Vốn và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong Doanh nghiệp tại Công ty thương mại Công Nghệ Phẩm Hà Tây

Mở đầu Bước sang thiên niên kỷ mới, trong xu thế luôn vận động và đi lên không ngừng của toàn xã hội, với cơ chế thị trường rộng mở có sự quản lý cuả Nhà nước theo định hướng XHCN mà Đảng và Nhà nước ta lựa chọn, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu khởi sắc đáng mừng. Trong cơ chế thị trường, để đảm bảo cạnh tranh thắng lợi, giúp doanh nghiệp đứng vững và phát triển đòi hỏi bản thân doanh nghiệp phải tự đổi mới cho phù hợp với sự phát triển chung của toàn xã hội, phải vươn lên tự

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1124 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vốn và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong Doanh nghiệp tại Công ty thương mại Công Nghệ Phẩm Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khẳng định mình, chỉ có những doanh nghiệp tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh của mình một cách có hiệu quả thì mới có thể tồn tại và phát triển. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp nói riêng và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế của mỗi quốc gia nói chung, thương mại đã và đang trở thành một trong những lĩnh vực, một kênh phân phối, không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Cũng như bất kỳ các loại hình doanh nghiệp kinh doanh khác vấn đề huy động và sử dụng vốn luôn luôn được đặt lên hàng đầu. Vốn thể hiện giá trị toàn bộ tài sản và các nguồn lực của doanh nghiệp, không có vốn thì không thể tiến hành bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào. Vì vậy, vốn kinh doanh có vai trò quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp thương mại cũng phải luôn tìm kiếm, khai thác các nguồn tài chính thích hợp, đồng thời phải tính toán, lựa chọn việc sử dụng các nguồn vốn tạo được sao cho có hiệu quả nhất. “ Buôn tài không bằng dài vốn”. Vốn ít thì chỉ có thể buôn bán nhỏ, vốn dài mới có thể buôn bán lớn và buôn bán xa. Mặt khác, do đặc thù của hoạt động kinh doanh, vốn của các doanh nghiệp thương mại chủ yếu là vốn lưu động, chiếm khoảng 70 – 80% vốn kinh doanh nên việc huy động các nguồn vốn cho các doanh nghiệp này đóng vai trò rất quan trọng. Chính vì tầm quan trọng trên của vốn đã đưa tôi đến quyết định chọn đề tài: “Vốn và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp”. Đề tài của em gồm có 3 phần: Phần I : Lý luận chung về vốn và sử dụng vốn trong doanh nghiệp thương mại. Phần II: Tình hình huy động và sử dụng vốn tại công ty thương mại Công Nghệ Phẩm Hà Tây. Phần III: Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của công ty thương mại Công Nghệ Phẩm Hà Tây. Sau khi hoàn thành chương trình học tập tại Trường Đại Học Dân Lập Phương Đông, tôi đã được các thầy, cô giáo truyền đạt kiến thức và thực tập, tiếp cận với thực tế tại Công ty thương mại công nghệ phẩm Hà Tây và đặc biệt được sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo - giảng viên Nghiêm Sĩ Thương cùng với các cán bộ công nhân viên trong công ty thương mại công nghệ phẩm Hà Tây, tôi đã hoàn thành được báo cáo tổng hợp này. Do thời gian, và trình độ có hạn, nhất là tài liệu tham khảo hạn hẹp nên không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự giúp đỡ, đóng góp ý kiền của các thầy, cô giáo để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn. Phần I Lý luận chung về vốn và sử dụng vốn trong doanh nghiệp thương mại. I. Khái niệm và vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh thương mại. 1. Khái niệm. Quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên các lĩnh vực sản xuất, lưu thông , dịch vụ.... thể hiện sự khác biệt đáng kể về quy trình công nghệ và tính chất sản xuất kinh doanh, sự khác biệt đó phần lớn là do đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của từng doanh nghiệp quyết định. Cho dù sự khác biệt này thể hiện đến đâu chăng nữa thì theo ngôn ngữ kinh tế học người ta thường gọi nó là đầu vào và đầu ra. Một đầu vào hay một nhân tố sản xuất là một hàng hoá hay một dịch vụ mà các doanh nghiệp sử dụng trong quá trình sản xuất của họ. Các đầu vào được kết hợp với nhau để sản xuất ra các đầu ra, còn đầu ra bao gồm hàng loạt các hàng hoá hay dịch vụ có ích được tiêu dùng hay được sử dụng trong quá trình sản xuất khác. Để có các yếu tố đầu vào, trước hết nhà doanh nghiệp phải huy động trong tay mình được một lượng tiền nhất định. Số tiền này được được dùng vào việc xây dựng nhà xưởng, nhà kho, mua sắm các thiết bị, phương tiện và trả lương cho công nhân viên. Dó có sự tác động của lao động vào đối tượng lao động thông qua tư liệu lao động, hàng hoá dịch vụ được tạo ra và tiêu thụ trên thị trường. Để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp số tiền thu được do tiêu thụ sản phẩm phải đảm bảo bù đắp toàn bộ các chi phí bỏ ra và có lãi. Trong các doanh nghiệp thương mại vốn kinh doanh được biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản và các nguồn lực mà doanh nghiệp sử dụng trong hoạt động kinh doanh bao gồm: Tài sản hiện vật như nhà kho, cửa hàng, hàng hóa dự trữ. Tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng và đá quý. Bản quyền sở hữu trí tuệ và các tài sản vô hình khác. 2. Vai trò của vốn kinh doanh. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại có vai trò quyết định trong việc thành lập, hoạt động, phát triển của từng loại hình doanh nghiệp theo luật định. Nó là điều kiện quyết định và quan trọng nhất cho sự ra đời, tồn tại phát triển của các doanh nghiệp. Tuỳ theo nguồn của vốn kinh doanh, cũng như phương thức huy động vốn mà doanh nghiệp có tên là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp liên doanh… Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại lớn hay nhỏ là một trong những điều kiện quan trọng để xếp doanh nghiệp đó vào loại quy mô lớn, trung bình hay nhỏ, đồng thời cũng là một trong những điều kiện để sử dụng các nguồn tiềm năng hiện có và sẽ có trong tương lai về sức lao động, nguồn hàng hóa, mở rộng và phát triển thị trường, mở rộng lưu thông hàng hóa, là điều kiện để phát triển kinh doanh. Vốn kinh doanh thực chất là nguồn của cải của xã hội được tích luỹ lại, tập trung lại. Nó chỉ là một điều kiện, một nguồn khả năng để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên nó chỉ phát huy tác dụng khi biết quản lý, sử dụng chúng một cách đúng hướng, hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả. Trong sự cạnh tranh gay gắt của thị trường, huy động được vốn mới chỉ là bước khởi đầu, quan trọng hơn và quyết định hơn là nghệ thuật phân bố, sử dụng số vốn với hiệu quả cao nhất, điều đó có ảnh hưởng đến vị thế của doanh nghiệp trên thương trường bởi vậy cần phải có chiến lược bảo toàn và sử dụng có hiệu quả vốn kinh doanh. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại là yếu tố về giá trị. Nó chỉ phát huy tác dụng khi bảo toàn được và tăng lên được sau mỗi chu kỳ kinh doanh. Nếu vốn không được bảo toàn và tăng lên trong mỗi chu kỳ kinh doanh thì đồng vốn đó đã bị thiệt hại, hay nói cách khác đó là hiện tượng mất vốn. Nếu sự thiệt hại này là lớn sẽ dẫn đến doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và lâm vào tình trạng bị phá sản. Đây chính là nguyên nhân của việc sử dụng một cách lãng phí, không có hiệu quả các đồng vốn huy động được. II. phân loại và đặc điểm của nguồn vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp thương mại. 1. Phân loại vốn kinh doanh. Vốn kinh doanh của doanh ngiệp thương mại có thể được xem xét, phân loại theo các tiêu thức và góc độ sau: - Theo quy định pháp luật chia thành: + Vốn pháp định: Là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập doanh nghiệp do pháp luật quy định đối với từng ngành, nghề, và từng loại hình sở hữu doanh nghiệp. Dưới mức vốn pháp định thì không thể đủ điều kiện để thành lập doanh nghiệp. + Vốn điều lệ: là số vốn do các thành viên đóng góp và được ghi vào điều lệ của doanh nghiệp. Tuỳ theo ngành , nghề và loại hình doanh nghiệp nhưng vốn điều lệ không được nhỏ hơn vốn pháp định - Theo góc độ hình thành vốn kinh doanh, có: + Vốn đầu tư ban đầu: Là số vốn phải có khi thành lập doanh nghiệp, tức là số vốn cần thiết để đăng ký kinh doanh, hoặc số vốn góp của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân hoặc vốn do nhà nước giao. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn: gồm vốn đóng góp của tất cả các thành viên phải được đóng góp ngay khi thành lập công ty. Đối với công ty cổ phần : Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phàn bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị của mỗi cổ phần được gọi là mệnh giá cổ phiếu. + Vốn bổ sung: Là số vốn tăng thêm do bổ sung từ lợi nhuận, do nhà nước bổ sung bằng phân phối hoặc phân phối lại nguồn vốn, do sự đóng góp của các thành viên, do bán trái phiếu. + Vốn do liên doanh: Là số vốn đóng góp do các bên cùng cam kết liên doanh với nhau để hoạt động thương mại hoặc dịch vụ. + Vốn đi vay: Trong hoạt động kinh doanh ngoài số vốn tự có và coi như tự có, doanh nghiệp còn sử dụng một khoản vốn đi vay khá lớn của ngân hàng. Ngoài ra, còn có khoản chiếm dụng lẫn nhau của các đơn vị nguồn hàng khách hàng và bạn hàng. - Trên góc độ chu chuyển vốn kinh doanh : Trong hoạt động kinh doanh, vốn kinh doanh vận động khác nhau. Xét trên góc độ luân chuyển của vốn, người ta chia toàn bộ vốn của DNTM thành hai loại là vốn lưu động và vốn cố định. 2. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại. Vốn cố định. 2.1.1. Khái niệm. Để tiến hành hoạt động kinh doanh, trước hết doanh nghiệp phải mua sắm xây dựng và lắp đặt những tư liệu cần thiết cho hoạt động của mình. Thông thường thì những tư liệu đó gồm: Các văn phòng, nhà kho, phương tiện vận chuyển ... Những tư liệu lao động này có thể tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh, chúng bị hao mòn đi một phần những vẫn giữ nguyên được hình thái vật chất ban đầu và do đó, giá trị của chúng được chuyển dần từng phần vào giá trị sản phẩm. Để đơn giản hoá công tác hạch toán và tăng cường hiệu quả của công tác quản lý, tư liệu lao động được chia thành hai loại. - Tài sản cố định là những tư liệu lao động có đủ hai điều kiện sau: + Thời gian sử dụng trên một năm. + Giá trị đạt đến một mức độ nhất định tuỳ theo sự quyết định của từng thời kỳ (thường tính từ một năm trở lên). - Công cụ lao động nhỏ là những tư liệu lao động bị thiếu một hoặc cả hai điều trên. Hình thái của vốn cố định được biểu hiện dưới hai góc độ: - Hiện vật: Đó là toàn bộ tài sản cố định dùng trong kinh doanh của các doanh nghiệp bao gồm: nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc và thiết bị, công cụ, thiết bị đo lường thí nghiệm, phương tiện vận tải, bốc dỡ hàng hóa… - Tiền tệ: Đó là giá tài sản cố định chưa khấu hao và vốn khấu hao khi chưa được sử dụng để sản xuất tài sản cố định, là bộ phận vốn cố định đã hoàn thành vòng luân chuyển và trở về hình thái tiền tệ ban đầu. Vốn của toàn bộ các loại tài sản cố định khác nhau chính là thành phần của nó. 2.1.2. Đặc điểm của tài sản cố định. Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của tài sản cố định là chúng luôn luôn bị hao mòn trong cả khi sử dụng lẫn khi không sử dụng. Hao mòn của tài sản cố định gắn liền với quá trình sử dụng và sự tác động của các yếu tố tự nhiên gọi là hao mòn hữu hình, mức hao mòn hữu hình tỷ lệ thuận với thời gian và cường độ sử dụng tài sản. Ngoài hao mòn hữu hình tài sản cố định còn có hao mòn vô hình, đó là sự hao mòn do giảm thuần tuý về mặt giá trị của tài sản cố định mà nguyên nhân trực tiếp của nó là do sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật. Một bộ phận giá trị của tài sản cố định tương ứng với mức hao mòn đó được dịch chuyển dần dần vào giá trị sản phẩm gọi là khấu hao tài sản cố định. Sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ số tiền khấu hao được trích lại và tích luỹ tành quỹ gọi là quỹ khấu hao tài sản cố định. Quỹ khấu hao dùng để tái sản xuất giản đơn tài sản cố định nên người ta thường gọi là quỹ khấu hao cơ bản. Thời gian sử dụng tài sản cố định là tương đối dài và tiền khấu hao được trích lập hàng năm, doanh nghiệp có thể dùng nó để mua thêm các tài sản cố định khác phục vụ cho hoạt động kinh doanh nếu cần thiết, gọi là tái sản xuất tài sản cố định. 2.1.3. Phân loại vốn cố định. - Theo công dụng, tài sản cố định của doanh nghiệp thương mại được chia thành: Nhà làm việc hành chính, nhà kho, nhà cửa hàng, nhà để sửa chữa, để sản xuất năng lượng (máy nổ hoặc máy điện), nhà để xe, phòng thí nghiệm… + Các công trình xây dựng và vật kiến trúc để tạo điều kiện để cần thiết cho thực hiện các hoạt động nghiệp vụ trong kinh doanh thương mại như: cầu để bốc dỡ vật tư hàng hóa, đường ô tô đi vào và ra, đường dây tải điện… + Các công cụ, máy móc, thiết bị, phương tiện cân đo, bảo quản, chưa đựng dùng trong kinh doanh như các loại cân, các giá để chứa hàng, cần trục, cần cẩu, máy chuyển tải (băng chuyền), phương tiện tính toán, báo động cứu hoả… + Các dụng cụ đồ nghề chuyên dùng để đóng gói hàng hóa, tháo mở bao bì, phân loại, chuẩn bị hàng hóa… + Các loại phương tiện vận chuyển như ô tô tải, ô tô chuyên dùng, rơ móc, xe chuyển hàng kéo tay, chạy điện… + Các loại tài sản cố định khác không ở các nhóm kể trên ngư bao bì tài sản, côngtenơ.. - Theo mục đích sử dụng, các tài sản cố định được phân thành các nhóm sau: + Tài sản cố định dùng trong kinh doanh là những tài sản đang dùng trong kinh doanh, sản xuất và dịch vụ của doanh nghiệp + Tài sản cố định hành chính sự nghiệp: là những tài sản dùng làm việc hành chính, sự nghiệp như nhà làm việc hành chính, nhà tiếp khách, cơ quan của các đoàn thể, nhà của y tế, văn hóa, thể dục thẻ thao… + Tài sản cố định phúc lợi: là những tài sản dùng cho nhu cầu phúc lợi công cộng của doanh nghiệp như nhà điều dưỡng nghỉ mát, nhà ở của công nhân viên của doanh nghiệp do doanh nghiệp tự xây dựng, các phương tiện vận chuyển của doanh nghiệp đưa đón công nhân đi làm và về nhà… + Tài sản cố định chờ xử lý: là những tài sản không cần dùng, chưa cần dùng hoặc hư hỏng đang chờ giải quyết để thanh lý. Trong các doanh nghiệp thương mại không phải lúc nào, ở doanh nghiệp nào cũng có đủ các thành phần nói trên của tài sản cố định. Lúc đầu, tài sản cố định thường chỉ có một vài loại như nơi làm việc, nhà kho hoặc cửa hàng hay vừa làm nơi ở cho những người độc thân. Tài sản cố định được tăng thêm nhờ xây dựng, cải tạo, mở rộng hoặc mua sắm mới. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các loại tài sản cố định mới như các máy móc, thiết bị, công cụ cân, đo, đong, xuất, nhập mới làm cho thành phần của tài sản cố định ngày càng phong phú. Điều đó chứng tỏ cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp ngày càng hiện đại. Tài sản cố định giữ nguyên hình thái vật chất của nó trong thời gian dài. Tài sản cố định chỉ tăng lên khi có xây dựng cơ bản mới hoặc mua sắm. Tài sản cố định hao mòn dần. Hao mòn có hai loại: hao mòn hữu hình (hao mòn kinh tế) và hao mòn vô hình. Hao mòn vô hình chủ yếu do tiến bộ khoa học công nghệ mới và năng suất lao động xã hội tăng lên quyết định. Hao mòn hữu hình phụ thuộc vào mức độ sử dụng khẩn trương tài sản cố định và các điều kiện khác có ảnh hưởng đến độ bền lâu dài của tài sản cố định như: + Hình thức và chất lượng của tài sản cố định. + Chế độ quản lý, sử dụng tài sản cố định. + Chế độ bảo vệ, bảo dưỡng, sửa chữa thay thế thường xuyên, định kỳ đối với tài sản cố định. + Trình độ kỹ thuật, tinh thần trách nhiệm của người sử dụng và sự quan tâm của cấp lãnh đạo. + Các điều kiện tự nhiên và môi trường… Hiện nay, vốn cố định của doanh nghiệp thương mại chiếm khoảng 1/3 toàn bộ vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Tuỳ theo tính chất, đặc điểm của từng loại vật tư hàng hóa và sự cần thiết đáp ứng nhu cầu khách hàng, các doanh nghiệp thương mại có tỷ lệ vốn cố định ít nhiều khác nhau, từ 10% đến 50%… Tuy nhiên một số doanh nghiệp tài sản cố định còn thiếu, lại quản lý sử dụng không tốt, lãng phí, có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu quả của kinh doanh. Cơ cấu tài sản cố định của các doanh nghiệp thương mại thường được tính bằng các loại, số lượng tài sản cố định và tỷ trọng của mỗi loại so với toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp. Cơ cấu đó và sự thay đổi của nó là những chỉ tiêu quan trọng nói lên trình độ kỹ thuật và khả năng phát triển hoạt động kinh doanh của ngành lưu thông hàng hóa. Nó phản ánh đặc điểm hoạt động của từng doanh nghiệp và giúp cho việc xác định phương hướng tái sản xuất mở rộng tài sản cố định. Giá trị một loại TSCĐ Chỉ tiêu cơ cấu TSCĐ = * 100% Giá trị toàn bộ TSCĐ Vốn lưu động. 2.2.1. Khái niệm. Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động và vốn lưu thông. Vốn lưu động luôn luôn biến đổi hình thái từ tiền sang hàng và từ hàng sang tiền. Vốn lưu động chu chuyển nhanh hơn vốn cố định. Vốn lưu động bao gồm: Vốn dự trữ hàng hóa, vốn bằng tiền và các tài sản có khác. Trong doanh nghiệp thương mại, vốn lưu động là khoản vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất có khi tới 80 đến 90% trong tổng số vốn. Đó là đặc điểm khác biệt của doanh nghiệp thương mại đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác. ở một thời điểm nhất định, vốn của doanh nghiệp thương mại thường thể hiện ở các hình thái khác nhau như hàng hóa dự trữ, vật tư nội bộ, tiền gửi ngân hàng, tiền mặt tồn quỹ, các khoản phải thu và các khoản phải trả. Cơ cấu của chúng phụ thuộc rất lớn vào phương thức thanh toán. Vốn lưu động của doanh nghiệp thương mại khi chu chuyển phải qua 2 giai đoạn: - Mua hàng hóa (T-H), tức là biến tiền tệ thành hàng hóa. - Bán hàng hóa (H’-T’), tức là biến hàng hóa thành tiền tệ. ( T’ =T +DT). Đầu tiên vốn lưu động biểu hiện dưới hình thức tiền tệ và khi kết thúc cũng lại bằng hình thức tiền tệ (T-H-T’). Điều đó có nghĩa là: hàng hóa được mua vào không phải để doanh nghiệp sử dụng mà để bán ra. Hàng hóa bán ra được tức là được khách hàng chấp nhận và doanh nghiệp nhận được tiền doanh thu bán hàng và dịch vụ. Toàn bộ vòng chu chuyển của vốn lưu động thể hiện bằng công thức chung T-H-T’, trong đó : T’ =T +DT. Sự vận động của vốn lưu động trong hoạt dộng kinh doanh thương mại luôn luôn trái với vận động của hàng hóa. Khi hàng hóa mua về doanh nghiệp thì phải trả tiền, khi xuất hàng ra khỏi doanh nghiệp thì được nhận tiền. Kết quả của quá trình vận động tiền tệ lại phản ánh đúng kết quả của hoạt động kinh doanh: Kinh doanh lãi hay lỗ, mức độ lãi, lỗ. 2.2.2. Đặc điểm của tài sản lưu động. Khác với tài sản cố định, tài sản lưu động luôn thay đổi hình thái biểu hiện, ở trong các doanh nghiệp thương mại giá trị của nó được chuyển hầu hết vào hàng hoá doanh nghiệp thu mua. Tiếp đó hàng hoá được bán ra dưới nhiều hình thức, từ đó kết thúc vòng tuần hoàn, hàng hoá sau khi tiêu thụ lại được chuyển sang vốn bằng tiền như điểm xuất phát. Trong thức tế, sự vận động của vốn lưu động không phải diễn ra một cách tuần tự theo mô hình lý thuyết trên, mà các giai đoạn vận động của vốn lưu động được tiến hành đan xen với nhau, trong khi một bộ phận vốn lưu động được chi cho hoạt động thu mua hàng thì một bộ phận khác lại đang trong quá trình chuyển từ hàng hoá thành tiền. Cứ như vậy chu kỳ kinh doanh tiếp tục lặp đi lặp lại, vốn lưu động được liên tục tuần hoàn chu chuyển. Trong các doanh nghiệp thương mại vốn lưu động có vai trò hết sức quan trọng, có khi nó chiếm tới 80-90% trong tổng số vốn của doanh nghiệp vì vậy để quá trình tái mở rộng hoạt động kinh doanh của mình đòi hỏi doanh nghiệp phải có dư vốn lưu động để đầu tư vào các hình thái khác nhau từ đó tạo cho chúng có được mức tồn tại hợp lý và đồng bộ. 2.2.3. Phân loại vốn lưu động. - Theo công dụng của vốn lưu động, ta có: + Vốn nguyên vật liệu chính. + Vốn nguyên vật liệu phụ. + Vốn nhiên liệu. + Vốn tiền tệ và tài sản có quyết toán. Vốn lưu động của đơn vị sản xuất phụ thuộc phải trải qua ba giai đoạn. Biến tiền tệ thành dự trữ nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu, phụ tùng... Biến nguyên nhiên vật liệu chính, phụ thành thành phẩm hàng hóa nhờ kết hợp sức lao động và công cụ lao động (máy móc, thiết bị...). Biến thành phẩm hàng hóa thành tiền tệ. Vốn lưu động phục vụ cho hai giai đoạn trên là vốn sản xuất. Vốn lưu động ở giai đoạn thứ ba là vốn lưu thông. Như vậy vốn lưu động của đơn vị sản xuất phụ thuộc gồm có: Vốn lưu động của đơn vị = Vốn lưu động sản xuất + Vốn lưu thông. sản xuất - Xét về mặt kế hoạch hóa, vốn lưu động của doanh nghiệp thương mại được chia thành vốn lưu động định mức và vốn lưu động không định mức. + Vốn lưu động định mức là vốn lưu động tối thiểu cần thiết để hoàn thành kế hoạch lưu chuyển hàng hóa và kế hoạch sản xuất, dịch vụ phụ thuộc. Vốn lưu động định mức gồm có vốn dự trữ hàng hóa và vốn phi hàng hóa. Vốn dự trữ hàng hóa là số tiền dự trữ hàng hóa ở các kho, trạm, cửa hàng, trị giá hàng hóa trên đường vận chuyển và trị giá hàng hóa thanh toán bằng chứng từ. Nó nhằm bảo đảm lượng hàng hóa bán bình thường cho các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng. Vốn dự trữ hàng hóa chiếm 80- 90% vốn lưu động định mức và 50- 70% trong toàn bộ vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại. Vốn phi hàng hóa là số tiền định mức của vốn bằng tiền, bao gồm vốn bằng tiền và các tài sản khác. + Vốn lưu động không định mức là số vốn lưu động thường phát sinh trong quá trình kinh doanh và trong sản xuất, dịch vụ phụ thuộc nhưng không đủ căn cứ để tính toán được. Vốn lưu động không định mức gồm có vốn bằng tiền ( tiền mua hàng và giao cho nhân viên đi mua hàng), tiền gửi vào ngân hàng, tài sản có kết toán (các khoản nợ nhờ ngân hàng thu, các khoản nợ phải đòi khách hàng, tiền ứng trước để mua hàng,…), các phế liệu thu nhặt trong ngoài vốn, tài sản chờ thanh lý… - Theo nguồn hình thành, vốn lưu động được phân thành. + Nguồn vốn pháp định: Nguồn vốn này có thể do nhà nước cấp, do xã viên hay cán bộ công nhân viên trong công ty cấp. + Nguồn vốn tự bổ sung: Đây là nguồn vốn do doanh nghiệp tự bổ sung, chủ yếu lấy một phần từ lợi nhuận để lại. + Nguồn vốn liên doanh liên kết. + Nguồn vốn đi vay. 2.2.4. Vai trò của vốn lưu động trong các doanh nghiệp thương mại. - Để tiến hành hoạt động kinh doanh, ngoài các tài sản cố định như máy móc, kho bãi... doanh ngiệp còn phải bỏ ra một lượng tiền lớn để mua sắm hàng hoá, nguyên vật liệu.... phục vụ cho quá trình kinh doanh của mình. - Ngoài ra, vốn lưu động còn đảm bảo cho quá trình tái mở rộng hoạt động kinh doanh của công ty được tiến hành thường xuyên và liên tục. Lượng vốn lưu động có hợp lý, đồng bộ thì mới không làm gián đoạn quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. - Vốn lưu động còn là phản ánh và đánh giá quá trình vận động của hàng hoá cũng như đánh giá hoạt động kiểm tra, giám sát việc mua sắm, vận chuyển, nhập kho và bảo quả hàng hóa an toàn... - Vốn lưu động còn có khả năng quyết định đến quy mô hoạt động của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trườngdoanh nghiệp hoàn toàn tự chủ trong việc sử dụng vốn nên khi muốn mở rộng quy mô doanh nghiệp cần phải huy động một lượng vốn nhất định để đầu tư thêm chủng loại hàng hoá. Vốn lưu động còn giúp doanh nghiệp chớp được thời cơ kinh doanh và tạo lợi thế cạnh tranh cho mình. 3. Đặc điểm vốn kinh doanh. Do nhiệm vụ của doanh nghiệp thương mại là thực hiện lưu chuyển hàng hóa và thực hiện