Xác định giá trị Doanh nghiệp phục vụ Cổ phần hóa thông qua trường hợp Công ty công trình giao thông 208

lời nói đầu Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường luôn chứa đựng những nhân tố cạnh tranh. Cạnh tranh là tìm mọi cách giành nhiều lợi nhuận bằng các thủ pháp khác nhau trên thương trường. Trong cuộc cạnh tranh này, các hoạt động như, mua bán, thôn tính, chia tách, sát nhập và cơ cấu lại doanh nghiệp diễn ra thường xuyên liên tục. Một vấn đề đặt ra là các hoạt động được thực hiện dựa trên giá trị nào của doanh nghiệp? Giá trị sổ sách hay một giá trị nào khác và c

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1065 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Xác định giá trị Doanh nghiệp phục vụ Cổ phần hóa thông qua trường hợp Công ty công trình giao thông 208, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ách thức xác định? Để trả lời được câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu khái niệm giá trị doanh nghiệp và một số phương pháp xác định giá trị trong cơ chế thị trường. Đối với Việt Nam, sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế nước ta đang chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường ở nước ta, các thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển trong sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Vì vậy các hoạt động mua bán, chia tách sát nhập liên doanh, liên kết,.... qua các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoặc trong cùng một thành phần kinh tế cũng diễn ra khá phổ biến. Đặc biệt, trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường Nhà nước ta vẫn còn kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, hướng dẫn sự phát triển và chi phối hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên theo đánh giá hiện nay của một số chuyên gia kinh tế rất nhiều doanh nghiệp Nhà nước đang hoạt động không có hiệu quả, nếu tiếp tục duy trì sẽ trở thành gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Vì vậy, trong quá trình đổi mới cơ cấu lại nền kinh tế, Nhà nước đặc biệt chú trọng đến việc đổi mới, cải cách doanh nghiệp Nhà nước nhằm duy trì vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế quốc doanh. Văn kiện Đại hội Đảng VII tháng 6/1991 đã chỉ rõ “Khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh, đảm bảo kinh tế quốc doanh hoạt động có hiệu quả, nắm vững những lĩnh vực và ngành then chốt để phát huy vai trò chủ đạo của nền kinh tế”. Đối với doanh nghiệp Nhà nước, chủ trương của Đảng là “Đối với những cơ sở không cần giữ hình thức quốc doanh, cần chuyển hình thức kinh doanh, hình thức sở hữu hoặc giải thể, đồng thời giải quyết việc làm và đời sống cho người lao động”. Việc tổ chức sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước thông qua cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước được coi là hình thức chủ yếu, quan trọng để nâng cao hiệu quả kinh doanh và thu hút vốn đầu tư trong xã hội. Qua năm năm thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước theo Quyết định 202CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nay là Thủ tướng Chính phủ, ngày 7/5/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định 28CP về việc chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Tuy nhiên quá trình cổ phần hoá diễn ra vẫn chậm. Trong rất nhiều nguyên nhân mà báo chí đã đề cập đến như tư tưởng sợ chệch hướng, sợ mất chức mất quyền của cán bộ lãnh đạo, sợ mất việc làm và giảm thu nhập của người lao động,... nhưng khó khăn trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp cũng là một nguyên nhân quan trọng làm chậm quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta. Để đẩy nhanh hơn nữa tiến trình cổ phần hoá ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định 44CP về chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Nghị định ra đời đã phần nào khắc phục được những khó khăn và đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá. Như vậy, xác định giá trị doanh nghiệp là một công việc không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường và đặc biệt trong điều kiện nước ta đang tiến hành quá trình đổi mới cải cách doanh nghiệp thông qua con đường tổ chức, sắp xếp, thành lập các Tổng công ty, các tập đoàn kinh tế và cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước. Trong phạm vi bài viết này Luận văn xin đề cập đến vấn đề “Xác định giá trị doanh nghiệp phục vụ cổ phần hoá thông qua trường hợp công ty Công trình giao thông 208”. Với mục đích xem xét về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp, không có tham vọng đưa ra giải pháp tối ưu để giải quyết vấn đề này. chương I Tổng quan về doanh nghiệp và xác định giá trị doanh nghiệp I-/ Doanh nghiệp. 1-/ Khái niệm doanh nghiệp. Một cách tổng quát doanh nghiệp được định nghĩa theo sơ đồ sau: Nơi sản xuất Doanh nghiệp kết hợp các phương tiện về nhân lực, kỹ thuật và tài chính để sản xuất của cải hoặc dịch vụ. Nơi phân chia Doanh nghiệp phân phối thu nhập cho người lao động, các chủ sở hữu và các nhà cung ứng. Nơi Hợp tác Đồng thời cũng là nơi xung đột giữa các thành viên của doanh nghiệp những người làm công ăn lương và các nhà lãnh đạo. Nơi thực hành quyền lực Chủ doanh nghiệp ra các quyết định, các cán bộ truyền đạt, còn các nhân viên và công nhân thì thực hiện chúng Doanh nghiệp Ngoài ra còn một số định nghĩa khác về doanh nghiệp: - Theo Luật doanh nghiệp của nước ta: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản có trụ Sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. - Theo Luật doanh nghiệp Nhà nước. Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội do Nhà nước giao. 2-/ Đặc điểm của doanh nghiệp: Tuỳ theo hoạt động, qui mô và cấu trúc mà doanh nghiệp có nhiều nét khác biệt nhau. Song nhìn chung vẫn có những nét chung nhất của mọi doanh nghiệp đó là: - Doanh nghiệp sản xuất: là một tổ chức kinh tế mà chức năng chính là sản xuất của cải vật chất hoặc dịch vụ. - Doanh nghiệp tìm kiếm lợi nhuận: Trong các nước tư bản, mục tiêu cơ bản của các doanh nghiệp là kiếm lợi (thực hiện một lợi nhuận). Nhưng cũng có các mục tiêu khác được các chủ doanh nghiệp tìm kiếm như: thực hiện một dự án, uy tín, sự tăng trưởng của doanh nghiệp. - Doanh nghiệp là một nhóm người có tổ chức và có cấp bậc: Doanh nghiệp là nơi con người làm việc và chiếm một thời gian trung bình là 15% của cuộc sống. Các chức năng và nhiệm vụ được phân chia giữa các thành viên là khác nhau: công nhân viên, trưởng bộ phận, cán bộ. Trên họ có một người chỉ huy (công chủ, nhà quản lý hoặc Tổng giám đốc) là người khởi xướng và điều hành các quyết định. - Doanh nghiệp bao gồm tổ hợp các nhân tố sản xuất: Để sản xuất, doanh nghiệp tập hợp. + Các phương tiện kỹ thuật (nhà cửa, máy móc,...). + Các phương tiện tài chính (vốn). + Các phương tiện nhân lực (người lao động). Doanh nghiệp tìm cách tổ hợp hiệu quả nhất để đạt được kết quả tốt nhất với chi phí ít nhất. - Doanh nghiệp sản xuất để bán: Các của cải vật chất dịch vụ mà doanh nghiệp tạo ra là để bán trên thị trường. Để đảm bảo sự tồn tại của mình, doanh nghiệp cần đáp ứng những đòi hỏi của người tiêu thụ và thoả mãn cao nhất cho khách hàng của mình. - Doanh nghiệp là nơi phân chia lợi nhuận cho: người lao động, người sở hữu, người chủ nợ và người cung ứng. 3-/ Phân loại doanh nghiệp. Số lượng doanh nghiệp tồn tại và hoạt động trong nền kinh tế thị trường rất lớn. Những doanh nghiệp này có những đặc điểm khác nhau. Để quản lý kinh tế nói chung và quản lý doanh nghiệp nói riêng chúng ta cần phân loại doanh nghiệp căn cứ theo các đặc điểm của chúng. Việc phân loại giúp ta nắm bắt và nghiên cứu cụ thể được từng loại hình doanh nghiệp, để từ đó xác định các chính sách, biện pháp quản lý phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Cũng trên cơ sở này, các chủ thể kinh doanh có thể lựa chọn cho mình hình thức tổ chức doanh nghiệp phù hợp nhất để đăng ký trước pháp luật và hoạt động trên thị trường nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho từng chủ thể cụ thể. Trong lĩnh vực xây dựng người ta thường phân loại theo các căn cứ sau: a. Theo kiểu tổ chức cơ cấu quản trị. Gồm các kiểu cơ cấu như: - Kiểu trực tuyến: áp dụng cho các tổ chức xây dựng cấp cơ sở như: tổ, đội xây dựng loại đơn giản. - Kiểu quản trị theo chức năng: ít được sử dụng. - Kiểu