Vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội trong giai đoạn hiện nay

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là nước nông nghiệp, có gần 80% dân số sống ở nông thôn và 70% lao động làm nông nghiệp, do đó nông nghiệp là ngành kinh tế giữ vị trí trọng yếu trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đảng và Nhà nước ta chủ trương mở mang công nghiệp, dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn. Trong bối cảnh đó, việc huy động có hiệu quả các nguồn vốn để cung ứng đủ vốn cho nông nghiệp, nông thôn là vấn đề trọng tâm và

doc110 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1135 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có ý nghĩa quyết định. Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật của cả nước. Trong những năm đổi mới, nông nghiệp ngoại thành Hà Nội có sự chuyển biến mạnh mẽ; phát triển đa dạng, phong phú và đạt trình độ thâm canh cao hơn các vùng, miền khác trong cả nước. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa hiện đại, nông nghiệp ngoại thành Hà Nội vẫn còn những yếu kém. Sự phát triển nông nghiệp ở vùng này còn gặp nhiều hạn chế, trở ngại, trong đó có vấn đề: thiếu vốn và chưa huy động được tối đa các nguồn vốn vào phát triển nông nghiệp. Vấn đề huy động vốn trên địa bàn ngoại thành có những lợi thế, đặc điểm và yêu cầu riêng. Các giải pháp nào đẩy mạnh việc huy động có hiệu quả các nguồn vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội? Do đó chọn đề tài luận văn này vẫn là cần thiết, góp phần nhỏ vào việc giải đáp các câu hỏi trên đây. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Phạm trù tư bản, tích tụ và tập trung tư bản; vai trò của nó trong quá trình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đề cập trong nhiều tác phẩm. Hiện nay, trên các ấn phẩm, các nhà kinh tế học hiện đại cũng tiếp tục nghiên cứu vấn đề này. ở nước ta, dưới ánh sáng đường lối đổi mới kinh tế của Đảng, vấn đề vốn phục vụ phát triển nền kinh tế quốc dân nói chung, vốn cho phát triển công nghiệp, vốn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Đáng chú ý là các tác phẩm sau đây: 1. Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn các nước châu á và Việt Nam - GS Nguyễn Điền (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997; 2. Tích tụ và tập trung vốn trong nước để phát triển công nghiệp nước ta hiện nay - Trần Xuân Kiên, Luận án Tiến sĩ khoa học kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1998; 3. Đầu tư trong nông nghiệp, thực trạng và triển vọng - TS Nguyễn Sinh Cúc và TS Nguyễn Văn Tiêm (chủ biên), Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; 4. Khuyến khích đầu tư trong nước - GS,TS Chu Văn Cấp, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 1/1995; 5. Những giải pháp chủ yếu nhằm huy động vốn trong nước phục vụ phát triển kinh tế Việt Nam - Nguyễn Văn Lai, Luận án TS Khoa học kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội ,1996; 6. Một số giải pháp đầu tư vốn phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam hiện nay, TS Cao Sỹ Kiêm, Tạp chí Ngân hàng, số 13/1998; 7. Vốn đầu tư và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn - GS,TS Thứ trưởng Bộ Tài chính Tào Hữu Phùng, Tạp chí Cộng sản, số 1/1999. ... Tháng 7/1998, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam tổ chức cuộc Hội thảo quốc gia: "Nghị quyết Trung ương 4 và vấn đề tín dụng nông nghiệp, nông thôn". Hầu hết các công trình nêu trên đã đề cập một cách toàn diện, khái quát hoặc đi sâu phân tích từng mặt của quá trình đầu tư vốn nói chung, đầu tư vốn phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu vào vấn đề huy động vốn trên địa bàn các huyện ngoại thành, nơi mà điều kiện, đặc điểm và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội chứa đựng những đặc trưng kinh tế riêng đang đòi hỏi phải được nghiên cứu. Vì vậy, luận văn: "Vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội trong giai đoạn hiện nay" là đề tài cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng huy động vốn trong nông nghiệp ngoại thành Hà Nội, đề xuất những phương hướng, giải pháp khả thi nhằm huy động có hiệu quả các nguồn vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây: - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về vốn, đặc điểm, vai trò vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp nói chung và nông nghiệp ngoại thành Hà Nội nói riêng. - Phân tích, đánh giá thực trạng huy động vốn phục vụ phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội. - Luận chứng phương hướng, giải pháp huy động có hiệu quả các nguồn vốn phục vụ phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Nội dung nghiên cứu của luận văn liên quan chủ yếu đến lĩnh vực huy động vốn trong nước (vốn bằng tiền) để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội. Đề tài thuộc chuyên ngành Kinh tế chính trị nên chỉ tập trung vào những phương hướng, quan điểm và giải pháp có tính chất định hướng. Những tài liệu, số liệu được phân tích ở thời kỳ đổi mới kinh tế, chủ yếu là trong 5 năm trở lại đây. 5. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu luận văn - Thực hiện đề tài luận văn, tác giả dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng trong các văn kiện Đại hội VI, VII, VIII và các Hội nghị Trung ương. Đồng thời, tham khảo một số lý thuyết kinh tế hiện đại, đặc biệt là lý thuyết tăng trưởng và phát triển kinh tế. - Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, chủ yếu là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin; coi trọng phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, kết hợp chặt chẽ với phương pháp điều tra khảo sát thực tiễn nhằm khái quát, chọn lọc tri thức khoa học và kinh nghiệm thực tiễn để đưa vào luận văn. 6. Những điểm mới của luận văn - Trình bày một cách hệ thống lý luận về vốn và vai trò của vốn đối với quá trình phát triển nông nghiệp. - Đánh giá thực trạng huy động vốn phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội. - Đưa ra những giải pháp có tính chất định hướng, góp phần huy động có hiệu quả các nguồn vốn, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết, 12 biểu và 8 phụ lục. Chương 1 Vốn đối với quá trình phát triển nông nghiệp 1.1. Vốn và vai trò của nó đối với phát triển nông nghiệp 1.1.1. Khái niệm về vốn Vốn là nguồn lực quan trọng nhất đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Việt Nam là nước đang phát triển, nhu cầu về vốn là rất lớn. Tuy nhiên, do tích lũy từ nội bộ nền kinh tế còn quá thấp, khả năng "hút" vốn từ nước ngoài còn hạn hẹp nên lượng vốn đầu tư cho phát triển nền kinh tế còn rất thiếu. Vì vậy, nhận thức và vận dụng đúng đắn phạm trù vốn sẽ là tiền đề thúc đẩy việc khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng về vốn để đầu tư phát triển nền kinh tế nói chung, kinh tế nông nghiệp nói riêng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cho đến nay đã có nhiều khái niệm về vốn dưới các giác độ khác nhau: Theo nghĩa rộng, vốn gồm toàn bộ các nguồn lực kinh tế được đưa vào chu chuyển, như: tiền, lao động, vật tư, tài nguyên, máy móc, thiết bị, ruộng đất; giá trị của những tài sản vô hình, như: vị trí đất đai, công nghệ, quyền phát minh, sáng chế. Trong các nền kinh tế phát triển thì tài sản vô hình ngày càng có vai trò quan trọng trong cơ cấu vốn. Theo nghĩa hẹp, vốn là một trong ba yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất (lao động, đất đai, vốn). Đối với các nhà kinh tế, vốn là yếu tố thứ ba của sản xuất (các yếu tố khác là lao động và đất đai) được kết hợp lại để sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Các nhà kinh tế học thuộc các trường phái kinh tế trước C.Mác đã nghiên cứu vốn thông qua phạm trù tư bản và đi đến kết luận: vốn là phạm trù kinh tế. Ngày nay, do yêu cầu của sự phát triển, vốn không những là yếu tố quan trọng đối với quá trình sản xuất của các nước có nền kinh tế phát triển mà còn là yếu tố khan hiếm đối với hầu hết các quốc gia đang và kém phát triển trên thế giới. Vì vậy, phạm trù vốn luôn được các nhà kinh tế hiện đại quan tâm nghiên cứu và tiếp cận nó trên những bình diện khác nhau. Đó là: - "Vốn là tiền của bỏ ra lúc đầu, dùng trong sản xuất, kinh doanh nhằm sinh lợi" [62, 1126]. - "Vốn là một loại nhân tố "đầu vào" đồng thời bản thân nó lại là kết quả "đầu ra" của hoạt động kinh tế" [12, 138]. - Dưới dạng tiền tệ, vốn được định nghĩa là khoản tích lũy, tức là một phần thu nhập chưa được tiêu dùng. Dưới dạng vật chất, vốn bao gồm các loại máy móc, thiết bị, nhà xưởng, các công trình hạ tầng, các loại nguyên liệu, nhiên liệu, các sản phẩm trung gian, các thành phẩm... Ngoài ra, còn có các loại vốn vô hình (bằng phát minh sáng chế, vị trí kinh doanh v.v...), không tồn tại dưới dạng vật chất nhưng có giá trị kinh tế và cũng là những yếu tố vốn cần thiết cho quá trình phát triển. Trong quá trình hoạt động của nền kinh tế, vốn luôn luôn vận động và chuyển hóa về hình thái vật chất cũng như từ hình thái vật chất sang hình thái tiền tệ. Tổng số vốn đã tích lũy được còn được gọi là tài sản quốc gia. Tài sản quốc gia được tích lũy, có thể chia thành hai nhóm: vốn sản xuất (tài sản vật chất) và vốn phi vật chất (tài sản phi vật chất). Như vậy, vốn sản xuất vật chất là một phần của tài sản quốc gia như là kết quả của quá trình tích lũy và được trực tiếp sử dụng trong quá trình sản xuất hiện tại. Tài nguyên thiên nhiên, như: đất đai, hầm mỏ... không được tạo ra từ các hoạt động đầu tư. Các khoản đầu tư dưới dạng thiết bị, máy móc, nhà xưởng, vật kiến trúc hay một số vật liệu khác cần cho quá trình khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên thì được xếp vào vốn sản xuất. Ngoài ra, bộ phận tài sản quốc gia phi sản xuất là các công sản quốc gia cũng hết sức quan trọng. Các tài sản vật chất trong quá trình sử dụng hao mòn theo thời gian và do nhu cầu sử dụng các tài sản vật chất ngày càng tăng cho nên phải tiến hành thường xuyên việc bù đắp hao mòn và tăng thêm khối lượng các tài sản vật chất mới và tăng thêm hàng hóa tồn kho [12, 138-139]. - "Vốn là những tài sản có khả năng tạo ra thu nhập và bản thân nó cũng được cái khác tạo ra. Vốn là một trong bốn yếu tố sản xuất, và bao gồm máy móc, nhà máy và nhà cửa là cái làm cho sản xuất trở thành hiện thực nhưng trừ nguyên liệu thô và có thể được coi như là giữ giá trị được tích trữ của những cái này" [7, 56]. Từ những cách tiếp cận trên về vốn, có thể rút ra một số nhận xét sau: Thứ nhất, vốn là một trong những nhân tố không thể thiếu trong quá trình sản xuất ra sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Nó góp phần tạo ra thu nhập, đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển kinh tế. Thứ hai, vốn không chỉ là lượng tiền mặt nhất định trực tiếp đầu tư sinh lợi nhuận mà còn là đại diện về mặt giá trị cho những tài sản hữu hình và vô hình tham gia vào các quá trình sản xuất - kinh doanh. Thứ ba, vốn được biểu hiện bằng tiền. Song, không phải tất cả tiền đều là vốn. Tiền là hình thái biểu hiện của vốn. Trường hợp tiền để tiêu dùng hàng ngày, tiền để cất trữ không được coi là vốn. Đó là các khoản để chi tiêu và tiền tiết kiệm để giành, là các khoản tiền không sinh lời, không thể tạo ra sự phát triển kinh tế. Chỉ có những đồng tiền được đảm bảo bằng tài sản thật, đưa vào đầu tư kinh doanh với mục đích sinh lời mới là vốn. Trong nền kinh tế thị trường, cách vận động và phương thức vận động của tiền do phương thức đầu tư kinh doanh quyết định. Trên thực tế, sự vận động của vốn có ba hình thức: ... SX... H’ - T’: là hình thức vận động của