các hoạt động dịch vụ, vì vậy cơ cấu và tính chất lưu chuyển của vốn khác hẳn so với các đơn vị sản xuất. Trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp thương mại, vốn lưu động chiếm tỷ lệ lớn hơn so với vốn cố định và lưu chuyển nhanh hơn. Vốn lưu động chiếm 70 – 80% vốn kinh doanh, trong vốn lưu động bộ phận dữ trữ hàng hóa chiếm tỷ lệ cao. Như vậy, đối với doanh nghiệp thương mại nói đến quản lý vốn trước hết phải chú ý tới tổ chức điều khiển bộ phận dự trữ hàng hóa để vừa đảm bảo bán hàng liên tục đều đặn thường xuyên cho khách hàng lại vừa tránh được ứ đọng vốn. Trong thành phần cơ cấu vốn cố định bộ phận tài sản cố định dùng trong kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn hơn. Ngày nay các doanh nghiệp thương mại thường đầu tư vốn cố định vào xây dựng nhà làm việc, cửa hàng ở những đầu mối giao thông để tiện liên hệ với khách hàng và những tài sản cố định như thiết bị văn phòng được chú ý đầu tư nhằm thu hút và phục vụ khách hàng tốt hơn. Tuỳ từng doanh nghiệp tuỳ thuộc phương thức và lĩnh vực kinh doanh mà vốn lưu động của doanh nghiệp thương mại sẽ trải qua các thời kỳ chu chuyển khác nhau. Ví dụ vốn của doanh nghiệp thương mại có sản xuất gia công chế biến, khác với đơn vị bán buôn, đơn vị chuyên bán qua kho sẽ khác với đơn vị chỉ bán hàng chuyển thẳng. Trong tình hình hiện nay ở Việt Nam, Các doanh nghiệp thương mại thường có nguồn vốn của chủ sở hữu nhỏ hơn so với phần vốn vay và vốn liên doanh liên kết, tình trạng này bất lợi trong việc giảm chi phí kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. III. Nguồn gốc hình thành vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp thương mại. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, trước tiên doanh nghiệp cần có vốn, vốn đầu tư ban đầu và vốn bổ sung để mở rộng sản xuất kinh doanh. Vốn kinh doanh được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Song căn cứ vào nội dung kinh tế có thể chia làm hai nguồn hình thành cơ bản đó là: Nguồn vốn chủ sở hữu. Nguồn vốn vay. 1. Nguồn vốn chủ sở hữu. Đối với một doanh nghiệp, tổng số tài sản lớn hay nhỏ thể hiện quy mô hoạt động là rất quan trọng. Song trong nền kinh tế thị trường, điều quan trọng hơn là khối lượng tài sản do doanh nghiệp đang nắm giữ và sử dụng được hình thành từ các nguồn nào. Nguồn vốn của doanh nghiệp thể hiện trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với từng loại tài sản của doanh nghiệp. Nguồn vốn chủ sỡ hữu biểu hiện quyền sỡ hữu của người chủ về các tài sản hiện có ở doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có thể có một hoặc nhiều chủ sở hữu. Đối với doanh nghiệp nhà nước chủ sở hữu doanh nghiệp là nhà nước. Đối với xí nghiệp liên doanh hay công ty liên doanh thì chủ sở hữu là các thành viên tham gia góp vốn. Đối với công ty cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu hạn thì chủ sở hữu là các cổ đông. Đối với doanh nghiệp tư nhân cá thể thì chủ sỡ hữu là một cá nhân - người đứng tên thành lập doanh nghiệp. Vốn chủ sỡ hữu được tạo từ các nguồn: - Số tiền đống góp của các nhà đầu tư - người chủ sỡ hữu doanh nghiệp, cụ thể: + Đối với doanh nghiệp nhà nước: do nhà nước (hay ngân sách nhà nước) cấp phát nên được gọi là vốn ngân sách nhà nước. + Đối với doanh nghiệp tư nhân: nguồn vốn này do chủ đầu tư hay các hội viên liên kết cùng nhau bỏ ra để đầu tư hình thành doanh nghiệp kinh doanh nên được gọi là vốn tự do. + Đối với doanh nghiệp liên doanh: nguồn này được biểu hiện dưới hình thức vốn liên doanh, vốn này được hình thành do sự đóng góp giữa các chủ đầu tư hoặc các doanh nghiệp để hình thành một doanh nghiệp mới. + Đối với công ty cổ phần: được biểu hiện dưới hình thứcvốn cổ phần, vốn này do những người sánh lập công ty cổ phần phát hành cổ phiếu để huy động thông qua việc bán những cổ phiếu đó. - Nguồn vốn chủ sỡ hữu còn do tổng số tiền được tạo ra từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, số này gọi là lãi lưu giữ hoặc lãi chưa phân phối. - Ngoài ra, vốn chủ sở hữu còn bao gồm chênh lệch đánh giá lại tài sản, quỹ phát triển sản xuất kinh doanh, quỹ dự trữ, chênh lệch tỷ giá, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí sự nghiệp. 2. Nguồn vốn vay. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hầu như không một doanh nghiệp nào chỉ hoạt động kinh doanh bằng nguồn vốn tự có mà phải hoạt động bằng nhiều nghuồn vốn, trong đó nguồn vốn vay chiếm tỷ lệ đáng kể. Vốn vay có ý nghĩa quan trọng không chỉ ở khả năng tài trợ các nhu cầu bổ sung cho việc mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh của công ty mà còn tạo điều kiện linh hoạt trong việc thu hẹp quy mô kinh doanh bằng việc hoàn trả các khoản nợ đến hạn và giảm số lượng vốn vay. Nguồn vốn vay được thực hiện dưới các phương thức chủ yếu sau: - Tín dụng ngân hàng: là các khoản mà doanh nghiệp vay của các ngân hàng thương mại hoặc của các tổ chức tín dụng khác. Tín dụng ngân hàng có nhiều dạng, song có các dạng quan trọng nhất là: + Tín dụng ứng trước: là một thể thức cho vay được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó doanh nghiệp (khách hàng) được sử dụng một mức cho vay trong một thời hạn nhất định. + Thấu chi (tín dụng hạn mức) là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó doanh nghiệp được phép sử dụng dư nợ trong một giới hạn và thời hạn nhất định trên tài khoản vãng lai. Thấu chi chỉ được áp dụng đối với doanh nghiệp (khách hàng) có uy tín và có khả năng tài chính lành mạnh. + Chiết khấu thương phiếu: Là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó doanh nghiệp chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí. + Tín dụng thuê mua: Là hình thức tín dụng trung, dài hạn được thực hiện thông qua việc cho thuê máy móc- thiết bị, các động sản và bất động sản khác. - Phát hành trái phiếu công ty: Chỉ có các doanh nghiệp thương mại nhà nước, các công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu mới có quyền vay vốn bằng cách phát hành trái phiếu. Trái phiếu thực chất là một tờ phiếu mà công ty phát hành phát hành để vay vốn và là vốn dài hạn. - Tín dụng thương mại: Là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp đựơc thể hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa. Tín dụng thương mại xuất hiện trên cơ sở sự cách biệt giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm do đặc điểm thời vụ trong sản xuất và mua bán sản phẩm, do vậy xảy ra hiện tượng một số doanh nghiệp có hàng hóa muốn bán trong đó có một số doanh nghiệp khác muốn mua nhưng không có tiền. Trong điều kiện này, doanh nghiệp với tư cách là người bán muốn thực hịên được sản phẩm của mình, họ có thể bán chịu hàng hóa cho người mua. - Vốn đầu tư nước ngoài: Bao gồm vốn đầu tư gián tiếp và vốn đầu tư trực tiếp Vốn đầu tư gián tiếp là vốn của các chính phủ, tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ thực hiện dưói dạng viện trợ, vốn cho vay ưu đãi với thời gian dài, lãi suất thấp của các tổ chức tài chính quốc tế, vốn vay tín dụng từ các ngân hàng thương mại nước ngoài, vốn do phát hành trái phiếu, cổ phiếu ra nước ngoài. Vốn này thường có quy mô lớn nên có tác động nhanh và mạnh đối với việc giải quyết các nhu cầu phát triển của nước nhà nhưng cũng gắn với các điều kiện chính trị và tình trạng vay nợ chồng chất nếu chúng ta không biết sử dụng chúng có hiệu quả. Vốn đầu tư trực tiếp là vốn của các doanh nghiệp hoặc các cá nhân người nước ngoài đầu tư vào nước ta. Những doanh nghiệp và cá nhân này trực tiếp tham gia quản lý và thu hồi vốn đó. Vốn đầu tư trực tiếp thường có quy mô nhỏ hơn nhưng nó mang theo toàn bộ “năng lực kinh doanh” nên có thể thúc đẩy các ngành nghề mới phát triển, đưa công nghệ mới và kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp hiện đại vào nước ta góp phần đào tạo các nhà quản lý và kinh doanh phù hợp với điều kiện mới của kinh tế thị trường. IV. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Một doanh nghiệp được xem là có hiệu quả khi sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh có hiệu quả, đặc biệt là sử dụng vốn kinh doanh. Để đánh giá một cách khoa học hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thương mại, cần phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu phù hợp gồm có chi tiêu tổng quát và chỉ tiêu chi tiết cụ thể để tính toán. Các chỉ tiêu này phải phù hợp, phải thống nhất với công thứ._.c đánh giá hiệu quả chung: Kết quả thu được Hiệu quả kinh doanh = Chi phí bỏ ra. Kết quả thu dược trong kinh doanh thương mại đo bằng các chỉ tiêu như doanh thu, lợi nhuận và chi phí bỏ ra như lao động, vốn lưu động, vốn cố định… 1. Các chỉ tiêu phân tích tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh chung. Hiệu suất vốn kinh doanh (VKD). Doanh thu thuần trong kỳ Hiệu suất VKD = ________________________ VKD Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng vốn đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Hàm lượng VKD. VKD Hàm lượng VKD = Doanh thu thuần trong kỳ Để có một đồng doanh thu phải bỏ ra bao nhiêu đồng vốn. Muốn biết tình hình sử dụng vốn kinh doanh thế nào cần phân tích cụ thể đối với từng loại vốn: Vốn cố định và vốn lưu động. 2. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định. a) Hiệu quả sử dụng TSCĐ. Tổng doanh thu thuần Hiệu quả sử dụng TSCĐ = Nguyên giá bình quân của TSCĐ Hay: Doanh số Vòng quay tổng TSCĐ = ____________________ Tổng TSCĐ Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng nguyên giá bình quân TSCĐ đem lại bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Chỉ tiêu này biểu hiện mức tăng kết quả kinh doanh của mỗi đơn vị giá trị TSCĐ nhưng chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế tổng hợp nhất của vốn cố định thường được sử dụng là mức doanh lợi. b) Mức doanh lợi của vốn cố định (VCĐ). Lợi nhuận hoặc lãi thực hiện Mức doanh lợi của VCĐ = __________________________ VCĐ bình quân Chỉ tiêu này phản ánh số tièn lãi hoặc số thu nhập thuần tuý trên một đồng tiền vốn cố định hoặc số vốn cố định cần thiét để tạo ra 1 đồng lợi nhuận hoặc lãi thực hiện. Chỉ tiêu này có thể so sánh với kỳ trước hoặc kế hoạch để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định. c) Sức hao phí TSCĐ. Nguyên giá bình quân TSCĐ Sức hao phí TSCĐ = Doanh thu thuần hay lợi nhuận thuần Chỉ tiêu này cho biết cứ 1 đồng doanh thu thuần hay lợi nhuận thuần có bao nhiêu đồng nguyên giá TSCĐ. 3. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Mức sinh lời của vốn lưu động. Lợi nhuận thuần hay lãi gộp Mức sinh lời của VLĐ = VLĐ bình quân Mức sinh lời của vốn lưu động biểu thị mỗi đơn vị vốn lưu động bỏ vào kinh doanh mang lại bao nhiêu lợi nhuận. Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động. VLĐ bình quân Hệ số đảm nhiệm VLĐ = Tổng doanh thu thuần Chỉ tiêu này cho biết để có một đồng luân chuyển cần bao nhiêu đồng vốn lưu động. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng chứng tỏ trình độ sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp cao. Số vòng quay của vốn lưu động. Tổng doanh thu thuần Số vòng quay của VLĐ = VLĐ bình quân Số vòng quay của vốn lưu động cho biết vốn lưu động quay được bao nhiêu vòng trong kỳ. Nếu số vòng quay càng nhiều càng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn cao và ngược lại. d) Thời gian của một vòng luân chuyển (T). Thời gian theo lịch trong kỳ T = Số vòng quay của VLĐ trong kỳ Thời gian của một vòng luân chuyển thể hiện số ngày cần thiết để cho vốn lưu động quay được một vòng. Thời gian một vòng quay càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển vốn lưu động càng lớn. e) Số lần chu chuyển vốn lưu động trong một thời kỳ (gọi là vòng quay vốn). Công thức được tính: M K = Obq Trong đó: K - Vòng quay vốn M - Tổng mức luân chuyển vốn lưu động trong thời kỳ (doanh số bán) Obq - Số dư bình quân vốn lưu động. f) Số vốn tiết kiệm được. Kkh - Kbc B = * Obqkh Kbc Trong đó: B - Số vốn lưu động tiết kiệm được. Kkh - Số vòng quay kỳ kế hoạch. Kbc - Số vòng quay kỳ báo cáo. Obqkh - Số dư bình quân số vốn lưu động kỳ kế hoạch. Hoặc: ( Vbc - Vkh) B = *Mkh T Trong đó: Vbc: Số vòng quay tính bằng ngày trong kỳ báo cáo. Vkh: Số vòng quay tính bằng ngày trong kỳ kế hoạch. Mkh:Tổng mức lưu chuyển vốn lưu động kỳ kế hoạch. T: Số ngày trong kỳ. Chỉ tiêu này cho biết số vốn lưu động tiết kiệm được trong kỳ, nếu càng cao thì số vốn tiết kiệm được càng nhiều, kinh doanh càng có hiệu quả và ngược lại. Chỉ tiêu về khả năng sinh lời. a) Lợi nhuận biên. Lãi ròng Lợi nhuận biên = _________________ Doanh số Sức sinh lời cơ sở. Thu nhập trước lãi và thuế Sức sinh lợi cơ sở = _____________________________ Tổng tài sản Suất thu hồi tài sản. Lãi ròng Suất thu hồi tài sản = _____________________ Tổng tài sản Suất thu hồi vốn. Lãi ròng Suất thu hồi vốn = _____________________ Tổng vốn góp Phần 2 tình hình sử dụng vốn của công ty thương mại công nghệ phẩm hà tây I. Một vài nét khái quát về công ty thương mại công nghệ phẩm hà tây. 1. Quá trình hình thành và phát triển. Công ty thương mại công nghệ phẩm Hà Tây tiền thân là Công ty bách hoá vải sợi Hà Đông được thành lập theo quyết định 490 năm 1959 của uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây. Năm 1965 do sát nhập hai tỉnh Hà Đông và Hà Tây trong đó công ty bách hoá vải sợi Hà Đông là đơn vị nhận sát nhập và đổi tên thành công ty công nghệ phẩm Hà Tây. Địa chỉ giao dịch hiện nay: số 1 phố Trần Phú - thị xã Hà Đông Thực hiện chỉ thị 388 của chính phủ Công ty công nghệ phẩm Hà Tây là một doanh nghiệp nhà nước được thành lập theo quyết định 218 QĐ/UB ngày 18/4/1993 của uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây, công ty có tư cách pháp nhân, tự chủ về tài chính, có con dấu riêng, là đơn vị hạch toán kinh doanh độc lập theo giấy phép kinh doanh số 104375 ngày 30/3/1993 do UBND tỉnh Hà Tây cấp. Tuy trải qua những biến động do sát nhập tỉnh cùng với những chức năng nhiệm vụ khác nhau nhưng bộ máy tổ chức và hoạt động kinh doanh theo mô hình tự chủ và chịu trách nhiệm hạch toán độc lập nên ngay từ ban đầu hoạt động kinh doanh của Công ty đã có hiệu quả và vẫn giữ được vai trò là một trong những Công ty thương mại lớn của tỉnh. 2. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty. 2.1. Chức năng. + Tạo sự lưu thông hàng hoá trong nội bộ tỉnh nói riêng. + Dự trữ hàng hoá theo yêu cầu của tỉnh để hạn chế những biến động cung, cầu về hàng hoá. + Tạo thêm công ăn việc làm và thu nhập cho người dân. 2.2. Nhiệm vụ. + Tổ chức và thực hiện kế hoạch hàng năm đảm bảo với nhiệm của sở thương mại Hà Tây. + Tạo nguồn vốn, bảo toàn vốn và đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả từ nguồn vốn đó. + Thực hiện các nghĩa vụ và chính sách đối với người lao động theo quy định của Bộ luật lao động, luật công đoàn và các quy định khác của nhà nước. + Thực hiện các chế độ báo cáo thống kê kế toán, báo cáo định kỳ theo quy định của sở thương mại Hà Tây. + Nộp thuế và các khoản phải nộp khác cho nhà nước và cấp trên theo đúng quy định của pháp luật. 3. Cơ cấu tổ chức bộ máy. Do đặc điểm sản xuất kinh doanh và là đơn vị hạch toán độc lập, hiện nay công ty có 5 cửa hàng trực thuộc. Bộ máy quản lý của công ty tổ chức theo cơ cấu trực tuyến được thể hiện theo “Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý”. Sơ đồ 1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy quản ký Phòng Tổ chức Hành chính Phòng kế toán tài vụ Phòng nghiệp vụ kinh doanh Giám đốc Cửa hàng cnp phúc thọ Cửa hàng cnp ứng hoà Cửa hàng cnp số 2 số 2 Cửa hàng cnp số 1 Cửa hàng cnp số 1 Cửa hàng Văn phòng Trong đó: - Giám đốc công ty: Là người có quyền cao nhất trong công ty. Giám đốc làm việc theo chế độ một thủ trưởng, chịu trách nhiệm cá nhân trước Sở thương mại về con người cũng như về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Giám đốc có quyền quyết định tổ chức và phân công nhiệm vụ quyền hạn cho các phòng ban. Phòng kế toán tài vụ: Là bộ phận tham mưu cho giám đốc về công tác thu – chi tài chính năm kế hoạch, thực hiện bảo toàn và phát triển vốn, hoàn thành nghĩa vụ đối với nhà nước và cấp trên. Tham mưu cho giám đốc xây dựng cơ cế tài chính, huy động mọi nguồn vốn, kể cả liên doanh, liên kết với các tổ chức trong nước và nước ngoài. Trực tiếp quan hệ với các ngân hàng, các cơ quan hữu quan, nhằm đẩy nhanh tốc độ quay vòng vốn. Lập báo cáo quyết toán tài chính, chịu trách nhiệm thanh quyết toán hàng hoá khi đã có phiếu giá thanh toán với chủ đầu tư. - Phòng tổ chức hành chính: Tham mưu cho ban giám đốc công ty về bố trí sắp xếp kiện toàn bộ máy tổ chức công ty. Soạn thảo, bổ sung, sửa đổi nội quy, quy chế hoạt động của công ty, đơn vị thành phần và các văn bản khác trong điều hành sản xuất kinh doanh. Tuyển dụng, đề bạt, điều động, bãi miễn lao động. Xây dựng quy chế tiền lương, tiền thưởng. Quản lý theo dõi mua sắm, cấp phát trang thiết bị bảo hộ, an toàn lao động, kiểm tra việc thực hiện an toàn vệ sinh lao động. Giải quyết các chế độ chính sách và các chế độ khác cho người lao động. Quản lý đất đai, nhà cửa tài sản của công ty. Quản lý con dấu, lưu trữ giấy tờ, công văn, giờ làm việc của công ty. Tổng kết, giao dịch, tiếp khách. - Phòng nghiệp vụ kinh doanh: Tham mưu cho giám đốc công ty về hoạt động kinh doanh, ký kết các hợp đồng kinh tế. Lập kế hoạch sản lượng tiêu thụ hàng hoá từng tháng, quý, năm. tổng hợp báo cáo lên phiếu giá để thanh toán với khách hàng, tổ chức thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh. - Các cửa hàng trực thuộc: Phần lớn các các cửa hàng này tự hạch toán kinh doanh dưới hình thức khoán quản, chịu sự quản lý trực tiếp từ các phòng ban trong công ty. Các đơn vị trực thuộc của công ty không có tư cách pháp nhân. Theo mô hình tổ trức trên, bộ phận kế toán của các cửa hàng trực thuộc cũng được hình thành như sau: (trang bên). Sơ đồ 2: Sơ đồ kế toán của các bộ phận trực thuộc Phòng kế toán công ty Tổ kế toán cnp phúc thọ Tổ kế toán cnp ứng hoà Tổ kế toán cnp số 2 Tổ kế toán CNP số 1 Tổ kế toán của đơn vị trực thuộc hạch toán kế toán dưới hình thức báo sổ về công ty, quan hệ kế toán là quan hệ một chiều, tổ kế toán đơn vị trực thuộc chịu trách nhiệm hạch toán kế toán ở đơn vị mình và chịu sự chỉ đạo của kế toán trưởng công ty. 4. Môi trường kinh doanh của công ty 4.1. Môi trường bên trong. Năng lực tài chính: Khi mới thành lập, tổng số vốn pháp định của công ty là: 1 600 000 000 VNĐ, trong đó: Vốn cố định: 950.000.000 VNĐ. Vốn lưu động: 650.000.000 VNĐ. - Lao động: Hiệu quả kinh doanh của một công ty phụ thuộc rất nhiều vào trình độ năng lực của cán bộ công nhân viên đặc biệt là quá trình xúc tiến bán hàng. Kỹ năng của nhân viên bán hàng càng tốt thì quá trình lưu thông hàng hoá sẽ diễn ra càng nhanh, lợi nhuận thu về càng lớn. Hiện nay có 122 CBCNV đang làm việc trong công ty, đây đều là những lao động có kinh nghiệp và được đào tạo. - Năng lực kinh nghiệm: Cán bộ công nhân viên trong công ty hầu hết đều là những người đã công tác lâu năm và được sở thương mại tỉnh tin tưởng bổ nhiệm. Tuy số lao động có trình độ đại học không cao nhưng đều là những người có kinh nghiệm, có uy tín lâu năm và giữ các vị trí chủ chốt trong công ty. 4.2. Môi trường bên ngoài. - Những nhà cung ứng: Bất kỳ một sự biến đổi từ phía người cung ứng, sớm hay muộn trực tiếp hay gián tiếp cũng sẽ gây ảnh hưởng tơi hoạt động kinh doanh của doanh ngiệp, vì vậy công ty luôn chú trọng vào việc lựa chọn các nhà cung ứng đảm bảo tin cậy để xây dựng uy tín cho mình. - Khách hàng: Khách hàng là những đối tượng công ty phục vụ và là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của công ty. Nhận thức được điều trên, công ty đã chủ động phân tích, nắm bắt kịp thời nhu cầu người dân để đáp ứng đúng lúc, đúng chỗ và đúng đối tượng trong từng thời điểm cụ thể. - Đối thủ cạnh tranh: Trong địa bàn tỉnh, công ty thương mại công nghệ phẩm là một công ty thương mại lớn vì vậy đối thủ cạnh tranh của công ty chủ yếu là các cửa hàng đại lývà đặc biệt là các công ty thương mại trực thuộc sở thương mại Hà Tây như: Công ty thương mại Nông sản, Công ty thương mại thực phẩm. - Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế là các nhân tố ảnh hưởng tới sức mua của người dân và cơ cấu chi tiêu của người tiêu dùng, nó phản ánh tốc độ tăng trưởng kinh tế của của từng ngành, từng vùng. Nhận thức được vấn đề này và thực tế thu nhập của người dân trên địa bàn tỉnh còn thấp, yêu cầu về chất lường chưa cao, từ đó công ty đã xác định được mặt hàng cũng như số lượng cần cung ứng. - Môi trường xã hội: Tuy không tạo thêm nhiều công ăn việc làm và chủ yếu do tỉnh và sở thương mại đề bạt nhưng công ty đã tạo ra một lượng lớn các công việc tự do từ đó làm tăng thu nhập của người dân và thúc đẩy nền kinh tế trong tỉnh phát triển. Về môi trường, thương mại là ngành không tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất vì vậy không làm ảnh hưởng tới môi trường sinh thái. - Môi trường chính trị: Các chính sách tác động của nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng tới sự phát triển của mỗi công ty. Tuy là một doanh nghiệp nhà nước nhưng công ty cũng phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ, trách nhiệm do nhà nước quy định như: Ký kết các hợp động kinh tế trên cơ sở tôn trọng pháp luật, và đảm bảo uy tín vời bạn hàng, nộp các khoản thuế và các khoản phải nộp khác theo quy định... - Môi trường văn hoá: Hà tây là một tỉnh có nhiều di tích, phong tục tập quán phong phú do đó các mặt hàng công ty lấy và cung cấp luôn được chú trọng để không ảnh hưởng tới phong tục, tập quán và những nét đẹp văn hoá vốn có. 5. Sơ bộ về nghành nghề kinh doanh của công ty. Do là một công ty thương mại, nên hoạt động kinh doanh của công ty có đặc thù riêng bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố như: Sức mua của xã hội không tăng, mạng lưới kinh doanh của công ty hạn hẹp. Việc tổ chức và hoạt động kinh doanh trực tiếp ở các đơn vị cơ sở còn hạn chế bởi sự chậm chễ về thời cơ, thiếu nhậy bén trong việc thu thập và sử lý thông tin, chi phí vận chuyển còn cao... nhưng ngay từ những ngày đầu công ty đã nắm bắt được, đề ra các biện pháp, kế hoạch hành động khoa học phù hợp nhằm hạn chế rủi ro, lãng phí, đưa hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả đáp ứng và ổn định công ăn việc làm cho CBCNV. Tình hình tài chính được cải thiện, năm sau cao hơn năm trước công ty và các đơn vị cơ sở đã bám sát chiến lược kinh doanh “lấy bán buôn làm chính, đồng thời phải coi trọng đúng mức bán lẻ để phát huy hết lợi thế về cơ sở vật chất hiện có”. Mặt khác tăng cường đầu tư để đi vào chuyên doanh theo chiều sâu đối vời các mặt hàng đang kinh doanh có điều kiện thuận lợi, trở thành những khách hàng lớn của các nhà sản xuất lớn có tín nhiệm trên thị trường. 