mục đích trên. Đối với các cơ quan tài trợ Nhật Bản, 3 cơ quan quan trọng nhất hiện nay là Đại Sứ quán Nhật Bản, Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), quĩ Hợp tác Kinh tế Hải ngoại (OECF). - Giữa các cơ quan quản lý Thành phố, các chủ dự án và các công ty tư vấn giám sát xây dựng, các nhà thầu xây lắp, cung cấp thiết bị của nước ngoài cần phải có sự hợp tác chặt chẽ trong quá trình thực hiện xây dựng dự án ODA để tránh những bất đồng và những bất lợi cho các bên. Kết luận Mặc dù việc sử dụng nguồn hỗ trợ chính thức ODA có thể đưa đến nhiều nguy cơ, lợi ích mà ODA đem lại cho nước cung cấp ODA có thể nhiều hơn nước nhận,... Song trong giai đoạn phát triển hiện naycủa Việt nam cũng như của Thành phố Hà Nội, ODA thực sự là một nguồn vốn quan trọng mà chúng ta cần khai thác để đáp ứng những nhu cầu cần thiết, phục vụ cho sự phát triển lâu dài. Nhật Bản trong những năm qua và trong nhiều năm tiếp theo chắc chắn vẫn là một trong những đối tác cung cấp ODA nhiều nhất cho Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng. Kinh nghiệm cho thấy, trong số những đối tác cung cấp ODA cho Hà Nội thì Nhật bản là nước có các điều kiện ràng buộc thoáng hơn cả đồng thời lượng viện trợ không hoàn lại trong ODA của Nhật chiếm tỷ lệ cao nhất. Như vậy trong tương lai việc khai thác và sử dụng nguồn vốn ODA của Nhật Bản vẫn còn nhiều việc đán bàn và đáng làm nhằm mang lại hiệu quả kinh tế đích thực từ các dự án sử dụng nguồn vốn này, giúp thủ đô Hà Nội ngày càng phồn thịnh, xứng đáng là niềm tự hào của nứơc. Trong thời gian thực tập tại Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, được sự đồng ý của thầy giáo hướng dẫn và sự hướng dẫn tận tình của các thầy cô giáo, các cán bộ ở Sở, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng ODA của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội. Do chưa có điều kiện đi sâu sát từng dự án cụ thể nên không tránh khỏi những sai sót, tác giả mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy giáo, cô giáo và người đọc để có thể nâng đề tài này lên cao hơn. Mục lục Trang Lời mở đầu Chương I : Khái quát về ODA của Nhật Bản. 1 I. Khái niệm và cấu thành ODA nói chung và ODA Nhật Bản nói riêng 1 1. Nguồn gốc lịch sử và các đối tác cung cấp ODA trên thế giới 1 1.1. Nguồn gốc của ODA 1 1.2. Các đối tác cung cấp ODA trên thế giới 3 1.2.1. Các tổ chức viện trợ đa phương 3 1.2.2. Các nước viện trợ song phương 6 2. Khái niệm ODA của Nhật Bản 7 2.1. ODA của Nhật Bản là gì? 7 2.2. Cơ cấu ODA của Nhật Bản 8 3. Các cơ quan, quỹ viện trợ của Nhật Bản 9 3.1.Cơ quan hợp tác quốc tế của Nhật Bản (JICA) 9 3.2. Quỹ hợp tác kinh tế Hải ngoại (OECF) 10 3.3. Quỹ đầu tư hỗ trợ cho khu vực tư nhân(OECF- PSIF) 11 3.4.Quỹ tín dụng MIYAZAWA 11 3.5. Mối quan hệ giữa JICA và OECF 13 4. Các hình thức viện trợ song phương của Nhật Bản 14 4.1. Viện trợ không hoàn lại 14 4.2. Hợp tác kĩ thuật 16 4.3. Viện trợ dưới hình thức cho vay (cho vay ODA) 19 II. Các thủ tục cần thiết để cấp viện trợ ODA của Nhật Bản cho một đề án 22 1. Mục tiêu viện trợ của Nhật Bản 22 2. Đặc điểm viện trợ của Nhật bản 24 3 Các thủ tục và điều kiện cho vay của Nhật Bản 30 Chương II: Thực trạng việc thu hút và sử dụng ODA cuả Nhật Bản ở Hà Nội trong thời gian qua 33 I. Tình hình kinh tế xã hội của thành phố Hà Nội trong thời gian gần đây 33 1. Tình hình kinh tế xã hội 33 2. Hiện trạng cơ sở hạ tầng của Hà Nội 37 II. Tình hình thu hút và sử dụng ODA ở Hà Nội 40 1. Tổng kết lượng vốn vào Hà Nội 40 2. Các dự án ODA ở Hà Nội 41 A. Các dự án về hạ tầng cơ sở 42 A.1. Các dự án cấp nước 42 A.2. Các dự án thoát nước 43 A.3. Các dự án giao thông đô thị 44 A.4. Các dự án khu đô thị 45 A.5. Các dự án môi trường đô thị 45 B. Các dự án về cơ sở hạ tầng xã hội 46 B.1.Các dự án nâng cao năng lực quản lý của các cơ quan quản lý và môi trường 46 B.2. Các dự án trong lĩnh vực giáo dục đào tạo 47 III. Đánh giá thực trạng việc thu hút và sử dụng ODA của Nhật Bản tại Hà Nội 48 1. Quá trình triển khai các dự án ODA của Nhật Bản tại Hà Nội 48 1.1.Dự án cấp nước Gia Lâm 48 1.2. Dự án Quy hoạch tổng thể thoát nước và xử lí nước thải Thành phố Hà Nội 51 1.3.Dự án thoát nước Hà Nội giai đoạn I 52 1.4.Dự án Phát triển hạ tầng đô thị Bắc Thăng Long 53 1.5. Dự án Phát triển cơ sở hạ tầng đô thị Nam Thăng Long 54 1.6.Dự án Quy hoạch tổng thể và nghiên cứu khả thi về bảo vệ môi trườngđô thị và công nghiệp Hà Nội 54 1.7. Dự án Hình thành hạng mực các dự án phát triển hạ tầng đô thị Hà Nội (SAPROF) 55 1.8.Dự án Nghiên cứu khả thi xử lí rác thải và than thành năng lượng điện. 55 1.9.Dự án Quy hoạch giao thông đô thị Hà Nội 55 1.10.Dự án Quy hoach tổng thể công nghiệp Hà Nội 55 2. Công tác quản lí và sử dụng nguồn vốn ODA của Hà Nội 56 3. Đánh giá chung 58 3.1. Những thành tựu đạt được 58 3.1.1. Về quy mô 58 3.1.2. ý nghĩa về mặt kinh tế 59 3.1.3. ý nghĩa về mặt xã hội 59 3.1.4.Về kiến quy hoạch và cảnh quan môi trường 59 3.2. Những hạn chế cần giải quyết 60 3.2.1. Về hình thành và lựa chọn dự án 60 3.2.2. Về công tác chuẩn bị dự án 61 3.2.3. Về côngtác thẩm định dự án 61 3.2.4. Về thực hiện dự án 62 3.2.5. Về kiểm, tra đánh giá dự án 62 Chương III: Các giải pháp nhằm đẩy mạnh việc thu hút và sử dụngnguồn vốn ODA của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội trong thời gian tới 64 I. Định hướng chung về phát triển kinh tế xã hội của Hà Nội 64 1. Vị trí chiến lược của Hà Nội trong phát triển kinh tế Việt Nam 64 2. Định hướng phát triển kinh tế-xã hội của Hà Nội (đến năm 2020) 65 II. Những yêu cầu và khả năng thu hút ODA của Hà Nội 70 1. Yêu cầu thu hút ODA của Hà Nội 70 2 Khả năng huy động nguồn vốn ODA nói chung và của Nhật Bản nói riêng 72 2.1. ODA đa phương 72 2.2. ODA song phương 73 III. Một số biện pháp nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng ODA trên địa bàn Hà Nội 73 1. Đối với các cơ quan của Chính phủ 74 1.1. Kiến nghị với cơ quan Trung ương 74 1.2. Đối với UBND Thành phố Hà Nội 84 2. Đối với mối quan hệ với các nhà tài trợ 89 2.1. ở tầm Chính phủ 89 2.2. ở tầm Thành phố Hà Nội 89 Kết luận 90 Phụ lục Tài liệu tham khảo ODA của các nước thuộc Uỷ ban Viện trợ phát triển (DAC) năm 1996 TT Tên nước Giátrị ODA (Triệu USD) Tỷ lệ đến với DAC Tỷ lệ so với năm trước Tỷ lệ ODA/GDP(%) Xếp Hạng 1 Nhật Bản 13239 22,9 17,6 0,29 14 2 Mỹ 9851 17,1 -2,9 0,15 21 3 Pháp 8447 14,6 6,7 0,64 5 4 Đức 6751 11,7 -2,9 0,33 10 5 Anh 3085 5,3 5,7 0,30 12 6 Hà Lan 2531 4,4 0,2 0,76 4 7 Canada 2230 3,9 -6,0 0,42 6 8 ý 1967 3,4 -35,4 0,20 20 9 Thuỵ Điển 1703 2,9 -3,7 0,90 3 10 Đan Mạch 1450 2,5 8,2 1,03 2 11 TâyBan Nha 1247 2,2 2,8 0,26 17 12 Na uy 1137 2,0 12,1 1,05 1 13 úc 1087 1,9 14,1 0,38 8 14 Thuỵ Sỹ 978 1,7 23,3 0,36 9 15 Bỉ 677 1,2 -16,2 0,30 12 16 áo 561 1,0 3,1 0,29 14 16 Phần Lan 289 0,5 -18,6 0,31 11 17 Bồ Đào Nha 250 0,4 0,8 0,28 16 18 Niu-Di- Lân 111 0,2 13,3 0,24 18 19 Ai- Xơ- Len 105 0,2 29,6 0,24 18 20 Luých-xăm-bua 59 0,1 18,8 0,40 7 Tổng cộng ODA các nứơc DAC 57754 100 2,4 0,29 Nguồn : Bộ Ngoại giao Nhật Bản ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0058.doc
Tài liệu liên quan