quản trị kết hợp trực tuyến với chức năng: một biến thể của kiểu này là kiểu trực tuyến kết hợp với tham mưu. Bộ phận tham mưu không được tổ chức thành các phòng ban mà chỉ bao gồm các chuyên viên tham mưu. - Kiểu quản trị theo kiểu ma trận: được áp dụng để thực hiện các dự án hay công trình do một tổ chức xây dựng tiến hành. - Kiểu cơ cấu khung: ở đây có một bộ phận quản trị được duy trì thường xuyên, còn một bộ phận chỉ được tuyển dụng khi có công việc. b. Phân loại theo hình thức sở hữu. Bao gồm: - Doanh nghiệp một chủ sở hữu: ví dụ doanh nghiệp có vốn của Nhà nước hay doanh nghiệp của một cá nhân đứng ra lập do vốn tự có của mình. - Doanh nghiệp đa sở hữu: ví dụ các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty trách nhiệm hữu hạn có một thành viên là một tổ chức công ty hợp doanh, hợp tác xã. c. Phân loại theo ngành nghề và sản phẩm xây dựng: Bao gồm: - Các DNXD chuyên xây dựng các công trình công nghiệp. - Các DNXD chuyên xây dựng các công trình phục vụ nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản. - Các DNXD chuyên xây dựng các công trình giao thông vận tải. - Các DNXD chuyên xây dựng các công trình dân dụng, văn hoá và xã hội. d. Phân loại theo mức độ áp dụng cơ chế thị trường và mục tiêu phục vụ. Bao gồm: - Các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường với mục đích chủ yếu là thu lợi nhuận. - Các doanh nghiệp hoạt động phục vụ công ích. Trong xây dựng việc phân loại này khó phân định rõ ràng, vì một DNXD nào đó khi thì xây dựng các công trình theo cơ chế thị trường, khi thì xây dựng các công trình phục vụ công ích. ở trường hợp thứ hai mục tiêu lợi nhuận hoặc là không đề ra hoặc là chỉ yêu cầu thấp, ví dụ xây dựng các công trình tình nghĩa, xây dựng các công trình theo nhiệm vụ quốc phòng,... e. Phân loại theo trách nhiệm pháp lý. Bao gồm: - Doanh nghiệp có trách nhiệm vô hạn: là doanh nghiệp chịu trách nhiệm về tài chính bằng toàn bộ tài sản của chủ doanh nghiệp. Ví dụ: doanh nghiệp tư nhân. - Doanh nghiệp có trách nhiệm hữu hạn: là doanh nghiệp mà các thành viên của nó chỉ chịu trách nhiệm về tài chính tương ứng với phần vốn góp. Ví dụ công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn,... g. Phân loại theo qui mô. Theo tiêu thức này các doanh nghiệp được phân thành các doanh nghiệp có quy mô lớn, vừa và nhỏ. Khái niệm lớn, vừa và nhỏ chỉ là tương đối phụ thuộc vào từng nước. ở các nước tư bản, các DNXD được xếp loại dựa vào doanh số và số lượng lao động. ở nước ta theo quy định của Nhà nước, các tiêu thức để xác định qui mô của doanh nghiệp Nhà nước là: vốn, lao đông, doanh thu và nộp ngân sách Nhà nước với số điểm tương ứng được trình bày trong bảng sau: STT Tiêu thức Trị số Điểm số 1 Vốn Từ 50 tỉ đồng trở lên 40 Từ 40 tỉ < 50 tỉ 35 Từ 15 < 30 tỉ 25 2 Lao động Từ 1.500 người trở lên 30 Từ 1.000 < 1.500 25 Từ 500 đến < 1.000 20 3 Doanh thu Từ 80 tỉ đồng trở lên 15 Từ 60 tỉ < 80 tỉ 12 Từ 40 tỉ < 60 tỉ 10 Từ 20 tỉ < 40 tỉ 8 4 Nộp ngân sách Nhà nước Từ 10 tỉ trở lên 15 Từ 7 < 10 tỉ 12 Từ 5 < 7 tỉ 9 Dưới 5 tỉ 7 Doanh nghiệp nào đạt ........ cho tất cả mục tiêu thức được coi là doanh nghiệp lớn. h. Phân loại theo trình độ công nghệ của DNXD. Các tiêu thức để phân loại các DNXD theo trình độ công nghệ. - Số lượng và giá trị tài sản máy móc xây dựng tính chung cũng như tính cho một đầu người lao động (mức trang bị cơ giới cho lao động) và tính cho một đồng giá trị sản lượng xây lắp). - Trình độ cơ giới hoá và tự động hoá tính theo tỷ trọng khối lượng công việc xây lắp được thực hiện bằng cơ giới và tự động hoá. - Trình độ hiện đại và năng suất của máy móc xây dựng của doanh nghiệp. Theo các tiêu thức trên và dựa trên qui định của mỗi nước các DNXD được phân thành: + Các DNXD chủ yếu là thủ công. + Các DNXD kết hợp cơ giới và thủ công. + Các DNXD cơ giới hoá. i. Phân loại theo góc độ chuyên môn hoá và hợp tác hoá. - Theo góc độ chuyên môn hoá được phân ra: + Các DNXD chuyên thực hiện một loại sản phẩm xây dựng. + Các DNXD đa năng, thực hiện một số loại hình sản phẩm xây dựng. - Theo góc độ hiệp tác ..... được phân ra: + Các DNXD thầu chính hay tổng thầu. + Các DNXD thầu phụ. k. Phân loại theo góc độ hợp tác quốc tế. - Theo địa bàn hoạt động: được phân ra các DNXD chuyên xây dựng nội địa và các DNXD có tham gia xây dựng ở nước ngoài (các DNXD xuyên quốc gia). - Theo hình thức liên doanh: được phân ra các DNXD có và không liên doanh với nước ngoài. - Theo góc độ xuất khẩu: được phân ra các doanh nghiệp xuất khẩu xây dựng tại chỗ trong nước (khi xây dựng các công trình do vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam) và các DNXD xuất khẩu ra nước ngoài (xây dựng các công trình ở ngoài nước). l. Phân loại theo mức độ phức tạp. Theo mức độ phức tạp các DNXD được phân ra: - Các công ty xây dựng: đây là hình thức phổ biến và đơn giản. - Các tổng tông ty xây dựng: Tuỳ thuộc qui mô có loại tổng công ty xây dựng có hội đồng quản trị và không có hội đồng quản trị. Ưu điểm của tổng công ty xây dựng: có khả năng, năng lực sản xuất đủ mạnh để tham gia tranh thầu các dự án xây dựng lớn, có điều kiện thuận lợi để áp dụng công nghệ mới và nghiên cứu khoa học - công nghệ, nâng cao khả năng hợp tác quốc tế, tạo nên các lực lượng nòng cốt trong ngành. 4-/ Sự hình thành doanh nghiệp Nhà nước. Trong nền kinh tế Việt Nam doanh nghiệp Nhà nước đã tồn tại và phát triển không ngừng 50 năm nay, tính từ sắc lệnh 104/SL - 1/1/1948 của Chủ tịch Hồ Chí Minh về ấn định những nguyên tắc của doanh nghiệp quốc gia. Tuy nhiên, địa vị pháp lý của doanh nghiệp Nhà nước mới chỉ được xác định tương đối đầy đủ trong mấy năm gần đây. Cho đến trước khi có bản “Điều lệ xí nghiệp công nghiệp quốc doanh” đầu tiên (ban hành theo Nghị định 93/CP ngày 8/4/1977 của Chính phủ) Nhà nước chỉ có một số văn bản dưới dạng các quyết định, Nghị quyết của Chính phủ mới chỉ mang nội dung sơ sài thiếu đồng bộ, với giá trị pháp lý tạm thời. Trong thời gian 10 năm (1977-1987) Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản để tiếp tục thể chế hoá hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước. Sau đó, bản điều lệ xí nghiệp công nghiệp quốc doanh lần thứ hai ban hành theo Nghị định 50-HĐBT ngày 22/3/1998 là bước rất quan trọng trong việc thể chế hoá quan điểm đổi mới quản lý của Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng. Quá trình vận động khách quan của nền kinh tế đã cho thấy tính chất chắp vá và thiếu hoàn chỉnh của các chế định pháp lý về doanh nghiệp Nhà nước. Khắc phục tình trạng ấy, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản bổ sung, sửa chữa những quy định không còn phù hợp nữa. Các Quyết định số 21/HĐBT ngày 14/11/1987, Nghị định số 388-HĐBT ngày 20/11/1991,... đã một mặt góp phần thúc đẩy doanh nghiệp Nhà nước phát triển, mặt khác tạo nên tiền đề luật pháp cho việc ra đời luật doanh nghiệp Nhà nước ngày 20 tháng 4 năm 1995. Hiện nay, để phù hợp với nền kinh tế thị trường Nhà nước đang có xu hướng chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần theo Nghị định 44CP ngày 29/6/1998 chỉ giữ lại một số ngành chủ chốt quan trọng được qui định rõ trong phụ lục kèm theo Nghị định và một số giải pháp khác bản, khoán, cho thuê doanh nghiệp quy định trong Nghị định 103CP, tất cả đều nhằm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước và để thích nghi với nền kinh tế thị trường. 5-/ Đặc điểm của doanh nghiệp Nhà nước. Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chứck inh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội do Nhà nước giao. Doanh nghiệp Nhà nước có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp Nhà nước có tên gọi có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam. Từ khái niệm trên, có thể rút ra những đặc điểm của doanh nghiệp Nhà nước như sau: + Doanh nghiệp Nhà nước là một pháp nhân do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý. + Doanh nghiệp Nhà nước có thẩm quyền kinh tế bình đẳng với các doanh nghiệp khác và hạch toán kinh tế độc lập trong phạm vi vốn do doanh nghiệp quản lý. + Doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân được giao chức năng kinh doanh hoặc chức năng hoạt động công ích. + Doanh nghiệp Nhà nước phải có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam. 6-/ Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) Quyền và nghĩa vụ của DNNN tạo nên thẩm quyền kinh tế trong lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh (đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh) và trong lĩnh vực các DNNN. 6.1. Các quyền cơ bản của DNNN. 6.1.1. Đối với tài sản được Nhà nước giao: + DNNN có quyền quản lý, sử dụng vốn, đất đai, tài nguyên và các nguồn lực khác do Nhà nước giao theo quy định của pháp luật để thực hiện các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích theo chức năng mà Nhà nước giao phó. + DNNN hoạt động kinh doanh có quyền chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp, trừ những thiết bị nhà xưởng quan trọng phải được cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt trên nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn. + DNNN hoạt động công ích được thực hiện các quyền chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp khi được cơ quan quản lý có thẩm quyền cho phép. 6.1.2. Về tổ chức quản lý và tổ chức kinh doanh. Các DNNN hoạt động kinh doanh có quyền tổ chức quản lý và tổ chức kinh doanh như sau: + Tự chọn cách thức tổ chức bộ máy quản lý, tổ chức kinh doanh phù hợp với mục tiêu nhiệm vụ mà Nhà nước giao phó. + Chủ động đổi mới công nghệ trang thiết bị. + Đặt chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp ở trong nước hay nước ngoài tuỳ theo quy định của Chính phủ. + Tự nguyện tham gia tổng công ty Nhà nước, trừ những tổng công ty Nhà nước đặc biệt do Chính phủ chỉ định thành viên. + Kinh doanh những ngành nghề phù hợp với mục tiêu và nhiệm vụ Nhà nước giao, mở rộng quy mô kinh doanh theo khả năng của doanh nghiệp và nhu cầu của thị trường, kinh doanh bổ xung những ngành nghề khác do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép. + Tự lựa chọn thị trường, được xuất - nhập khẩu theo quy định của Nhà nước. + Tự quyết định giá mua giá bán sản phẩm và dịch vụ, trừ những sản phẩm và dịch vụ do Nhà nước định giá. + Đầu tư, liên doanh, liên kết, góp vốn cổ phần theo quy định của pháp luật. + Xây dựng, áp dụng các định mức lao động, vật tư đơn giá tiền lương trên đơn vị sản phẩm trong khuôn khổ các định mức, đơn giá của Nhà nước. + Tuyển chọn, thuê mướn, bố trí, sử dụng, đào tạo lao động, lựa chọn hình thức trả lương theo quy định của Bộ Luật lao động và các quy định khác của pháp luật, được quyền quyết định mức lương và thưởng cho người lao động trên đơn vị sản phẩm hoặc chi phí dịch vụ và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Các DNNN do tính chất hoạt động công ích do tính chất hoạt động của mình cho nên trừ các quyền liên quan đến chọn nghề kinh doanh, quyền lựa chọn thị trường, đầu tư liên doanh liên kết, các DNNN có quyền thực hiện tất cả các quyền khác như quy định cho các DNNN hoạt động kinh doanh ở trên. Ngoài ra các DNNN hoạt động công ích có các quyền sau: + Sử dụng các nguồn lực được giao để tổ chức hoạt động kinh doanh bổ sung theo quy định của Chính phủ, nhưng không làm ảnh hưởng tới việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ chính là hoạt động công ích do Nhà nước giao. + Đầu tư, liên doanh, liên kết, góp vốn cổ phần theo quy định của pháp luật khi được cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền cho phép. + Được xuất nhập khẩu theo quy định của Nhà nước. 6.1.3. Về quản lý tài chính. Các DNNN hoạt động kinh doanh có quyền quản lý tài chính như sau: + Được sử dụng vốn và các quỹ của doanh nghiệp để phục vụ kịp thời các nhu cầu trong kinh doanh trên nguyên tắc bảo toàn và có hoàn trả. + Tự huy động vốn đề hoạt động kinh doanh, nhưng không thay đổi hình thức sở hữu, được phát hành trái phiếu theo quy định của pháp luật; được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp tại các ngân hàng Việt Nam để vay vốn kinh doanh theo quy định của pháp luật. + Được sử dụng quỹ khấu hao cơ bản của doanh nghiệp; mức và tỷ lệ trích khấu hao cơ bản, chế độ sử dụng và quản lý quỹ khấu hao cơ bản do Chính phủ quy định. + Sau khi đã làm đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước, lập quỹ đầu tư phát triển và các quỹ khác do c quy định, doanh nghiệp được chia phần lợi nhuận còn lại cho người lao động theo cống hiến của mỗi người và kết quả kinh doanh trong năm và theo cổ phần. + Được hưởng các chế độ trợ cấp, trợ giá các chế độ ưu đãi khác của Nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ phục vụ quốc phòng, an ninh phòng chống thiên tai, hoạt động công ích hoặc cung cấp sản phẩm dịch vụ theo chính sách giá của Nhà nước không đủ bù đắp chi phí sản xuất sản phẩm, dịch vụ này của doanh nghiệp. + Được hưởng các chế độ ưu đãi đầu tư hoặc tái đầu tư theo quy định của Nhà nước. Các DNNN hoạt động công ích do tính chất hoạt động của mình cho nên không thực hiện các quyền và sử dụng vốn kinh doanh như các DNNN khác. Cùng với các quyền quản lý tài chính như các DNNN khác DNNN hoạt động công ích còn có các quyền sau: + Được Nhà nước cấp kinh phí theo dự toán hàng năm hoặc theo đơn đặt hàng của Nhà nước do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền duyệt, phù hợp với nhiệm vụ kế hoạch mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp. + Được huy động vốn, gọi vốn liên doanh, thế chấp quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp tại các ngân hàng của Việt Nam để vay vốn phục vụ hoạt động công ích theo quy định của pháp luật khi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép. + Doanh nghiệp cung ứng các sản phẩm hoặc dịch vụ có thu phí được sử dụng phí theo quy định của Chính phủ để phục vụ hoạt động của doanh nghiệp. 6.2. Nghĩa vụ của doanh nghiệp Nhà nước. 6.2.1. Nghĩa vụ sử dụng vốn và tài sản Nhà nước giao cho DNNN. + DNNN có nghĩa vụ sử dụng có hiệu quả bảo toàn và phát triển vốn do Nhà nước giao, bao gồm cả phần vốn đầu tư vào doanh nghiệp khác (nếu có); nhận và sử dụng có hiệu quả tài nguyên đất đai và các nguồn lực khác mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp. + DNNN hoạt động kinh doanh có nghĩa vụ sử dụng vốn và các nguồn lực do Nhà nước giao để thực hiện mục tiêu kinh doanh và những nhiệm vụ đặc biệt do Nhà nước giao. + DNNN hoạt động công ích có nghĩa vụ sử dụng vốn kinh phí, các nguồn lực do Nhà nước giao để cung cấp các sản phẩm, dịch vụ công ích cho các đối tượng theo khung giá hoặc do Chính phủ quy định. 6.2.2. Nghĩa vụ trong quản lý hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích của DNNN. + Đăng ký kinh doanh và thực hiện việc kinh doanh đúng ngành nghề đã đăng ký, chịu trách nhiệm trước Nhà nước về kết quả hoạt động của doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trước khách hàng, trước pháp luật về sản phẩm và dịch vụ do doanh nghiệp thực hiện. + Xây dựng chiến lược phát triển, kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp với nhiệm vụ được Nhà nước giao và nhu cầu của thị trường. + Đổi mới, hiện đại hoá công nghệ và phương thức quản lý, sử dụng thu nhập từ chuyển nhượng tài sản để tái đầu tư, đổi mới thiết bị, công nghệ của doanh nghiệp. + Thực hiện các quy định của Nhà nước về bảo vệ môi trường, quốc phòng và an ninh quốc gia. + Chịu sự kiểm tra của đại diện chủ sở hữu, tuân thủ các quy định về thanh trả của cơ quan tài chính và của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo pháp luật quy định. Có nghĩa vụ công bố công khai báo cáo tài chính hàng năm, cung cấp các thông tin để đánh giá đúng đắn và khách quan về hoạt động của doanh nghiệp. + DNNN hoạt động kinh doanh thực hiện các nghĩa vụ nộp thuế và các khoản nộp ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật. + DNNN hoạt động công ích có nghĩa vụ nộp ngân sách các khoản thu về phí và các khoản thu khác. Trường hợp có hoạt động kinh doanh thì phải có tổ chức hạch toán riêng và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật. II-/ Thực trạng quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian vừa qua. 1-/ Quá trình cải cách DNNN trong thời gian vừa qua. Đổi mới hệ thống DNNN trong tổng thể về đổi mới chung của nền kinh tế trong cơ chế thị trường theo định hướng XHCN trong thời gian vừa qua đã thu được một số kết quả nhất định. Những kết quả đó khẳng định sự đúng đắn trong đường lối đổi mới của Đảng. Quá trình cải cách DNNN trong thời gian vừa qua có thể chia làm 2 giai đoạn, giai đoạn từ năm 1986-1991 (khi có Nghị định 388 HĐBT ngày 20/1/1991 về thành lập và giải thể DNNN) và giai đoạn từ năm 1991 đến nay. 1.1. DNNN trong những năm đầu đổi mới (giai đoạn 1986-1991). Sau 10 năm thống nhất đất nước, tư tưởng bao cấp vẫn chi phối nặng nề cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta và những khuyết tật trong quản lý kinh tế ở cả tầm vĩ mô đã dần dần bộc lộ những mâu thuẫn trong bố trí cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế nhiều thành phần, phát huy tính năng động của doanh nghiệp quốc doanh ngày càng hiện ra rõ nét. Bước vào những năm đầu thập kỷ 80, nền kinh tế nước ta đã rơi vào cuộc khủng hoảng sâu sắc, sản xuất ngưng trệ ở tất cả mọi lĩnh vực, lạm phát tăng vọt. Đứng trước hoàn cảnh đó Đại hội Đảng lần thứ VI họp đề ra đường lối đổi mới sâu sắc, toàn diện, triệt để nền kinh tế đất nước. Trên tinh thần đổi mới, ngày 14/11/1987. Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định 21/HĐBT về mở rộng quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của DNNN. Và bắt đầu từ năm 1988 năm đầu tiên thử nghiệm cơ chế kinh tế mới của Nhà nước theo tinht hần Quyết định 217/HĐBT. Hệ thống DNNN đứng trước một thách thức sống còn buộc phải có sự lựa chọn: hoặc dần dần đi đến phá sản hoặc phải tự mình đổi mới nhanh chóng thích ứng với cơ chế kinh doanh mới để vươn lên tồn tại và phát triển. Đây là giai đoạn mà các DNNN phải thử nghiệm phương thức kinh doanh mới, tự mình “bơi ngụp” trong bối cảnh giao thời, giữa cơ chế kinh tế cũ và những mầm mống cơ chế kinh tế mới. Đứng trước bình diện chung nhận xét: giai đoạn này, Nhà nước hầu như chưa có một chiến lược nào về sắp xếp, thành lập, giải thể DNNN, vì vậy, các ngành, các cấp chính quyền địa phương mà chủ yếu là cấp quận, huyện đều rất dễ dàng thành lập mới DNNN dẫn đến tình trạng DNNN được hình thành một cách ồ ạt, vô tổ chức, không đặt trong một quy hoạch phát triển chung. Trong giai đoạn này, trình độ về kỹ thuật và công nghệ của các DNNN lạc hậu nhiều so với thế giới. Trung bình sau 14-15 năm thiết bị mới được đổi mới. Khoảng 34% máy móc công nghiệp đưa vào sử dụng từ những năm 1961-1975 và chỉ có 18% sau năm 1986, phần còn lại là những máy móc thiết bị thiếu đồng bộ chiếm tỷ trọng rất cao. Hiệu quả kinh tế của khu vực quốc doanh nhìn chung còn thấp, nhiều doanh nghiệp tỏ ra còn thua kém các doanh nghiệp tư nhân. Máy móc thiết bị chỉ sử dụng từ 1/3 đến 1/2 công suất. Hệ số sinh lời bình quân của vốn cố định khoảng 0,07% của vốn lưu động là 0,1%. Tình trạng lãng phí trong sử dụng vốn và tài sản, thiếu trách nhiệm trong hạch toán thống kê, phản ánh sai chi phí và kết quả kinh doanh là rất phổ biến và nghiêm trọng. ở nhiều doanh nghiệp số lao động còn quá nhiều so với nhu cầu sản xuất, bộ máy quản lý còn cồng kềnh kém hiệu lực. Số xí nghiệp có lãi chỉ chiếm khoảng 20-25%. Tuy nhiên, nếu đứng trên góc độ đóng góp vào Ngân sách Nhà nước thì các DNNN vẫn là nguồn đóng góp quan trọng cho ngân sách Nhà nước: tỷ lệ thu từ khu vực DNNN trong tổng thu ngân sách năm 1990 là 77,3%; năm 1991 là 78,7%. Để giúp các DNNN thoát khỏi tình trạng này, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp quy quan trọng nhằm cải cách một bước hệ thống các doanh nghiệp như: Quyết định về tổng kiểm kê tài sản trong các DNNN lúc 0h ngày 1/1/1990 nhằm đánh giá đúng khối lượng vốn doanh nghiệp đang nắm giữ làm cơ sở cho công tác quản lý tài chính, Chỉ thị 316CT ngày 1/9/1990 về thí điểm trao quyền sử dụng và trách nhiệm bảo toàn vốn,... Tiếp đó Chính phủ ban hành Chỉ thị 138CT ngày 25/4/1991 về mở rộng diện trao quyền sử dụng và trách nhiệm bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh trong các DNNN. Các văn bản ban hành trong giai đoạn này đã khẳng định hơn nữa quan điểm của Nhà nước về trao quyền tự chủ tài chính, sử dụng có hiệu quả bảo toàn và phát triển vốn của Nhà nước giao. Các văn bản này trở thành những căn cứ pháp lý quan trọng tạo tiền đề cho bước cải cách hệ thống DNNN giai đoạn tiếp theo. 1.2. Giai đoạn sắp xếp và chấn chỉnh của DNNN (giai đoạn từ 1991-1996). Tiếp tục con đường đổi mới, ngày 20/11/1991 Nghị định 388/HĐBT quy định về thành lập, giải thể DNNN được ban hành, đã đánh dấu chấm hết một giai đoạn dài không có định hướng, không có quy hoạch trong sắp xếp, phát triển khu vực kinh tế Nhà nước, Nghị định số 388/HĐBT quy định rõ các điều kiện cần phải có để xin phép thành lập doanh nghiệp, các lĩnh vực được phép thành lập doanh nghiệp, quy trình, thủ tục thành lập, giải thể doanh nghiệp. Tiếp đó là Quyết định 90 TTg và 91 TTg thí điểm lập mô hình tổ chức tập đoàn kinh tế lớn phù hợp với quy luật tập trung hoá sản xuất. Đồng thời việc thí điểm lập cơ chế hội đồng quản trị để từng bước xoá bỏ chế độ chủ quản trực tiếp của cơ quan quản lý Nhà nước và sự can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các tổng công ty Nhà nước thành lập nhằm nâng cao sức cạnh tranh, trở thành lực lượng chi phối toàn bộ nền kinh tế. Cho tới nay chúng ta đã thành lập được 19 tổng công ty Nhà nước có tầm cỡ (theo QĐ 90TTg) như tổng công ty Bưu chính viễn thông, tổng công ty dầu khí,... và hơn 40 tổng công ty theo Quyết định 90 TTg. Quan trọng hơn, ngày 20/4/1995 Quốc hội đã thông qua Luật DNNN đây là văn bản luật cao nhất thể hiện những chủ trương quan trọng của Nhà nước về phát triển các DNNN tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho các DNNN hoạt động bình đẳng trước pháp luật, bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Cùng với luật DNNN, các đạo luật mới ra đời như: Bộ Luật lao động, Bộ Luật dân sự, Luật phá sản,... đã tạo điều kiện cho các DNNN phát triển trong trật tự lành mạnh và có hiệu quả phân định rõ quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản trong mối quan hệ giữa cơ quan quản lý Nhà nước và các doanh nghiệp. Trong giai đoạn này, Chính phủ đã cho phép tiến hành thí điểm chuyển một số DNNN sang công ty cổ phần bằng Quyết định 202 CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã mở ra một hướng đi mới cho các DNNN ở Việt Nam trong tiến trình cải cách. Tuy nhiên do cổ phần hoá là một vấn đề mới mẻ, sự hiểu biết vấn đề còn hạn chế nên quá trình cổ phần hoá diễn ra rất chậm, một số doanh nghiệp đã bỏ dở giữa chừng kết quả 3 năm tiến hành thí điểm cổ phần hoá đến 12/1990 chỉ có 10 doanh nghiệp chính thức chuyển sang công ty cổ phần. Song bước._. thí điểm ban đầu đã cho chúng ta những bài học quý báu, là cơ sở cho Chính phủ ban hành những văn bản pháp quy sát thực có tác dụng thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá. Bước sang năm 1996, với việc Chính phủ ban hành Nghị định 28CP ngày 7/5/1996 kết thúc giai đoạn thí điểm, chính thức qui định việc chuyển một số DNNN sang công ty cổ phần khẳng định quyết tâm của Chính phủ trong việc cải cách DNNN theo hướng này. Đồng thời để củng cố các doanh nghiệp đang hoạt động đảm bảo các DNNN được thành lập có đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ Nhà nước giao, ngày 28/8/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định 80CP về thành lập, tổ chức lại và phá sản DNNN thay thế Nghị định 388/HĐBT, là một bước tiến phù hợp với tiến trình đổi mới DNNN. Tóm lại, trong giai đoạn 1991-1990 Nhà nước đã áp dụng một số biện pháp để chấn chỉnh lại khu vực kinh tế Nhà nước như: - Tiếp tục sắp xếp lại các DNNN, thí điểm thành lập một số tổng công ty mạnh, đồng thời tiến hành xử lý các doanh nghiệp đã tổ chức lại sản xuất kinh doanh nhưng vẫn bị thua lỗ kéo dài. - Mở rộng quyền tự chủ của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh, trong quản lý tài chính. Mở rộng các hình thức huy động vốn cho doanh nghiệp: ngoài phần vốn do ngân sách cấp phát, doanh nghiệp được phép chủ động vay ngân hàng các đơn vị cá nhân trong và ngoài doanh nghiệp để phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, thí điểm phát hành trái phiếu DNNN để vay vốn. - Thí điểm thực hiện đa dạng hoá hình thái sở hữu trong các DNNN với các hình thức khác nhau mà trọng tâm là hướng cổ phần hoá DNNN thể hiện qua giai đoạn thí điểm vừa qua. Các biện pháp trên bước đầu đã có tác dụng tích cực trong việc cải cách hệ thống DNNN từ lao đao, mất phương hướng kinh doanh, mất chỗ đứng trên thương trường, bị tư thương chèn ép đến chỗ trụ lại được, gia tăng sản xuất lấy lại thế đứng của DNNN trên thị trường nội địa và ngày càng mở rộng phạm vi hoạt động ra thị trường quốc tế. 2-/ Những kết quả đạt được và những