vốn đầu tư trong các doanh nghiệp sản xuất. Đây cũng chính là mô hình tái sản xuất nói chung. + T - H TLSX SLĐ + T - H - T’: là hình thức vận động của vốn đầu tư trong các doanh nghiệp thương mại - dịch vụ. + T - T’: là hình thức vận động của vốn đầu tư thuộc các tổ chức tài chính trung gian mua trái phiếu, cổ phiếu công ty, đầu tư góp vốn liên doanh. Trong cơ chế thị trường, đối với một quốc gia, từng doanh nghiệp có thể sử dụng cùng một lúc ba phương thức đầu tư vốn theo mô hình trên nhằm mục tiêu có mức doanh lợi cao và nằm trong khuôn khổ pháp luật. Vốn biểu hiện bằng tiền là nguồn vốn linh hoạt nhất nhưng phải là tiền vận động đi vào sản xuất một cách hiệu quả. Thị trường không những là nơi diễn ra các hoạt động đa dạng của vốn mà còn là nơi để vốn bộc lộ khả năng sinh lời của chúng. Khả năng sinh lời của vốn vừa là mục đích cuối cùng của việc đầu tư kinh doanh đồng vốn, vừa là phương tiện để vốn tiếp tục vận động với qui mô ngày càng mở rộng ở chu kỳ sau. Sự vận động của vốn trong thị trường tuân theo qui luật khách quan của kinh tế thị trường. Song, con người có thể nắm bắt và lợi dụng chúng để tạo ra những kênh huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu mục đích sản xuất, kinh doanh của mình. Trong giới hạn phạm vi và đối tượng nghiên cứu, luận văn chỉ đề cập dưới góc độ huy động vốn trong nước (vốn bằng tiền) để phát triển nông nghiệp. Cụ thể: Một là, vốn trong nước là toàn bộ những giá trị của tất cả các yếu tố cần thiết để cấu thành quá trình sản xuất, được hình thành nên từ nguồn lực kinh tế và sản phẩm thặng dư của nhân dân lao động trong một quốc gia [29, 17]. Hay, nói cụ thể hơn, vốn trong nước là toàn bộ những giá trị của tất cả các yếu tố cần thiết cấu thành quá trình sản xuất, bao gồm: tiền mặt, nhà xưởng máy móc thiết bị, vật kiến trúc, nguyên liệu, đất đai, lao động, kinh nghiệm quản lý, chữ tín của khách hàng đối với sản phẩm, bí quyết công nghệ, vị trí kinh doanh, mạng lưới tiêu thụ sản phẩm,... Được hình thành nên từ các nguồn lực kinh tế và sản phẩm thặng dư của nhân dân lao động trong một quốc gia. Như vậy, các nhân tố cấu thành vốn trong nước là rất đa dạng: vốn bằng tiền, các dạng của cải, vốn con người, vốn tài sản,... Trong điều kiện nền sản xuất hàng hóa, các loại vốn trên có thể thâm nhập vào nhau, chuyển hóa cho nhau và dĩ nhiên, chúng sẽ trở thành tiền mặt trong những điều kiện cụ thể. Vì vậy, cần có cách nhìn biện chứng, linh hoạt về các nguồn vốn. Từ đó mà có biện pháp khai thác, huy động nguồn vốn còn tiềm ẩn trong nền kinh tế vào phát triển kinh tế. Nhất là, khi có một nguồn vốn nhất định đủ sức tiến hành sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm hàng hóa thì điều quan trọng là phải tìm cách cấu trúc tối ưu các yếu tố, quản lý có hiệu quả chúng để đạt hiệu quả cao trong kinh doanh. Hai là, vốn bằng tiền (tiềm lực về tài chính) đầu tư vào phát triển nông nghiệp. Nói cụ thể, vốn đầu tư trong nông nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tư liệu lao động và đối tượng lao động được sử dụng vào sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Vốn là yếu tố không thể thiếu đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp hay trên phạm vi từng quốc gia cần phải có các khoản tiền ứng ra để đầu tư ban đầu và đầu tư vào sản xuất trong giai đoạn đưa công trình vào hoạt động. Xã hội càng phát triển, những chi phí cho các khoản "đầu vào" càng lớn. Bởi lẽ, những tư liệu lao động và đối tượng lao động do con người tạo ra có quy mô ngày càng lớn, phong phú về kết cấu, đa dạng về chủng loại và hàm chứa một trình độ khoa học - công nghệ ngày càng cao. Chúng trở thành những tài sản (vốn) rất có giá trị. Dựa theo những tiêu thức khác nhau mà người ta có thể chia vốn thành các loại khác nhau. Dưới đây là một số loại cơ bản: + Dựa vào đặc điểm vận động của vốn, có hai loại: vốn cố định và vốn lưu động. Vốn cố định ứng với tài sản cố định (nhà xưởng, vật kiến trúc, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, dụng cụ đo lường, phương tiện quản lý...; vốn lưu động ứng với tài sản lưu động (nguyên liệu, nhiên liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm, hàng hóa và các khoản tiền tệ đáp ứng nhu cầu thanh toán chi trả,...). + Dựa theo hình thái và nguồn lực đầu tư, vốn có hai loại: vốn hữu hình và vốn vô hình. Vốn hữu hình có hình thái vật chất cụ thể, bao gồm các tài sản hữu hình, tiền mặt, những giấy tờ có giá trị thanh toán...; vốn vô hình là phần vốn tiền tệ đã được chi phí nhằm sử dụng những tài sản vô hình để phục vụ yêu cầu của quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn vô hình bao gồm: vị trí kinh doanh, bí quyết công nghệ, bằng phát minh sáng chế... + Dựa vào thời gian sử dụng, vốn có ba loại: vốn ngắn hạn, vốn trung hạn và vốn dài hạn. Vốn ngắn hạn là lượng tiền được sử dụng để đầu tư với thời hạn 1 năm. Vốn trung hạn là lượng tiền được sử dụng để đầu tư với thời hạn từ 1 năm đến dưới 5 năm. Vốn dài hạn là lượng tiền được sử dụng để đầu tư với thời hạn 5 năm trở lên. + Dựa vào chế độ sở hữu, vốn có hai loại: vốn chủ sở hữu và vốn vay. Vốn pháp định là số vốn bắt buộc phải có để thành lập doanh nghiệp. Vốn pháp định là bộ phận quan trọng hợp thành vốn đầu tư của doanh nghiệp. Trên thực tế, để giảm bớt rủi ro, các chủ thể đầu tư thường xây dựng phương án kinh doanh với tỷ lệ góp vốn pháp định trong tổng vốn đầu tư càng ít càng tốt; vốn vay là lượng vốn huy động từ các nguồn bên ngoài chủ thể kinh doanh để đảm bảo tính liên tục, hiệu quả của quá trình sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường, vốn vay là lượng vốn chiếm phần lớn trong tổng vốn đầu tư. Ngoài các cách phân loại trên, người ta còn có những cách thức phân loại vốn khác,như: phân theo giác độ sử dụng vốn có hai loại: vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp; căn cứ vào quyền sở hữu các nguồn vốn để tiến hành đầu tư trên tổng thể nền kinh tế có vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài,... [40, 13]. Trong nền kinh tế thị trường, ở mỗi góc nhìn khác nhau cho ta những quan niệm khác nhau về vốn, đầu tư vốn, song, xét về bản chất nó là thể thống nhất. Việc phân chia vốn thành các loại khác nhau nhằm mục đích hiểu rõ bản chất phạm trù vốn. Nói cách khác, là hiểu được tính đa dạng, phong phú và rất phức tạp của vốn đầu tư trong nền kinh tế thị trường, giúp cho các chủ thể kinh doanh có kế hoạch chủ động để huy động và sử dụng vốn ngày càng có hiệu quả. 1.1.2. Cơ cấu nguồn vốn và các phương thức huy động vốn trong nước 1.1.2.1. Cơ cấu nguồn vốn Hiện nay, nguồn vốn trong nước tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau, nhưng tựu chung lại có các loại: vốn ngân sách nhà nước, vốn doanh nghiệp, vốn tín dụng ngân hàng và vốn tích lũy của dân cư. - Nguồn vốn ngân sách nhà nước: Nguồn này được hình thành thông qua việc tiết kiệm của chính phủ. Nói cách khác, phần tiết kiệm của chính phủ là phần tiết kiệm của ngân sách nhà nước. Tiết kiệm của chính phủ thể hiện ở số chênh lệch giữa tổng số thu so với tổng số chi tiêu thường xuyên của ngân sách nhà nước. Về bản chất, đây là nguồn vốn của ngân sách nhà nước chi cho phát triển kinh tế. Trong những năm gần đây, qui mô ngân sách của Nhà nước ta không ngừng tăng lên nhờ mở rộng nguồn thu. Song, thu chủ yếu vẫn qua huy động thuế và phí (trên 90%). Tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách nhà nước tăng trung bình từ 13,1% GDP (1986 - 1990) lên 20,5% GDP (1991 - 1995) và hiện nay, khoảng 22% GDP (ước tính giá trị GDP nước ta khoảng 26 tỷ USD) [38, 3]. Với khả năng huy động vốn trên, ngân sách nhà nước sẽ có điều kiện để tăng lượng vốn đầu tư cho phát triển nói chung, kinh tế nông nghiệp nói riêng. - Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp, bao gồm: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nguồn này được hình thành từ phần tiết kiệm của doanh nghiệp, thể hiện ở phần lãi thuần được để lại dùng làm tăng vốn chủ sở hữu. Phần lãi thuần để lại thực chất là phần đầu tư ròng tăng thêm của các doanh nghiệp. Ngoài ra, phần khấu hao cơ bản hàng năm cũng là nguồn để các doanh nghiệp đầu tư. ở nước ta hiện có 5.280 doanh nghiệp nhà nước, chiếm khoảng 30% GDP, 20% tổng đầu tư, 50% dư nợ tín dụng của các ngân hàng trong nước. Trong đó, có 200 doanh nghiệp lớn nhất, chiếm 60% tổng số vốn nhà nước và 40% tổng số dư nợ [6]. Bên cạnh đó, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng nhanh, khả năng thu hút vốn thuận lợi, mức thu nhập lao động và nộp ngân sách khá cao. Năm 1991 có 123 doanh nghiệp với tổng vốn điều lệ là 69 tỷ đồng, 1996 có 26.091 doanh nghiệp và 8.257 tỷ đồng [6, 4]. Đây là nguồn có khả năng lớn trong huy động để phát triển nền kinh tế. - Nguồn vốn tín dụng: Nguồn này được hình thành từ vốn tự có của ngân hàng, vốn huy động, vốn vay và các nguồn khác. Nền kinh tế thị trường càng phát triển, nguồn vốn tín dụng càng trở thành nguồn vốn chủ yếu trong tổng vốn kinh doanh của các chủ thể kinh tế. ở nước ta, nguồn vốn tín dụng được thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng thương mại, ngân hàng cổ phần, quỹ tín dụng nhân dân. Trong đó, hệ thống ngân hàng thương mại bao gồm: Ngân hàng trung ương (Ngân hàng nhà nước), Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Trong đó, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam là ngân hàng chủ yếu cung ứng vốn tín dụng cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tính đến cuối năm 1998, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đã có tổng nguồn vốn kinh doanh là 31.789 tỷ đồng, tăng 29% so với năm 1997. Trong 7 tháng đầu năm 1999, do tích cực tìm nguồn vốn rẻ và ổn định, mở rộng quan hệ với bạn hàng nước ngoài, khai thác các nguồn vốn ủy thác quốc tế; mở rộng mạng lưới tín dụng ở nông thôn nên Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn đảm bảo được tốc độ tăng trưởng tín dụng cao, tổng nguồn vốn tăng 12,9% so với 1998. Trong đó, vốn tín dụng tăng 6,4% [5]. Và, đến cuối 1998, Ngân hàng trên cho vay hết số vốn ước khoảng 691 tỷ đồng, thu nợ 69,7 tỷ đồng, dư nợ 621 tỷ đồng và nợ quá hạn 679 triệu đồng, chiếm 0,15% dư nợ. Đồng thời Ngân hàng đã tài trợ cho 229.477 tiểu dự án với doanh số cho vay là 994,3 tỷ đồng, dư nợ đến 31/10/1999 là 686 tỷ đồng [51]. Tuy nhiên, khả năng cấp tín dụng của các ngân hàng còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được các tài trợ về đầu tư cơ bản. Nguồn vốn huy động được chủ yếu mới cho vay ngắn hạn. Vốn cho vay trung và dài hạn còn rất khiêm tốn. - Nguồn vốn của dân cư: Đây là nguồn được hình thành từ phần còn lại trong thu nhập của dân cư. Thu nhập của dân cư được hình thành từ thu nhập trong kết quả lao động ở lĩnh vực sản xuất và dịch vụ của các gia đình, cá nhân người lao động; thu nhập do thừa kế các loại thu nhập khác, như: trúng xổ số, thân nhân từ nước ngoài gửi về. Nói cách khác, nguồn vốn của dân cư là khoản tiết kiệm của họ. Thực chất đó là phần dôi ra sau khi đã trừ chi tiêu của các hộ gia đình. Trong nền kinh tế thị trường, tiết kiệm của dân cư là bộ phận chủ yếu và ngày càng khẳng định được vị trí quan trọng trong việc hình thành tổng nguồn vốn đầu tư của các quốc gia. Theo điều tra của Tổng cục Thống kê; của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ước tính nguồn vốn trong dân cư hiện có từ 6-8 tỷ USD. Trong đó chỉ có 36% vốn hiện có được huy động cho đầu tư phát triển [38,4]. Biểu 1: Mức vốn huy động trong dân qua các năm Năm Mức huy động (tỷ đồng) Mức tăng so với năm trước (%) 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 6.430 10.864 13.000 17.000 