Vốn kinh doanh và những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không - Tổng Công ty Hàng không Việt Nam

lời mở đầu Mỗi doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế, là nơi tổ chức kết hợp các yếu tố của quá trình sản xuất để tạo ra của cải vật chất của xã hội, tạo nguồn tích luỹ cho xã hội phát triển. Trong giai đoạn hiện nay, để có thể tồn tại và đứng vững trong một nền kinh tế thị trường mà đặc trưng của nó là sự cạnh tranh thì mỗi doanh nghiệp cần phải xác định đúng mục tiêu, hướng đi của mình. Trước đòi hỏi của cơ chế hạch toán kinh doanh, để đáp ứng yêu cầu không ngừng cải thiện đời sống vật

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1157 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vốn kinh doanh và những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không - Tổng Công ty Hàng không Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chất và tinh thần cho người lao động thì vấn đề nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đã trở thành mục tiêu hàng đầu của mỗi doanh nghiệp. Để đạt được hiệu quả trong quá trình sản xuất kinh doanh thì ngay từ đầu doanh nghiệp cần có kế hoạch huy động và sử dụng vốn của mình. Doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả là doanh nghiệp mà vẫn đồng vốn đó nhưng tạo ra lợi nhuận cao. Khi đầu tư có hiệu quả ta có thể thu hồi được vốn nhanh và có thể tiếp tục quay vòng vốn, số vòng quay vốn càng nhiều càng có lợi cho doanh nghiệp và có thể thắng được đối thủ trong cạnh tranh. Việc sử dụng vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn giữ vai trò quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp mà tài chính doanh nghiệp lại đóng vai trò quan trọng trong việc lựa chọn đầu tư trên cơ sở đó phân tích khả năng sinh lời và rủi ro của các đầu tư, từ đó lựa chọn các phương án đầu tư tối ưu nhất. Qua thời gian học tập, nghiên cứu tại trường và thực tập tại Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không - Tổng công ty Hàng không Việt Nam, dưới sự hướng dẫn của cô giáo Phương Thị Hồng Hà và sự giúp đỡ tận tình của phòng Tài chính kế toán Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không em mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “Vốn kinh doanh và những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không - Tổng công ty Hàng không Việt Nam”. Nội dung đề tài chia làm 3 phần sau : Chương I : Lí luận chung về vốn kinh doanh và những biện pháp nâng cao hiệu quả vốn kinh doanh ở các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Chương II : Thực trạng về tình hình tổ chức và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không - Tổng công ty Hàng không Việt Nam. Chương III: Một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh tổ chức và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không - Tổng công ty Hàng không Việt Nam. Chương I Lý luận chung về vốn kinh doanh và những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường 1. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường: 1.1. Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh: Theo Điều 3 luật doanh nghiệp năm 1999, doanh nghiệp là tổ kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh. Như vậy, một chủ thể muốn trở thành DN phải hội tụ đủ các đặc trưng sau: - Có đầy đủ các đặc điểm của chủ thể kinh doanh (có VKD, có hành vi kinh doanh, được đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật và chịu sự quản lý của Nhà nước) - Phải là một tổ chức, nghĩa là một thực thể pháp lý được kết hợp bởi các yếu tố trên nhiều phương diện (có tên riêng, có tài sản, trụ ổn định, con dấu riêng...) - Doanh nghiệp không phải là một tổ chức chính trị hay xã hội mà là một tổ chức kinh tế, nghĩa là tổ chức đó phải lấy hoạt động sản xuất kinh doanh làm chủ yếu và hoạt động này phải có tính liên tục. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, nước ta đã thực hiện chính sách đa dạng hoá các thành phần kinh tế. Tương ứng với mỗi thành phần kinh tế có một loại hình doanh nghiệp nhất định. Các DN đều phải tiến hành hạch toán kinh doanh là lấy thu bù chi đảm bảo có lãi, các doanh nghiệp có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trước pháp luật. 1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường: Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay thành công hay thất bại phần lớn phụ thuộc vào tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mô hình tổ chức doanh nghiệp không nên xem xét ở trạng thái tĩnh mà nó luôn luôn ở trạng thái vận động. Tuỳ những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể mà có những mô hình tổ chức khác nhau. Tuy nhiên, các mô hình tổ chức doanh nghiệp đều chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ yếu sau đây: 1.2.1. Hình thức pháp lý tổ chức của các doanh nghiệp: Theo hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp hiện hành, ở nước ta hiện có các loại hình doanh nghiệp chủ yếu sau đây: Doanh nghiệp Nhà nước Công ty cổ phần Công ty trách nhiệm hữu hạn Doanh nghiệp tư nhân Những đặc điểm riêng về mặt hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp giữa các doanh nghiệp trên có ảnh hưởng rất lớn đến việc tổ chức tài chính của DN như: Tổ chức và huy động vốn Phân phối lợi nhuận Dưới đây xem xét việc tổ chức quản lý của một số doanh nghiệp phổ biến: 1.2.1.1. Doanh nghiệp Nhà nước: Doanh nghiệp nhà nước là một tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh, hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội do Nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước mới thành lập được ngân sách nhà nước đầu tư toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ ban đầu nhưng không thấp hơn tổng mức vốn pháp định của các ngành nghề mà doanh nghiệp đó kinh doanh. Ngoài số vốn Nhà nước đầu tư, DNNN được quyền huy động vốn dưới hình thức như phát hành trái phiếu, vay vốn, nhận vốn góp liên kết liên doanh và các hình thức sở hữu của DN và phải tuân theo các quy định của pháp luật hiện hành. Việc phân phối lợi nhuận sau thuế (lợi nhuận sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp) được thực hiện theo quy định của Chính phủ. Doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn doanh nghiệp quản lý. Như vậy, có thể thấy doanh nghiệp nhà nước chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp. 1.2.1.2. Công ty cổ phần: Công ty cổ phần là một công ty trong đó: - Các thành viên cùng góp vốn dưới hình thức cổ phần để hoạt động. - Số vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau được gọi là cổ phần - Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. - Cổ đông có quyền tự do chuyện nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp có quy định của pháp luật. - Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ động tối thiểu là 3 và không hạn chế số lượng tối đa. Hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần các đặc điểm: + Công ty cổ phần là một thực thể pháp lý có tư cách pháp nhân, các thành viên góp vốn vào công ty dưới hình thức mua cổ phiếu. Trong quá trình hoạt động, công ty có thể phát hành thêm cổ phiếu mới để huy động thêm vốn (nếu có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện theo luật định) điều đó tạo cho công ty có thể dễ dàng tăng thêm vốn chủ sở hữu trong kinh doanh. + Các chủ sở hữu có thể chuyển quyền sở hữu về tài sản của mình cho người khác mà không làm gián đoạn các hoạt động kinh doanh của công ty và có quyền hưởng lợi tức cổ phần, quyền biểu quyết, quyền tham dự và bầu Hội đồng quản trị. + Quyền phân chia lợi tức sau thuế thuộc các thành viên của công ty quyết định. + Chủ sở hữu của công ty chỉ chịu TNHH trên phần vốn mà họ góp vào công ty. 1.2.1.3.Công ty trách nhiệm hữu hạn: Theo Luật doanh nghiệp hiện hành ở nước ta, có hai dạng công ty trách nhiệm hữu hạn: Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. - Công ty TNHH (có hai thành viên trở lên) là doanh nghiệp trong đó: + Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vốn vào doanh nghiệp. + Phần vốn góp của các thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định của pháp luật (theo quy định tại điều 32 – Luật doanh nghiệp). + Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng thành viên theo quy định của pháp luật. Thành viên phải góp vốn đầy đủ và đúng hạn như đã cam kết. Ngoài phần vốn góp vốn của thành viên, công ty có quyền lựa chọn hình thức và cách thức huy động vốn theo quy định của pháp luật nhưng không được quyền phát hành cổ phiếu. Thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn có quyền chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp, nhưng trước hết phải chào bán phần vốn đó cho tất cả các thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty. Chỉ được chuyển nhượng có người không phải là thành viên nếu các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc không mua hết. Thành viên có quyền yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp của mình, nếu thành viên đó bỏ phiếu chống hoặc phản đối bằng văn bản đối với quyết định của Hội đồng thành viên về các vấn đề: Tổ chức lại công ty Các trường hợp khác quy định tại điều lệ công ty. Trong quá trình hoạt động, theo quyết định của Hội đồng thành viên,công ty có thể tăng hoặc giảm vốn theo qui định của pháp luật. Hội đồng thành viên của công ty quyết định phương án sử dụng và phân chia lợi nhuận hoặc phương án xử lý lỗ của công ty. - Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên: Là doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu, chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ về tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn điều lệ của doanh nghiệp. Công ty có quyền lựa chọn hình thức và cách thức huy động vốn, tuy nhiên công ty không được quyền phát hành cổ phiếu. Chủ sở hữu công ty không trực tiếp rút một phần hoặc toàn bộ số vốn đã góp vào công ty, chỉ được quyền rút vốn bằng cách chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn cho tổ chức hoặc cá nhân khác. Chủ sở hữu công ty là người quyết định sử dụng lợi nhuận sau thuế. 1.2.1.4. Doanh nghiệp tư nhân: Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy, chủ doanh nghiệp tư nhân là người bỏ vốn đầu tư của mình và cũng có thể huy động thêm vốn từ bên ngoài dưới hình thức đi vay. Trong khuôn khổ của luật pháp, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tự do kinh doanh và chủ động trong mọi hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên loại hình doanh nghiệp này không được phép phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào để huy động vốn trên thị trường. Qua đó cho thấy nguồn vốn của doanh nghiệp tư nhân là hạn hẹp, loại hình doanh nghiệp này thường thích hợp với kinh doanh quy mô nhỏ. Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền quyết định đối với tất cả các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, có quyền cho thuê toàn bộ doanh nghiệp của mình, có quyền bán doanh nghiệp của mình cho người khác hoặc có quyền tạm ngừng hoạt động kinh doanh. Việc thực hiện cho thuê hay bán doanh nghiệp hoặc tạm ngừng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải tuân thủ các yêu cầu của của pháp luật hiện hành. Phần thu nhập sau thuế thuộc quyền sở hữu và sử dụng của chủ doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh, chủ doanh nghiệp tư nhân tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình. Điều đó cũng có nghĩa là về mặt tài chính chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp. Đây cũng là một điều bất lợi của loại hình doanh nghiệp này. 1.2.1.5. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định các hình thức đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam gồm có doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư một phần hoặc toàn bộ vốn nhằm thực hiện các mục tiêu chung là tìm kiếm lợi nhuận, có tư cách pháp nhân, tổ chức và hoạt động theo quy chế của công ty trách nhiệm hữu hạn và tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam. Doanh nghiệp liên doanh có đặc điểm: Phần vốn góp của bên ngoài vào vốn pháp định không hạn chế ở mức tối đa nhưng lại hạn chế ở mức tối thiểu, tức là không được thấp hơn 30% của vốn pháp định, trừ những trường hợp do Chính phủ quy định. Việc góp vốn của các bên tham gia có thể bằng tiền nước ngoài, tiền Việt Nam, tài sản hiện vật, giá trị quyền sở hữu công nghiệp, giá trị quyền sử dụng đất, các nguồn tài nguyên thiên nhiên...theo quy định của pháp luật tại Việt Nam (có quy định cụ thể cho mỗi bên nước ngoài và Việt Nam). Các bên trong doanh nghiệp liên doanh có quyền chuyển nhượng giá trị phần vốn của mình, nhưng phải ưu tiên chuyển nhượng cho các bên trong liên doanh. Lợi nhuận sau thuế thu nhập của doanh nghiệp liên doanh được trích lập quỹ dự phòng tài chính, quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng. Việc các nhà đầu tư nước ngoài có lợi nhuận và muốn chuyển số lợi nhuận đó về nước họ thì phải nộp một khoản thuế về việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài tuỳ thuộc vào mức vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài: là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn thành lập tại Việt Nam. Tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài do nhà đầu tư nước ngoài quy định trên cơ sở quy chế pháp lý về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. 1.2.2. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành kinh doanh: Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành kinh doanh có ảnh hưởng không nhỏ tới doanh nghiệp. Mỗi ngành kinh doanh có những đặc điểm về mặt kinh tế và kỹ thuật khác nhau. Những ảnh hưởng đó thể hiện: 1.2.2.1. ảnh hưởng của tính chất ngành kinh doanh: ảnh hưởng này thể hiện trong thành phần cơ cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp, ảnh hưởng tới quy mô của vốn sản xuất – kinh doanh, cũng như tỷ lệ thích ứng để hình thành và sử dụng chúng, do đó có ảnh hưởng tới tốc độ luân chuyển vốn (vốn cố định và vốn lưu động), ảnh hưởng tới phương pháp đầu tư, thể thức thanh toán chi trả. 1.2.2.2. ảnh hưởng của tính thời vụ và chu kỳ sản xuất - kinh doanh: Tính thời vụ và chu kỳ sản xuất có ảnh hưởng trước hết đến nhu cầu vốn sử dụng và doanh thu tiêu thu sản phẩm. Những doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ ngắn thì nhu cầu vốn lưu động giữa các thời kỳ trong năm thường không có biến động lớn, doanh nghiệp cũng thường xuyên thu được tiền bán hàng, điều đó giúp cho doanh nghiệp dễ đàng đảm bảo sự cân đối giữa thu và chi bằng tiền, cũng như trong việc tổ chức và đảm bảo nguồn vốn cho nhu cầu kinh doanh. Những doanh nghiệp sản xuất ra những loại sản phẩm có chu kỳ sản xuất dài phải ứng ra một lượng vốn lưu động giữa các quý trong năm thường có sự biến động lớn, tiền thu về bán hàng cũng không được đều, tình hình thanh toán, chi trả cũng thường gặp những khó khăn. Cho nên việc tổ chức đảm bảo nguồn vốn cũng như đảm bảo sự cân đối giữa thu và chi bằng tiền của doanh nghiệp cũng khó khăn hơn. 1.2.2.3. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp: Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng hoạt động trong một môi trường kinh doanh nhất định. Môi trường kinh doanh bao gồm tất cả những điều kiện bên ngoài ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh có tác động mạnh mẽ đến mọi hoạt động của doanh nghiệp trong đó có hoạt động tài chính. Dưới đây chủ yếu xem xét tác động của môi trường kinh doanh đến hoạt động tài chính doanh nghiệp. - Sự ổn định của nền kinh tế: Sự ổn định hay không ổn định của nền kinh tế, của thị trường có ảnh hưởng trực tiếp tới mức doanh thu của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến nhu cầu về vốn kinh doanh. Những tác động của nền kinh tế có thể gây nên những rủi ro trong kinh doanh mà các nhà tài chính doanh nghiệp phải lường trước, những rủi ro đó ảnh hưởng tới các khoản chi phí về đầu tư, chi phí trả lãi hay tiền thuê nhà xưởng, máy móc thiết bị hay việc tìm nguồn vốn tài trợ. Nền kinh tế ổn định và tăng trưởng tới một tốc độ nào đó thì doanh nghiệp muốn duy trì và giữ vững vị trí của mình, cũng phải phấn đấu để phát triển với nhịp độ tương đương. Khi doanh thu tăng lên, sẽ đưa đến việc gia tăng tài sản, các nguồn doanh nghiệp và các loại tài sản khác. Khi đó, các nhà tài chính doanh nghiệp phải tìm nguồn tài trợ cho sự mở rộng sản xuất, sự tăng tài sản đó. - ảnh hưởng của giá cả thị trường, lãi suất và tiền thuế: Giá cả thị trường, giá cả sản phẩm mà doanh nghiệp tiêu thu có ảnh hưởng lớn tới doanh thu do đó ảnh hưởng lớn tới khả năng tìm kiếm lợi nhuận. Cơ cấu tài chính của doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng nếu có sự thay đổi về giá cả. Sự tăng, giảm lãi suất và giá cổ phiếu cũng ảnh tới sự tăng giảm về chi phí tài chính và sự hấp dẫn của các hình thức tài trợ khác nhau. Mức lãi suất cũng là một yếu tố đo lường khả năng huy động vốn vay. Sự tăng hay giảm thuế cũng ảnh hưởng trực tiếp tới tình hình kinh doanh, tới khả năng tiếp tục đầu tư hay rút khỏi đầu tư. Tất cả các yếu tốt trên có thể được các nhà quản lý tài chính doanh nghiệp sử dụng để phân tích các hình thức tài trợ và xác định thời gian tìm kiếm các nguồn vốn trên thị trường tài chính. - Sự cạnh tranh trên thị trường và sự tiến bộ kỹ thuật, công nghệ: Sự cạnh tranh về sản phẩm đang sản xuất và các sản phẩm tương lai giữa các doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn tới kinh tế, tài chính của doanh nghiệp và có liên quanh chặt chẽ đến khả năng tài trợ để doanh nghiệp tồn taị và tăng trưởng trong một nền kinh tế luôn luôn biến đổi và người giám đốc tài chính phải chịu trách nhiệm về việc cho doanh nghiệp hoạt động khi cần thiết. Cũng tương tự như vậy, sự tiến bộ kỹ thuật và công nghệ đòi hỏi doanh nghiệp phải ra sức cải tiến kỹ thuật, quản lý, xem xét và đánh giá lại toàn bộ tình hình tài chính, khả năng thích ứng với thị trường, từ đó đề ra những chính sách thích hợp cho doanh nghiệp. - Chính sách kinh tế và tài chính của Nhà nước đối với doanh nghiệp: Như chính sách khuiyến khích đầu tư, chính sách thuế, chính sách xuất khẩu, nhập khẩu, chế độ khấu hao tài sản cố định... Đây là những yếu tố tác động lớn đến các vấn đề tài chính của doanh nghiệp. - Sự hoạt động của thị trường tài chính và hệ thống các tổ chức tài chính trung gian: Hoạt động của doanh nghiệp gắn liền với thị trường tài chính, nơi mà doanh nghiệp có thể huy động vốn hay đầu tư những khoản tài chính tạm thời nhàn rỗi. Sự phát triển của thị trường tài chính làm nảy sinh các công cụ tài chính mới, doanh nghiệp có thể sư dụng để huy động vốn đầu tư. Chẳng hạn, khi xuất hiện hình thức thuê tài chính, doanh nghiệp có thể nhờ đó giảm bớt được số vốn cần đầu tư hoặc khi hình thành thị trường chứng khoán, doanh nghiệp có thêm phương tiện để huy động vốn hay đầu tư vốn...Sự phát phát triển và hoạt động có hiệu quả của các tổ chức tài chính trung gian như ngân hàng thương mại, công ty tài chính, quỹ tín dụng...cũng tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp huy động vốn. Khi xem xét tác động của môi trường kinh doanh, không chỉ xem xét ở phạm vi trong nước mà cần phân tích đánh giá cả môi trường khu vực và thế giới, vì biến động về kinh tế - tài chính trong khu vực và trên thế giới tác động không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của một nước. 2. Vốn kinh doanh và nguồn hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp: 2.1. Vốn kinh doanh: 2.1.1. Khái niệm về vốn kinh doanh: Để tiến hành bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào, doanh nghiệp cũng cần phải có vốn. Vốn kinh doanh là điều kiện tiên quyết có ý nghĩa quyết định đến quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được hiểu là số tiền ứng trước về toàn bộ tài sản hữu hình và tài sản vô hình phục vụ cho sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích kiếm lời. Khi phân tích hình thái biểu hiện và sự vận động của vốn kinh doanh, cho thấy những đặc điểm nổi bật sau: - Vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp là một loại quỹ tiền tệ đặc biệt. Mục tiêu của quỹ là để phục vụ cho sản xuất - kinh doanh tức là mục đích tích luỹ, không phải là mục đích tiêu dùng như một vài quỹ khác trong doanh nghiệp. - Vốn kinh doanh của doanh nghiệp có trước khi diễn ra hoạt động sản xuất - kinh doanh. - Vốn kinh doanh của doanh nghiệp sau khi ứng ra, được sử dụng vào kinh doanh và sau mỗi chu kỳ hoạt động phải được thu về để ứng tiếp cho kỳ hoạt động sau. - Vốn kinh doanh không thể mất đi. Mất vốn đối với doanh nghiệp đồng nghĩa với nguy cơ phá sản. Cần thấy rằng có sự phân biệt giữa tiền và vốn. Thông thường có tiền sẽ làm nên vốn, nhưng tiền chưa hẳn là vốn. Tiền được gọi là vốn phải đồng thời thoả mãn những điều kiện sau: - Một là: Tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định. Hay nói cách khác, tiền phải được đảm bảo bằng một lượng tài sản có thực. - Hai là: Tiền phải được tích tụ và tập trung ở một lượng nhất định. Sự tích tụ và tập trung lượng tiền đến hạn độ nào đó mới làm cho nó đủ sức để đầu tư vào một dự án kinh doanh nhất định. - Ba là: Khi tiền đủ lượng phải được vận động nhằm mục đích kiếm lời. Cách thức vận động của tiền là doanh nghiệp phương thức đầu tư kinh doanh quyết định. Phương thức đầu tư của một doanh nghiệp, có thể bao gồm: + Đối với đầu tư cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, công thức vận động của vốn như sau: TLSX T - H ...SX...H’ - T’ SLĐ + Đối với đầu tư cho lĩnh vực thương mại, công thức đơn giản hơn: T - H - T’ + Đối với đầu tư mua trái phiếu hoặc cổ phiếu, góp vốn liên doanh thì công thức vận động là: T - T’ 2.1.2. Đặc trưng của vốn kinh doanh: - Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là số tiền ứng trước cho hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Tất nhiên muốn có được lượng vốn đó, các doanh nghiệp phải chủ động khai thác, thu hút vốn trên thị trường. - Mục đích vận động của tiền vốn là sinh lời. Nghĩa là vốn ứng trước cho hoạt động sản xuất - kinh doanh phải được thu hồi về sau mỗi chu kỳ sản xuất, tiền vốn thu hồi về phải lớn hơn số vốn đã bỏ ra. 2.2. Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp: 2.2.1.Căn cứ vào mối quan hệ sở hữu về vốn: 2.2.1.1. Nguồn vốn chủ sở hữu: Là phần vốn thuộc quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp, doanh nghiệp có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạn, bao gồm: vốn điều lệ, vốn tự bổ sung, vốn doanh nghiệp nhà nước tài trợ (nếu có). Trong đó: - Nguồn vốn điều lệ: Trong các doanh nghiệp tư nhân vốn đầu tư ban đầu do chủ sở hữu đầu tư. Trong các doanh nghiệp Nhà nước vốn đầu tư ban đầu do Nhà nước cấp một phần (hoặc toàn bộ) - Nguồn vốn tự bổ sung: bao gồm tất cả các nguồn vốn mà doanh nghiệp tự bổ sung từ nội bộ doanh nghiệp như từ lợi nhuận để lại, quỹ khấu hao, các quỹ dự phòng tài chính và quỹ đầu tư phát triển. Nguồn vốn chủ sở hữu là một nguồn vốn quan trọng và có tính ổn định cao, thể hiện quyền tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. Tỷ trọng của nguồn vốn này trong cơ cấu nguồn vốn càng lớn, sự độc lập về tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. Vốn cSH tổng nợ Tại một = nguồn - phải thời điểm vốn trả 2.2.1.2. Nợ phải trả: Là tất cả các khoản nợ phát sinh trong quá trình kinh doanh mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế, bao gồm: - Nguồn vốn chiếm dụng hợp pháp: Trong quá trình SXKD của doanh nghiệp đương nhiên phát sinh các quan hệ thanh toán giữa doanh nghiệp với các tác nhân kinh tế khác như với Nhà nước, với CBCNV, với khách hàng, với người bán từ đó mà phát sinh vốn chiếm dụng và vốn bị chiếm dụng. Thuộc về vốn chiếm dụng hợp pháp có các khoản vốn sau: + Các khoản nợ khách hàng chưa đến hạn trả. + Các khoản phải nộp Ngân sách Nhà nước chưa đến hạn nộp. + Các khoản phải thanh toán với CBCNV chưa đến hạn thanh toán. Nguồn vốn chiếm dụng chỉ mang tính chất tạm thời, doanh nghiệp chỉ có thể sử dụng trong thời gian ngắn nhưng vì nó có ưu điểm nổi bật là doanh nghiệp không phải trả chi phí sử dụng vốn, đòn bẩy tài chính luôn dương, nên trong thực tế doanh nghiệp nên triệt để tận dụng nguồn vốn này trong giới hạn cho phép nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn mà vẫn đảm bảo kỷ luật thanh toán. - Các khoản nợ vay: bao gồm toàn bộ vốn vay ngắn - trung - dài hạn ngân hàng, nợ trái phiếu và các khoản nợ khác. Thông thường, một doanh nghiệp phải phối hợp cả hai nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả để đảm bảo nhu cầu vốn cho hoạt động SXKD. Sự kết hợp giữa hai nguồn này phụ thuộc vào đặc điểm của ngành mà doanh nghiệp đang hoạt động cũng như quyết định tài chính của người quản lý trên cơ sở điều kiện thực tế của doanh nghiệp. Làm thế nào để lựa chọn được một cơ cấu tài chính tối ưu? Đó là câu hỏi luôn làm trăn trở các nhà quản lý tài chính doanh nghiệp bởi sự thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào sự khôn ngoan hay khờ dại của doanh nghiệp đó khi lựa chọn cơ cấu tài chính. 2.2.2. Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn: 2.2.2.1. Nguồn vốn thường xuyên: Đây là nguồn vốn có tính chất ổn định mà doanh nghiệp có thể sử dụng trong thời gian dài, bao gồm: Nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản nợ dài hạn. Nguồn vốn này thường được sử dụng để đầu tư TSCĐ và một bộ phận TSLĐ thường xuyên, cần thiết. 2.2.2.2. Nguồn vốn tạm thời: Là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới 1 năm) mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng các nhu cầu về vốn có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh trong hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Cách phân loại này giúp cho người quản lý doanh nghiệp xem xét huy động các nguồn vốn một cách phù hợp với thời gian sử dụng, lập kế hoạch tài chính và hình thành những dự định về tổ chức vốn một trong tương lai. 2.2.3. Căn cứ vào phạm vi huy động vốn: 2.2.3.1. Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: Là nguồn vốn có thể huy động được từ bản thân doanh nghiệp bao gồm: tiền khấu hao TSCĐ, lợi nhuận để lại, các khoản dự phòng, thu từ thanh lý, nhượng bán TSCĐ. 2.2.3.2. Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp: Là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động từ bên ngoài gồm: vốn vay ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác, vốn liên doanh liên kết, vốn huy động từ phát hành trái phiếu, nợ người cung cấp và các khoản nợ khác. 2.3. Quản lý và sử dụng vốn kinh doanh: 2.3.1. Vốn cố định: Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư bên trong ứng trước về tài sản cố định của doanh nghiệp. Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tiến hành sản xuất - kinh doanh được cũng phải có đủ 3 yếu tố: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Tư liệu lao động: là điều kiện vật chất không thể thiếu được trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh, nó góp phần quyết định đến năng suất lao động. Tư liệu lao động trong các doanh nghiệp bao gồm những công cụ lao động mà thông qua chúng người lao động sử dụng lao động của mình tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm (máy móc thiết bị, công cụ làm việc...) và những phương tiện làm việc cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất – kinh doanh bình thường (như nhà xưởng, công trình kiến trúc...) Để thuận tiện cho việc quản lý tài sản người ta chia tư liệu lao động thành 2 bộ phận: tài sản cố định và công cụ lao động nhỏ. Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu có giá trị đơn vị lớn và thời hạn sử dụng lâu. Về mặt thời gian sử dụng thì hầu hết các quốc gia đều áp dụng là trên một năm, về mặt giá trị đơn vị thì tuỳ thuộc vào mỗi quốc gia vận dụng cho phù hợp trong từng giai đoạn nhất định. Ví dụ: ở nước ta giai đoạn 1990 đến 1996 giá trị đơn vị được quy định là 500.000 VNĐ trở lên, từ năm 1997 đến nay được điều chỉnh thành 5.000.000 VNĐ trở lên. Ngoài ra những tư liệu lao động nào mà không hội đủ 2 điều kiện nói trên được gọi là công cụ lao động nhỏ và do doanh nghiệp nguồn vốn lưu động tài trợ. Tài sản cố định là một bộ phận của tư liệu lao động cho nên đặc điểm vật chất của tài sản cố định cũng chính là đặc điểm của tư liệu lao động. Tài sản cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất - kinh doanh, bị hao mòn dần nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu và giá trị của nó cũng giảm dần tương ứng với mức độ hao mòn của tài sản cố định. Từ những phân tích trên đây có thể thấy: tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu, có thời gian sử dụng lâu và có giá trị đơn vị lớn. Đặc điểm chung nhất của chúng là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và không thay đổi hình thái vật chất ban đầu. Trong quá trình đó tài sản cố định bị hao mòn dần và giá trị của nó giảm dần tương ứng, phần giá trị này được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm mới mà nó tham gia sản xuất ra. Mặc dù tài sản cố định không bị thay đổi hình thái hiện vật trong suốt thời gian sử dụng, song năng lực sản xuất cũng giảm sút dần do chúng bị hao mòn trong quá trình tham gia vào hoạt động sản xuất. Hao mòn tài sản cố định được phân thành 2 loại: hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. + Hao mòn hữu hình của tài sản cố định: là sự hao mòn về mặt vật chất làm giảm dần giá trị và giá trị sử dụng của tài sản cố định, doanh nghiệp tác động của các yếu tố tự nhiên gây ra hoặc khi tài sản cố định tham gia vào hoạt động sản xuất thì bị cọ xát, mài mòn dần. Trong trường hợp do quá trình sử dụng, mức độ hao mòn của tài sản cố định tỷ lệ thuận với thời gian và cường độ sử dụng chúng vào sản xuất - kinh doanh. Mặt khác cho dù tài sản cố định không sử dụng chúng cũng bị hao mòn do tác động của các yếu tố tự nhiên: độ ẩm, khí hậu, thời tiết...làm cho tài sản cố định bị han rỉ, mục nát dần. Trong trường hợp này, mức độ hao mòn của tài sản cố định nhiều hay ít phụ thuộc vào công tác bảo dưỡng, bảo quản tài sản cố định của doanh nghiệp. + Hao mòn vô hình: là loại hao mòn về mặt giá trị, làm giảm thuần tuý về mặt giá trị của tài sản cố định (còn gọi là sự mất giá của tài sản cố định). Nguyên nhân dẫn đến hao mòn vô hình của tài sản cố định không phải do chúng sử dụng ít hay nhiều trong sản xuất, mà là do những tài sản cố định cùng loại mới được sản xuất ra có giá rẻ hơn hay hiện đại hơn hoặc doanh nghiệp chấm dứt chu kỳ sống của sản phẩm làm cho tài sản cố định trở nên không cần dùng hoặc giảm giá. Để có nguồn vốn đầu tư cho tài sản cố định mới, yêu cầu phải có phương thức thu hồi vốn khi tài sản cố định bị hao mòn trong quá trình sản xuất. Phương thức này goi là khấu hao tài sản cố định. Khấu hao tài sản cố định là một phương thức thu hồi vốn cố định bằng cách bù đắp phần giá trị tài sản cố định bị hao mòn trong quá trình sản xuất - kinh doanh nhằm tái tạo lại vốn cố định đảm bảo quá trình sản xuất - kinh doanh được tiến hành liên tục và có hiệu quả. Như vậy vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về TSCĐ. Đặc điểm của vốn cố định là luân chuyển dần dần từng bộ phận tương ứng với giá trị hao mòn của TSCĐ, khi TSCĐ hết thời hạn sử dụng vốn cố định mới được thu hồi đầy đủ và kết thúc một lần tuần hoàn vốn. Quản lý vốn cố định là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Từ những nghiên cứu về tài sản cố định trên đây, cho thấy việc bảo toàn và phát triển vốn cố định là nội dung cần quan tâm của người làm công tác tài chính. Bảo toàn vốn cố định là việc duy trì lượng vốn cố định thực ch._.ất ở các thời điểm sau ngang bằng với thời điểm ban đầu. Phát triển vốn cố định là làm cho vốn cố định thực chất ở các thời kỳ càng về sau càng lớn hơn thời kỳ trước. Để bảo toàn và phát triển vốn cố định của doanh nghiệp cần thiết phải sử dụng các biện pháp chủ yếu sau đây: - Phải đánh giá và đánh giá lại tài sản cố định một cách thường xuyên và chính xác. - Phải lựa chọn các phương pháp khấu hao mức khấu hao thích hợp. - Phải áp dụng biện pháp nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản cố định như: tận dụng hết công suất máy móc thiết bị, giảm thời gian ngừng hoạt động, có chế độ sửa chữa thường xuyên, định kỳ. - Dự phòng giảm giá TSCĐ: để dự phòng giảm giá TSCĐ, doanh nghiệp được trích khoản dự phòng này vào giá thành. Nếu cuối năm không sử dụng đến thì khoản dự phòng này được hoàn nhập trở lại. 2.3.2. Vốn lưu động: Vốn lưu động của doanh nghiệp là một bộ phận vốn đầu tư được ứng trước về tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp thực hiện được thường xuyên và liên tục. Như đã phân tích phần trên, vốn kinh doanh của doanh nghiệp là số tiền ứng trước cho các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp. Song mỗi yếu tố sản xuất có những đặc điểm hoạt động khác nhau, có công dụng kinh tế khác nhau đối với quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn lưu động là bộ phận của vốn nhằm tài trợ cho các yếu tố sản xuất ngoại trừ tài sản cố định. Nếu cắt quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp ra từng chu kỳ sản xuất chúng ta có thể mô tả theo mô hình sau:  Khâu dự trữ Khâu trực tiếp sản xuất Khâu lưu thông - Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ sản xuất: vốn lưu động được dùng để mua sắm các đối tượng lao động như: nguyên vật liệu, nhiên liệu, phụ tùng thay thế... ở giai đoạn này vốn đã thay đổi từ hình thái tiền tệ sang vật tư. - Vốn lưu động nằm trong quá trình sản xuất: là quá trình sử dụng các yếu tố sản xuất để chế tạo ra sản phẩm. Khi quá trình sản xuất chưa hoàn thành, vốn lưu động biểu hiện ở các loại sản phẩm dở dang hoặc bán thành phẩm và khi kết thúc quá trình sản xuất vốn biểu hiện ở số thành phẩm của doanh nghiệp. - Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông: lúc này hình thái hàng hoá được chuyển thành hình thái tiền tệ. Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp mà cơ cấu của tài sản lưu động cũng khác nhau. Tuy nhiên, đối với những doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh thì tài sản lưu động thường được cấu tạo bởi hai phần là tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu thông. - Tài sản lưu động sản xuất bao gồm những tài sản ở khâu dự trữ sản xuất như nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu... và tài sản ở khâu sản xuất như sản phẩm dở dang đang chế tạo, bán thành phẩm tự chế, chi phí đợi phân bổ. - Tài sản lưu thông của doanh nghiệp bao gồm sản phẩm hàng hoá chờ tiêu thụ (hàng tồn kho), vốn bằng tiền và các khoản phải thu. Dù là ở khâu nào, tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu thông đều thể hiện các yếu tố: đối tượng lao động, công cụ lao động nhỏ và sức lao động. Đặc điểm vận động của chúng do đặc điểm của đối tượng lao động quyết định, vì đây là bộ phận chính chiếm tỷ trọng ưu thế. Khác với tài sản cố định, tài sản lưu động luôn thay đổi hình thái biểu hiện để tạo ra sản phẩm, theo đó giá trị của nó cũng được chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá thành sản phẩm tiêu thụ và hoàn thành một vòng tuần hoàn vốn khi kết thúc một chu kỳ tái sản xuất. Cũng cần thấy rằng, các chu kỳ sản xuất của doanh nghiệp là nối tiếp và xen kẽ nhau chứ không phải là độc lập và rời rạc. Trong khi một bộ phận của vốn lưu động được chuyển hoá thành vật tư dự trữ, sản phẩm dở dang thì một bộ phận khác của vốn lại chuyển từ sản phẩm hàng hoá sang vốn tiền tệ do quá trình sản xuất của doanh nghiệp là thường xuyên, liên tục. Điều này nhắc nhở những nhà quản lý tài chính cần xây dựng những biện pháp thích hợp cho quản lý sử dụng và bảo toàn vốn lưu động. Sau đây là những nội dung cần chú ý trong quản lý sử dụng vốn lưu động. Một là: Xác định nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp. Việc ước lượng chính xác số vốn lưu động cần dùng cho doanh nghiệp sẽ có tác dụng đảm bảo đủ vốn lưu động cần thiết, tối thiểu cho quá trình sản xuất - kinh doanh được tiến hành liên tục, đồng thời tránh ứ đọng vốn không cần thiết, thúc đẩy tốc độ luân cguyển vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Hai là: Tổ chức khai thác nguồn tài trợ vốn lưu động. Trước hết doanh nghiệp cần khai thác triệt để các nguồn vốn nội bộ và các khoản vốn có thể chiếm dụng một cách thường xuyên trong hoạt động kinh doanh. Nếu số vốn lưu động còn thiếu, doanh nghiệp phải tiếp tục khai thác các nguồn vốn bên ngoài như: vốn liên doanh, vốn vay của các ngân hàng hoặc các công ty tài chính, vốn do phát hành cổ phiếu, trái phiếu... Khi khai thác các nguồn vốn bên ngoài, điều đáng chú ý nhất là cân nhắc các yếu tố lãi suất tiền vay. Về nguyên tắc, lãi do đầu tư vốn phải lớn hơn lãi suất vay vốn thì người kinh doanh mới đi vay vốn. Ba là: Phải luôn luôn có những biện pháp bảo toàn và phát triển vốn lưu động. Cũng như vốn cố định, bảo toàn vốn lưu động có nghĩa là bảo toàn giá trị thực của vốn, nói cách khác bảo toàn vốn là đảm bảo được sức mua của vốn không được giảm sút so với ban đầu. Điều này được thể hiện qua khả năng mua sắm tài sản lưu động và khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong kinh doanh. Để thực hiện được mục tiêu trên, trong công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp thường áp dụng các biện pháp tổng hợp như: đẩy mạnh khâu tiêu thụ hàng hoá, xử lý kịp thời các vật tư, hàng hoá chậm luân chuyển để giải phóng vốn, phải thường xuyên xác định phần chênh lệch giá về những tài sản lưu động tồn kho để có biện pháp xử lý kịp thời, linh hoạt trong việc sử dụng vốn. Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, bảo toàn vốn, doanh nghiệp cần hết sức tránh và xử lý kịp thời những khoản nợ khó đòi, tiến hành áp dụng các biện pháp hoạt động của tín dụng thương mại để ngăn chặn các hiện tượng chiếm dụng vốn. Bốn là: Phải thường xuyên tiến hành phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động. Để phân tích người ta sử dụng các chỉ tiêu như: vòng quay vốn lưu động, hiệu suất sử dụng vốn lưu động, hệ số nợ... Nhờ các chỉ tiêu trên đây, người quản lý có thể điều chỉnh kịp thời các biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhằm tăng mức doanh lợi. 2.3.3. Vốn đầu tư tài chính: Vốn đầu tư tài chính còn gọi là vốn đầu tư ra bên ngoài của doanh nghiệp nhằm tìm kiếm lợi nhuận và khả năng đảm bảo an toàn về vốn. Xuất phát từ quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường, làm cho các doanh nghiệp luôn đứng trước nguy cơ phá sản nếu như họ chỉ có một lĩnh vực đầu tư bên trong lại đang gặp bất lợi. Để đối phó với tình hình trên, việc sử dụng vốn linh hoạt cho nhiều mục tiêu đầu tư sẽ cho phép doanh nghiệp tìm kiếm lợi nhuận từ nhiều phía cũng như nhằm phân tán rủi ro trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Có nhiều hình thức đầu tư tài chính ra bên ngoài như: doanh nghiệp bỏ vốn để mua cổ phiếu, trái phiếu của các công ty khác, hùn vốn liên doanh với các doanh nghiệp khác. Trong nhiều trường hợp nhờ đầu tư tài chính ra bên ngoài mà các doanh nghiệp có thể tự tháo gỡ những khó khăn bên trong, tránh nguy cơ phá sản, thay vì một hướng đầu tư đang gặp bất lợi chuyển sang một lĩnh vực kinh doanh mới khả quan hơn. Đó cũng là một giải pháp để kéo dài chu kỳ sống của một doanh nghiệp. Trong khi phân tích những ưu thế của việc đầu tư ra bên ngoài cũng không nên quên những hạn chế của hình thức đầu tư này. Điều quan trọng nhất khi đi tới quyết định đầu tư tài chính ra bên ngoài là cần hết sức cân nhắc độ an toàn và tin cậy của dự án. Vì thế, nhà kinh doanh phải am hiểu tường tận những thông tin cần thiết, phân tích, đánh giá những mặt lợi, hại của dự án để chọn đúng đối tượng và loại hình đầu tư phù hợp. Thông thường các dự án có lợi nhuận càng cao thì mức độ rủi ro càng lớn, ở đây không chỉ vì lợi nhuận trước mắt mà còn tính đến độ an toàn của vốn. 3. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh: 3.1. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ: Điểm xuất phát để tiến hành kinh doanh là phải có một lượng vốn nhất định với nguồn tài trợ tương ứng song việc sử dụng vốn như thế nào để có hiệu quả mới là nhân tố quyết định cho sự tăng trưởng của mỗi doanh nghiệp. Hiệu suất sử dụng TSCĐ: Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng nguyên giá tài sản cố định tham gia vào hoạt động kinh doanh thì tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu bán hàng. Công thức tính: Doanh thu bán hàng Hiệu suất sử dụng TSCĐ = NG bình quân TSCĐ cần tính KH Mức sinh lợi VCĐ: Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng vốn cố định bình quân tham gia vào hoạt động kinh doanh thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Công thức tính: Lợi nhuận hoạt động kinh doanh Mức sinh lợi của VCĐ = Vốn cố định bình quân 3.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ: Trong quá trình sản xuất - kinh doanh vốn lưu động vận động không ngừng, thường xuyên qua các giai đoạn của quá trình sản xuất (Dự trữ - sản xuất - tiêu thụ). Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 3.2.1. Mức sinh lợi của VLĐ: Các nhà quản lý tài chính quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động trên mức sinh lợi của vốn lưu động xem một đồng vốn lưu động làm ra bao nhiêu đồng lợi nhuận hoạt động kinh doanh trong kỳ. Công thức tính: Lợi nhuận hoạt động kinh doanh Mức sinh lợi của VLĐ = Vốn lưu động bình quân Từ đó đánh giá mức sinh lời của vốn lưu động cao thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động tốt và ngược lại. 3.2.2. Số vòng quay và kỳ luân chuyển bình quân của VLĐ: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động còn được xem xét trên góc độ vòng quay của vốn lưu động hay hệ số luân chuyển. Công thức tính: Doanh thu thuần Số vòng quay của vốn lưu động = Vốn lưu động hay:  Số ngày trong năm (360ngày) Kỳ luân chuyển bình quân của vốn lưu động = Số vòng quay của vốn lưu động Vốn lưu động x 360 = Doanh thu thuần Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động của doanh nghiệp đã chu chuyển được bao nhiêu vòng trong kỳ. Số vòng quay càng nhiều thì vốn lưu động luân chuyển càng nhanh, hoạt động tài chính càng tốt, doanh nghiệp càng cần ít vốn và tỷ suất lợi nhuận càng cao. Có nhiều chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, tuy nhiên để đánh giá đúng, chính xác thì các nhà quản lý phải có trình độ chuyên môn vững vàng, dựa trên cơ sở phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh và thực trạng nền tài chính của doanh nghiệp để có thể ra những quyết định cần thiết đối với việc sử dụng vốn của doanh nghiệp. 3.3. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VKD: Trên đây ta đã xem xét các chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng từng loại vốn. Để có cái nhìn tổng quát về hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung của doanh nghiệp, cần đi vào phân tích các chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. 3.3.1. Vòng quay tổng vốn: Doanh thu thuần Vòng quay tổng vốn = VKD bình quân Vòng quay tổng vốn cho biết toàn bộ vốn SXKD của doanh nghiệp trong kỳ luân chuyển được bao nhiêu vòng, qua đó có thể đánh giá được trình độ sử dụng tài sản của doanh nghiệp. 3.3.2. Tỷ suất LN VKD: Lợi nhuận hoạt động kinh doanh Tỷ suất LN VKD = VKD bình quân Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận VKD phản ánh một đồng VKD sử dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này cho phép đánh giá tương đối chính xác khả năng sinh lời của tổng vốn. 3.3.3. Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu: Lợi nhuận hoạt động kinh doanh - Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu = Vốn chủ sở hữu bình quân Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu cho thấy mỗi đồng vốn chủ sở hữu sử dụng trong kỳ có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. 3.3.4. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu: Lợi nhuận hoạt động kinh doanh - Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu = Doanh thu thuần Đây là chỉ tiêu phản ánh mỗi đồng doanh thu thuần mà doanh nghiệp thu được trong kỳ có bao nhiêu đồng lợi nhuận. 3.3.5. Tỷ suất lợi nhuận trên giá thành toàn bộ: Lợi nhuận hoạt động kinh doanh - Tỷ suất lợi nhuận trên giá thành toàn bộ = Giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên giá thành toàn bộ cho thấy mỗi đồng giá thành toàn bộ bỏ ra trong kỳ có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Trên đây là một số chỉ tiêu thường được sử dụng để làm căn cứ cho việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Đánh giá tình hình sử dụng VKD của doanh nghiệp tốt hay chưa tốt, ngoài việc so sánh các chỉ tiêu này với các chỉ tiêu kỳ trước, các chỉ tiêu thực hiện so với kế hoạch nhằm thấy rõ chất lượng và xu hướng biến động của nó, nhà quản lý doanh nghiệp cần gắn với tình hình thực tế, tính chất của ngành kinh doanh mà doanh nghiệp hoạt động để đưa ra nhận xét sát thực tế về hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng của doanh nghiệp. 3.4. Chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán: Tình hình tài chính của doanh nghiệp được đánh giá là lành mạnh trước hết phải được thể hiện ở khả năng chi trả, vì vậy nhà quản lý doanh nghiệp cần phải đánh giá, phân tích khả năng thanh toán. Đây là chỉ tiêu rất được nhiều người quan tâm như các nhà đầu tư, nhà cho vay, nhà cung cáp nguyên liệu... Họ luôn đặt câu hỏi: hiện doanh nghiệp có đủ khả năng chi trả các khoản nợ đến hạn thanh toán hay không? 