5.1. Mặt hàng kinh doanh: Vì hoạt động trong lĩnh vực thương mại nên mặt hàng của công ty rất đa dạng phong phú về chủng loại và thường xuyên theo mùa, hay nói một cách khác sản phẩm của công ty là hỗn hợp các loại hàng hoá, có thể đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của đông đảo quần chúng nhân dân. Hiện nay các mặt hàng kinh doanh chủ yếu của công ty có thể liệt kê như: Đường, sữa, săm lốp xe đạp, thuốc lá các loại, giấy vở học sinh, đồ dùng bằng nhôm, bia rượu các loại.... 5.2. Đặc điểm của mặt hàng kinh doanh: Các mặt hàng của công ty có những đặc điểm cơ bản sau: - Các mặt hàng kinh doanh có giá trị thấp, có tính chất đại trà số lượng nhiều. - Các mặt hàng kinh doanh được lấy trực tiếp từ các cơ sở sản xuất Quốc Doanh, sau đó công ty bán buôn, bán lẻ cho các cửa hàng đại lý, đơn vị trực thuộc để thực hiện chức năng lưu thông phân phối hàng hoá của mình. - Các mặt hàng kinh doanh đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của người dân như: ăn uống, mặc... - Chi phí cho vận chuyển, lưu kho rất lớn và khác biệt theo từng loại mặt hàng. 5.3. Nguồn cung ứng của công ty. Do đặc thù ngành thương mại nên nguồn cung ứng của công ty cũng rất phong phú. Để thực hiện chủ trương bán buôn làm chính, đối với những mặt hàng chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn hoặc những mặt hàng kinh doanh bán buôn và bán lẻ thường xuyên trong năm, công ty đã chủ động ký kết hợp động mua trực tiếp của các cơ sở sản xuất Quốc Doanh (Quạt điện 91, nhôm men Hải Phòng...) với giá mua hợp lý và ổn định. Do đó công ty đã chủ động được nguồn hàng để bán buôn cho mọi thành phần kinh tế và chủ động xử lý linh hoạt giá bán buôn theo sự biến động của thị trường, một mặt công ty cố gắng phát triển thêm một số mặt hàng bán buôn mới (đường, sữa, mì ăn liền...). Mặt khác tăng cường đầu tư để đi vào chuyên doanh theo chiều sâu đối với các mặt hàng đang kinh doanh có điều kiện thuận lợi, phấn đấu để trở thành khàch hàng lớn của các nhà sản xuất lớn có tín nhiệm trên thị trường (như rượi vang Thăng Long, các mặt hàng chế biến của công ty Liên hiệp thực phẩm...). Công ty phấn đấu thực hiện được trên 90% hàng hoá kinh doanh mua từ các cơ sở sản xuất, có đủ hoá đơn giá trị gia tăng. Do đó đã chủ động giải quyết đủ hàng hoá để tăng doanh số bán buôn. 6. Các chính sách của công ty. 6.1. Chính sách Marketing. 6.1.1. Chính sách sản phẩm. Với phương châm cung cấp những cái gì mà thị trường tiêu dùng đòi hỏi và thoả mãn được nhu cầu hay ước muốn của thị trường với công thức sản phẩm = hàng hoá + dịch vụ. Công ty đã nắm bắt rõ lợi ích cốt lõi của sản phẩm hàng hoá mà công ty kinh doanh, đó là đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt của người dân đồng thời đó cũng là mục tiêu mà khách hàng theo đuổi. Công ty đã kinh doanh chuyên sâu vào các mặt hàng truyền thống như: rượu các loại, chè, sách vở,thuốc lá các loại... kinh doanh các mặt hàng có chất lượng cao, đa dạng về chủng loại, tập hợp những thuộc tính và điều kiện mà người mua thường mong đợi và hài lòng khi mua sản phẩm hàng hoá. - Phân loại sản phẩm hàng hoá: công ty ý thức được sản phẩm hàng hoá mà mình kinh doanh là các mặt hàng nhu yếu phẩm, vòng đời ngắn, phương thức mua đơn giản nhằm đáp ứng cho 3 loại nhu cầu là ăn – mặc – học do đó để tiêu thụ được hàng hoá ngoài chất lượng đảm bảo thì dịch vụ về bán hàng, khuyến mãi... cũng là một trong những yếu tố quyết định để khách hàng mua và tiêu dùng sản phẩm hàng hoá của công ty. - Định vị sản phẩm: Một số sản phẩm hàng hoá của công ty có vị trí vượt trội so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường Tỉnh Hà Tây. Công ty đã có nhiều chiến lược tiếp thị đáp ứng được mong đợi của khách hàng trong mối tương quan với đối thủ nhằm thực hiện tốt các mục tiêu chiến lược, đồng thời bán hàng và quảng bá hàng hoá của công ty mình đảm bảo ổn định về giá, mang sản phẩm hàng hoá đến khách hàng nhanh nhất và đúng hẹn. - Vòng đời sản phẩm hàng hoá: công ty xác định khoảng thời gian của những sản phẩm hàng hoá trên thị trường kể từ khi sản phẩm hàng hoá đó được thương mại cho đến khi bị đào thải khỏi thị trường để có các biện pháp xử lý hoặc có các sản phẩm để thay thế. Phân loại các sản phẩm hàng hoá của công ty ở vào giai đoạn thâm nhập, tăng trưởng, chín muồi hay suy tàn để từ đó có chiến lược kích thích doanh thu bán tăng lên. 6.1.2 Chính sách giá cả. Tuỳ theo từng giai đoạn phát triển và kinh doanh của công ty mà chính sách giá cả có sự kết hợp hài hoà và hỗ trợ lẫn nhau. Một số mặt hàng như nhôm các loại, thuốc là các loại... công ty lựa chọn mục tiêu định giá, xác định nhu cầu, ước tính chi phí, phân tích giá chào hàng của đối thủ cạnh tranh, lựa trọn mức giá cuối cùng một cách hợp lý do vậy doanh thu các mặt hàng này tăng năm sau so với năm trước, đáp ứng nhu cầu của khách hàng, chiếm lĩnh được thị trường đảm bảo doanh thu của công ty tăng lên. 6.1.3. Chính sách phân phồi. Do đặc thù của ngành kinh doanh thương mại, công ty với vai trò tự ngánh vác, hỗ trợ việc chuyển nhượng quyền sở hữu hàng hoá hay dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Hàng hoá của công ty có chất lượng cao và giá cả phải chăng không thể được chấp nhận rộng rãi trên thị trường nếu không có hoạt động phân phối do vậy hoạt động phân phối của công ty luôn đảm bảo hiệu quả đáp ứng yêu cầu: đúng hàng mà người tiêu dùng cần, đúng nơi có nhu cầu, đúng lúc đúng thời vụ, với chi phí tối thiểu. Nhờ có công ty mà hàng hoá được lưu thông từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng, khắc phục được những ngăn cách về thời gian, địa điểm, quyền sở hữu giữa hàng hoá dịch vụ với những người muốn sử dụng chúng. Công ty thương mại Nhà sản xuất Người tiêu dùng Người bán buôn Người bán lẻ Sơ đồ: 3 Kênh phân phối hàng hoá - Phương thức phân phối: Công ty là các thành phần chung gian tham gia vào việc đưa hàng hoá dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng do vậy công ty luôn coi trọng mối quan hệ thân thiện đối với nhà sản xuất. Đồng thời quyết định giá bán cuối cùng hợp lý để tăng lợi nhuận nhưng khách hàng vẫn chấp nhận mua. Để có được chu trình phân phối hàng hoá hiệu quả như trên. Công ty đã phải phối hợp tất cả các quyết định trong khuôn khổ một cơ cấu thống nhất và xây dựng một hệ thồng quản lý lưu thông hàng hoá cho phép đảm bảo thoả mãn nhu cầu khách hàng hàng nhanh nhất với chi phí thấp nhất. Toàn bộ việc điều hành trong chu trình phân phối luôn thông suốt để tối thiểu hoá chi phí, tối đa hoá doanh số, lợi nhuận đồng thời thu hút được một lượng khách hàng lớn. - Những yếu tố chủ yếu trong hệ thống phân phối: + Phương tiện chuyên chở: Công ty có phương tiện riêng để khi khách hàng cần có thể chuyên chở hàng hoá đến tận nơi đảm bảo đúng hẹn. Nếu khách hàng đặt với số lượng lớn công ty sẵn sàng thuê phương tiện ngoài để vận chuyển theo yêu cầu của khách hàng. + Hệ thống kho bãi: Do địa bàn hoạt động chủ yếu là tỉnh Hà Tây do vậy mà công ty cò hệ thống kho bãi riêng làm giảm chi phí kho bãi thuê ngoài đồng thời giải quyết được những lệch lạc trong khối lượng hàng hoá và thời điểm lưu thông hàng hoá. + Mạng lưới cửa hàng: Các cửa hàng đơn vị công ty được sắp xếp thuận tiện cho việc đi lại và vận chuyển hàng hoá, gần khu dân cư, đông người qua lại. Thoả mãn các điều kiện của bài toán vận tải tối ưu. các cửa hàng của công ty luôn có uy tín trên thị trường do cung cấp hàng hoá với chất lượng cao, mẫu mã đa dạng, kèm theo những dịch vụ thuận lợi. Bầu không khí của cửa hàng, thái độ tận tình hoà nhã của nhân viên bán hàng đã góp phần quan trọng giúp chô hoạt động phận phối có hiệu quả. + Hệ thống bán buôn – bán lẻ: Công ty với phương châm bán buôn là chính đồng thời phát triển hệ thống bán lẻ do vậy doanh thu của công ty năm sau tăng so với năm trước. Công ty đã có nhiều bạn hàng lâu năm và khôngười ngừng mở rộng địa bàn bán hàng ra các tỉnh lân cận. 6.1.4. Chính sách yểm trợ. - Hệ thống thông tin: Nhìn chung công ty không chỉ bán sản phẩm hàng hoá tốt, định giá chung hấp dẫn và làm cho nó sẵn có đối với các khách hàng mục tiêu mà còn giao tiếp rộng rãi với các khách hàng của công ty. Công ty không chỉ giao tiếp thông tin với người tiêu dùng mà còn với các cửa hàng, đại lý... và những công chúng khác nhau. Trong đó người tiêu dùng cũng giao tiếp với nhau. Nghĩa là mỗi một nhóm cung cấp các thông tin phản hồi cho từng nhóm khác, thường những thông tin được chuyển giao trong hệ thống giao tiếp là những thông tin về sản phẩm hàng hoá của công ty hoặc những điều kiện chuyển giao mua – bán hàng hoá. Từ đây công