tồn tại khó khăn. 2.1. Những kết quả đạt được: Có thể khái quát những kết quả đã đạt được của DNNN trong giai đoạn tiến hành cải cách vừa qua như sau: a. Các DNNN đã khôi phục và duy trì được mức tăng trưởng khá hàng năm. Kết quả sản xuất kinh doanh của các DNNN được cải thiện, tỷ lệ các DNNN có lãi tăng từ 65,34% năm 1991 lên 69,8% năm 1992, 76,8% năm 1993 và 17,9% năm 1994, số lợi nhuận thực hiện bình quân của các doanh nghiệp tăng từ 3,2 triệu đồng/doanh nghiệp năm 1985 lên 319,8 triệu đồng/doanh nghiệp năm 1990 và 1352,7 triệu đồng/doanh nghiệp năm 1994. Những kết quả này đã góp phần đưa nền kinh tế nước ta thoát khỏi khủng hoảng mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ kinh tế tăng trưởng mạnh lạm phát bị chặn đứng và đẩy lùi, thu chi ngân sách Nhà nước được cải thiện,... Tăng trưởng hàng năm của nền kinh tế và khu vực DNNN Chỉ tiêu 1991 1992 1993 1994 1995 Tăng trưởng hàng năm về tổng sản phẩm quốc nội - Toàn bộ nền kinh tế quốc dân 5,8 8,4 8,1 8,8 9,5 - Khu vực DNNN 8,6 12,4 11,6 12,7 12,4 - Kinh tế ngoài quốc doanh 4,7 6,8 6,2 6,7 7,9 Nguồn: Niên giám thống kê 1995 b. DNNN tiếp tục đóng góp phần quan trọng trong tổng thu ngân sách Nhà nước hàng năm. Tỷ trọng đóng góp của DNNN trong tổng thu NSNN Chỉ tiêu 1992 1993 1994 1995 1. Tốc độ tăng thu của NSNN năm sau so với năm trước 98,0 53,2 28,7 28,7 2. Tốc độ tăng thu từ DNNN năm sau so với năm trước 57,4 80,8 32,1 25,6 3. Tỷ trọng đóng góp của DNNN vào NSNN hàng năm 28,0 27,6 28,3 27,6 4. Tỷ trọng DNNN trong GDP hàng năm 36,2 39,2 40,2 42,2 Nguồn: Vụ ngân sách Nhà nước - Bộ Tài chính c. Thu hẹp dần tỷ trọng DNNN bị thua lỗ, nâng cao tỷ trọng DNNN làm ăn có lãi, hiệu quả sử dụng tài sản, tiền vốn ngày một tăng. Nhờ liên kết xử lý một số doanh nghiệp bị thua lỗ kéo dài và làm tốt công tác sắp xếp, thành lập lại các doanh nghiệp đã thúc đẩy những doanh nghiệp được thành lập và hoạt động tích cực hơn, không còn ỷ lại vào sự trợ cấp bao cấp của Nhà nước. Số lượng DNNN được thu hẹp đáng kể từ chỗ 12.084 doanh nghiệp vào 1/1/1990 xuống còn 6.240 doanh nghiệp vào thời điểm 1/4/1994. Như vậy số lượng DNNN giảm khoảng 45%, trong số các doanh nghiệp giảm xuống có khoảng 2.000 doanh nghiệp thuộc diện giải thể hay thay đổi hình thức sỡ hữu và khoảng 4.000 doanh nghiệp được sát nhập vào các doanh nghiệp khác. Số doanh nghiệp giảm này chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ, phần lớn do cấp quận, huyện quản lý, đã ngừng hoạt động hoặc bị thua lỗ kéo dài. Số DNNN làm ăn có lãi ngày một gia tăng. Năm 1992 có 69,8% số doanh nghiệp có lãi, năm 1993 có 76,8% và năm 1994 là 77,9%, số doanh nghiệp bị lỗ cũng giảm đáng kể năm 1992 có 22,6%, năm 1993: 17,75% và năm 1994 chiếm 16,5%. d. Nhà nước đã không phải báo cấp cho các doanh nghiệp giảm dần tiến tới xoá bỏ hẳn các khoản trợ cấp cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát huy tính chủ động, tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Điều quan trọng là thông qua hoạt động thực tiễn theo cơ chế thị trường đã tạo cho các DNNN một nề nếp, phương thức làm việc mới tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tự tích tụ, tập trung vốn, tự đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất cho phù hợp với đòi hỏi của thị trường. e. Tạo công ăn việc làm cho một bộ phận đông đảo người lao động, đời sống cán bộ, công nhân viên được cải thiện gấp nhiều lần, tác động tích cực đến cải thiện đời sống xã hội. Tính đến cuối năm 1994, tổng số lao động đang làm việc trong các DNNN là 1.741.717 người, đã giảm 4% so với năm 1991. Sự giảm đi của lực lượng lao động trong các DNNN là kết quả của các biện pháp giảm biên chế lao động trong khu vực DNNN, do sắp xếp, giải thể DNNN và do chuyển một bộ phận lao động thuộc khu vực DNNN sang làm việc tại các xí nghiệp liên doanh mà DNNN là một bên góp vốn. Tình hình thu nhập tiền lương ở một số doanh nghiệp Chỉ tiêu Đơn vị tính 1994 1995 Bình quân các đơn vị, trong đó: 1.000đ/người/tháng 893 1.093 - Nông nghiệp 1.000đ/người/tháng 587 684 - Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ 1.000đ/người/tháng 1.139 1.390 f. Thực hiện một bước cấu trúc lại nền kinh tế quốc dân. Cấu trúc của nền kinh tế thể hiện ở mức độ tham gia của các thành phần kinh tế trong tổng thể kinh tế thống nhất. Trong những năm qua chính sách phát triển nền kinh tế đa thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta đã tạo điều kiện tốt về mặt luật pháp cho sự tham gia và phát triển của các thành phần kinh tế khác. Đối với DNNN tạo điều kiện cho DNNN hoà nhập và bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Việc sắp xếp lại hệ thống DNNN và thực hiện cổ phần hoá một bộ phận DNNN đã góp phần làm thay đổi kết cấu doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. g. Hình thành một số ngành kinh tế mũi nhọn, các ngành công nghiệp mới, tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế được lâu bền. Cải cách DNNN theo hướng đầu tư, phát triển thích đáng vào những ngành công nghiệp sản xuất hiện như vật liệu mới, công nghệ vi sinh, tin học, điện tử, hoá dầu,... đặc biệt là các dự án có khả năng đi tắt đón đầu nền công nghệ thế giới. Trong những năm qua chính sách của Nhà nước về cải cách DNNN đã tạo điều kiện để tập trung mạnh đầu tư vào những ngành sử dụng nhiều lao động, hướng mạnh đầu tư vào phát triển nông nghiệp và nông thôn, khai thác chế biến lâm thuỷ sản xuất khẩu, các làng nghề truyền thống vừa giải quyết công ăn và việc làm, vừa khai thác thế mạnh nguồn nhân lực và nguồn tài nguyên sẵn có trên cơ sở hướng mạnh vào chế biến xuất khẩu, sản xuất hàng xuất khẩu thu ngoại tệ, hạn chế tối đa việc xuất khẩu sản phẩm thô, sản phẩm sơ chế ra thị trường quốc tế. 2-/ Những tồn tại khó khăn cần sớm giải quyết. Bên cạnh những thành tựu đạt được trong những năm đổi mới vừa qua con đường cải cách khu vực kinh tế Nhà nước vẫn còn gập ghềnh và không ít chông gai, thực trạng hoạt động và sự tồn tại của DNNN đạt đặt ra những vấn đề nan giải, nên không giải quyết được những vấn đề này thì không thể hy vọng có được một hệ thống DNNN đủ mạnh làm đối trọng và đóng vai trò chủ đạo cho sự phát triển các thành phần kinh tế trong tổng thể của nền kinh tế quốc dân. 2.1. Khó khăn về vấn đề đầu tư mở rộng quy mô kinh doanh và cải tiến một bước tình trạng lạc hậu của công nghệ sản xuất. DNNN ở nước ta chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, theo báo cáo của Tổng cục thống kê, đến cuối năm 1994 vẫn còn khoảng 46,1% số DNNN có số lao động dưới 100 người và 49,2% số DNNN có mức vốn dưới 1 tỷ. Một đặc điểm nữa là số vốn đầu tư khi thành lập doanh nghiệp chiếm tỷ lệ rất nhỏ bé, chủ yếu do bổ xung tăng từ chênh lệch giá do đánh giá lại giá trị tài sản cố định, tài sản lưu động trong doanh nghiệp, phần vốn gia tăng từ lợi nhuận hầu như không đáng kể. Vốn đầu tư ít không đủ đáp ứng nhu cầu kinh doanh dẫn đến doanh nghiệp nào cũng thiếu vốn triền miên. Và cũng từ sự thiếu vốn triền miên mà doanh nghiệp phải đi vay nó, phải chiếm dụng vốn của nhau,... 2.2. Cơ cấu doanh nghiệp chưa hợp lý, DNNN còn phân bố dàn trải trên nhiều lĩnh vực hoạt động với qui mô nhỏ. Số lượng DNNN tuy đã giảm nhiều trong những năm vừa qua nhưng nay lại có xu hướng gia tăng qui mô doanh nghiệp nhỏ và phân bố dàn trải. Cơ cấu DNNN sắp xếp theo ngành, theo vùng lãnh thổ còn nhiều bất hợp lý, vẫn chưa khắc phục được tình trạng chồng chéo, trùng lắp, thiếu sự điều hoà phối hợp để tận dụng năng lực, nâng cao hiệu quả kinh doanh giữa các ngành, giữa doanh nghiệp Trung ương và doanh nghiệp địa phương trên cùng một địa bàn lãnh thổ. Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta đòi hỏi Nhà nước phải duy trì một bộ phận DNNN làm công cụ kinh tế để Nhà nước thực hiện việc điều chỉnh nền kinh tế, định hướng phát triển cho các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên vai trò chủ đạo của DNNN cần phải được nhận thức lại phù hợp với điều kiện kinh tế hiện nay. Trong điều kiện này tính chủ đạo của kinh tế Nhà nước không có nghĩa là DNNN phải có mặt ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế, không có nghĩa là DNNN phải có số lượng lớn, có đóng góp nhiều cho ngân sách. Vai trò chủ đạo của DNNN thể hiện ở chỗ. Nhà nước đầu tư phát triển các doanh nghiệp sản xuất và cung ứng sản phẩm công cộng các mặt hàng chiến lược có ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế hay có mặt ở các ngành, lĩnh vực kinh tế mà các thành phần kinh tế khác không đủ sức làm hay không muốn tham gia, thành lập doanh nghiệp ở các ngành kinh tế mới xuất hiện tạo mũi nhọn và định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế. Thực hiện chủ trương hình thành các doanh nghiệp mạnh theo Quyết định 90TTg và 91TTg của Thủ tướng Chính phủ, tới nay chúng ta mới sắp xếp và thành lập được 19 Tổng công ty Nhà nước (theo QĐ 91TTg), hơn 40 tổng công ty với số doanh nghiệp thành viên khoảng gần 2.000 doanh nghiệp. Như vậy còn khoảng trên 4.000 doanh nghiệp với qui mô vừa và nhỏ chủ yếu là rất nhỏ, đa số hoạt động trong ngành thương mại, dịch vụ, đây chính là đối tượng cần sắp xếp lại triệt để trong những năm tới theo hướng cổ phần hoá hay cho sát nhập vào các doanh nghiệp khác. 2.3. Hiệu quả kinh doanh còn thấp, vẫn còn những doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, hiệu quả sử dụng đồng vốn thấp. Mặc dù trong mấy năm trở lại đây các DNNN làm ăn đã có lãi, song vẫn còn một bộ phận đang bị thua lỗ (theo báo cáo quyết toán thì có khoảng trên 10% số doanh nghiệp bị thua lỗ). Nên tính đúng, tính đủ chi phí khấu hao tài sản cố định vào giá thành kinh doanh, kiểm soát chặt chẽ việc tính toán các khoản chi phí kinh doanh thì số DNNN còn bị lỗ có thể sẽ cao hơn nhiều. Rõ ràng để cải cách DNNN đạt mục tiêu đặt ra bên cạnh việc xoá bỏ những tồn tại nêu trên, cần thiết phải có hướng đi giải pháp thích hợp. Để thúc đẩy nhanh quá trình cải cách doanh nghiệp hiện nay có những giải pháp sau: 2-/ Cổ phần hoá một giải pháp quan trọng trong cải cách doanh nghiệp đổi mới DNNN. Cổ phần hoá là chuyển thể một doanh nghiệp từ dạng chưa là công ty cổ phần thành công ty cổ phần. Do vậy cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước chính là chuyển thể doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Xét về hình thức, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là việc Nhà nước bán một phần giá trị vốn Nhà nước giữ hoặc giữ nguyên giá trị phần vốn Nhà nước để phát hành thêm cổ phiếu hoặc tách một bộ phận của doanh nghiệp hoặc bán toàn bộ giá trị vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần. Xét về mặt thực chất, cổ phần hoá chính là phương thức xã hội hoá chủ sở hữu, chuyển từ hình thái kinh doanh một chủ sở hữu là Nhà nước thành công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu tạo ra mô hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường và đáp ứng yêu cầu của kinh doanh hiện đại. 2.1. Mục tiêu của cổ phần hoá. Mục tiêu thứ nhất là, phải chuyển một phần quyền sở hữu về tài sản của Nhà nước thành sở hữu của các cổ đông nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Trước hết, cần hiểu rằng mục đích của việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là chuyển quyền sở hữu cho các cổ đông, chứ không phải là quyền sử dụng, nghĩa là mua đứt bán đoạn chứ không phải là cho thuê, cho vay. Tuy vậy, vẫn có 2 trường hợp đặc biệt không chuyển quyền sở hữu, mà chỉ chuyển quyền sử dụng, đó là: - Đất của doanh nghiệp, vì cho đến nay luật pháp Việt Nam không cho phép bán đất. - Trường hợp các cổ đông là các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế quốc doanh thì chỉ là chuyển quyền sử dụng các tài sản của Nhà nước mà thôi. Thứ hai là, hiện nay các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn rất kém hiệu quả. Đó vừa là gánh nặng cho ngân sách Nhà nước vừa là nguy cơ đối với nền tài chính quốc gia. Trong nền kinh tế thị trường mà làm ăn kém hiệu quả (lỗ, không có lãi hoặc lãi ít) thì nhất định sớm muộn cũng bị phá sản. Vì vậy, mục tiêu cao nhất cuối cùng của cổ phần hoá phải là nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mục tiêu thứ hai là, phải huy động một khối lượng vốn nhất định ở trong và ngoài nước để phát triển sản xuất kinh doanh. Hiện nay các doanh nghiệp Nhà nước đang thiếu vốn nghiêm trọng để đầu tư phát triển. Nhưng ngân sách Nhà nước thì không thể cấp vốn cho một khu vực làm ăn kém hiệu quả. Dân chúng sẽ không bao giờ cho doanh nghiệp Nhà nước vay nếu doanh nghiệp Nhà nước không được cải tổ. Còn nước ngoài thì không bao giờ cho doanh nghiệp Nhà nước vay nếu giữ nguyên hiện trạng. Họ chỉ có thể làm ăn với doanh nghiệp Nhà nước thông qua hình thức mua, thuê, liên doanh, mua cổ phần,.... Vậy là, muốn có vốn để đầu tư phát triển, doanh nghiệp Nhà nước chỉ có thể huy động thông qua hình thức bán cổ phần. Mục tiêu thứ ba của cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước là tạo điều kiện cho người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp. 2.2. Điều kiện để tiến hành cổ phần hoá. chương II đánh giá doanh nghiệp và một số phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp I-/ Đánh giá doanh nghiệp. 1-/ Nhu cầu đánh giá doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Ngày nay các doanh nghiệp đang hoạt động trong một môi trường kinh doanh luôn luôn biến động và sự biến động này diễn ra rất nhanh chóng và phức tạp. Xu thế toàn cầu hoá trong kinh doanh đang từng ngày từng giờ tạo ra những áp lực cạnh tranh hết sức gay gắt, đòi hỏi doanh nghiệp phải liên tục đổi mới và cải tiến không ngừng để có thể tồn tại và phát triển bền vững. Tại các quốc gia phát triển, các hoạt động đánh giá doanh nghiệp đã được tiến hành từ nhiều thập kỷ nay và đã hình thành nhiều tổ chức chuyên thực hiện các dịch vụ đánh giá. Tại Việt Nam trong những năm gần đây nền kinh tế đã đạt được nhiều thành tựu về tăng trưởng và có nhiều dấu hiệu khởi sắc, cơ chế thị trường đang từng bước được hoàn thiện. Tuy nhiên cũng có nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng thua lỗ kéo dài thị phần sụt giảm, vị thế cạnh tranh trên thương trường thấp. Tình hình trên đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam cần định kỳ tự đánh giá để có những giải pháp cầu tiến quản lý cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Mặt khác trong nền kinh tế thị trường các hoạt động sát nhập mua lại, hợp nhất hay thành lập các liên doanh,... diễn ra một cách thường xuyên. Cơ sở nền tảng của các hoạt động này đều dựa trên kết quả đánh giá và xác định giá trị doanh nghiệp. Đồng thời, các kết quả đánh giá về triển vọng của doanh nghiệp cũng là cơ sở cho các tổ chức cá nhân và công chúng đầu tư ra quyết định đầu tư vào các loại chứng khoán do doanh nghiệp phát hành trên thị trường tài chính. Bởi vậy, khi mà các hoạt động sát nhập liên kết và hợp nhất đã và đang diễn ra khá sôi động. Đồng thời, trong tương lai gần sẽ hình thành một thị trường chứng khoán tại Việt Nam thì nhu cầu sử dụng kết quả đánh giá chính xác về triển vọng và giá trị của doanh nghiệp càng trở nên cấp thiết. Vậy đánh giá doanh nghiệp là gì? Đánh giá doanh nghiệp là sự đo lường, xác định vị thế hiện tại và từ đó đưa ra những dự báo về triển vọng tương lai của nó. Mặt khác, dựa vào những đánh giá về hiện trạng và triển vọng của doanh nghiệp mà có thể xác định được giá trị của doanh nghiệp tại thời điểm đánh giá. Để tiến hành đánh giá doanh nghiệp việc trước tiên là ta phải xác định được mục đích đánh giá. 1-/ Mục đích của đánh giá doanh nghiệp. Mỗi nhóm quyền lợi trong doanh nghiệp có những mục đích rất khác nhau trong việc đánh giá doanh nghiệp do đó các nhóm quyền lợi này cũng có những nhận định rất khác nhau đối với kết quả đánh giá, thông thường đánh giá doanh nghiệp nhằm những mục đích sau: 1.1. Đối với doanh nghiệp. Các doanh nghiệp luôn có nhu cầu biết rõ tình trạng sức khoẻ của mình trên cơ sở đó để đề ra các kế hoạch điều chỉnh chiến lược, kế hoạch cải tiến các hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh,... Đồng thời, tại những điểm cần huy động vốn cổ phần hay cổ phần hoá thì kết quả đánh giá là cơ sở để xây dựng giá trị doanh nghiệp và giá trị phát hành cổ phiếu. Tóm lại mục đích đánh giá của doanh nghiệp là hiểu rõ vị thế của chính nó, trên cơ sở đó đưa ra những dự báo về triển vọng và đề ra những kế hoạch, những cải tiến cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh,... nhằm hướng tới sự phát triển bền vững. 1.2. Đối với các chủ nợ và chủ sở hữu doanh nghiệp. Mục đích đánh giá doanh nghiệp của họ là để dựa vào kết quả đánh giá mà đưa ra những quyết định thích hợp nhằm bảo vệ quyền lợi của họ trong doanh nghiệp. Chẳng hạn, các cổ đông hiện tại của một doanh nghiệp có thể dựa trên kết quả đánh giá mà quyết định ủng hộ ban lãnh đạo hiện nay của doanh nghiệp hay phải thay thế họ. Đối với các nhà đầu tư chứng khoán. Kết quả đánh giá doanh nghiệp là cơ sở để họ quyết định đặt vốn hay rút vốn ra khỏi doanh nghiệp đó. Đối với các chủ nợ hiện tại và tiềm tàng, mục đích của đánh giá doanh nghiệp với tư cách là khách hàng tín dụng làm nhằm dựa vào kết quả đánh giá mà đưa ra những quyết định cho vay hay từ chối. Thực tế cuộc khủng hoảng Châu á cho thấy, do không đánh giá đúng tính trạng hoạt động kinh doanh của các khách hàng tín dụng khi khách hàng mất khả năng trả nợ thì chủ nợ cũng bị phá sản theo, điển hình là ngân hàng tín dụng dài hạn Nhật Bản. 1.3. Đối với các khách hàng lớn. Mục đích đánh giá của các khách hàng lớn là nhằm xác định mức độ ổn định đối với các nguồn nguyên liệu và bán thành phẩm mà họ mua từ nhà cung cấp. Bởi vậy, trước khi đi tới quyết định mua hàng từ một nhà cung cấp khách hàng thường tiến hành đánh giá để xác định khả năng cung ứng hàng hoá của nhà cung cấp đó. ở Việt Nam, nhiều doanh nghiệp thường không tiến hành thẩm định khả năng cung ứng hàng hoá của nhà cung cấp. Do đó khi mà nhà cung ứng bị mất khả năng cung ứng nguyên vật liệu thì sản xuất của doanh nghiệp bị đình trệ gây nhiều thiệt hại. Chẳng hạn, trong lĩnh vực xuất khẩu ở Việt Nam, nhiều nhà xuất khẩu bị phạt nhiều ngàn USD do giao hàng không đúng thời hạn. Nguyên nhân là do nhà cung ứng hàng hoá cho doanh nghiệp không đủ năng lực cung cấp mà chủ yếu dựa vào mua hàng trôi nổi để kiếm lời. Bởi vậy, khi thị trường biến động họ không thể cung ứng hàng hoá như đã thoả thuận. 1.4. Đối với các nhà cung cấp. Mục đích đánh giá là nhằm xác định khả năng thanh toán các khoản tiền mua hàng của doanh nghiệp và hạn chế phát sinh những món nợ khó đòi thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp đã bị thiệt hại lớn do khách hàng không có khả năng thanh toán các món nợ. Do đó, để hạn chế những rủi ro trong trường hợp khách hàng không trả được nợ họ thường tiến hành đánh giá các doanh nghiệp khách hàng trước khi quyết định bán hàng. 1.5. Đối với các đối thủ cạnh tranh. Mục đích của đối thủ cạnh tranh là nhằm biết rõ tiềm lực mọi mặt của một doanh nghiệp cạnh tranh và triển vọng tương lai của nó mà quyết định nên hoà hay chiến hoặc có giải pháp chống lại sự tấn công của đối thủ. 1.6. Mục đích của các nhà công quyền. Để hoàn thành tốt chức năng của mình trong những thời điểm nhất định Nhà nước cũng cần đánh giá các doanh nghiệp, đánh giá những tác động của môi trường kinh doanh đối với doanh nghiệp. Trên cơ sở những kết quả đánh giá đó, Nhà nước ban hành các quyết định liên quan đến doanh nghiệp như: chính sách thuế, chính sách hỗ trợ đầu tư, tài trợ tín dụng,... nhằm cải thiện các điều kiện của môi trường kinh doanh. Mặt khác thông qua kết quả đánh giá, các cơ quan chính quyền có thể đưa ra các quyết định kịp thời nhằm ngăn chặn hoặc hạn chế các hậu quả xấu đối với nền kinh tế và xã hội xuất phát từ những doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ hoặc những hành động gian lận. 3-/ Lợi ích của đánh giá doanh nghiệp. Một trong những nguyên nhân thúc đẩy các hoạt động đánh giá doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ trên thế giới, nhất là tại các nền kinh tế phát triển là do những lợi ích mà chúng đem lại cho nền kinh tế, các doanh nghiệp và các nhóm quyền lợi trong doanh nghiệp. 3.1. Lợi ích đối với nền kinh tế. Đánh giá doanh nghiệp góp phần ổn định môi trường kinh doanh và hạn chế những rủi ro trong kinh doanh. Dựa vào kết quả đánh giá mà các doanh nghiệp có thể kịp thời phát hiện ra những điểm yếu và có những biện pháp cải tiến nâng cao hiệu quả kinh doanh. Do đó, có thể hạn chế những thiệt hại và làm giảm mức độ bất ổn định, mức độ rủi ro trong môi trường kinh doanh. Đánh giá doanh nghiệp có thể thúc đẩy các hoạt động đầu tư mở rộng sản xuất. Với các kết quả đánh giá các doanh nghiệp có thể cho phép các tổ chức cá nhân có nguồn ngân quỹ nhàn rỗi yên tâm đầu tư hay cho vay. Do đó, đánh giá doanh nghiệp góp phần thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội vào đầu tư, mở rộng sản xuất. Đánh giá doanh nghiệp góp phần nâng cao sức cạnh tranh trong nền kinh tế. Dựa vào các kết quả đánh giá mà các doanh nghiệp tiến hành cải tiến liên tục các hoạt động kinh doanh của mình. Đồng thời do các hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển, năng suất lao động, chất lượng sản phẩm tăng dẫn đến làm gia tăng sức cạnh tranh trong nền kinh tế. 3.2. Lợi ích đối với Chính phủ. Đánh giá doanh nghiệp cho phép Chính phủ có thể kịp thời tiến hành những biện pháp điều chỉnh các chính sách, điều tiết nền kinh tế. Qua kết quả đánh giá doanh nghiệp mà Chính phủ có thể đánh giá mức độ tác động của các chính sách kinh tế, chính trị,... nhằm thiết lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chính phủ có thể sử dụng các kỹ thuật đánh giá doanh nghiệp đó xác định hiệu quả quản trị, hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước. Trên cơ sở đó Chính phủ có thể quyết định cổ phần hoá sát nhập hay giải thể doanh nghiệp. 3.3. Lợi ích đối với các doanh nghiệp. Đánh giá doanh nghiệp là công cụ hữu hiệu mà doanh nghiệp có thể sử dụng để tiến hành cải tiến liên tục. Thông qua các kết quả đánh giá của doanh nghiệp mình mà các doanh nghiệp có thể nhận rõ được những điểm mạnh và điểm yếu của mình trong từng lĩnh vực hoạt động cụ thể. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp đưa ra những biện pháp cải tiến liên tục, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đánh giá doanh nghiệp là công cụ cho phép doanh nghiệp đánh giá vị thế cạnh tranh. Doanh nghiệp có thể sử dụng các kỹ thuật đánh giá để đánh giá vị thế cạnh tranh của chính nó và các đối thủ cạnh tranh trên cơ sở đó để đưa ra những quyết định thích hợp. Đánh giá doanh nghiệp là công cụ hữu hiệu để xác định giá trị doanh nghiệp khi tiến hành sát nhập mua lại hoặc định giá cổ phần. 2.4. Lợi ích đối với các chế định tài chính và công chúng đầu tư. Đánh giá doanh nghiệp là công cụ cho phép các chế định tài chính thẩm định tư cách vị thế tín dụng của khách hàng bằng cách sử dụng các kỹ thuật và tiêu chuẩn đánh giá để thẩm định tư cách tình hình kinh doanh và khả năng trả nợ trong tương lai của khách hàng tín dụng. Trên cơ sở đó họ có thể đưa ra những quyết định thích hợp. Ngoài ra việc đánh giá doanh nghiệp còn giúp công chúng hạn chế rủi ro khi đầu tư hay hùn vốn vào các doanh nghiệp. Bởi vì dựa vào kết quả đánh giá công chúng có thể lựa chọn đầu tư vào các loại cổ phiếu của các công ty hay hùn vốn vào các doanh nghiệp với mức độ rủi ro hợp lý. Tóm lại: trong nền kinh tế thị trường đánh giá doanh nghiệp giữ một vai trò rất quan trọng đối với nhóm quyền lợi bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Đối với các nhà quản trị, kết quả đánh giá doanh nghiệp là cơ sở để xác định những cơ hội nhằm tối đa hoá giá trị doanh nghiệp thông qua các hoạt động cải tiến và đổi mới. Đối với các nhóm quyền lợi bên ngoài doanh nghiệp tuỳ theo vai trò của mỗi nhóm mà kết quả đánh giá là cơ sở để họ đưa ra những quyết định tài trợ tín dụng, đầu tư, liên doanh hay sát nhập,... Do xuất phát từ những mục đích khác nhau nên cùng với một kết quả đánh giá, mỗi nhóm quyền lợi trong doanh nghiệp có thể có những kết luận và quyết định khác nhau. Tuy nhiên, dù có khác biệt về mục đích, song mục tiêu chung của tất cả các chủ thể đánh giá doanh nghiệp đều nhằm đánh giá triển vọng và nguy cơ tiềm tàng của doanh nghiệp. Để tiến hành đánh giá doanh nghiệp trước hết ta phải đi xem xét các nội dung cần đánh giá. 4-/ Những nội dung cần xem xét khi đánh giá doanh nghiệp. 