20.000 24.000 28.000 181,4 170 120 130 117,7 120,6 116,7 Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 4/1994 [38, 6] Tóm lại: Cơ cấu nguồn vốn trong nước bao gồm: vốn ngân sách, vốn tín dụng, vốn của doanh nghiệp, vốn của dân cư... Mỗi nguồn vốn đều có đặc điểm, tầm quan trọng riêng. Song, bản thân chúng là những yếu tố hợp thành nên tổng nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế. Do đó, phải biết cách khai thác, huy động, quản lý và sử dụng các nguồn vốn một cách hiệu quả. 1.1.2.2. Các phương thức huy động vốn Trong nền kinh tế thị trường, để có đủ vốn đầu tư, chủ đầu tư có thể và cần phải huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, bằng những phương thức khác nhau. Trên thực tế, có hai phương thức cơ bản để huy động vốn: Một là, phương thức huy động vốn gián tiếp: Đó là phương thức chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn thông qua các trung gian tài chính, như: các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính, các quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia... Nội dung của phương thức này là thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi vào các trung gian tài chính, từ đó, các trung gian tài chính cấp vốn cho những nơi cần vốn. Việc đa dạng hóa các kênh huy động vốn đã từng bước đáp ứng được các nhu cầu về vốn đầu tư. Tuy nhiên, ở nước ta, việc huy động vốn thông qua các công ty bảo hiểm, công ty tài chính còn là loại hình mới mẻ. Do đó, việc huy động vốn cho phát triển kinh tế nói chung, kinh tế nông nghiệp nói riêng chủ yếu được thực hiện qua kênh ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Hiện nay ở Việt Nam có 1.202 chi nhánh của 4 ngân hàng quốc doanh, gần 200 chi nhánh của 63 ngân hàng thương mại cổ phần và 186 quỹ tín dụng nhân dân. Các ngân hàng thương mại huy động vốn thông qua tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi của các tổ chức kinh tế, phát hành kỳ phiếu ngân hàng thương mại, hình thành các quỹ tín dụng nhân dân. Bên cạnh đó, ngân hàng còn thực hiện các phương thức huy động vốn mới, như: huy động vốn cổ phần xác lập và cổ phần thường xuyên từ các hộ sản xuất kinh doanh ở nông thôn. Số dư tiền gửi loại hình này lên tới hàng trăm tỷ đồng. Các ngân hàng đầu tư phát triển, ngân hàng công thương đã hình thành hình thức huy động tiết kiệm xây dựng nhà ở (điển hình là Ngân hàng phát triển nhà ở đồng bằng sông Cửu Long), với số vốn huy động hàng ngàn tỷ đồng. Các loại trái phiếu vô danh, trái phiếu ghi danh của các ngân hàng phát hành trên thị trường theo chủ trương của Nhà nước vào các thời điểm khác nhau đã khai thác được lượng vốn khá lớn. Ngoài ra, hình thức huy động vốn thông qua mở tài khoản tiền gửi cho khoảng 50.000 tài khoản tiền gửi, với số dư hàng chục tỷ đồng. Về lãi suất: cơ chế điều hành lãi suất đã có sự thay đổi căn bản. Nếu như trước đây, Ngân hàng nhà nước trực tiếp qui định mức lãi suất, thì từ tháng 4 năm 1994, Ngân hàng nhà nước chỉ qui định khung lãi suất, còn dành quyền chủ động cho các ngân hàng thương mại qui định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể theo diễn biến cung cầu vốn trên thị trường. ở đây, thể hiện tính linh hoạt, mềm dẻo, hợp lý trong chính sách huy động các nguồn vốn của Đảng và Nhà nước cũng như của ngành ngân hàng. Cũng trong tháng 9 năm 1994 Thống đốc Ngân hàng nhà nước ra Quyết định số 211/QĐ/NH1 ban hành qui chế phát hành tín phiếu ngân hàng nhà nước và Quyết định số 212/QĐ/NH1 ban hành thể lệ phát hành trái phiếu ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho huy động vốn. Tín phiếu Ngân hàng nhà nước là giấy nợ ngắn hạn có lãi do ngân hàng nhà nước phát hành nhằm tạo công cụ để điều hành thị trường tiền tệ theo mục tiêu của chính sách trong từng thời kỳ. Đối tượng mua tín phiếu ngân hàng nhà nước là các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư và phát triển, ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính. Việc mua tín phiếu ngân hàng nhà nước dựa trên cơ sở tự nguyện, nhưng trong trường hợp cần thiết để phục vụ mục tiêu ổn định tiền tệ, Thống đốc Ngân hàng nhà nước có thể qui định tỷ lệ mua tín phiếu ngân hàng nhà nước bắt buộc đối với các ngân hàng trên. Tỷ lệ này được tính trên tổng vốn huy động của các ngân hàng [42]. Về bản chất, huy động vốn bằng trái phiếu ngân hàng là nguồn vốn dài hạn của các tổ chức tín dụng, không phải dành để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước mà chủ yếu để đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu, lao động,... cho các dự án kinh tế. Vì vậy, lãi suất của trái phiếu do các tổ chức tín dụng quy định phải dựa trên cơ sở quan hệ cung cầu đồng vốn trên thị trường. Nghĩa là lãi suất của trái phiếu phải linh hoạt, mềm dẻo để vừa khuyến khích được người gửi tiền dài hạn, chủ đầu tư (người vay) có thể chấp nhận được; vừa đảm bảo hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Hai là, phương thức huy động vốn trực tiếp: Đó là phương thức chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn một cách trực tiếp, thông qua thị trường chứng khoán mà không qua các trung gian tài chính. Các nhà đầu tư có thể phát hành các cổ phiếu, trái phiếu thu hút vốn. Ngược lại, các nhà đầu tư tài chính mua cổ phiếu, trái phiếu do các công ty hay chính phủ phát hành có thể rút vốn thông qua mua đi bán lại trên thị trường chứng khoán. Cụ thể là: - Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước. Trái phiếu doanh nghiệp nhà nước là chứng chỉ vay nợ có kỳ hạn, có mệnh giá và có lãi phát hành bao gồm các loại ký danh và vô danh, thời hạn từ một năm trở lên tùy thuộc vào nhu cầu sử dụng và khả năng thu hồi vốn để trả nợ của doanh nghiệp nhà nước. Lãi suất trái phiếu doanh nghiệp nhà nước được Bộ Tài chính qui định và do doanh nghiệp nhà nước công bố theo từng đợt phát hành đảm bảo cho người mua trái phiếu được hưởng lãi suất thực (+) với các chỉ số trượt giá và căn cứ vào hiệu quả sản xuất kinh doanh, thu hồi vốn của doanh nghiệp. Cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước là chứng chỉ thừa nhận sự góp vốn và quyền sở hữu về vốn của chủ sở hữu cổ phiếu do doanh nghiệp nhà nước phát hành nhằm góp vốn vào doanh nghiệp đang hoạt động hoặc góp vốn thành lập doanh nghiệp mới mà nhà nước là người sáng lập. Cổ phiếu bao gồm các loại ký danh và vô danh, phát hành dưới dạng chứng chỉ do kho bạc nhà nước qui định theo mẫu. Cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước chỉ có một loại mệnh giá do doanh nghiệp nhà nước qui định sau khi đã được Bộ Tài chính chấp thuận. Lợi tức cổ phần được thanh toán hàng năm vào cuối năm tài chính qui định, tùy thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh và theo Điều lệ hoạt động doanh nghiệp. Cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước được tự do mua bán, chuyển nhượng, thừa kế. Việc chuyển nhượng quyền sở hữu đối với các loại cổ phiếu, ký danh và vô danh được thực hiện tại doanh nghiệp nhà nước, nơi phát hành cổ phiếu và không phải chịu bất cứ khoản phí nào. Trên thế giới, huy động vốn bằng cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp nhà nước là phương thức quan trọng và phổ biến nhằm vay vốn để mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, đổi mới thiết bị, công nghệ của doanh nghiệp. ở nước ta, phương thức huy động vốn này còn rất mới mẻ. Việc thành lập thị trường chứng khoán đang ở giai đoạn tìm tòi, thử nghiệm trên thực tiễn. Tuy nhiên, đó sẽ là một phương thức, một kênh chủ lực để huy động vốn đầu tư hiệu quả trong tương lai. Vì vậy, Chính phủ đang rất chủ động thúc đẩy việc hình thành thị trường chứng khoán bằng các thông tư, nghị định hướng dẫn việc thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Đó là Nghị định số 120/CP (ngày 17/9/1994) [17] của Chính phủ ban hành qui chế tạm thời về việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước; Thông tư số 91/TC-KBNN (ngày 5/11/1994) [50] của Bộ Tài chính hướng dẫn chi tiết việc t._.hực hiện qui chế trên; Nghị định số 28/CP (ngày 7/5/1996) về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần [35]. Và, gần đây nhiều thông tư, nghị định mới ra đời nhằm thúc đẩy sự ra đời thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Có thể nói rằng, mỗi thông tư, nghị định ra đời đều thể hiện sự tìm tòi, thử nghiệm và tiếp tục hoàn thiện dần hình thức huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước; phù hợp với từng bước đi của tiến trình cải cách doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước. Về thực chất, đó là nhằm mục tiêu huy động tối đa vốn nhàn rỗi của cán bộ công nhân viên chức trong doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp, tạo điều kiện cho những người góp vốn, những người có cổ phần nâng cao vai trò làm chủ, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. - Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu chính phủ. Trái phiếu chính phủ là chứng chỉ vay nợ của Chính phủ do Bộ Tài chính phát hành (trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước không có ý nghĩa tác động trực tiếp đến việc giảm bội chi ngân sách nhà nước). Trái phiếu chính phủ được phát hành dưới các dạng: tín phiếu kho bạc nhà nước, trái phiếu kho bạc nhà nước và trái phiếu công trình. + Tín phiếu kho bạc nhà nước là loại trái phiếu ngắn hạn dưới một năm, huy động vốn để bù đắp thiếu hụt ngân sách tạm thời trong năm tài chính. Số dư nợ về trái phiếu kho bạc nhà nước đến cuối năm tài chính (31/12) chưa đến hạn thanh toán được tính là khoản vay bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước và được hoàn trả trong năm tài chính tiếp theo. + Trái phiếu kho bạc là loại trái phiếu có thời hạn từ một năm trở lên, huy động vốn để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước, đáp ứng nhu cầu chi tiêu đầu tư phát triển trong kế hoạch ngân sách nhà nước được duyệt. + Trái phiếu công trình có hai loại: trái phiếu chính phủ huy động vốn cho các công trình trung ương do Bộ Tài chính (Ngân sách trung ương) bảo lãnh thanh toán. Trái phiếu chính phủ bao gồm các loại ký danh và vô danh; phát hành dưới dạng chứng chỉ trái phiếu và có nhiều mệnh giá khác nhau, được ghi thu và thanh toán bằng đồng Việt Nam theo thời giá của cơ quan có thẩm quyền quy định. Lãi suất trái phiếu chính phủ do Bộ Tài chính công bố theo từng đợt phát hành, sau khi đã thỏa thuận với Ngân hàng nhà nước Việt Nam, đảm bảo cho người mua trái phiếu được hưởng lãi suất thực (+) có tính đến chỉ số trượt giá. Mức lãi suất trái phiếu được xác định trên cơ sở tỷ lệ lạm phát và biến động giá cả theo từng thời kỳ do Tổng cục Thống kê công bố; lãi suất trái phiếu có thời hạn dài được qui định cao hơn lãi suất trái phiếu có thời hạn ngắn; nhu cầu huy động vốn và khả năng huy động trái phiếu. Ngoài ra còn có trái phiếu với lãi suất chỉ đạo, tổ chức đấu thầu chọn lãi suất phát hành là mức lãi suất đặt thầu tối đa cho các trái phiếu mà đơn vị tham gia đấu thầu có thể đặt thầu. Mức lãi suất chỉ đạo được Bộ Tài chính công bố trong thông báo đấu thầu. Trong những giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội, "Chính phủ chủ trương phát hành trái phiếu là để thực hiện chức năng đi vay (thực hiện tín dụng nhà nước) của Chính phủ, nhằm huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư, trong các tổ chức kinh tế để tạo vốn bù đắp thiếu hụt ngân sách, tăng cường vốn cho đầu tư phát triển. Chính phủ cần phải huy động vốn qua phát hành trái phiếu chính phủ và giao cho Bộ Tài chính phát hành" [33]. Tóm lại: Trong nền kinh tế thị trường luôn tồn tại song hành hai phương thức huy động vốn: trực tiếp