3.4.1. Hệ số khả năng thanh toán tổng quát: Hệ số khả năng thanh toán tổng quát là mối quan hệ giữa tổng tài sản mà hiện nay doanh nghiệp đang quản lý sử dụng với tổng số nợ phải trả (nợ ngắn hạn và nợ dài hạn), công thức: Tổng tài sản Hệ số khả năng thanh toán tổng quát = Tổng nợ phải trả Nếu hệ số này <1 báo hiệu sự phá sản của doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu bị mất toàn bộ, tổng tài sản hiện có (TSLĐ và TSCĐ) không đủ trả số nợ mà doanh nghiệp phải thanh toán. 3.4.2. Hệ số khả năng thanh toán hiện thời: Hệ số khả năng thanh toán hiện thời là mối quan hệ giữa tài sản ngắn hạn (TSLĐ) với các khoản nợ ngắn hạn, công thức: Tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn Hệ số khả năng thanh toán hiện thời = Tổng nợ ngắn hạn Trong đó: + Tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn là những tài sản mà doanh nghiệp đang quản lý, sử dụng và sở hữu. + Tổng nợ ngắn hạn là những khoản nợ phải trả trong khoản thời gian dưới 1 năm, bao gồm các khoản vay ngắn hạn, phải trả cho người bán, thuế và các khoản phải nộp cho nhà nước, phải trả cho công nhân viên, nợ dài hạn đến hạn trả, các khoản phải trả khác. Hệ số này phản ánh khả năng chuyển đổi một bộ phận tài sản thành tiền để trang trải các khoản nợ ngắn hạn, vì thế hệ số này cũng thể hiện mức độ đảm bảo thanh toán của TSLĐ với các khoản nợ ngắn hạn. Nếu hệ số này thấp thể hiện khả năng trả nợ của doanh nghiệp ở mức độ thấp và cũng là dấu hiệu báo trước khó khăn về tài chính mà doanh nghiệp có thể gặp phải trong việc trả nợ. Khi hệ số này cao cho thấy doanh nghiệp có khả năng cao trong việc sẵn sàng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp hệ số này quá cao chưa chắc đã phản ánh năng lực thanh toán của doanh nghiệp là tốt, nghĩa là khi đó có một lượng TSLĐ tồn trữ lớn, phản ánh việc sử dụng tài sản không hiệu quả vì bộ phận này không vận động, không sinh lời (có quá nhiều tiền mặt nhàn rỗi, nợ phải đòi, hàng tồn kho ứ đọng...) Tính hợp lý của hệ số này phụ thuộc ngành nghề kinh doanh. Ngành nghề nào chiếm tỷ trọng TSLĐ lớn trong tổng tài sản thì hệ số này lớn càng tốt và ngược lại. 3.4.3. Hệ số khả năng thanh toán nhanh: TSLĐ trước khi mang đi thanh toán cho chủ nợ phải được chuyển đổi thành tiền. Trong TSLĐ hiện có thì vật tư, hàng hoá chưa có thể chuyển đổi ngay thành tiền được và do đó khả năng thanh toán kém nhất. Vì thế hệ số khả năng thanh toán nhanh là một chỉ tiêu đánh giá chặt chẽ hơn khả năng thanh toán của đơn vị. Đó là thước đo khả năng trả nợ ngay, không dựa vào bán các loại vật tư, hàng hoá tồn kho. Hệ số khả năng thanh toán nhanh đước xác định bằng mối quan hệ giữa TSLĐ - Hàng tồn kho với tổng số nợ ngắn hạn, công thức: Tổng TSLĐ - Hàng tồn kho Hệ số khả năng thanh toán nhanh = Tổng nợ ngắn hạn ở đây hàng tồn kho bị loại trừ ra vì được coi là tài sản không dễ dàng chuyển đổi nhanh thành tiền và cũng thấy rằng tài sản dùng để thanh toán nhanh còn được xác định là: tiền cộng với tiền tương đương. Tiền tương đương là các khoản có thể chuyển đổi thành một lượng tiền biết trước (thương phiếu, các loại chứng khoán ngắn hạn...) 4. Một số phương hướng, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp: 4.1. Các nhân tố ảnh hưỏng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp: Việc tổ chức và sử dụng vốn kinh doanh của các doanh nghiệp chịu sự tác động bởi nhiều nhân tố khác nhau bao gồm các nhân tố khách quan và chủ quan. 4.1.1. Về khách quan: Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp chịu sự ảnh hưởng bởi một số nhân tố sau: - Cơ chế quản lý và chính sách vĩ mô của Nhà nước - Tác động của nền kinh tế có lạm phát - Sự phát triển của khoa học công nghệ - Sự biến động của thị trường đầu ra - đầu vào của doanh nghiệp. Ngoài ra, hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp còn chịu tác động của yếu tố rủi ro bao gồm các rủi ro từ phía thị trường và những rủi ro bất khả kháng như: thiên tai, lũ lụt, hoả hoạn... 4.1.2. Về chủ quan: Có nhiều nhân tố chủ quan thuộc về bản thân doanh nghiệp ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp như: - Việc bố trí cơ cấu vốn đầu tư: nếu sự bố trí giữa VCĐ và VLĐ và tỷ trọng của từng khoản mục trong từng loại vốn chưa hợp lý, chưa phù hợp với đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp thì hiệu quả sử dụng vốn kém là không thể tránh khỏi. - Việc xác định nhu cầu vốn: nếu xác định nhu cầu vốn thiếu chính xác dẫn đến tình trạng thừa vốn hoặc thiếu vốn, cả hai trường hợp đều ảnh hưởng không tốt đến qúa trình SXKD của doanh nghiệp và làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. - Việc tổ chức sử dụng vốn kinh doanh trong từng khâu: hiệu quả sử dụng vốn sẽ cao nếu như VKD trong từng khâu được tổ chức hợp lý và sử dụng có hiệu quả. Ngược lại, nếu doanh nghiệp sử dụng vốn lãng phí chẳng hạn như mua các loại vật tư không đúng tiêu chuẩn kỹ thuật, kém phẩm chất hay không huy động cao độ TSCĐ vào SXKD sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. - Trình độ quản lý của doanh nghiệp: Nếu trình độ quản lý yếu kém có thể dẫn đến tình trạng vốn bị ứ đọng, vật tư, hàng hoá chậm luân chuyển, hoạt động kinh doanh thua lỗ kéo dài, vốn bị thâm hụt sau mỗi chu kỳ sản xuất. Trên đây là một số nhân tố chủ yếu ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hiệu quả sử dụng VKD của doanh nghiệp. Ngoài các nhân tố đó, còn có thể có rất nhiều nhân tố khác tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của mỗi doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần xem xét thận trọng từng nhân tố để từ đó đưa ra những giải pháp thích hợp nhằm phát huy những nhân tố ảnh hưởng tích cực, hạn chế đến mức thấp nhất những nhân tố ảnh hưởng tiêu cực nhằm từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng VKD. 4.2. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VKD: 4.2.1. Biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định: - Sử dụng đòn bẩy kinh tế nhằm kích thích gắn liền với trách nhiệm về tài chính. Thưởng phạt về bảo quản, sử dụng TSCĐ, nghiên cứu phát minh sáng chế ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh. - Đảm bảo khả năng tài chính nhằm thực hiện quyết định đầu tư dài hạn để tăng quy mô và điều chỉnh cơ cấu TSCĐ. - Nâng cao hiệu suất sử dụng TSCĐ từ đó giảm bớt TSCĐ và nắm vững TSCĐ hiện có đang sử dụng, chưa dùng, không cần dùng để giải phóng (thanh lý, nhượng bán) những TSCĐ ứ đọng. Mặt khác, tài chính doanh nghiệp phải tham gia xây dựng chế độ quản lý sử dụng TSCĐ tránh tình trạng mất mát hư hỏng và có biện pháp xử lý kịp thời những thiệt hại về TSCĐ. 4.2.2. Biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động: - Xác định chính xác nhu cầu VLĐ thường xuyên, cần thiết phục vụ cho hoạt động sản xuất - kinh doanh. - Tăng tốc độ luân chuyển VLĐ ở cả 3 khâu: ở khâu dự trữ, trong khâu SX, trong khâu lưu thông. - Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. - Đối với bộ phận vốn nhàn rỗi cần được sử dụng một cách linh hoạt thông qua các hình thức đầu tư ra bên ngoài như đầu tư góp vốn liên doanh, đầu tư vào tài sản tài chính, hoặc cho vay nhằm thu lợi tức tiền vay. Trên đây là một số phương hướng, biện pháp nhằm đẩy mạnh việc tổ chức và sử dụng vốn trong doanh nghiệp. Tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp mà nhà quản lý doanh nghiệp đưa ra những giải pháp phù hợp mang tính khả thi để không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp mình. Chương II thực trạng về tình hình tổ chức và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không -Tổng công ty Hàng không Việt Nam 1. Một vài nét chính về tình hình sản xuất kinh doanh: 1.1. Quá trình hình thành và phát triển: Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không là một doanh nghiệp Nhà nước đơn vị thành viên hạch toán độc lập của Tổng công ty Hàng không Việt Nam được thành lập lại theo Quyết định số 1023/HĐQT ngày 30 tháng 06 năm 1997 của Hội đồng quản trị Tổng công ty Hàng không Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thương mại. Tên giao dịch quốc tế AIR SERVICES SUPPLIES COMPANY, tên viết tắt là AIRSERCO. Trụ sở của Công ty đặt tại Đường Nguyễn Sơn - Khu Sân bay Gia Lâm- Hà Nội. Đây là một vị trí hết sức thuận lợi cho việc phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Khi thành lập tài sản, vốn của công ty như sau: Tổng số vốn kinh doanh : 6.262.644.378 đ Trong đó: - Vốn Ngân sách : 1.374.903.843 đ - Vốn tự bổ xung : 4.887.740.535 đ Diện tích đất được giao : 3.462 m2 Hoạt động sản xuất ban đầu của Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không là cung cấp các dịch vụ (chủ yếu là các loại khăn cho hành khách đi máy bay) cho Hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam. Bộ máy quản lý ban đầu cũng chỉ bao gồm một số phòng ban chuyên đi giao dịch mua bán các loại khăn nhằm phục vụ cho hành khách đi máy bay. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, với chủ trương mở cửa nền kinh tế của Nhà nước đã đặt ra Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không trứơc những thách thức và cơ hội mới. Cùng với sự chuyển mình của đất nước, ngành Hàng không nói chung và Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không nói riêng cũng phải tự đổi mới: Đổi mới trong quản lý, đổi mới trong lĩnh vực kinh doanh để hoà nhịp được với sự đổi mới của đất nước. 1.2. Tình hình tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh: 1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh: Căn cứ Điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không được ban hành theo Quyết định số 1537/HĐQT ngày 13/9/1997 của Hội đồng quản trị Tổng công ty Hàng không Việt Nam thì Công ty có nhiệm vụ kinh doanh các ngành nghề sau: - Sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu hàng may mặc, hàng dân dụng. - Kinh doanh xuất nhập khẩu - Kinh doanh thương mại. - Sản xuất, chế biến hàng nông, lâm sản, thực phẩm, may mặc, dệt, hàng thủ công mỹ nghệ - Kinh doanh khách sạn du lịch, đại lý bán vé máy bay - Dịch vụ vận tải hành khách, hàng hoá bằng đường bộ - Kinh doanh và cho thuê bất động sản Nhưng Công ty không chỉ bằng lòng với kết quả đã đạt được, để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của Công ty, Công ty đã không ngừng hoàn thiện bộ máy quản lý và tổ chức sản xuất kinh doanh của mình. Công ty đã tích cực hoạt động trong cả lĩnh vực sản xuất và trong cả lĩnh vực lưu thông. Để có thể mở rộng được qui mô hoạt động của Công ty đã 2 lần bổ sung ngành nghề kinh doanh. Đó là: - Lần thứ nhất theo Quyết định số 1107QĐ/HĐ-TCT ngày 10/06/1999 bổ sung thêm: Trực tiếp tổ chức tuyển chọn, đào tạo và bồi dưỡng người lao động trước khi đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. - Lần thứ hai theo Quyết định số 1099 QĐ/HĐ-TCT ngày 10/06/1999 bổ sung thêm: Sản xuất gia công, kinh doanh, xuất nhập khẩu các mặt hàng dân dụng như Hàng gia dụng (bếp ga, thiết bị làm nóng nước tức thời dùng cho gia đình, máy sấy quần áo, máy giặt quần áo...) và các mặt hàng tiêu dùng khác Bắt nhịp với sự phát triển chung của Đất nước, Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không đã và đang vươn lên trong mọi lĩnh vực hoạt động của mình. 1.2.2. Đặc điểm bộ máy quản lý: Hiện nay Công ty có 247 CBCNV chủ yếu là hợp đồng dài hạn và ngắn hạn Công ty có đội ngũ cán bộ với trình độ chuyên môn giỏi, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc và đội ngũ công nhân viên có bề dày kinh nghiệm đã trưởng thành trong quá trình sản xuất, thực sự vững vàng trong nghề nghiệp. Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không là một đơn vị hạch toán kinh tế độc lập, bộ máy tổ chức theo cơ cấu kết hợp giữa tham mưu và chức năng được thể hiện qua sơ đồ sau: Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý Giám đốc Xưởng may Đại lý bán vé máy bay Phòng tổ chức hành chính Phòng tài chính kế toán Phòng kế hoạch Phòng kinh doanh Phòng xuất nhập khẩu Chức năng nhiệm vụ của giám đốc và các phòng ban: Giám đốc Công ty: người đứng đầu doanh nghiệp, chịu trách nhiệm toàn diện các mặt hoạt động của Công ty trước Nhà nước và Pháp luật. Giám đốc Công ty phụ trách và trực tiếp điều hành một số lĩnh vực quan trọng nhất (Tổ chức cán bộ, công tác kinh doanh). Phương thức lãnh đạo của Giám đốc là vừa điều hành trực tiếp, vừa thông qua các Phòng ban quản lý chức năng. Phòng Tổ chức - Hành chính: bộ phận tham mưu giúp việc cho Giám đốc Công ty trong công tác tổ chức mạng lưới và công tác cán bộ toàn Công ty. Hướng dẫn chỉ đạo tổ chức công tác tiền lương và các chính sách đối với người lao động trong Công ty. Quản lý cơ sở vật chất kĩ thuật của Công ty, trực tiếp thực thi các công việc hành chính-văn thư. Phòng Kế hoạch: bộ phận tham mưu cho Giám đốc về công tác kế hoạch của Công ty, lập, đôn đốc và kiểm tra việc thực hiện kế hoạch kinh doanh. Tham mưu cho Giám đốc về phương hướng và chiến lược kinh doanh của Công ty. Trực tiếp thực hiện nhiệm vụ thống kê và thông tin kinh tế nội bộ. Lập kế hoạch triển khai và quản lý các dự án đầu tư. Phòng Tài chính - Kế toán: - Tổ chức thực hiện công tác hạch toán quá trình SX và KD của toàn Công ty, Cung cấp thông tin chính xác, cần thiết để Ban quản lý ra các quyết định tối ưu có hiệu quả cao. - Giúp Giám đốc trong việc điều hành, quản lý các hoạt động, tính toán kinh tế và kiểm tra việc bảo vệ, sử dụng tài sản, vật tư, tiền vốn nhằm đảm