ty thu nhập các thông tin phản hồi từ các nhóm để có thể điều chỉnh luồng thông tin phát ra cho phù hợp, và mang lại hiệu quả tối ưu cho công ty. Công ty thương mại Quảng cáo, xúc tiến bán hàng, quan hệ công chúng Người tiêu dùng Lời truyền miệng Công chúng Sơ đồ 4: Hệ thồng thông tin - Quảng cáo: Công ty bán hàng trực tiếp cho khách hàng đồng thời các nhân viên trong công ty cũng thực hiện luôn chức năng quảng bá sản phẩm của công ty. - Xúc tiến bán: Tuỳ theo từng thời kỳ và mục tiêu xúc tiến bán mà công ty sử dụng các công cụ khác nhau. Trong năm 2001 vào dịp cuối năm công ty có giảm giá hàng bán, gói hàng chung ... do vậy một số mặt hàng rượu, thuốc lá cuối năm tăng mạnh. - Về nhân khẩu học: Nghiên cứu về nhân khẩu học là nghiên cứu về dân số và con người như quy mô, mật độ phân bố dân cư, tuổi tác, giới tính... môi trường nhân khẩu học là mối quan tâm lớn của các nhà hoạt động thị trường. Do nằm trong một địa bàn có có dân số đông đúc, trình độ của người dân cũng rất đa dạng nên vấn đề nhân khẩu học đã được công ty quan tâm đúng mức. Công ty xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp với các công chúng khác nhau của công ty thông qua sự yêu thích của công chúng, xây dựng một hình tượng tốt đẹp, điều khiển hay loại trừ các tin đồn, các câu chuyện và sự kiện xấu của công ty. Các chính sách đối với người lao động. 6.2.1. Các chính sách tiền lương, tiền thưởng của công ty. Cách thức trả lương cho đội ngũ CB CNV có vai trò hết sức quan trọng, nếu áp dụng cách thức trả lương không phù hợp sẽ khiến người lao động không hăng hái làm việc, góp công sức cùng xây dựng công ty. Xác định được tầm quan trọng của việc này, công ty đã xây dựng được hệ thống chính sách tiền lương – tiền thưởng, từ đó tạo nên đòn bẩy kinh tế giúp công ty vững chắc đi lên. Tiền lương của công ty bao gồm lương chính và lương phụ cấp. Tiền lương chính là tiền lương phải trả cho người lao động trong thời gian thực tế có làm việc, tiền lương phụ là tiền cho người lao động trong thời gian thực tế không làm việc nhưng được chế độ quy định (nghỉ phép, ngày lễ, tết ...). Công ty áp dụng hình thức trả lương theo thời gian đồng thời áp dụng chế độ tiền thưởng để khuyến khích người lao động hăng say làm việc. Hình thức trả lương theo thời gian được tính theo công thức sau: Đơn giá Lương cấp bậc tiền lương = ______________________________ theo thời gian Số ngày lao động định mức Lương theo Đơn giá Số ngày làm thời gian = tiền lương x việc thực tế từng người Bảng: Hệ số lương áp dụng theo quy định Nhà Nước Bậc Tên 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Kỹ sư chuyên viên 1.8 2.0 2.3 2.5 2.7 2.9 3.2 3.4 Cán sự, KTV 1.4 1.5 1.7 1.8 1.9 2 2.1 2.3 2.4 2.5 2.6 2.8 MDV 1.3 1.4 1.6 1.8 2.3 2.8 Kho, thu mua 2 2.4 2.9 Quỹ lương tháng sau = Quỹ lương cuối tháng kỳ trước – lương cơ bản * BHXH(6%) + lương cơ bản + phụ cấp tháng sau. 6.2.2. Các chính sách khác. Bên cạnh chế độ tiền lương , tiền thưởng được hưởng trong quá trình làm việc, người lao động còn được hưởng các khoản trợ cấp khác như: BHXH, BHYT ... trong các trường hợp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động .... Các quỹ này được thành lập phần lớn do người lao động tự đóng góp, phần còn lại được tính vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Quỹ BHXH được hình thành bằng cách trích theo tỷ lệ quy định trên tổng quỹ lương cấp bậc và các khoản phụ cấp của người lao động thực tế phát sinh trong tháng. Theo chế độ hiện hành, tỷ lệ trích BHXH là 20% trên cơ sở quỹ lương trong tháng của doanh nghiệp trong đó 15% là do đơn vị nộp, được tính vào chi phí kinh doanh, 5% trên lương còn lại do người lao động đóng góp và được tính trừ vào lương tháng của người lao động. Quỹ BHXH được chi tiêu trong trường hợp người lao động bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ... Quy BHYT được sử dụng để thanh toán các khoản tiền khám, chữa bệnh cho người lao động trong thời gian ốm đau, sinh đẻ ... Tỷ lệ trích BHYT hiện hành là 3% trong đó 2% tính vào chi phí kinh doanh,1% trừ vào thu nhâph người lao động. Quỹ KPCĐ được dùng để hỗ trợ cho người lao động duy trì các hoạt động công đoàn trong doanh nghiệp. hiện nay doanh nghiệp được phép trích 2% trên cơ sở trên cơ sở quỹ lương tính vào phí theo lương của bộ phận sử dụng lao động để hình thành quỹ KPCĐ. Như vậy, tổng cộng ba quỹ trên doanh nghiệp được phép trích 25% trên tổng quỹ lương, trong đó tính vào chi phí bộ phận sử dụng lao động (hạch toán vào chi phí theo lương) là 19% và trừ vào lương người lao động là 6%. 7. Tình hình mua - bán của công ty. 7.1. Quy trình mua – bán hàng hoá. Quy trình mua – bán hàng hoá là một khâu hết sức quan trọng, nó quyết định tới sự thành bại của công ty. Khác với các công ty sản xuất, sản phẩm của các công ty thương mại hầu hết đều là hỗn hợp các loại hàng hoá được lấy từ các cơ sở sản xuất khác nhau để trở thành một kênh phân phối cho các nhà sản xuất. Tổ chức nguồn hàng: Tổ chức nguồn hàng là khâu đầu tiên của quy trình mua - bán. Công ty xác định, tổ chức nguồn hàng có tốt thì việc bán hàng sẽ càng thuận tiện, đảm bảo giao hàng đúng hẹn từ đó sẽ tạo được hình ảnh của công ty trong mỗi khách hàng.Tổ chức nguồn hàng tốt phải tiết kiệm được các chi phí phát sinh không cần thiết, cách sắp xếp kho, hàng, bến bãi phải hợp lý và khoa học, khi cần thiết giao hàng một cách nhanh chóng và thuận tiện nhất. Hàng hoá nhập về phải được kiểm tra, giám sát kỹ càng về sồ lượng, chất lượng cũng như đảm bảo đúng mặt hàng trước khi nhập kho. Ngiêm chỉnh chấp hành các quy định, nội quy về phòng cháy chữa cháy, bảo vệ hàng hoá chặt chẽ, kịp thời ngăn chặn và không để xẩy ra mất cắp. Tổ chức cung ứng hàng hoá: Từ trước đến nay công ty luôn thực hiện chủ trương bán buôn làm chính vì vậy việc giao hàng đòi hỏi phải nhanh chóng, thuận tiện, không gây phiền nhiễu nhằm tạo được uy tín của công ty đối với khách hàng. Mặt khác đối với các cửa hàng bán lẻ không có phương tiện vận chuyển công ty tổ chức giao hàng tận nơi để tạo mối làm ăn lâu dài. Ngoài ra, công ty còn tổ chức đào tạo để nâng cao kỹ năng cho các nhân viên bán hàng. Khen thưởng kịp thời đối với nhân viên bán hàng giỏi, từ đó tạo ra sự ganh đua giữa các nhân viên trong cửa hàng và giữa các cửa hàng với nhau. - Tổ chức kiểm tra, giám sát: Kiểm tra giám sát là một khâu không thể thiếu được trong quá trình hoạt động của một tổ chức hay một quá trình, nó giúp doanh nghiệp phát hiện được những thiếu xót để kịp thời bổ sung và điều chỉnh. Kiểm tra, giám sát còn giúp công ty lập các kế hoạch công tác hàng quý, hàng tháng nhằm đạt được các mục tiêu đã định. Chính vì vậy công tác này luôn được công ty xem trọng. Tình hình mua – bán hàng hoá. Tình hình mua vào của công ty: Nhìn chung công ty đã tổ chức được nhiều nguồn hàng đủ tin cậy, giá cả hợp lý có thể đáp ứng cho một lượng lớn quần chúng nhân dân trong tỉnh. Công ty chủ động mua với khối lượng lớn đối với những mặt hàng có nhu cầu cao đồng thời cũng chú trọng đến các mặt hàng có tiềm năng để từ đó có những chiến lược phát triển kịp thời. Trên đây là tình hình mua vào của công ty trong hai năm 2000 và 2001. Biểu 1: Tình hình mua vào của công ty Đơn vị: 1000 000VNĐ Chỉ tiêu Thực hiện 2000 Thực hiện 2001 So sánh Số tiền Tỷ lệ % Tổng giá trị mua 16 139 20 889 4 750 29.4 Mặt hàng nhôm 2 788 3 327 539 19.3 Thuốc lá các loại 2 752 2 890 138 5 Rượu các loại 4 927 5 652 725 15 Các mặt hàng khác 5 672 9 020 3 348 59 Qua biểu trên ta thấy: Tổng giá trị hàng hoá mua vào năm 2001 so với năm 2000 tăng 4 750 000 000đ với tỷ lệ tăng 29.4%,. điều này chứng tỏ giá trị sản lượng hàng hoá với quy mô thực hiện năm 2001 tăng lên. tổng giá trị mua tăng là do: Lượng rượu các loại mua vào tăng so với năm 2000 là 725 000 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34359.doc
Tài liệu liên quan