và gián tiếp. Hai phương thức huy động vốn này luôn hỗ trợ, bổ sung, tác động lẫn nhau nhằm thu hút tối đa và phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn theo tiêu chuẩn thị trường, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, đồng thời tạo ra những công cụ hữu hiệu trong quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước. ở nước ta, 2 phương thức huy động vốn trên đã được áp dụng. Song, trên thực tế, phương thức huy động vốn gián tiếp vẫn là phổ biến. Phương thức huy động vốn trực tiếp còn mới mẻ, nhưng theo đà phát triển của nền kinh tế, nó sẽ trở thành kênh huy động vốn quan trọng ở nước ta trong tương lai. 1.1.3. Vai trò của vốn đối với phát triển nông nghiệp 1.1.3.1. Yêu cầu cấp bách về vốn để phát triển nông nghiệp Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của mọi quốc gia. ở nước ta, nông nghiệp càng giữ vị trí trọng yếu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bởi lẽ, gần 80% dân số sống ở nông thôn với nguồn sống chính dựa vào nông nghiệp. Trong nhiều năm, nông nghiệp đã tạo ra trên 40% thu nhập quốc dân. Hiện nay ngành này đang tạo ra gần 30% GDP và hơn 45% giá trị xuất khẩu của cả nước [26, 30]. Đồng thời, nông nghiệp còn là ngành cung cấp nhân lực, thị trường và nguyên liệu cho các ngành công nghiệp, dịch vụ. Sự tăng trưởng và phát triển của nông nghiệp có tác động to lớn đến qui mô, tốc độ tăng trưởng và phát triển của toàn bộ nền kinh tế, đẩy mạnh tích lũy vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chính vì vậy, phát triển nông thôn nói chung, nông nghiệp nói riêng luôn được Đảng và Nhà nước ta coi trọng và đặt lên vị trí hàng đầu. Đại hội Đảng lần thứ VIII khẳng định: "Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm còn lại của thập kỷ 90 là đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm thủy sản" [16, 86]; để thực hiện nhiệm vụ trên phải "huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển, trong đó vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng... Chiến lược lâu dài phải huy động tối đa nguồn vốn trong nước để chiếm tỷ lệ cao trong đầu tư" [16, 228]. Thực hiện đường lối trên, thời gian qua đã huy động được lượng vốn khá từ nhiều nguồn khác nhau để đầu tư phát triển nông nghiệp. Do đó, nông nghiệp nước ta nói chung, nông nghiệp ngoại thành nói riêng từng bước phát triển ổn định, khá toàn diện và đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm 4,5% - 4,8%. Riêng về lương thực (gạo) của nước ta, từ chỗ phải nhập khẩu đến nay trở thành nước xuất khẩu gạo có thứ hạng cao trong khu vực và thế giới. Mặc dù vậy, lượng vốn đầu tư để phát triển nông nghiệp vẫn chưa đủ mạnh để cải biến một cách cơ bản, đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp, cũng như phát triển khoa học - công nghệ, ứng dụng thành tựu đó vào khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư..., đáp ứng yêu cầu thâm canh nông nghiệp ở trình độ cao. Do đó, nền nông nghiệp nước ta vẫn đang đứng trước những thách thức to lớn: cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch chậm chạp và còn mất cân đối nghiêm trọng giữa trồng trọt - chăn nuôi - nghề rừng; thị trường tiêu thụ nông sản không ổn định; chất lượng nông sản còn thấp, chưa đủ sức cạnh tranh với sản phẩm đồng loại trên thị trường khu vực và thế giới... Vì vậy, tăng cường huy động các nguồn vốn, đảm bảo cung ứng vốn đủ mạnh cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, góp phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước là một đòi hỏi mang tính tất yếu của thực tiễn hiện nay. 1.1.3.2. Vốn - nhân tố quyết định thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Các nhà kinh tế học từ cổ đại đến hiện đại đều khẳng định vốn là nhân tố cơ bản của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng. Sự gia tăng về vốn làm tăng năng lực sản xuất trong nước, thúc đẩy gia tăng sản lượng và năng suất lao động, nâng cao chất lượng hàng hóa sản xuất ra, tạo khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả các nhân tố: tài nguyên, lao động... Khi nghiên cứu về Học thuyết địa tô, C.Mác đã chỉ rõ vai trò của tư bản (vốn) trong quá trình phát triển nông nghiệp. Người viết: "Do những qui luật tự nhiên chi phối trong nông nghiệp nên khi canh tác đạt đến một trình độ nhất định và khi đất đã bị kiệt màu đi một cách tương ứng thì tư bản... sẽ trở thành một yếu tố quyết định" [32, 333]. C.Mác còn khẳng định, địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II đều là lợi nhuận siêu ngạch, hình thành do hiệu quả đầu tư khác nhau của những tư bản như nhau. Địa tô chênh lệch I tương ứng với phương thức quảng canh, khai hoang, mở rộng diện tích và không cần nhiều vốn đầu tư. Nó rất phù hợp với thời kỳ đầu phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa bậc thấp. Thành thử, "các khoản đầu tư được tiến hành cùng một lúc trên những diện tích khác nhau. Mỗi lần đầu tư đều có ý nghĩa là mở rộng hơn nữa việc canh tác đất đai, diện tích canh tác lại được mở rộng thêm" [32, 329]. Trái lại, địa tô chênh lệch II ứng với phương thức đầu tư thâm canh, đòi hỏi phải có lượng vốn đầu tư lớn: "Về mặt kinh tế, chúng ta phải hiểu thâm canh không phải là cái gì khác hơn là tập trung tư bản trên cùng một thửa đất, chứ không phải phân tán trên nhiều thửa đất song song với nhau" [32, 331]. Như vậy, cùng với đất đai, lao động, vốn trở thành yếu tố nội sinh, quyết định sự thành bại của chiến lược thâm canh tăng năng suất cây trồng, thúc đẩy việc sử dụng đất có hiệu quả. Do đó, thâm canh là một yêu cầu cơ bản, một xu hướng tất yếu đối với mọi nền nông nghiệp, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội. Vận dụng sáng tạo lý luận địa tô của C.Mác, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp tăng cường huy động các nguồn vốn để đẩy mạnh phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, đặc biệt là thâm canh nông nghiệp; xây dựng các ngành, các lĩnh vực có tác động trực tiếp tới hiệu quả sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Nếu như ở giai đoạn trước, đầu tư vốn cho nông nghiệp nhằm mục tiêu đủ ăn về lương thực, thực phẩm; từng bước vươn lên xuất khẩu nông sản thì nay, đã đến lúc vốn đầu tư cho nông nghiệp phải được tiến hành ở giai đoạn II. Nghĩa là, phải tăng tốc huy động vốn để nâng cao tỷ trọng đầu tư cho nông nghiệp nhằm mục tiêu đảm bảo an toàn lương thực, thực phẩm; đa dạng hóa sản phẩm và nâng cao chất lượng nông sản hàng hóa để chiếm thị phần rộng lớn về xuất khẩu, tăng nguồn thu cho ngân sách, tăng sức mạnh nội lực thực sự cho nền kinh tế Việt Nam. Chính vì vậy, những tác động của vốn đối với nông nghiệp càng trở nên rõ nét, thể hiện ở chỗ: Thứ nhất: Vốn làm thay đổi bộ mặt kết cấu hạ tầng theo yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn nói chung, nông nghiệp nói riêng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kết cấu hạ tầng nông thôn bao gồm: các công trình thủy lợi, (tưới, tiêu, chống lũ); các công trình giao thông, bưu chính viễn thông, nhà xưởng, mạng lưới điện... phục vụ phát triển nông nghiệp. Nông nghiệp là ngành chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện tự nhiên. Do đó, kinh doanh trong nông nghiệp có độ rủi ro cao, khả năng thu hồi vốn chậm, lợi nhuận thấp hơn các ngành kinh tế khác. Nếu cơ sở hạ tầng yếu kém sẽ ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh doanh nông nghiệp, không "hút" được vốn đầu tư của các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước vào phát triển lĩnh vực này. Tăng cường vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp, trước hết phải chú trọng đầu tư phát triển lĩnh vực kết cấu hạ tầng. Kinh nghiệm của thế giới cho thấy, đối với các nước châu á, chi phí cải tạo cơ sở hạ tầng sẽ phải tăng từ mức 4% GDP trong thập kỷ 80 lên 7% GDP trong thập kỷ 90. ở nước ta, cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển nền kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng còn yếu kém hơn so với các nước Đông á, nhất là về giao thông, bưu chính, mạng lưới điện, thủy lợi. Những diễn biến bất thường của thời tiết thời gian qua: hạn hán, lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung, Tây Nguyên; lũ quét ở miền núi phía Bắc... làm cho nông dân thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng càng thấy rõ vai trò to lớn của việc tăng đầu tư vốn để cải tạo, nâng cấp, xây dựng hệ thống thủy lợi, đê điều,... Việc hiện đại hóa kết cấu hạ tầng nông nghiệp thực hiện tốt, không những sẽ hình thành được vùng cây chuyên canh, mở rộng diện tích canh tác mà còn tạo điều kiện thâm canh tăng vụ, đặc biệt là tăng từ 1 vụ lúa lên 2 vụ (ở vùng trũng), thậm chí ở các tỉnh phía Nam còn dịch chuyển được mùa vụ, trồng lúa quanh năm, tăng hệ số sử dụng đất, nhất là tránh được những con lũ lớn ở đồng bằng Nam Bộ. Thứ hai: Vốn tác động vào khoa học - công nghệ tạo ra động lực để phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa chất lượng cao và bền vững, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái. Các công nghệ cao được áp dụng vào nông nghiệp, như: công nghệ sinh học; công nghệ loại hình "tri thức", như: công nghệ thông tin, công nghệ quản lý, công nghệ nông nghiệp chính xác,... Bên cạnh đó những công nghệ trên đòi hỏi phải có một hệ thống sản xuất giao lưu giữa các ngành, thay đổi căn bản nền nông nghiệp và chuyển nền nông nghiệp từ truyền thống sang nền nông nghiệp công nghiệp, hướng vào mục tiêu an toàn lương thực, gia tăng sản phẩm xuất khẩu qua chế biến. Phấn đấu thời gian tới, Việt Nam có thể đạt được từ 85% - 90% giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Muốn vậy, phải có vốn và tăng lượng vốn đầu tư vào phát triển khoa học - công nghệ phục vụ nông nghiệp để vừa có đủ vốn nhập khẩu những công nghệ cao từ nước ngoài khi trong nước chưa nghiên cứu được; vừa có vốn để triển khai, nghiên cứu, ứng dụng những công nghệ mới ở trong nước cho phù hợp với điều kiện cụ thể nền nông nghiệp Việt Nam. Một khi khoa học - công nghệ xâm nhập được vào nông nghiệp sẽ mang lại hiệu quả sản xuất - kinh doanh cao. Biểu 2: Năng suất của một số cây trồng nhờ áp dụng công nghệ sinh học Đơn vị tính: Tấn/ha Loại cây trồng Thời kỳ những năm 80 Thời kỳ những năm 90 - Mía - Cà chua - Sắn - Lạc - Thầu dầu - Tre - Cây lấy gỗ 70 - 90 20 - 40 15 - 20 1,6 0,6 250 10 - 20 150 - 250 60 - 100 60 - 100 4,0 2,5 1.000 40 - 100 Nguồn: Chương trình phân tích và lựa chọn chiến lược công nghiệp hóa - Bộ Khoa học - công nghệ và môi trường, Hà Nội 1994 [8, 42]. Hiểu rõ tầm quan trọng của khoa học - công nghệ, Đảng ta đã xác định: "Khoa học - công nghệ là nền tảng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển của mỗi quốc gia" [14, 60]. Trong những năm qua, tỷ lệ đầu tư cho khoa học - công nghệ đã từng bước tăng lên. Năm 1998 đạt 1,28% tổng chi ngân sách, tương đương với 1.054 tỷ đồng. Song, về lâu dài phải nâng tỷ lệ đầu tư cho khoa học - công nghệ, đặc biệt là khoa học - công nghệ ứng dụng trong nông nghiệp lên 2% tổng chi ngân sách. Đồng thời tích cực thu hút các nguồn vốn vào phát triển lĩnh vực này. Từ năm 1995, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định thành lập Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia theo Quyết định số 808/TTg (9/12/1995) hoạt động theo Luật khuyến khích đầu tư. Mục tiêu của Quỹ là hỗ trợ một số ngành nghề được khuyến khích phát triển, trong đó có lĩnh vực công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp. Thứ ba: Vốn tác động vào hệ thống công nghiệp phục vụ sản xuất nông nghiệp làm thay đổi năng suất, chất lượng và hiệu quả nông phẩm hàng hóa. Hệ thống công