bảo quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh và chủ động tài chính trong Công ty. - Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chế độ chính sách, các qui định của Nhà nước về lĩnh vực kế toán và lĩnh vực tài chính. - Lập các kế hoạch về tài chính. Phòng Xuất Nhập khẩu: - Thường xuyên nắm bắt tình hình thông tin kinh tế trong nước và ngoài nước, nghiên cứu phân tích và đề xuất với Giám đốc chiến lược kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty. - Tham mưu giúp Giám đốc lựa chọn các mặt hàng xuất nhập khẩu có hiệu quả kinh tế cao. - Trực tiếp quan hệ với bạn hàng nước ngoài - Dự thảo các hợp đồng xuất nhập khẩu trình Giám đốc - Làm thủ tục XNK sản phẩm hàng hoá Phòng Kinh doanh: -Khai thác thị trường trong nước, lựa chọn mặt hàng kinh doanh, xây dựng các phương án kinh doanh cụ thể trình Giám đốc. - Dự thảo các hợp đồng kinh tế và tổ chức thực hiện khi hợp đồng đã ký - Quản lý kho tàng Phòng đại lý bán vé máy bay: - Tổ chức đại lý bán vé máy bay cho Hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam - Xây dựng và thực hiện các chiến lược marketing nhằm thu hút ngày càng nhiều khách hàng trong nước và quốc tế. Xưởng may: Tổ chức có hiệu quả theo kế hoạch sản xuất được giao. 1.2.3. Đặc điểm bộ máy quản lý Tài Chính - Kế Toán: 1.2.3.1. Bộ máy tài chính - kế toán: Như trên đã trình bày, Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không là một công ty kinh doanh tổng hợp hoạt động trên cả lĩnh vực sản xuất và kinh doanh hàng hoá. Song, Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không là một doanh nghiệp thành viên thuộc Tổng Công ty Hàng không Việt Nam nên hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu vẫn là cung cấp các sản phẩm, các dịch vụ nguyên vật liệu cho ngành Hàng không. Chính đặc điểm này đã ảnh hưởng lớn đến việc tổ chức sản xuất và tiêu thụ. Xuất phát từ đặc điểm kinh doanh trên, để đáp ứng được yêu cầu về quản lý đối với công tác kế toán nhằm cung cấp kịp thời, chính xác các thông tin để Ban quản lý ra các quyết định tối ưu cho hoạt động sản xuất kinh doanh, mặt khác để đảm bảo sự lãnh đạo và chỉ đạo tập trung thống nhất và trực tiếp của Kế toán trưởng và căn cứ vào phát sinh khối lượng công việc, Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không đã tổ chức bộ máy kế toán theo mô hình Tổ chức bộ máy Kế toán tập trung. Bộ máy Kế toán của Công ty được tổ chức gọn nhẹ, có phân công phân nhiệm rõ ràng nhưng đồng thời vẫn đảm bảo có mối liên hệ chặt chẽ với nhau thông qua công tác thường xuyên kiểm tra đối chiếu.Việc bố trí các nhân viên kế toán ở phòng bán vé máy bay và ở các phân xưởng sản xuất giúp cho khâu tổng hợp chứng từ được kịp thời. Hiện tại bộ máy kế toán của Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không được tổ chức theo sơ đồ sau: Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán Kế toán Trưởng Kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành Kế toán TSCĐ và tiền lương Kế toán Vật Tư Sản phẩm Hàng Hoá CCDC Kế toán vốn bằng tiền và thanh toán Kế toán tổng hợp Nhân viên kế toán ở Phòng Vé & Phân Xưởng Phòng Kế toán Công ty gồm 6 người, mỗi người phụ trách một phần kế toán. Chức năng, nhiệm vụ của mỗi phần kế toán: Kế toán trưởng: + Giúp giám đốc Cty tổ chức, chỉ đạo thực hiện toàn bộ công tác kế toán, thống kê thông tin kinh tế và hạch toán kinh tế ở Công ty theo cơ chế quản lý mới, đồng thời làm nhiệm vụ kiểm soát viên kinh tế-tài chính của Công ty. + Tổng hợp việc tính toán, trích nộp đúng các khoản nộp ngân sách, các khoản nộp cấp trên, các quỹ để lại Công ty và thanh toán đúng các khoản tiền vay, các khoản công nợ phải thu, phải trả. + Lập đầy đủ và gửi đúng hạn các báo cáo kế toán, thống kê và quyết toán của công ty theo chế độ qui định. + Tổ chức phổ biến và hướng dẫn thi hành kịp thời các chế độ, thể lệ tài chính, kế toán Nhà nước và các qui định của cấp trên về thống kê, thông tin kinh tế cho các bộ phận, cá nhân có liên quan trong Công ty. + B._. năm 2002 qui mô vốn lưu động tăng 12.166.420.137đ với tỷ lệ tăng 12,3% tuy tăng như vậy nhưng công ty đã để cho đơn vị khác chiếm dụng tương đối lớn nên lượng vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh không nhiều, vốn bị chiếm dụng chính là vốn chết không tạo ra lợi nhuận cho công ty cụ thể: Việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm vốn lưu động được biểu hiện trước hết ở tốc độ luân chuyển vốn lưu động nhanh hay chậm. Vốn lưu động luân chuyển càng nhanh thì hiệu quả sử dụng càng cao và ngược lại. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động có thể đo bằng 2 chỉ tiêu là số lần luân chuyển và kỳ luân chuyển (Số ngày của một vòng quay vốn) Cụ thể: Năm 2001 VLĐ đã quay được 1,64 vòng tương ứng với 220 ngày cho 1 vòng quay Năm 2002 VLĐ đã quay được 1,64 vòng tương ứng với 220 ngày cho 1 vòng quay Để thấy rõ hơn hiệu quả sử dụng VLĐ ta nghiên cứu các chỉ tiêu sau: Hiệu suất sử dụng vốn lưu động: Năm 2001 sử dụng 1 đ vốn lưu động tạo ra được 1,64đ doanh thu thuần Năm 2002 sử dụng 1 đ vốn lưu động tạo ra được 1,64đ doanh thu thuần Hàm lượng vốn lưu động: Năm 2001 trong 1đ doanh thu thuần thu được thì có 0,61 đ vốn lưu động Năm 2002 trong 1đ doanh thu thuần thu được thì có 0,61 đ vốn lưu động Tỷ suất lợi nhuận trên vốn lưu động: Năm 2001 sử dụng 1đ vốn lưu động tạo ra 0,0171đ lợi nhuận Năm 2002 sử dụng 1đ vốn lưu động tạo ra 0,0083đ lợi nhuận Năm 2002 so với năm 2001 Tỷ suất lợi nhuận VLĐ giảm là 0,0088 với tỷ lệ giảm 51,46%. Như vậy tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động bị giảm sút đáng kể, trong đó sức sản xuất và hàm lượng vốn lưu động của Công ty không biến động; trước tình hình này công ty cần phải có những biện pháp tích cực phát huy hết khả năng tham gia vào sản xuất kinh doanh của vốn lưu động. Ngoài các biện pháp tiết kiệm, giảm thiểu các chi phí gián tiếp thì công tác thu hồi nợ là việc làm cấp bách, công ty cần có kế hoạch và cử cán bộ theo dõi công nợ giải quyết sớm và dứt điểm các khoản phải thu và chú ý lập dự phòng các khoản phải thu khó đòi sát với số thực tế. Công ty cũng cần phải xác định giới hạn của lượng vốn phải thu hồi nếu lượng vốn phải thu quá lón thì không tiếp tục bán chịu vì như vây sẽ tăng rủi ro cho công ty và phải có thời hạn bán chịu và chính sách tín dụng với tuỳ từng quy mô doanh nghiệp khách hàng. Các chỉ số này phản ánh chính xác vì như trên ta đã phân tích thấy rằng Công ty đã để bị chiếm dụng một lượng vốn tương đối cao, doanh thu chưa thể thu ngay được do đó làm cho tốc độ vòng quay vốn thấp và đương nhiên làm cho thời gian một vòng quay bị tăng cao. Mặc dù so sánh doanh thu năm 2002 có tăng hơn so với năm 2001 nhưng tốc độ tăng của doanh thu không nhanh bằng tốc độ tăng của vốn lưu động nên kỳ luân chuyển vốn cao và như vậy hiệu quả sử dụng vốn lưu động bị thấp. Trong thời gian tới Công ty cần xem xét lại cân đối lại việc sử dụng lưu động để tăng tốc độ luân chuyển vốn bằng cách có thể giảm bớt số vốn lưu động chiếm dụng nhưng vẫn đảm bảo cho nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, hoặc có thể vẫn dùng lượng vốn như cũ nhưng mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh mà không cần tăng thêm vốn. Muốn tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động thì công ty cần phải tăng tốc độ luân chuyển vốn khâu sản xuất bằng cách áp dụng các biện pháp công nghệ hiện đại để rút ngắn chu kỳ sản xuất, tiết kiệm chi phí sản xuất, tổ chức sản xuất hợp lý, đồng bộ để hạ giá thành sản phẩm để giảm vốn ở khâu này. Mặt khác công ty cũng cần phải tăng tốc độ luân chuyển vốn trong khâu lưu thông bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm, đẩy nhanh việc bán và tiêu thụ sản phẩm thu tiền bán sản phẩm kịp thời tăng nhanh vốn lưu động ở khâu này. 2.2.2.3.Đối với khả năng thanh toán: Khả năng thanh toán của doanh nghiệp là khả năng dùng vốn tài sản của mình để chi trả các khoản nợ đối với các đơn vị khác. Trong kinh doanh kinh tế thị trường, việc chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp là đặc trưng nổi bật, thậm chí còn được coi là một sách lược kinh doanh hữu hiệu, nhưng nó sẽ trở thành con dao hai lưỡi nếu doanh nghiệp không biết vận dụng vào nó một cách linh hoạt và đúng đắn.Việc đánh giá khả năng tính toán giúp cho các nhà quản lý có thể nắm vững được tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó sẽ chủ động trong việc sử dụng vốn kinh doanh. Tình hình tài chính được đánh giá lành mạnh trước hết phải thể hiện được khả năng chi trả, vì vậy chúng ta bắt đầu từ việc khả năng thanh toán, đây là chỉ tiêu được rất nhiều người quan tâm như các nhà đầu tư, nhà cho vay, nhà cung cấp vật liệu. Họ luôn đặt câu hỏi: Hiện doanh nghiệp có đủ khả năng đến hạn thanh toán hay không? Để đánh giá khả năng thanh toán của Công ty ta có thể sử dụng chỉ tiêu sau: - Hệ số khả năng thanh toán tổng quát: Là mối quan hệ giữa tổng tài sản mà hiện nay doanh nghiệp đang quản lý với tổng số nợ phải trả. Tổng TSBQ Hệ số khả năng thanh toán tổng quát = Nợ NH và nợ DHBQ Tổng TS đầu năm + Tổng TS cuối năm Tổng tài sản BQ = 2 100.295.842.410 + 107.849.949.972 Tổng TSBQ năm 2001= = 104.072.896.191 2 107.849.949.972 + 126.943.953.382 Tổng TSBQ năm 2002 = = 117.396.951.677 2 104.072.896.191 Hệ số khả năng thanh toán TQ năm 2001 = = 1,094 lần >1 95.383.530.046 117.396.951.677 Hệ số khả năng thanh toán TQ năm 2002 = = 1,092 lần >1 107.505.109.129 - Hệ số khả năng thanh toán hiện thời: Thể hiện mức độ đảm bảo của tài sản lưu động với nợ ngắn hạn Tổng TSLĐ và ĐTTCngắn hạn BQ Hệ số khả năng thanh toán hiện thời = Tổng nợ ngắn hạn BQ 99.259.842.021 Hệ số khả năng thanh toán hiện thời Năm 2001 = = 1,04>1 95.383.530.046 111.425.902.158 Hệ số khả năng thanh toán hiện thời Năm 2002 = = 1,05>1 106.261.749.939 - Hệ số khả năng thanh toán nhanh(Hn): Là hệ số thể hiện thước đo về khả năng trả nợ ngay không dựa vào việc phải bán vật tư hàng hoá. Tổng TSLĐ bình quân - Hàng tồn kho bình quân Hệ số khả năng TT nhanh = Tổng Nợ NH BQ 99.259.842.021 - 13.153.623.082 Hệ số khả năng TT nhanh 2001 = = 0,9<1 95.383.530.046 111.425.902.158 - 7.101.689.216 Hệ số khả năng TT nhanh 2002 = = 0,98<1 106.261.749.939 Từ đó ta có bảng sau: Bảng 8 Bảng đánh giá tình hình về khả năng thanh toán Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 So sánh Tuyệt đối Tương đối 1.Hệ số khả năng thanh toán tổng quát 1,094 1,092 -0,002 -0,18 2.Hệ số khả năng thanh toán hiện thời 1,04 1,05 0,1 9,62 3.Hệ số khả năng thanh toán nhanh 0,9 0,98 0,08 8,89 Từ bảng trên ta thấy: Hệ số khả năng thanh toán tổng quát: Năm 2001: Công ty đi vay 1 đồng thì có 1,094 đồng TS đảm bảo Năm 2002: Công ty đi vay 1 đồng thì có 1,092 đồng TS đảm bảo Vậy qua 2 hệ số thanh toán tổng quát giảm 0,002 với tỷ lệ giảm là 0,18%. Tuy nhiên, hệ số thanh toán tổng quát 2 năm đều chứng tỏ khả năng thanh toán của Công ty là tốt. Tất cả các khoản huy động bên ngoài đều có tài sản đảm bảo. Hệ số khả năng thanh toán hiện thời: Năm 2001: 1 đồng nợ ngắn hạn mà công ty đi vay thì có 1,04 đồng TSLĐ và ĐTNH đảm bảo Năm 2002: 1 đồng nợ ngắn hạn mà công ty đi vay thì có 1,05 đồng TSLĐ và ĐTNH đảm bảo Vậy qua 2 hệ số thanh toán hiện thời tăng 0,01 với tỷ lệ tăng là 9,62%. Tuy chỉ tăng 9,62% nhưng như vậy cũng thấy sự cố gắng của Công ty trong những năm qua đã có bước khởi sắc. Hệ số khả năng thanh toán nhanh: Năm 2001: 1 đồng nợ ngắn hạn mà công ty đi vay thì có 0,9 đồng TSLĐ bằng tiền đảm bảo Năm 2002:1 đồng nợ ngắn hạn mà công ty đi vay thì có 0,98 đồng TSLĐ bằng tiền đảm bảo Vậy qua 2 hệ số thanh toán nhanh tăng 0,08 với tỷ lệ tăng là 8,89%. Mặc dù hệ số khả năng thanh toán nhanh năm sau cao hơn năm trước nhưng cho thấy hệ số này vẫn chưa đảm bảo độ an toàn cho thanh toán nhanh của