nghiệp phục vụ nông nghiệp được hình thành bởi các ngành: chế tạo máy động lực và máy nông nghiệp, các nhà máy điện, phân bón, thuốc trừ sâu và hàng loạt các nhà máy chế biến lương thực, thực phẩm của nông nghiệp. Hiện nay, hệ thống công nghiệp phục vụ nông nghiệp đều rất lạc hậu (khoảng 20 năm). Năng lực sản xuất của ngành mới đáp ứng được 20% nhu cầu máy nội địa, 40% nhu cầu máy nông nghiệp nhỏ, 10% nhu cầu phân bón...; các nhà máy chế biến nông sản hoạt động cầm chừng do thiếu nguyên liệu và chủ yếu mới ở dạng sơ chế, năng suất, chất lượng thấp. Về thực chất, công nghệ ở nước ta được hình thành theo qui trình "ngược". Nghĩa là, công nghệ phụ thuộc vào máy móc đã trang bị chứ chưa phải được hình thành trên cơ sở yêu cầu của sản xuất. Vì vậy, Đảng ta chủ trương tăng cường đầu tư "phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản với công nghệ ngày càng cao gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp đô thị" [16, 87] là đúng hướng. Đồng thời, Đảng chỉ rõ: "mở rộng tín dụng, tăng dần vốn vay trung và dài hạn đáp ứng yêu cầu vốn cho công nghiệp hóa nông nghiệp... Thời hạn cho vay vốn phải phù hợp với chu kỳ sinh trưởng của vật nuôi, cây trồng và thời gian khấu hao máy móc nông nghiệp" [18, 25]. Khi những chủ trương này đi vào cuộc sống, vai trò của vốn được xác lập, hệ thống công nghiệp phục vụ nông nghiệp sẽ thay đổi hẳn, thúc đẩy nền nông nghiệp nước ta phát triển nhanh, bền vững. Thứ tư: Thông qua huy động, đầu tư và quản lý có hiệu quả các nguồn vốn sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, hình thành những vùng chuyên canh, vùng trọng điểm, đẩy mạnh nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Hiện nay vốn đầu tư để phát triển nông nghiệp còn thấp, vấn đề quản lý, sử dụng còn kém hiệu quả, do đó cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch còn chậm chạp; ngành trồng trọt chiếm tỷ lệ cao, chăn nuôi chưa trở thành ngành sản xuất chính, nghề rừng mới bước đầu phát triển, dịch vụ nông nghiệp phát triển chưa thật sự vững chắc... thì việc tăng cường đầu tư vốn và sử dụng chúng có hiệu quả sẽ hình thành được những vùng chuyên canh lớn (vùng cây lương thực, vùng cà phê, cao su,...), khai thác được tiềm năng về đất đai, lao động, nguyên liệu... tạo ra sức bật mới, có tác dụng lan tỏa, lôi cuốn các ngành, vùng khác cùng phát triển, tạo ra ngày càng nhiều nông sản hàng hóa có giá trị xuất khẩu cao, có lợi thế so sánh trên trường quốc tế. Thứ năm: Vốn là điều kiện không thể thiếu để đầu tư và phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hiện nay lực lượng lao động trong nông nghiệp đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ rất thấp (khoảng 18% - 30%). Số còn lại chủ yếu được đào tạo theo kinh nghiệm "cha truyền, con nối", hiệu quả thấp. Mặc dù trong những năm gần đây, Đảng và nhà nước ta đã chú ý đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp, nhưng dường như chỉ quan tâm đến đào tạo đội ngũ kỹ sư, công nhân kỹ thuật (chủ yếu là cơ khí nông nghiệp), các nghề, như: trồng trọt, chăn nuôi, nghề cá, nghề rừng... chưa chú ý đầu tư, dẫn đến đại bộ phận nông dân trực tiếp sản xuất ít, thậm chí không được trang bị kiến thức sản xuất nông nghiệp. Vì vậy tăng cường đầu tư vốn cho nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn, nhất là đào tạo nghề cho nông dân là vấn đề cấp thiết. Cần phải hỗ trợ 100% vốn cho những lao động nông nghiệp được cử đi học dài hạn, tình nguyện trở về phục vụ quê hương. Về lâu dài phải thành lập Quỹ hỗ trợ giáo dục, động viên sự đóng góp của mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội để đầu tư đào tạo nguồn nhân lực, trước hết là đào tạo nghề cho nông dân. Tóm lại: Vốn là yếu tố quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển nông nghiệp. Hiểu rõ tầm quan trọng của vốn sẽ có phương pháp luận đúng đắn để khai thác, huy động các nguồn vốn có hiệu quả, thúc đẩy nông nghiệp phát triển, đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và thế giới. 1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc huy động vốn để phát triển nông nghiệp 1.2.1. Nhu cầu vốn quyết định qui mô, tốc độ tăng trưởng nguồn vốn Để tiến tới mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", nước ta cần phải đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển kinh tế. Chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam đặt ra yêu cầu tăng thu nhập quốc dân bình quân đầu người lên gấp 2 lần vào năm 2000 và những năm tiếp theo. Muốn vậy, phải tăng cường đầu tư vốn cho nền kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng. Đối với nông nghiệp, tăng vốn đầu tư trước hết phải hướng vào xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp, đổi mới công nghệ, máy móc, hình thành vùng chuyên canh, trọng điểm, cải tạo đất đai, giống cây trồng và vật nuôi... Vì vậy, phải dự báo được nhu cầu vốn đầu tư trong kế hoạch phát triển ngắn, trung và dài hạn. Hiện nay trên thế giới, phương pháp phổ biến để tính nhu cầu vốn đầu tư dựa vào mô hình Harrod - Domar: khối lượng vốn tăng thêm để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế được tính theo công thức: DG = Suy ra: DK = K. DG Trong đó: DK là lượng vốn tăng thêm DG là lượng GDP (GNP) tăng thêm K là hệ số vốn hay chỉ số ICOR. Hệ số này cho biết để có một đơn vị khối lượng sản phẩm tăng thêm thì cần bao nhiêu đơn vị khối lượng vốn đầu tư. Theo tính toán của các nhà kinh tế, chỉ số ICOR ở các nước đang phát triển dao động từ 3,3 - 7,1. ở nước ta, thời kỳ 1955 - 1975 là 3,2; 1976 - 1986 là 3,9 [1]; 1986 - 1990 là 2,9; 1991 - 1995 là 2,7; 1996- 2000 là 4,5. Như vậy, để có mức thu nhập kinh tế quốc dân bình quân đầu người tăng gấp đôi, chúng ta cần có mức gia tăng sản phẩm xã hội G = 51.002 tỷ đồng, giả sử với hệ số K là 4,5 thì cần phải có số vốn đầu tư bổ sung là 51.022 x 4,5 = 229.509 tỷ đồng. Đây là những con số tương đối. Trên thực tế, tổng nhu cầu vốn đầu tư của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định dù tính theo phương pháp nào cũng còn phụ thuộc rất nhiều vào mô hình phát triển kinh tế theo chiều rộng hay chiều sâu; cần nhiều hay cần ít vốn; có ưu tiên sử dụng công nghệ cao, công nghệ mới hay chỉ ưu tiên đặc biệt cho những ngành nghề sử dụng nhiều lao động cơ bắp. Đặc biệt, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, kinh tế thế giới đang có sự biến động sâu sắc, mạnh mẽ với sự lớn mạnh của mô hình kinh tế trí tuệ dựa trên cơ sở tiến bộ khoa học công nghệ thì nhất định các cách tính toán nhu cầu vốn cho tăng trưởng kinh tế sẽ chịu nhiều ảnh hưởng lớn. Với cách tính như trên, các nhà kinh tế Việt Nam dự tính nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển kinh tế từ nay đến năm 2010, Việt Nam cần huy động lượng vốn khoảng 45 - 50 tỷ USD. Trong đó, nhu cầu vốn cho ngành nông nghiệp là 5 tỷ USD, ngành công nghiệp 17 tỷ USD và ngành dịch vụ là 26 tỷ USD. Như vậy, nhu cầu vốn là một nhân tố quan trọng thúc đẩy việc huy động vốn cho phát triển kinh tế nói chung, phát triển nông nghiệp nói riêng. Nhu cầu vốn càng lớn càng phải đẩy mạnh huy động tổng lực các nguồn vốn cho đầu tư phát triển. 1.2.2. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp chi phối khả năng huy động vốn - Hoạt động của sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên. Nếu thời tiết thuận lợi, nông dân trúng vụ, giá cả nông sản ổn định không những khuyến khích được nông dân bỏ vốn ra đầu tư mà còn thu hút được các nguồn vốn khác vào phát triển nông nghiệp và ngược lại việc huy động vốn sẽ rất khó khăn. - Chu kỳ sản xuất của cây trồng, vật nuôi khá phức tạp. tùy thuộc vào từng loại cây trồng vật nuôi mà chu kỳ sản xuất dài, ngắn khác nhau. Chu kỳ sản xuất ngắn nhất là 3 tháng. Đối với những cây dài ngày như: cây công nghiệp, cây ăn quả thời gian kiến thiết cơ bản từ 5-7 năm. Do vậy chu kỳ kinh tế phải mất hàng chục năm, thậm chí vài chục năm, làm cho vòng tuần hoàn và luân chuyển của vốn chậm chạp, kéo dài thời gian thu hồi vốn cố định. Đồng thời nó cũng tạo ra sự cần thiết phải dự trữ đáng kể một lượng vốn lưu động, dẫn tới vốn sản xuất nông nghiệp bị "ứ đọng" tương đối, làm giảm khả năng sinh lời của đồng vốn. Yếu tố này tác động rất tiêu cực đến việc huy động vốn vào phát triển nông nghiệp. Nếu như Nhà nước không có chính sách đầu tư vốn phù hợp với mùa vụ của từng cây trồng, vật nuôi sẽ ảnh hưởng lớn đến khả năng huy động vốn. - Đất đai dùng vào sản xuất nông nghiệp cũng có ảnh hưởng lớn đến quá trình huy động vốn. Trong điều kiện đất xấu, cần lượng vốn đầu tư lớn hơn đất tốt và ngược lại. Đặc biệt là đối với ngoại thành Hà Nội và các vùng ven đô khác, do quá trình đô thị hóa, diện tích đất canh tác nông nghiệp bị thu hẹp, để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp cần phải đầu tư phát triển theo chiều sâu, lượng vốn đầu tư phải lớn. Đây cũng là yếu tố khách quan ảnh hưởng tới vấn đề huy động vốn 1.2.3. Khả năng cung ứng của các nguồn vốn ảnh hưởng trực tiếp đến huy động vốn Như trên đã phân tích, nhu cầu vốn càng lớn càng phải tăng cường huy động tổng lực các nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu đầu tư. Song, nhu cầu vốn được xây dựng theo kế hoạch của dự án, mang tính chất chủ quan của con người. Trái lại, khả năng cung ứng vốn của các nguồn trong thực tế lại có tính khách quan, quyết định qui mô, tốc độ tăng trưởng của vốn. Trong trường hợp nhu cầu vốn lớn nhưng khả năng cung ứng từ các nguồn hạn hẹp sẽ không đáp ứng được nhu cầu đầu tư. Trong trường hợp ngược lại, vốn sẽ bị "ứ đọng" tương đối trong quá trình huy động. Khả năng cung ứng của các nguồn vốn trong nước đều phụ thuộc vào tiềm năng và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tiềm năng của quốc gia mạnh, khả năng khai thác vốn sẽ lớn. Tuy nhiên, trong cùng một thời điểm không thể đưa toàn bộ vốn (tiềm năng) vào sản xuất - kinh doanh hoặc chi dùng mà phải có kế hoạch huy động phù hợp với tiến trình phát triển của đất nước trong mỗi thời kỳ, đảm bảo độ bền vững của tiềm năng (có giới hạn) của quốc gia. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng huy động vốn. Khi nền kinh tế - xã hội ở trình độ tiên tiến sẽ duy trì mức độ tăng trưởng cao và ổn định, tích lũy nội bộ cao, huy động vốn đầu tư phát triển kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng sẽ lớn. Hơn nữa, trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao sẽ có một hệ thống tài chính phát triển tương ứng, càng có điều kiện thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư phát triển. Trong trường hợp tiềm năng đất nước hạn hẹp, trình độ phát triển kinh tế - xã hội thấp, khả năng tích lũy nội bộ không cao, hệ thống tài chính không phát triển, sẽ rất khó khăn cho việc huy động vốn. Tuy nhiên, khả năng cung ứng vốn của từng nguồn lại phụ thuộc vào những đặc điểm riêng của chúng. Cụ thể là: - Đối với nguồn vốn ngân sách: qui mô, tốc độ tăng giảm của chúng phụ thuộc lớn vào việc thu - chi ngân sách nhà nước. Đến lượt mình, ngân sách nhà nước lại phụ thuộc vào sự tăng trưởng của nền kinh tế, ở chính sách thu và chính sách chi của nhà nước. - Đối với nguồn vốn của doanh nghiệp: khả năng cung ứng của nguồn này phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, ở chính sách thu của nhà nước, chính sách phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp. ở công ty cổ phần, chính sách phân phối lợi nhuận của công ty thể hiện ở lợi tức cổ phần của công ty do Đại hội đồng cổ đông quyết định. Đối với doanh nghiệp nhà nước, chính sách phân phối lợi nhuận do nhà nước qui định. Hiện nay ở nước ta, chính sách trực tiếp có liên quan đến phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp nhà nước là Nghị định 56/CP (đối với doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích); Nghị định 59/CP (đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh) và Nghị định 27/CP về sửa đổi bổ sung Nghị định 59/CP. - Đối với nguồn tín dụng: khả năng cung ứng vốn phụ thuộc vào chính sách lãi suất, chính sách thuế, cơ chế huy động, cho vay và xử lý rủi ro của nhà nước. - Đối với nguồn vốn của dân cư: khả năng cung ứng phụ thuộc vào thu nhập của dân cư, tập quán và xu hướng tiêu dùng, chính sách động viên của nhà nước. Trong trường hợp thu nhập của dân cư cao (tính trên GDP), đời sống của họ ổn định và không ngừng tăng lên sẽ tăng tỷ lệ tích lũy vốn. Phần tích lũy đó có thể đem đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh hoặc cho Chính phủ vay thông qua việc mua tín phiếu, trái phiếu của chính phủ qua kho bạc của nhà nước, gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng v.v.. trong trường hợp thu nhập của dân cư thấp, việc huy động vốn cho đầu tư phát triển sẽ gặp khó khăn. Bên cạnh đó, xu hướng và tập quán tiêu dùng của các tầng lớp dân cư ở mỗi vùng có sự khác nhau cũng ảnh hưởng đến việc huy động vốn. ở nông thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa trình độ dân trí thấp, phong tục tập quán lạc hậu, việc tiếp xúc với kinh tế hàng hóa chậm... tích lũy vốn của họ thấp, có chăng thể hiện ở phần tài sản (nhà cửa, ruộng vườn...), vàng bạc... việc huy động vốn gặp khó khăn. Trái lại, ở vùng đồng bằng, đô thị, khu công nghiệp lớn sẽ thuận lợi hơn trong việc huy động vốn. 1.2.4. Chính sách của Nhà nước ảnh hưởng đến việc huy động vốn Chính sách của nhà nước là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại trong quá trình huy động vốn. Một chính sách đúng đắn, hợp lòng dân sẽ đem lại hiệu quả cao trong huy động vốn, thúc đẩy nền kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng phát triển và ngược lại, chính sách sai lầm, một cơ chế gò bó, không phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, không phù hợp với những qui ước và thông lệ quốc tế, trong điều kiện kinh tế mở hiện nay sẽ rất khó khăn huy động vốn, thậm chí không thể huy động được vốn. Trên thực tế, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Do đó đã khơi dậy được sức người, sức của ở nông thôn đầu tư phát triển sản xuất. Nhà nước chủ động dành nguồn ngân sách nhà nước đầu tư cho bản thân ngành nông nghiệp và các ngành trực tiếp phục vụ phát triển nông nghiệp. Đồng thời, Nhà nước còn tạo ra những cơ hội, biện pháp cụ thể (thông qua chính sách lãi suất, chính sách giá cả, chính sách đầu tư, chính sách ruộng đất...) nhằm đẩy mạnh việc huy động vốn trong và ngoài nước đầu tư phát triển nông nghiệp. Nhờ đó, nông nghiệp nước ta nhiều năm qua đã tăng trưởng và phát triển, đời sống nhân dân ổn định, tạo môi trường, điều kiện cho ổn định tình hình chính trị - xã hội. 1.3. Kinh nghiệm của một số nước trong việc tạo vốn để phát triển nông nghiệp Lý luận và thực tiễn của các nước chỉ ra rằng, vốn là chìa khóa để phát triển nền kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, trong điều kiện cụ thể của mình, mỗi nước đều có cách thức khai thác, huy động riêng để có vốn đầu tư vào phát triển nông nghiệp. Dưới đây là một số cách thức cụ thể: - Tạo vốn thông qua nguồn ngân sách nhà nước, ở Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản trong giai đoạn đầu tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã lấy nông nghiệp làm cơ sở để tích lũy vốn. Vì vậy, chiến lược của họ là tăng cường đầu tư vốn ngân sách nhà nước để phát triển nông nghiệp. Chẳng hạn, ở Đài Loan, từ 1951 - 1955, vốn ngân sách nhà nước đầu tư cho phát triển nông nghiệp chiếm 14% GDP và 78,4% tổng số vốn đầu tư trong nông nghiệp. Vì vậy, sản xuất nông nghiệp của Đài Loan tăng trưởng nhanh và ổn định trong thời gian khá dài. Trung bình tăng 5,2%/năm (1952 - 1960) và 4,2%/năm (thập kỷ 60) [11, 47]. Sản xuất nông nghiệp phát triển, xuất khẩu nông sản tăng đã góp phần ._.iết bị tiêu dùng đắt tiền, không phù hợp với công việc, điều kiện kinh tế của đất nước. Cách có hiệu quả để hạn chế tiêu dùng lãng phí là sử dụng công cụ thuế để điều tiết việc nhập khẩu hàng xa xỉ; ban hành qui chế, giám sát việc trang bị nội thất trong các cơ quan nhà nước. Song, thắt chặt chi tiêu ngân sách nhà nước không phải bằng mọi giá mà phải cân nhắc, tính toán kỹ với khả năng của nguồn thu để xác định mối tương quan thu - chi cho phù hợp. Bởi vì có những khoản chi tiêu dùng thường xuyên chưa thấy hiệu quả trước mắt nhưng lại có tác động đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội lâu bền. Đối với tiết kiệm trong dân: Để khuyến khích tiết kiệm trong dân, Nhà nước phải duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, động viên khuyến khích nhân dân bỏ vốn vào đầu tư phát triển nông nghiệp, hạn chế tiêu dùng để đầu tư nhiều trong hiện tại, thu nhập lớn trong tương lai. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân nâng cao ý thức tiết kiệm. Thứ tư, đổi mới và hoàn thiện chính sách tài chính về đất đai. Từng bước sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện chính sách thuế sử dụng đất cho phù hợp; đảm bảo chính sách thu thuế sử dụng đất phù hợp với chính sách đền bù thiệt hại khi dành đất nông nghiệp ngoại thành cho đô thị hóa. Đối với trường hợp chuyển đất nông nghiệp sang sử dụng vào mục đích xây dựng nhà ở hoặc sử dụng vào sản xuất kinh doanh không phục vụ phát triển nông nghiệp nên có chế độ đánh thuế (thu) đặc biệt nhằm hạn chế sử dụng đất nông nghiệp vào các mục đích tùy tiện, ảnh hưởng đến việc làm, thu nhập của dân cư ven đô. Đồng thời thúc đẩy việc giao đất, giao rừng cũng như cấp sổ đỏ quyền sử dụng đất cho nông dân sử dụng lâu dài để nhân dân yên tâm bỏ vốn đầu tư công tác trên đất được giao. Mặt khác, tạo thuận lợi cho nông dân vay vốn tại ngân hàng. Thứ năm, đổi mới và hoàn thiện hệ thống tài chính: - Cải cách bộ máy, cơ chế chính sách và công nghệ ngân hàng. Đặc biệt là cổ phần hóa và sắp xếp lại một bộ phận ngân hàng quốc doanh để có khả năng tăng vốn, tăng sức mạnh chủ đạo của ngân hàng quốc doanh và tăng độ an toàn cho hệ thống ngân hàng. Đối với các ngân hàng cổ phần cần có giải pháp làm lớn vốn tự có thông qua nhiều biện pháp: hoặc sát nhập, hoặc tăng cường huy động thêm cổ phần [9, 10]. Bên cạnh đó tổ chức lại hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân ở nông thôn; quản lý tốt hoạt động của các ngân hàng nước ngoài; tiếp tục chuyển các ngân hàng thương mại sang cơ chế kinh doanh đầy đủ. Cùng với việc đa dạng hóa các hình thức huy động vốn cần đẩy mạnh hoạt động kinh doanh đa năng, gắn chặt khả năng cung ứng vốn và nhu cầu sử dụng vốn trên địa bàn với cơ sở lãi suất tín dụng theo quan hệ cung cầu [17, 78]; tiếp tục hiện đại hóa công nghệ ngân hàng để giảm chi phí trong giao dịch, và nâng cao chất lượng tín dụng. - Đổi mới tổ chức và hoạt động bảo hiểm để hoạt động này mang tính cạnh tranh, vừa thực hiện kinh doanh bảo hiểm vừa thực sự trở thành một tổ chức tài chính tham gia vào quá trình huy động vốn. Đặc biệt nghiên cứu để hình thành Quỹ bảo hiểm tiền gửi và tiền vay đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp; hình thành Quỹ bình ổn giá nhằm đối phó với những biến động của thị trường, rủi ro trong thiên tai và dịch bệnh trong nông nghiệp. - Phát triển thị trường vốn, đặc biệt thị trường vốn ở nông thôn để huy động trực tiếp vốn trên thị trường này vào phát triển nông nghiệp. Đồng thời xây dựng và hoàn thiện các thể chế cho hoạt động và quản lý thị trường chứng khoán bước đầu hình thành ở Việt Nam (đã mở trụ sở giao dịch vào tháng 7/2000 tại thành phố Hồ Chí Minh). - Đổi mới hệ thống thanh tra tài chính cho phù hợp với cơ chế thị trường. Đẩy mạnh công tác kiểm toán đối với các hoạt động của nền kinh tế. Hoàn thiện hệ thống luật pháp tài chính, tạo môi trường lành mạnh khuyến khích huy động và sử dụng vốn có hiệu quả. 3.2.2.3. Đào tạo nghề cho lực lượng lao động ngoại thành nhằm nâng cao năng lực huy động và sử dụng vốn, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa. Thông qua công tác đào tạo nâng cao trình độ ứng dụng khoa học - công nghệ, kiến thức kinh nghiệm sản xuất cho nông dân. Qua khảo sát điều tra năm 1996 tại 65 xã (chiếm 40%) ở ngoại thành Hà Nội, cho thấy: Đa số nông dân ngoại thành chưa qua bất kỳ một trường, lớp đào tạo nghề nào mà chỉ đào tạo thông qua phương pháp "cha truyền, con nối" từ thế hệ này sang thế hệ khác. Do đó, trình độ sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là thâm canh trong nông nghiệp còn kém hiệu quả; tỷ lệ cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật nông nghiệp qua đào tạo ở nông thôn còn thấp (xem phụ lục 6). Vấn đề đặt ra là phải đẩy mạnh công tác đào tạo nghề nâng cao về số lượng và chất lượng cho lao động nông thôn. Trước hết, cần quán triệt một số điểm sau: - Các cấp các ngành phải coi đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp là nhiệm vụ cấp bách, lâu dài và là một giải pháp quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Đào tạo nghề, phải theo sát chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của khu vực nông thôn cả nước, khu vực ngoại thành Hà Nội; cơ cấu đào tạo nghề phải hợp lý cả về ngành nghề, cấp đào tạo cũng như nội dung đào tạo, chú ý kỹ năng thực hành nghề ngay trên ruộng đồng. - Thực hiện xã hội hóa đào tạo nghề; đa dạng hóa loại hình, hình thức đào tạo nghề phù hợp với đặc thù của lao động nông thôn, gắn đào tạo nghề với chuyển giao công nghệ, phổ biến kiến thức về khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; thu hút mọi nguồn lực cho công tác đào tạo nghề. Nhà nước và địa phương các cấp phải có chính sách hỗ trợ kinh phí dạy nghề cho lao động nông thôn. Xuất phát từ những quan điểm trên, trong những năm tới, công tác đào tạo nghề cho lao động ngoại thành Hà Nội cần tập trung vào: + Đào tạo bồi dưỡng về quản lý và kỹ thuật sản xuất cho gần 20 vạn hộ nông dân. + Đào tạo cán bộ quản lý và nghiệp vụ quản lý cho gần 500 hợp tác xã chuyển đổi theo Luật hợp tác xã mới, với gần 1.800 cán bộ chủ chốt các xã, bao gồm: 600 chủ nhiệm hợp tác xã và trưởng ban kiểm soát; 900 phó chủ nhiệm hợp tác xã và ủy viên quản trị; 300 kế toán trưởng [46, 34]. + Đào tạo công nhân, kỹ thuật viên cho các ngành trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, bảo quản và chế biến nông sản. + Đào tạo công nhân, kỹ thuật viên cho các ngành cơ khí, động lực, điện lạnh, sinh học phục vụ công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn. Đào tạo nghề theo hướng trên phải bao gồm hai loại hình: đào tạo nghề ngắn hạn và đào tạo nghề dài hạn. Cụ thể: Đào tạo nghề ngắn hạn cho gần 20 vạn hộ nông dân nhằm mục đích nâng cao kiến thức và kỹ năng về trồng từng loại cây, nuôi từng loại con; chế biến từng loại nông, lâm, thủy sản... Những nghề này do cơ sở dạy nghề đào tạo, nòng cốt là các trung tâm dạy nghề huyện, cơ sở dạy nghề của các tổ chức chính trị - xã hội (công đoàn, đoàn thanh niên, Hội nông dân, Hội phụ nữ...), với sự phối hợp của các trường trung học Nông nghiệp Hà Nội, các Trung tâm nghiên cứu khoa học- công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp đóng trên địa bàn Hà Nội. Bằng hình thức đào tạo nghề ngắn hạn có thể phổ biến kiến thức cho mọi lứa tuổi, kể cả những người không có điều kiện học tập trung và dài hạn. Đào tạo nghề dài hạn nhằm mục đích thu hút số lao động trẻ có trình độ văn hóa đã tốt nghiệp phổ thông cơ sở hoặc phổ thông trung học, hình thành đội ngũ công nhân kỹ thuật