doanh nghiệp, tức là những khoản nợ ngắn hạn không có đủ lượng tiền để thanh toán ngay khi phía bạn hàng đòi nợ. Như vậy khả năng thanh toán năm 2002 tăng so với năm 2001 không đáng kể nhưng nói chung vẫn thấp, Công ty sẽ gặp khó khăn trong việc giải quyết công nợ vì nếu cần thiết công ty sẽ phải sử dụng các biện pháp bất lợi như bán tài sản với giá thấp để trả nợ; Vì vậy Công ty phải có biện pháp đẩy mạnh thu hồi tiền vốn của mình nhằm tạo ra điều kiện tài chính an toàn hơn. 2.2.2.4. Đối với vốn kinh doanh: Trên đây ta đã xem xét các chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng của từng loại vốn. Để có cái nhìn tổng quát về hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung của công ty ta cần đi sâu vào phân tích các chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Dựa vào bảng cân đối kế toán và bảng báo cáo kết quả kinh doanh ta lập bảng Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh như sau: Bảng 9 Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh Chỉ tiêu Đ V T Năm 2001 Năm2002 So sánh Tuyệt đối Tương đối 1 2 3 4 5 6 1.DTT đ 162.393.541.561 182.172.788.772 19.779.247.281 12,2 2.LNHĐKD đ 1.700.087.332 926.766.054 -773.321.278 -45,49 3.VKD bq đ 104.072.896.191 117.396.951.667 13.324.055.486 12,80 4.VCSH bq đ 7.250.257.625,5 8.668.937.152 1.418.679.526,5 19,57 5.Giá thành toàn bộ đ 160.693.454.169 181.246.022.718 20.552.568.549 59,44 6.Vòng quay tổng vốn (1/3) vòng 1,5604 1,5518 -0,0086 -0,55 7.Tỷ suất LN/VKD bq (2/3) vòng 0,0163 0,0079 -0,0084 -51,67 8.Tỷ suất LN/VCSH (2/4) vòng 0,2345 0,1069 -0,1276 -54,41 9.Tỷ suất LN/DT (2/1) vòng 0,0105 0,0051 -0,0054 -51,41 10.Tỷ suất LN/Ztb (2/5) vòng 0,0106 0,0051 -0,0055 -51,67 Như vậy, dựa vào số liệu trên ta thấy: Vòng quay tổng vốn: vòng quay tổng vốn cho biết toàn bộ vốn sản xuất kinh doanh của công ty trong kỳ của năm 2001 là 1,5604vòng. Năm 2002 là 1,5518 vòng. Năm 2002 so với năm 2001 giảm 0,0086 vòng tương ứng với tỷ lệ giảm 0,55 %. Vòng quay của vốn giảm không đáng kể do tốc độ tăng của doanh thu (12,2%) nhỏ hơn tốc độ tăng của VKD (12,8%). Tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh: điều này cho thấy cứ một đồng vốn kinh doanh của năm 2001 tạo ra 0,0163 đồng lợi nhuận, năm 2002 là 0,0079 đồng lợi nhuận. Năm 2002 so với năm 2001 giảm 0,0084 đồng với tỷ lệ giảm 51,67%. Nguyên nhân là do lợi nhuận hoạt động kinh doanh giảm (45,49%) và hiệu quả sử dụng vốn lưu động và vốn cố định giảm, trong đó VKD lại tăng lên (12,8%) làm cho tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh giảm theo. Khả năng sinh lời của vốn chưa cao. Tỷ suất lợi nhận trên vốn chủ sở hữu cứ một đồng vốn chủ sở hữu năm 2001 tạo ra 0,2345 đồng lợi nhuận, năm 2002 là 0,1069 đồng lợi nhuận. Điều này cho thấy mặc dù năm 2002 so với năm 2001 giảm 0,1276 với tỷ lệ giảm 54,41 % nhưng hiệu quả sử dụng Vốn CSH vẫn cao hơn VKD. Nguyên nhân là do lợi nhuận hoạt động kinh doanh giảm (45,49%), trong đó VCSH lại tăng lên (19,57%) làm cho tỷ suất lợi nhuận trên vốn CSH giảm theo. Khả năng sinh lời của vốn này chưa cao. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu Năm 2001 cứ 1 đồng doanh thu tạo ra 0,0105 đồng lợi nhuận, năm 2002 cứ 1 đồng doanh thu tạo ra 0,0051 đồng lợi nhuận. Năm 2002 so với năm 2001 giảm 0,0054 đồng tương ứng với tỷ lệ giảm 51,41%. Nguyên nhân là do lợi nhuận hoạt động kinh doanh giảm (45,49%), trong đó DTT lại tăng lên (18,2%) làm cho tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu giảm theo. Tỷ suất lợi nhuận trên giá thành toàn bộ Cứ 1 đồng giá thành toàn bộ năm 2001 tạo ra 0,0106 đồng lợi nhuận. Năm 2002 cứ 1 đồng giá thành toàn bộ tạo ra 0,0051 đồng lợi nhuận. Năm 2002 so với năm 2001 giảm 0,0055 đồng tương ứng với tỷ lệ giảm 51,67%. Nguyên nhân là do lợi nhuận hoạt động kinh doanh giảm (45,49%), trong đó giá thành toàn bộ lại tăng lên (59,44%) làm cho tỷ suất lợi nhuận trên giá thành toàn bộ giảm theo. Qua toàn bộ số liệu nghiên cứu, phân tích và đánh giá ở trên ta thấy tình hình tài chính tại Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không - Tổng công ty Hàng không Việt Nam không có hiện tượng tiêu cực và có biến động khả quan, vốn kinh doanh nói chung là được bảo toàn và có chiều hướng phát triển biểu hiện qui mô kinh doanh sản xuất và dịch vụ ngày càng được mở rộng, lợi nhuận của doanh nghiệp từ chỗ lỗ triền miên đã có lãi, thu nhập và việc làm của người lao động ổn định và tăng dần. Tuy nhiên xét về hiệu quả sử dụng Vốn kinh doanh của doanh nghiệp mặc dù có chiều hướng phát triển tốt nhưng hiệu quả sử dụng VKD bị suy giảm mà chủ yếu do LNHĐKD giảm. Nếu trong tương lai doanh nghiệp có giải pháp để tăng lợi nhuận thì hiệu quả sử dụng VKD sẽ tăng lên như mong muốn. Trong kết cấu nguồn vốn thỉ tỷ lệ vốn vay rất lớn, chiếm trên 85% tổng nguồn vốn do đó hàng năm công ty sẽ phải trả chi phí lãi vay tương đối lớn đó là chưa kể đến những khoản nợ quá hạn sẽ phải chịu lãi suất cao hơn. Trong thời gian tới công ty một mặt mở rộng thị trường, phát triển sản xuất kinh doanh đồng thời phải làm tốt công tác thu hồi nợ, cần phải xác định và phân loại các khoản phải thu, khoản nào có khả năng trở thành nợ khó đòi, khoản nào do khách hàng chưa trả tiền nhưng sẽ trả đúng hạn trên cơ sở đó lập dự phòng phải thu khó đòi, lập kế hoạch và có các chính sách tín dụng phù hợp nhằm sử dụng đồng vốn có hiệu quả hơn. Trên đây là một số chỉ tiêu thường được sử dụng để làm căn cứ cho việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh, từ đó cho thấy quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp là một vấn đề hết sức quan trọng. Chương III Một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh tổ chức và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không -Tổng công ty Hàng không Việt Nam Xuất phát từ thực trạng SXKD và sử dụng các nguồn vốn, Em xin mạnh dạn đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VKD trong thời gian tới. Biện pháp 1 - Khai thác thị trường đầu tư: Việc mở rộng thị trường kinh doanh là điều kiện tiên quyết đảm bảo sự tồn tại và phát triển của bất cứ doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần như hiện nay. Trong nền kinh tế thị trường mà đặc trưng của nó là sự cạnh tranh khốc liệt, sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai đều là vấn đề cần phải xem xét nghiêm túc; Đồng vốn của doanh nghiệp chỉ được sử dụng có hiệu quả, mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp là phải được sử dụng để sản xuất các mặt hàng, cung ứng các dịch vụ là thị trường chấp nhận. Với lợi thế là một doanh nghiệp độc lập trong Tổng công ty Hàng không Việt Nam, cung ứng một số dịch vụ cho ngành Hàng không và kinh doanh một số mặt hàng khác công ty đã không ngừng khai thác thị trường, tìm tòi các mặt hàng có thể cung ứng được để mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp thể hiện qua từng thời gian công ty đều có bổ sung thêm ngành nghề kinh doanh nhằm mở rộng thị trường. Tuy nhiên riêng cung ứng cho ngành Hàng không thì thị phần còn chiếm rất nhỏ (Không quá 3%). Trong thời gian tới Công ty nên mở rộng thị trường kinh doanh, tập trung hơn nữa vào các mặt hàng, dịch vụ có khả năng tiêu thụ mạnh, đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ các cơ hội thuận lợi và với các dây chuyền công nghệ sẵn có, lực lượng lao động sẵn có và các mối quan hệ với các bạn hàng. Mặt khác để sử dụng hiệu quả đồng vốn trong sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra lợi nhuận Công ty cũng cần phải tính toán, cân đối lại năng lực sản suất của mình, tránh dàn trải quá nhiều mặt hàng nhưng tiêu thụ không mạnh gây ứ đọng vốn hoặc bị người khác chiếm dụng vốn của mình, công ty cũng nên đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, quảng cáo tuyên truyền để ngày càng gây được hình ảnh và niềm tin cho khách hàng. Biện pháp 2 - Xây dựng kế hoạch huy động và sử dụng vốn: Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đều phải cần có một lượng vốn phù hợp do đó khi bắt đầu cho việc sản xuất hay đầu tư nào thì công tác tài chính phải đi trước một bước là xác định nhu cầu vốn cần thiết, trên cơ sở số vốn cần thiết thì lấy từ đâu, huy động từ nguồn nào, tổ chức huy động như thế nào để đáp ứng kịp thời đầy đủ cho các hoạt động của công ty. Việc tổ chức huy động các nguồn vốn ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của Công ty. Để đi đến quyết định lựa chọn hình thức huy động vốn thích hợp cần xem xét cân nhắc như: Kết cấu nguồn vốn, chi phí cho việc sử dụng các nguồn vốn, những thuận lợi và bất lợi đối với từng hình thức huy động vốn. Trong năm 2002 nguồn vốn của công ty hoạt động chủ yếu là vốn vay nhưng khả năng thanh toán chưa cao, còn bị khách hàng chiếm dụng nhiều vì vậy công ty cần phải xem xét lại việc đầu tư vào các mặt hàng bị khách hàng chiếm dụng vốn, mặt khác cần phải có biện pháp thu hồi, đôn đốc nợ đọng. Tổ chức sử dụng có hiệu quả đồng vốn hiện có, quản lý chặt chẽ các khoản thu chi, khả năng thanh toán của đơn vị cũng là một biện pháp hữu hiệu nhằm huy động tối đa số vốn hiện có vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Đôn đốc thu hồi nợ, theo dõi công nợ với từng khách hàng để có các biện pháp giải quyết trong từng tình thế cụ thể bởi nếu doanh nghiệp đã đi vay vốn đầu tư mà lại để người khác chiếm dụng thì phần lợi nhuận mà doanh nghiệp dự tính chưa phải là con số thực. Việc đôn đốc thu hồi công nợ là công việc mà cán bộ tài chính phải có năng lực chuyên môn cũng như phải khéo léo trong ứng xử và nghệ thuật giao tiếp do đó công việc này cần giao cho cán bộ có năng lực. Mặt khác khi ký kết các hợp đồng sản xuất và cung ứng dịch vụ cần phải lưu ý nhiều hơn về các điều khoản thanh toán. Qua các tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo tài chính và các thông tin về việc thu hồi công nợ Công ty cần phải có kế hoạch hàng kỳ họp, phân tích tình hình thu hồi công nợ, đề ra biện pháp thu hồi công nợ và và biện pháp nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh không bị đình trệ. Bên cạnh việc khuyến khích các đối tác thanh toán công nợ đúng kỳ công ty cũng cần phải có các chế tài như nộp phạt, tăng lãi xuất cao gấp nhiều lần nếu như đối tác không thực hiện việc trả nợ như trong hợp đồng đã ký kết. Biện pháp 3 - Tiết kiệm chi phí quản lý doanh nghiệp: Mọi chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra dưới mọi hình htức tức là công ty đã bỏ ra một lượng tiền vốn của mình, vì vậy chi phí phải đúng mục đích và phải phù hợp với cân đối tài chính trong kỳ của doanh nghiệp. Các chi phí mang tính chất gián tiếp như chi phí quản lý doanh nghiệp, một số chi phí sản xuất chung và một số chi khác bằng tiền tuy không tham gia trực tiếp vào sản xuất kinh doanh nhưng ảnh hưởng đến các chính sách, tiếp thu công nghệ, quản lý sản xuất, quản lý lao động để nâng cao hiệu quả của sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên cần phải giảm thiểu các chi phí này bằng cách phải tinh giảm biên chế gián tiếp, quản lý chặt chẽ các khoản chi gián tiếp, tăng năng suất lao động của bộ phận gián tiếp. Căn cứ nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của từng năm Công ty cần lập kế hoạch tài chímh cho phù hợp, cần phải có dự toán cho các khoản mục chi phí phát sinh tại bộ phận gián tiếp theo từng quí, sau mỗi kỳ cần tổ chức phân tích tình hình thực hiện kế hoạch để có sự điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với mục tiêu là chống lãng phí. Khi duyệt hoặc thanh toán các khoản chi phí phát sinh thủ trưởng đơn vị cần kiểm soát chặt chẽ cả về nội dung khoản mục chi và cả về sự hợp lý hợp lệ của các chứng từ phát sinh, các khoản chi tiếp khách, văn phòng phẩm cần hạn chế đến mức thấp nhất. Việc chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp cao độ chuyển sang nền kinh tế thị trường đồi hỏi mỗi doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước muốn tồn tại đều phải nâng cao năng xuất lao động, giảm thiểu các chi phí gián tiếp, tăng cao năng lực sản xuất sẵn có. Trong thời gian qua các bộ phận sản xuất kinh doanh của đơn vị là tương đối phù hợp tuy nhiên trong mỗi giai đoạn mỗi bước đi vẫn cần có sự điều chỉnh phù hợp hơn để sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn. Biện pháp 4 - Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm: Việc hạ giá thành sản phẩm đã đem lại cho công ty những thành công lớn, làm gia tăng lợi nhuận, muốn duy trì và nâng cao con số tuyệt đối của lợi nhuận công ty cần có những biện pháp thay đổi một cách căn bản trong quản lý giá thành, một mặt cần đầu tư thêm máy móc thiết bị để hoàn thiện dây chuyền công nghệ đảm bảo cho chất lượng sản phẩm đồng thời tiết kiệm được chi phí nguyên liệu vật liệu và chi phí nhân công trực tiếp. Vì vậy cần có các biện pháp sau: Thứ nhất: Đối với nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất sản phẩm thì việc tiết kiệm nguyên liệu vẫn luôn đưọc coi trọng hàng đầu vì khoản chi phí này chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm, tuy nhiên tiết kiệm không có nghĩa là cắt xén nguyên vật liệu đã được định mức cho từng sản phẩm mà tiết kiệm ở đây có nghĩa là tránh hao hụt trong bảo quản, sản xuất, giảm thiểu các chi phí như vận chuyển, giá cả mua hợp lý, nắm bắt kịp thời giá cả trên thị trường để tránh bị mua gía cao. Trong những trường hợp cần thiết có thể sử dụng nguyên vật liệu thay thế phù hợp mà vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm khi mà vật liệu chính trở nên kham hiếm hoặc không cung ứng kịp thời. Bên cạnh các biện pháp nhằm tiết kiệm nguyên vật liệu thì công tác kiểm tra giám sát vật tư hàng hoá khi mua về cũng rất quan trọng vì chỉ cần xảy ra việc mua nguyên vật liệu không đúng phẩm chất sẽ bị ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và hậu quả là hàng hoá bị trả lại thì còn gây thiệt hại lón cho doanh nghiệp, vừa không bán được hàng mà lại mất uy tín trên thị trường. Ngoài ra Công ty cũng cần phải thiết lập mạng lưới các nhà cung cấp vật tư có uy tín, khả năng cung ứng vật tư lâu dài, điều này sẽ giúp doanh nghiệp giảm chi phí bảo quản tại kho, giảm được ứ đọng vốn do nguyên vật liệu tồn kho mà khi cần vật tư vẫn được cung cấp đầy đủ cả về số lượng và chất lượng. Số lượng hàng và lần đặt hàng cần được tính toán để sao chi phí đặt hàng là nhỏ nhất, làm được việc này cần phải giao cho các cán bộ cung ứng nguyên vật liệu có thâm niên và kinh nghiệm công tác trong giao dịch mua hàng và nên có chế độ khuyến khích vật chất kịp thời. Thứ hai: Đối với nhân công trực tiếp Lực lượng lao động của công ty tương đối đông và chủ yếu là lao động trực tiếp; Trong quá trình sản xuất kinh doanh đặc biệt là với đặc thù của Công ty là sản xuất và dịch vụ đa năng, việc bổ sung ngành nghề sản xuất cũng thường xuyên nên sẽ có một số lao động trực tiếp trong một thời kỳ sẽ không phù hợp và như vậy sẽ ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất kinh doanh, trong thời gian đó lương vẫn phải trả và các chi phí như Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế vẫn phải chi trả chưa kể là phát sinh chi phí đào tạo nghề mới. Do vậy công ty cần phải có biện pháp rà soát lại lao động, những lao động có khả năng trình độ, có sức khoẻ thì tổ chức đào tạo lại, số không thể đào tạo có thể giải quyết chính sách để họ tự nguyện tự lo lấy công ăn việc làm của mình nhằm giảm bớt gánh nặng cho công ty. Bên cạnh việc sắp xếp lại , rà soát lại lao động cần phải trẻ hoá đội ngũ lao động với chất lượng lao động cao tiếp cận được công nghệ hiện đại nhằm tăng năng suất lao động tạo ra nhiều sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường với giá thành hạ mang lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp. Ngoài 2 yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm công ty cần phải tính toán để hạ chi phí quản lý, chi phí sản xuất chung, kiểm soát chặt chẽ về nguồn gốc phát sinh chi phí, đối tượng chịu chi phí, phương thức phân bổ chi phí , hình thành định mức chi phí để xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật ngày càng phù hợp và hiệu quả hơn. Biện pháp 5 - Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh: Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng là một biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của công ty mang lại lợi nhuận cho công ty mà nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh thể hiện thông qua các yếu tố: Mở rộng và chiếm lĩnh thị trường là yếu tố sống còn với doanh nghiệp, chỉ có chiếm lĩnh được thị trường, tiêu thụ được nhiều hàng hoá, thành phẩm thì mới mang lại hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Có tiêu thụ được sản phẩm, hàng hoá thu được tiền về thì doanh nghiệp mới thực hiện được quá trình sản xuất kinh doanh của mình, đẩy nhanh được tốc độ luân chuyển vốn,bù đắp được các chi phí bỏ ra và mang lại lợi nhuận và có điều kiện để tái sản xuất mở rộng. Hiện nay, do đặc điểm là một doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Hàng không Việt Nam nên thị trường tiêu thụ sản phẩm chủ yếu của công ty là các đơn vị trong ngành hàng không. Chỉ có trông chờ vào thị trường nhỏ bé này thì không thể mở rộng sản xuất được, lãng phí vốn đầu tư vào tài sản cố định do máy móc không khai thác được hết công suất dẫn đến hiệu quả kinh doanh kém. Mặt khác sản phẩm may mặc của công ty lại đơn điệu và sản xuất theo đơn đặt hàng nên khó chiếm lĩnh và xâm nhập thị trường. Để chiếm lĩnh được công ty cần phải: Tìm hiểu thị hiếu người tiêu dùng, mở rộng các phương thức tiêu thụ, khuyến khích khách hàng mua sản phẩm của mình bằng các áp dụng các chế độ thưởng, chiết khấu....; Đối với thị trường ngoài nước công ty cần quảng cáo và chào bán các sản phẩm của mình để tìm kiếm các hợp đồng may gia công. Đây cũng là một hướng đi tốt để tận dụng hết công suất máy móc thiết bị, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tăng hiệu quả sử dụng vốn. Biện pháp 6 - Cải tạo tình hình tài chính và thúc đẩy cổ phần hoá: Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không là một doanh nghiệp Nhà nước hạch toán độc lập trong Tổng công ty Hàng không Việt Nam; Vì vậy doanh nghiệp cũng là đối tượng cần phải phải sắp xếp đổi mới và phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động theo tinh thần nghị quyết hội nghị lần thứ III Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX. Trải qua một thơì gian dài hoạt động sản xuất kinh doanh Công ty gặp rất nhiều khó khăn, hầu như năm nào cũng thua lỗ; Công ty chỉ thực sự vươn lên làm ăn có lãi kể từ năm 2001, tuy nhiên khó khăn vẫn còn nhiều phía trước: Lực lượng lao động già cỗi, tay nghề thấp, cơ sở vật chất đơn sơ, vốn sản xuất kinh doanh thiếu hầu như phải đi vay do đó cần phải được đổi mới theo phương án Cổ phần hoá nhằm tạo cho Công ty có nhiều sở hữu trong đó có đông đảo người lao động để sử dụng có hiệu quả đồng vốn, tài sản của Nhà nước và huy động vốn và phát triển sản xuất kinh doanh tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động của Công ty, phát huy vai trò làm chủ của người lao động, đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Hiện nay Công ty đang thực hiện tiến hành từng bước cổ phần hoá và sẽ hoàn tất trong năm 2003 để tiếp tục vào tiến trình theo mô hình mới . Thực chất trong 2 năm qua việc chuẩn bị và tiến hành từng phần cổ phần hoá gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là việc sắp xếp lại lao động, giải quyết như thế nào đối với số lao động dôi dư là cả một vấn đề cần phải được giải quyết đồng bộ theo chế độ chính sách của Nhà nước nói chung và sự giúp đỡ với những quyết sách cụ thể của Tổng công ty Hàng không Việt Nam. Theo Quyết định số 372/QĐTTg ngày 04/04/2003 của Thủ tướng chính phủ về việc thí điểm tổ chức hoạt động theo mô hình công ty mẹ con tại Tổng công ty Hàng không Việt Nam thì Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không là công ty con thuộc nhóm các Công ty liên kết sau khi đã được cổ phần hoá từ doanh nghiệp Nhà nước. Như vậy trong tương lai không xa Công ty sẽ có môi trường hoạt động tốt hơn với những hoạch định và phương hướng mới. Thị trường chứng khoán Việt Nam mới đi vào hoạt động do đó điều kiện để các Công ty nhỏ tham gia yết giá là còn khó khăn, tuy nhiên trong thời gian tới khi mà Nhà nước đẩy mạnh cổ phần hoá thì Công ty có cơ hội sử dụng thị trường này như một công cụ huy động vốn hiệu quả. Làm giàu nguồn vốn từ thị trường chứng khoán là công việc của tương lai còn hiện tại nguồn tài trợ vốn vẫn là Ngân hàng và sự trợ giúp của Tổng công ty do đó Công ty cần tiếp tục phát huy thế mạnh trong hoạt động sản xuất kinh doanh sử dụng tốt các nguồn vốn xây dựng các phương án đi vay, trả nợ hợp lý và khả thi. Kết luận Những lí luận chung về VKD khẳng định vai trò của vốn kinh doanh ảnh hưởng đến sự phát triển mạnh hay yếu của mỗi doanh nghiệp. Vốn kinh doanh là trung tâm hướng tới hoạt động, là yếu tố cần có đầu tiên của Công ty. Để có một lượng vốn lớn không phải một sớm một chiều và phải có thời gian huy động và phương thích huy động phù hợp với từng thời kỳ; Do đó công tác TC rất quan trọng nên cần có sự lãnh đạo và bộ máy quản lý sáng suốt lựa chọn phương án tốt nhất để huy động vốn. Thông qua việc tìm hiểu đánh giá thực trạng vốn kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không cho ta thấy trong những năm gần đây công ty làm ăn có hiệu quả hơn, Điều này được chứng minh Công ty đã có nhiều biện pháp hữu hiệu trong việc sử dụng vốn kinh doanh, mặc dù Công ty phải bươn trải kinh doanh khai thác thị trường và không ngừng có sự xoay chuyển bổ sung cho phù hợp nhằm sử dụng tối đa hiệu quả động vốn mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp mình. Ban lãnh đạo công ty cùng với đội ngũ cán bộ công nhân viên đã linh hoạt nhạy bén trong kinh doanh, nhiệt tình vì sự nghiệp chung, sự chuyển hướng trong kinh doanh kịp thời được thi hành bằng các quyết định quyết đoán của lãnh đạo đã giúp Công ty vượt qua khó khăn ngày càng làm ăn có hiệu quả. Trên cơ sở nhận thức của mình trong quá trình học tập và các tư liệu, số liệu thu thập và nhận thức được trong quá trình đi thực tập tại Công ty em đã mạnh dạn trình bày các hiểu biết của mình và đề xuất một cách tổng quát các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Để các biện pháp có hiệu quả trong thực tế còn phải trải qua thử nghiệm và thực sự tham gia vào hoạt động sản xuất của Công ty và có thời gian tích luỹ kinh nghiệm từ hoạt động thực tế. Do trình độ nhận thức của bản thân có hạn, kinh nghiệm thực tế còn ít ỏi nên báo cáo có thể còn nhiều sai sót, em rất mong được sự góp ý từ phía thầy cô và nhân viên phòng TCKT của công ty để bản báo cáo được hoàn thiện hơn. Một lần nữa xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong bộ môn Tài chính doanh nghiệp Trường Trung học kinh tế Hà nội; đặc biệt là cô Phương Thị Hồng Hà đã nhiệt tình chỉ bảo hướng dẫn em hoàn thành báo cáo này. Hà nội, ngày 20 tháng 08 năm 2003 Học sinh: Đặng Vân Thuận Nhận xét của đơn vị thực tập Mục lục Tài liệu tham khảo ------------------ 1. Quản trị tài chính doanh nghiệp - Nhà xuất bản tài chính 1999. 2. Tài chính doanh nghiệp - Trường Trung học kinh tế Hà nội 2003. 3. Tập văn bản, thành lập tổ chức của Tổng công ty HKVN 2002. 4. Báo cáo tài chính năm 2001 và 2002 của Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không - Tổng công ty Hàng không Việt nam. 5. Báo cáo công tác năm 2001 và 2002 của Công ty Cung ứng dịch vụ HK ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH449.doc
Tài liệu liên quan