phục vụ phát triển nông nghiệp ngoại thành; chuẩn bị lực lượng lao động kỹ thuật nòng cốt cho các xí nghiệp, nông trường và trang trại. Đào tạo nghề dài hạn được tập trung ở các trường đại học; các trường đào tạo nghề dài hạn. Cần thiết phải phân công, phân cấp trách nhiệm cụ thể giữa các đầu mối, cơ quan có liên quan đến đào tạo nghề. Đối với Sở Giáo dục - Đào tạo Hà Nội, cần chỉ đạo tạo điều kiện để trường dạy nghề phối hợp chặt chẽ với các trường đại học, viện nghiên cứu, trung tâm thực nghiệm... để xây dựng nội dung chương trình đào tạo, tăng cường cơ sở vật chất phục vụ dạy học (phòng thí nghiệm, xưởng trường, vườn và trại trường...); củng cố, nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên. Đối với Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, cần thống nhất chương trình, nội dung đào tạo, nắm chắc số lượng và phân loại cán bộ huyện, quận để xây dựng kế hoạch đào tạo cán bộ hàng năm. Đối với Sở Kế hoạch và Đầu tư, trên cơ sở hoạch định đầu tư của Sở, giao chỉ tiêu kế hoạch và chỉ tiêu tài chính cho các trường dạy nghề. Đối với huyện, quận, xã cần hoạch định chiến lược cán bộ để đưa đi đào tạo; phối hợp với các trường nghề, cơ sở nghiên cứu trên địa bàn Hà Nội đào tạo các lớp ngắn hạn phổ biến rộng rãi kiến thức quản lý và kiến thức sản xuất cho nông dân. Khi công tác đào tạo nghề thực hiện tốt, trình độ dân trí, tay nghề và kinh nghiệm sản xuất của nông dân nâng lên, khả năng sử dụng vốn của họ có hiệu quả sẽ thúc đẩy việc huy động các nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn ngoại thành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 3.2.2.4. Đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế để đảm bảo huy động ngày càng có hiệu quả các nguồn vốn vào phát triển nông nghiệp ngoại thành Đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế đối với nông nghiệp bao gồm các nội dung: đổi mới việc thực hiện các chức năng quản lý về kinh tế đối với nông nghiệp; đổi mới, hoàn thiện các công cụ, quản lý kinh tế nông nghiệp và đổi mới tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với nông nghiệp. Thông qua đó sẽ có tác động tích cực đến việc huy động ngày càng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư; đảm bảo đầu tư được tập trung, có trọng tâm, trọng điểm, thúc đẩy nông nghiệp ngoại thành Hà Nội phát triển. Trước hết, cần phải đổi mới việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế đối với nông nghiệp. Về thực chất, quản lý nhà nước trong cơ chế thị trường đã có sự thay đổi căn bản so với thời kỳ thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Song, đổi mới nói chung, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế nông nghiệp nói riêng là một quá trình lâu dài, tuân thủ theo nấc thang của sự phát triển. Do đó cần tiếp tục nhận thức rõ vai trò, chức năng của quản lý nhà nước trong cơ chế thị trường, phân định rõ chức năng quản lý của nhà nước với quản lý sản xuất - kinh doanh. Quản lý nhà nước về kinh tế chỉ mang tính chất định hướng, không can thiệp quá sâu vào quá trình sản xuất - kinh doanh. Đồng thời, luôn quán triệt đặc điểm của sản xuất - kinh doanh trong nông nghiệp để tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước trong lĩnh vực này có hiệu quả. Đổi mới chức năng quản lý nhà nước đối với ngoại thành cần quán triệt mục tiêu, định hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn ngoại thành; đặc điểm kinh tế - xã hội của từng vùng, quận, huyện để có bước đi thích hợp. Trong thời gian tới, quản lý nhà nước về nông nghiệp ngoại thành cần hướng vào các công trình trọng điểm, quản lý chương trình, dự án phục vụ chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp: giảm diện tích trồng trọt, đặc biệt là giảm diện tích trồng lúa, chuyển sang trồng hoa cây cảnh, cây gia vị; tăng tỷ trọng chăn nuôi; hướng tới chương trình rau sạch, thịt sạch; bảo đảm vệ sinh môi trường sinh thái trong lành cho Thủ đô. Bên cạnh đó cần đổi mới chức năng điều tiết của nhà nước về giá cả, lãi suất; có sự trợ giá đối với nông sản hàng hóa, sử dụng tổng hợp các công cụ và chính sách kinh tế - xã hội thúc đẩy việc huy động vốn vào phát triển nông nghiệp; coi trọng kỷ cương, phép nước, kịp thời xử lý những sai phạm và phòng ngừa hữu hiệu hiện tượng tham nhũng, chống thất thoát vốn và tài sản trong các chương trình, dự án kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Chính quyền các cấp cần đặt trọng tâm kiểm tra, kiểm soát một số lĩnh vực quan trọng, như: việc thực hiện Luật đất đai, việc qui hoạch và xây dựng bảo vệ môi trường, kiểm soát công tác giết mổ gia súc... Thứ hai, đổi mới và hoàn thiện các công cụ quản lý kinh tế. Cần sử dụng tổng hợp các công cụ quản lý, trong đó chú trọng công tác kế hoạch hóa, thực hiện đồng bộ các chính sách và coi pháp luật là một trong những công cụ đóng vai trò quyết định. Thông qua việc đổi mới có hiệu quả công tác kế hoạch sẽ xây dựng và hình thành các vùng kinh tế ngoại thành. Trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô để xây dựng chiến lược phát triển nông nghiệp ngoại thành; xây dựng các chương trình, dự án kinh tế nông nghiệp cụ thể, sát đúng với xu hướng phát triển của thị trường. Trên cơ sở đó xây dựng chương trình, kế hoạch huy động tổng lực các nguồn vốn, bố trí, phân bổ vốn huy động được một cách hợp lý để đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động đầu tư. Tuy nhiên, cần nhận thức rằng, các kế hoạch chỉ mang tính chất định hướng. Vấn đề là ở chỗ phải định hướng đúng và sử dụng nhuần nhuyễn các công cụ để điều tiết kinh tế nông nghiệp phát triển, đáp ứng yêu cầu thị trường, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, từ đó tìm nguồn và huy động nguồn vốn để đầu tư phát triển. Thứ ba, phải đổi mới tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với lĩnh vực nông nghiệp. Trên cơ sở đổi mới chức năng quản lý; đổi mới và hoàn thiện các công cụ quản lý cần phải đổi mới bộ máy quản lý. Đổi mới bộ máy quản lý nông nghiệp phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ quản lý trong cơ chế mới. Đổi mới bộ máy quản lý nông nghiệp tốt sẽ có tác động tích cực trở lại thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Trên cơ sở đổi mới tổ chức bộ máy quản lý nhà nước từ Trung ương (ở lĩnh vực nông nghiệp), cần tiếp tục đổi mới bộ máy quản lý nhà nước đối với nông nghiệp ngoại thành từ cấp sở, phòng, cơ sở làm cho bộ máy quản lý nông nghiệp gọn, nhẹ, có hiệu quả, mà việc đầu tiên là phải tuân thủ các nguyên tắc của công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia; trong đó, khâu then chốt, có tính đột phá là cải cách thủ tục hành chính. Sắp xếp hợp lý cơ cấu bộ máy quản lý nông nghiệp trên cơ sở rà soát lại chức năng, nhiệm vụ của sở, phòng, ban và cơ sở. Nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các tổ chức trên. Qui định rõ chức năng, nhiệm vụ, phân công rành mạch rõ ràng để phối hợp được chặt chẽ, đồng bộ; đảm bảo sự điều hành tập trung, thống nhất, thông suốt và kỷ luật cao. Xét đến cùng, đổi mới tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với lĩnh vực nông nghiệp là nhằm huy động mọi nguồn lực, nhất là nguồn lực vốn vào phát triển nông nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế nông nghiệp ngoại thành nói riêng, nền kinh tế Thủ đô nói chung. Kết luận Vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, luận văn đã trình bày những luận cứ khoa học, các giải pháp cơ bản huy động vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội. Cụ thể, luận văn đã: - Hệ thống hóa lý luận cơ bản về vốn, về vai trò của nó đối với phát triển nông nghiệp nói chung, nông nghiệp ngoại thành nói riêng. - Phân tích khái quát những kinh nghiệm huy động, đầu tư vốn để phát triển nông nghiệp ở một số nước đang phát triển có những nét tương đồng với Việt Nam. Trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm có thể ứng dụng để huy động vốn phát triển nông nghiệp vùng ven đô. - Thông qua các số liệu, biểu bảng, luận văn đã đánh giá thực trạng huy động các nguồn vốn vào phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội thời gian qua. Đồng thời đánh giá những kết quả đạt được cũng như nêu lên những vấn đề còn tồn tại trong quá trình huy động vốn phát triển nông nghiệp, luận giải một số nguyên nhân cơ bản làm giảm hiệu quả huy động các nguồn vốn vào phát triển lĩnh vực này. - Khẳng định những quan điểm về tạo lập nguồn vốn trong nước, trên cơ sở phân tích, đánh giá phương thức huy động vốn trong nước để phát triển nông nghiệp nói chung, nông nghiệp ngoại thành nói riêng. Đồng thời nêu lên sự cần thiết phải đổi mới, đa dạng hóa các nguồn vốn và phương thức huy động vốn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng để phát triển nông nghiệp nói chung, nông nghiệp ngoại thành Hà Nội nói riêng trong cả trước mắt và tương lai. - Trên cơ sở phương hướng huy động vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành, luận văn đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh huy động có hiệu quả các nguồn vốn vào phát triển nông nghiệp, khai thác tối đa nguồn vốn địa phương, vùng lân cận cũng như nguồn vốn tài trợ của nước ngoài để phát triển nông nghiệp ngoại thành. Mặc dù luận văn đã cố gắng bám sát đối tượng cũng như phạm vi nghiên cứu, song do năng lực của bản thân có hạn nên một số nội dung luận văn mới dừng lại ở mức nêu lên tính lôgíc, tính hệ thống của vấn đề. Những đề xuất trong các giải pháp cũng chỉ là bước đầu và dừng lại ở một địa phương cụ thể là ngoại thành Hà Nội. Những đề xuất trên cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện và cụ thể hóa một cách đồng bộ nhằm nâng cao hơn nữa tính khả thi của chúng. Vì vậy, chắc chắn luận văn không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Tác giả xin chân thành cảm ơn và trân trọng sự chỉ dẫn của các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế nhằm nâng cao hơn nữa trình độ nhận thức của bản thân về lĩnh vực huy động vốn để phát triển kinh tế nói chung, nông nghiệp ngoại thành Hà Nội nói riêng. Danh mục tài liệu tham khảo Nguyễn Tuấn Anh, Chiến lược huy động và sử dụng vốn, tập 1 - Những giải pháp huy động vốn, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, Hà Nội, 1991. Ban Công nghiệp, thương mại - dịch vụ, Viện nghiên cứu chiến lược, Bộ kế hoạch và đầu tư, Hà Nội, 1998 Báo cáo quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội đến năm 2010 của thành phố Hà Nội, 12/1994. Báo cáo thống kê chi nhánh ngân hàng nhà nước thành phố Hà Nội từ năm 1991 - 1994. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 1998 của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, tháng 3/1999. Báo cáo kinh tế của Ngân hàng thế giới: Việt Nam chuẩn bị cất cánh? Làm thế nào Việt Nam có thể tham gia toàn diện vào quá trình phục hồi của Đông á - Hà Nội, tháng 12/1999. Phạm Đăng Binh và Nguyễn Văn Lập (dịch), Dictionary of Economic Penguin. Từ điển kinh tế, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Chương trình phân tích và lựa chọn chiến lược công nghiệp hóa, Hà Nội, 1994. Cao Cự Bội, Cải cách triệt để Ngân hàng - Tài chính. Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 100, thứ tư 16/12/1999. Chu Văn Cấp, Khuyến khích đầu tư trong nước. Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 1/1994. Trần Mai Chi, Công nghiệp hóa dựa trên cơ sở hy sinh nông nghiệp - Những bài học kinh nghiệm rút ra từ Đài Loan và Hàn Quốc. Tạp chí Kinh tế nông nghiệp, số 6/1998. Trần Văn Chử (chủ biên), Kinh tế học phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Nguyễn Sinh Cúc và TS Nguyễn Văn Tiêm, Đầu tư trong nông nghiệp - Thực trạng và triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995. ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành TW, khóa VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội ,1995 ĐCSVN: Dự thảo văn kiện Hội nghị TW 7, khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành TW khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998. ĐCSVN: Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998. Dự án điều tra và kiến nghị các chính sách huy động các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố Hà Nội: chuyên đề đề xuất các cơ chế, chính sách nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách và có nguồn gốc từ ngân sách phục vụ phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô, Hà Nội, 2/1999. Trần Thọ Đạt, Trần Đình Toàn, Tín dụng ở các nước đang phát triển và những bài học cho nước ta, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 250, tháng 3/1999. Nguyễn Điền, (chủ biên), Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn các nước châu á và Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. Malcolm Gillis (và các tác giả), Kinh tế học của sự phát triển, tập 1, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Hà Nội, 1990. Malcolm Gillis (và các tác giả), Kinh tế học của sự phát triển, tập 2, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Hà Nội, 1990. Hội nông dân thành phố Hà Nội, Ban chấp hành Hội nông dân huyện Từ Liêm, Báo cáo tổng kết công tác Hội nông dân năm 1996 và phương hướng, nhiệm vụ của Hội nông dân, tháng 12/1996. Lê Mạnh Hùng (chủ biên), Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1998. Lê Mạnh Hùng (chủ biên), Kinh tế - xã hội Việt Nam 3 năm (1996 - 1998) và dự báo năm 2000, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1999. Lâm Quang Huyên, Cần tiếp tục quán triệt quan điểm "Khoan sức dân". Báo Đầu tư, số ra ngày thứ năm, 4/11/1999. Kinh tế Việt Nam 1998 - 1999: Việt Nam và thế giới. Thời báo Kinh tế Việt Nam, số chuyên đề tháng 1/2000. Nguyễn Văn Lai, Những giải pháp chủ yếu nhằm huy động vốn trong nước phục vụ phát triển kinh tế Việt Nam (luận án TS kinh tế), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1996. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 24, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 25, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994. Nghị định số 72/CP ngày 26/7/1994 của Chính phủ ban hành qui chế phát hành trái phiếu của Chính phủ. Nghị định số 120/CP ngày 17/9/1994 của Chính phủ ban hành tạm thời về việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước. Nghị định số 28/CP ngày 7/5/1995 của Chính phủ về việc chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Niên giám thống kê 1999. Cục Thống kê Hà Nội, Hà Nội 2000. Nguyễn Minh Phong và Nguyễn Duy Phong, Định hướng chính sách tài chính Thủ đô, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 237, tháng 4/1998. Nguyễn Minh Phong, Cần làm gì để cải thiện các nguồn vốn cho tăng trưởng kinh tế ở nước ta, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 4/1999. Vũ Văn Phúc, Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của thành phố Hà Nội: Thành tựu - vấn đề nảy sinh và giải pháp, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 5/1999. Đinh Văn Phượng, Thu hút và sử dụng vốn đầu tư để phát triển kinh tế miền núi phía Bắc nước ta (Luận án tiến sĩ kinh tế), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1996. Mạnh Quân, Sâu mọt từ cấp phường, xã? Báo Đầu tư, ra ngày 4/3/1999. Quyết định 211/QĐ/NH1 và Quyết định 212/QĐ/NH1, ngày 22/9/1994 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Đ.I.Rôdenbe, Giới thiệu quyển III bộ "Tư bản" của C.Mác, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1973. Số liệu thống kê của khối kinh tế - kế hoạch, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Hà Nội, tháng 6/2000. Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, Báo cáo tóm tắt điều tra khảo sát kinh tế trang trại ngoại thành Hà Nội, tháng 11/1999. Phạm Văn Sơn và Đoàn Xuân Tiến, Nhu cầu đào tạo nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn ngoại thành Hà Nội, Tạp chí Giáo dục đại học và chuyên nghiệp, số 8/1999. Đặng Văn Thanh, Các giải pháp tài chính khuyến khích tăng trưởng kinh tế. Tạp chí Tài chính số 9/1999. Phạm Đức Thành, Một số vấn đề về nguồn nhân lực Thủ đô, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 34, Tháng 1 +2/2000. Lê Đình Thắng (chủ biên), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1998. Thông tư 91/TS/KBNN ngày 5/11/1994 của Bộ Tài chính hướng dẫn chi tiết phát hành trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước. Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 62, ngày 19/11/1999. Hoàng Việt Trung, Tín dụng ngân hàng trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn Hà Nội (Luận án TS kinh tế), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1996. Trường Đại học kinh tế quốc dân, Bộ môn kinh tế nông nghiệp, Kinh tế nông nghiệp, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1996. Đỗ Thế Tùng, Tín dụng cho người nghèo ở nông thôn, Tạp chí Ngân hàng, số 6/1991. ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội. Đề án chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thành phố Hà Nội, Hà Nội, 1995. ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XII, Nxb Hà Nội, 1996. ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn, Định hướng phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn Hà Nội đến năm 2010, Hà Nội, 1997. ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Báo cáo tham luận đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn ngoại thành Hà Nội, Hà Nội, tháng 12/1998. ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Phát triển kinh tế ngoại thành Thủ đô theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giai đoạn 2000 - 2005, Hà Nội, tháng 4/2000. ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Hội Nông dân thành phố Hà Nội, Báo cáo khoa học đề tài "Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp đầu tư, quản lý, sử dụng vốn vay cho sản xuất của Nhà nước đối với hộ nông dân ở Hà Nội", Hà Nội, 2000. ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Phương hướng và giải pháp đầu tư xây dựng hạ tầng phát triển nông nghiệp và kinh tế ngoại thành Hà Nội, tháng 4/2000. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng; Hà Nội - Đà Nẵng, năm 2000. Bùi Thị Xô, Định hướng phát triển cơ cấu kinh tế nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn Hà Nội. Thông tin nông nghiệp Thủ đô, số 1/2000. I.Đ.Uđanxốp và F.I.Pôlilanxki, Lịch sử tư tưởng kinh tế, phần thứ nhất, tập II, Nxb Khoa học - xã hội, Hà Nội 1994. I.Đ.Uđanxốp và F.I.Pôlilanxki, Lịch sử tư tưởng kinh tế, phần thứ nhất, tập III, Nxb Khoa học - xã hội, Hà Nội 1994. Phụ lục 1 Bình quân đất nông nghiệp/ nhân khẩu nông nghiệp một số nước ASEAN, đồng bằng sông Hồng và Hà Nội TT Nước, vùng Bình quân đất nông nghiệp/nhân khẩu (ha) Năm tính toán Hà Nội so với các nước và các vùng (%) 1 2 3 4 5 6 7 Indônêxia Malaixia Philippin Thái Lan Việt Nam Đồng bằng sông Hồng Hà Nội 0,27 2,9 0,27 0,69 0,103 0,056 0,048 1991 1991 1991 1991 1994 1994 1994 17,8 1,65 17,8 6,96 46,4 86,3 Nguồn: Tư liệu kinh tế 7 nước ASEAN, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1996; một số tư liệu của cuộc tổng điều tra nông nghiệp và nông thôn 1994, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1996 [2]. Phụ lục 2 Cơ cấu kinh tế của thành phố Hà Nội (theo giá thực tế) Chỉ tiêu 1990 1995 1996 1997 1998 Tổng GDP (%) Trong đó: - Nông, lâm nghiệp - Công nghiệp, xây dựng - Thương mại, dịch vụ 100 9,0 29,5 61,5 100 5,4 33,0 61,6 100 5,1 34,9 60,0 100 4,7 35,3 60,0 100 3,9 36,5 59,6 Tổng GDP (triệu đồng) Trong đó: - Nông, lâm nghiệp - Công nghiệp, xây dựng - Thương mại, dịch vụ 2.285.151 205.664 670.120 1.405.367 14.499.425 782.969 4.784.820 8.931.646 17.292.271 881.906 6.035.003 10.375.362 20.070.838 943.329 7.085.009 12.042.500 22.948.872 986.802 8.307.492 13.654.578 Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội 1999, Cục Thống kê Hà Nội [36]. Phụ lục 3 Nông nghiệp Hà Nội so với cả nước năm 1997 TT Chỉ tiêu Đơn vị tính Cả nước (1) Hà Nội (2) So sánh (2/1) 1 2 3 4 5 6 7 8 Giá trị sản xuất nông nghiệp GDP nông nghiệp Diện tích đất nông nghiệp Giá trị sản xuất nông nghiệp/ha Giá trị sản xuất nông nghiệp/ha GDP nông nghiệp/ha GDP nông nghiệp/ha Cơ cấu nông nghiệp (%) Trong đó: - Trồng trọt - Chăn nuôi 109 đồng 109 đồng 103 ha 103 đồng USD 103 đồng USD % % 97.812 77.520 7.367,2 13,3 1.209 10,5 955 77,6 19,7 1.459,6 912,7 43,76 33,3 3.027 20,8 1.891 61,3 38,7 1,49 1,18 0,59 250,4 198,0 79,0 196,6 Nguồn: Theo tính toán Ban Công nghiệp - Thương mại, dịch vụ, Viện Nghiên cứu chiến lược, Bộ kế hoạch và đầu tư [2]. Phụ lục 4 Tình hình sản xuất lương thực đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nông nghiệp ngoại thành Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998 - Bình quân lương thực kg/người - Bình quân lương thực/nhân khẩu nông nghiệp + Tự túc nhu cầu (%) + Thời hạn tự túc (tháng) 104,5 324,8 48,3 5 97,6 310,6 45,1 5 93,9 289,6 43,4 5 95,0 295,7 440,0 5 Nguồn: [55]. Phụ lục 6 Tình hình đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật ngoại thành Trình độ đào tạo Đơn vị tính Các huyện Gia Lâm Đông Anh Thanh Trì Từ Liêm Sóc Sơn - Cán bộ có trình độ đại học - Cán bộ trung học nông nghiệp - Công nhân - Bình quân cán bộ / xã người người người % 11 188 16 15,6 19 251 32 25,1 - 120 - 12 - 256 8 17 16 96 - 8,5 Nguồn: [46] Phụ lục 7 Tổng hợp tình hình huy động vốn của Hà Nội Đơn vị: Tỷ đồng 1996 1997 1998 1999 DK2000 Tổng số I/ Vốn trong nước 1. Vốn đầu tư của Nhà nước - Vốn ngân sách - Vốn tín dụng đầu tư của NN 2. Vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng huy động trực tiếp 3. Vốn các DNNN tự huy động 4. Vốn huy động của các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước 5. Vốn dân đóng góp xây dựng đường làng ngõ xóm 6. Vốn dân tự xây dựng nhà ở II/ Vốn nước ngoài 1. Vốn FDI 2. Vốn ODA 3. Vốn NGO 17334,3 10357,3 1907,3 1498,2 409,1 4623 1612 1900 150 165 6977 6655 302 20 20744,2 11920,2 2321,2 1736 585,2 5348 1791 2088 200 172 8824 8544 240 40 21481 14250 2255 1574 681 8297 1438 1860 150 250 7231 6786 445 - 22873 17152 2500 1700 800 9984 1500 2668 200 300 5721 4550 1171 - 27100 21800 2850 1850 1000 13200 1800 3200 350 400 5300 4550 750 - Nguồn: [19] Phụ lục 8 Nguồn vốn của trang trại ngoại thành Hà Nội Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêu Tổng Sóc Sơn Đông Anh Từ Liêm Gia Lâm Thanh Trì I. Thời điểm bắt đầu Trong đó: 1. Vốn tự có 2. Vốn vay + Vay trực tiếp từ ngân hàng + Vay đầu tư ứng trước + Vay dự án + Vay khác 3. Vốn khác 20511,34 12275,13 5945 2374,9 372,5 134,9 3062,7 1977,4 2066,65 1520,05 415,6 192,9 1,5 21,5 199,7 118 4929,04 3980,14 928,9 376 0 13,4 539,5 0 3111,1 1818,60 1214 336,5 10 3 864,5 91,5 2495,817 1827,31 570,5 231,5 71 10 258 154,2 7905,73 3129,03 2816 1238 290 87 1201 1613,7 II. Đến 30-4-1999 40110,34 6468,09 7244,83 6667,48 5693,45 14036,49 Trong đó: 1. Vốn tự có 2. Vốn vay + Vay trực tiếp từ ngân hàng + Vay đầu tư ứng trước + Vay dự án + Vay khác 3. Vốn khác 29921,89 6019,6 2,166 489 258 3,106 3342,49 5600,57 812 347 0 151 313,5 49,82 6318,13 761 154 0 10 597 45 4630,02 1,534 409,7 101 2 1021,57 501,2 4911,68 302 63 28 0 211 362,07 8461,49 2610,6 1192,5 360 95 963,1 2384,4 Nguồn: [45] ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2613.DOC
  • docLVTS0023.DOC
Tài liệu liên quan