4.1. Cơ sở hình thành các nội dung đánh giá doanh nghiệp. Thành tích và triển vọng của doanh nghiệp được hình thành từ rất nhiều yếu tố bao gồm cả những yếu tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Những yếu tố này có những tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đối với doanh nghiệp và tầm mức ảnh hưởng của chúng có thể mang tính quốc tế, ngành hay chỉ trong phạm vi doanh nghiệp. Sự tác động của các nhân tố đối với doanh nghiệp được biểu diễn qua sơ đồ sau: Lao động Công nghệ - Thiết bị Nguyên liệu Tư bản Thông tin dữ liệu - Ban lãnh đạo - Chiến lược kinh doanh - Chiến lược cạnh tranh - Quản trị nguồn nhân lực - Quản trị tài chính - Quản trị chất lượng Hàng hoá dịch vụ Thị phần của đối thủ cạnh tranh Thị phần của doanh ghiệp Doanh nghiệp Các yếu tố đầu vào Từ môi trường vĩ mô đến môi trường vi mô Triển vọng của ngành Đối thủ cạnh tranh Các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng Khách hàng Nhà cung ứng Môi trường kinh tế: - Lạm phát - Tỷ giá hối đoái - Lãi suất - Tỷ lệ tăng GDP - Môi trường văn hoá xã hội - Môi trường chính trị pháp luật - Môi trường công nghệ - Môi trường tự nhiên Sơ đồ trên cho thấy các yếu tố môi trường đều có ảnh hưởng nhất định đối với doanh nghiệp, trong đó mức độ tác động của từng yếu tố đối với doanh nghiệp rất khác nhau và không hoàn toàn phụ thuộc vào tính chất trực tiếp hay gián tiếp của từng yếu tố. Chẳng hạn yếu tố lạm phát thuộc môi trường kinh tế tác động gián tiếp đến doanh nghiệp, nhưng nó có thể làm triệt tiêu hoàn toàn ý nghĩa về tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong khi đó, yếu tố cạnh tranh mặc dù có tác động trực tiếp đối với doanh nghiệp song nó không có ý nghĩa khi doanh nghiệp là một nhà độc quyền trong ngành. Mặt khác, trong thời đại bùn nổ thông tin ngày nay các loại thông tin dữ liệu được coi là nguồn lực của sản xuất. Nếu doanh nghiệp nào tận dụng được các nguồn thông tin dữ liệu, các dịch vụ tư vấn có thể giành được lợi thế trong cạnh tranh. Các yếu tố đầu vào được đưa vào doanh nghiệp và trải qua quá trình chế tạo sản xuất sẽ tạo ra các sản phẩm hay dịch vụ sản phẩm hay dịch vụ được phân phối đến thị trường theo những kênh nhất định và chúng sẽ giúp doanh nghiệp kiểm soát một thị phần nào đó trên thị trường. Tất cả các yếu tố nêu trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và chúng có những tác động nhất định đối với doanh nghiệp. Bởi vậy cần phải xem xét tất cả các yếu tố khi tiến hành đánh giá doanh nghiệp. 4.2. Các nội dung đánh giá. Từ các kết quả phân tích ở trên ta đi liệt kê những nội dung cụ thể cần được xem xét khi đánh giá doanh nghiệp và tầm mức ảnh hưởng của chúng. Nội dung đánh giá doanh nghiệp STT Nội dung đánh giá Tầm mức ảnh hưởng I Nhóm các yếu tố môi trường vĩ mô Quốc tế 1 Môi trường chính trị pháp luật Quốc tế 2 Môi trường công nghệ Quốc tế 3 Môi trường kinh tế Quốc tế 4 Môi trường tự nhiên Quốc tế 5 Môi trường văn hoá xã hội Quốc tế II Nhóm các yếu tố thuộc môi trường ngành 1 Chu kỳ kinh doanh Ngành 2 Triển vọng tăng trưởng của ngành Ngành 3 Các nguồn cung ứng trong ngành Ngành 4 áp lực cạnh tranh trong ngành Quốc tế 5 Các đối thủ tiềm tàng Quốc tế III Nhóm các yếu tố thị trường và sản phẩm của doanh nghiệp 1 Sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp Ngành 2 Thị trường và thị phần của doanh nghiệp Quốc tế 3 Các nguồn cung ứng nguyên liệu Quốc tế 4 Công nghệ và thiết bị của doanh nghiệp Quốc tế IV Nhóm các yếu tố bên trong doanh nghiệp 1 Đánh giá về quản trị DN 2 Địa điểm và địa bàn hoạt động của doanh nghiệp Quốc tế 3 Đánh giá về qui mô của doanh nghiệp DN 4 Cơ cấu tài sản và cân đối nợ DN 5 Chính sách tài chính của doanh nghiệp DN 6 Dòng lưu kim và lợi nhuận DN 6-/ Quy trình đánh giá xếp hạng doanh nghiệp. Khi tiến hành đánh giá doanh nghiệp, người ta phải thực hiện nhiều công việc, theo một trình tự nhất định. Những công việc này có những mối liên hệ và bổ sung cho nhau. Bởi vậy quá trình đánh giá doanh nghiệp cần được sắp xếp theo một quy trình hợp lôgíc và khoa học. Trình tự đánh giá gồm các bước và được tiến hành như sau: + Xác định mục đích đánh giá. + Xác định nhu cầu thông tin. + Thu thập thông tin về đối tượng. + Nghiên cứu sơ bộ. + Bổ xung thông tin cần thiết. + Phân tích thông tin. + Rút ra kết luận nhận định. + Đưa ra những đánh giá chính thức. 6.1. Xác định mục đích đánh giá: Những chủ thể khi tiến hành đánh giá ._.nh giá. - Do thời gian tiến hành đánh giá trong một khoảng thời gian dài nên nhân sự của nhóm chuyên gia có thể biến động. 5.1.3. Phạm vi áp dụng. Phương pháp Delphi thường được áp dụng nhằm thu thập ý kiến dự báo và đánh giá của các chuyên gia trong lĩnh vực như: - Dự báo sự biến động của môi trường kinh doanh quốc tế và môi trường trong nước. - Dự báo và đánh giá về triển vọng và xu hướng phát triển của nền kinh tế, của các ngành như: tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, lạm phát, biến động tỷ giá hối đoái, triển vọng của một ngành kinh tế,... - Dự báo và đánh giá về triển vọng và chu kỳ phát triển công nghệ của ngành. - Đánh giá về địa điểm và địa bàn hoạt động của doanh nghiệp. - Đánh giá và dự báo tiềm năng thị trường sản phẩm của ngành. 5.2. Phương pháp xếp hạng. Phương pháp xếp hạng là phương pháp mà người đánh giá tiến hành cho điểm và trên cơ sở thang điểm đã được ấn định đó xếp hạng doanh nghiệp. 5.2.1. Nội dung của phương pháp. Phương pháp xếp hạng có thể được tiến hành theo các bước sau: * Bước 1: Bước chuẩn bị. Để kết quả đánh giá đạt độ chính xác cao, người đánh giá cần tiến hành một số công việc chuẩn bị như sau: - Xác định những nội dung và tiêu thức cần đánh giá. Người đánh giá tiến hành rà soát và lựa chọn những nội dung và tiêu thức phù hợp với việc đánh giá theo phương pháp xếp hạng trong số các nội dung hoạt động của doanh nghiệp. - Công việc tiếp theo là xác định biểu điểm cho từng tiêu thức. Có thể chọn thang điểm hoặc ... tuỳ theo độ rộng của biên độ đánh giá. - Xác định hệ thống thứ hạng và số điểm tương ứng của mỗi hạng, loại. - Đối với những tiêu thức định tính người đánh giá có thể sử dụng ý kiến của chuyên gia để lượng hoá chúng và sử dụng điểm do các chuyên gia đánh giá để xếp hạng. * Bước 2: Tiến hành đánh giá. - Trên cơ sở biểu điểm và hệ thống thứ hạng đã được hình thành trong bước 1, người đánh giá tiến hành phân tích các dữ liệu, thông tin về doanh nghiệp tuỳ theo kết quả thu được người đánh giá tiến hành phân tích các dữ liệu thông tin về doanh nghiệp. Tuỳ theo kết quả thu được, người đánh giá tiến hành cho điểm phù hợp với biểu điểm đã đề ra. - Tổng hợp số điểm và xếp hạng doanh nghiệp. - Đưa ra những nhận xét về những điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó tìm nguyên nhân của các yếu điểm và đề ra giải pháp khắc phục hoặc đưa ra những kiến nghị, đề xuất phù hợp với mục tiêu đánh giá. 5.2.2. Những ưu điểm và nhược điểm của phương pháp xếp hạng. * Ưu điểm: - Phương pháp xếp hạng có ưu điểm là dễ áp dụng, đơn giản và việc đánh giá hoàn toàn dựa trên cơ sở định lượng. - Phương pháp này có chi phí thấp có thể tiến hành khá nhanh chóng. * Nhược điểm: - Do phương pháp xếp hạn được thực hiện 1 hay vài người nên kết quả đánh giá có thể mang tính chủ quan cao. - Người đánh giá có thể sa vào các bẫy do các con số tạo ra. 5.2.3. Phạm vi áp dụng. Phương pháp xếp hạng thường phát huy tác dụng khi áp dụng để đánh giá các tiêu thức như: - Đánh giá tiềm năng phát triển sản phẩm của doanh nghiệp. - Đánh giá tiềm năng thị trường và chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp. - Đánh giá và xếp hạn doanh nghiệp về tổ chức quản lý và tình hình quản trị nguồn nhân lực. - Đánh giá và xếp hạng doanh nghiệp trên phương diện tài chính. 5.3. Phương pháp so sánh. Phương pháp so sánh này chủ yếu dựa trên sự đối chiếu so sánh các giá trị của doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác hay so với giá trị trung bình hay thị trường. 5.3.1. Nội dung. Phương pháp so sánh được tiến hành theo các bước sau: * Bước 1: Thu thập thông tin. Người đánh giá tiến hành thu thập thông tin về những tiêu thức, chỉ tiêu chủ yếu sẽ sử dụng làm tiêu chuẩn để so sánh. Những thông tin này bao gồm các thông tin về tình hình thị trường, doanh số bán, thị phần của các đối tượng cần so sánh và những thông tin cần thiết về chính doanh nghiệp cần đánh giá. * Bước 2: Tiến hành so sánh. Sau khi thu thập thông tin, người đánh giá tiến hành phân tích, xử lý chúng theo những phương pháp thống nhất. Trên cơ sở đó tạo ra sự tương đồng về đơn vị tính hay lượng hoá các thông tin thành con số để có thể so sánh dễ dàng và chính xác. Từ kết quả thu được, người đánh giá tiến hành đánh giá doanh nghiệp và rút ra những kết luận hữu ích tuỳ theo mục tiêu đánh giá. 5.3.2. Những ưu điểm và nhược điểm của phương pháp so sánh. * Ưu điểm: - Phương pháp so sánh có ưu điểm là người đánh giá có thể tiến hành công việc đánh giá một cách khá đơn giản bởi có thể sử dụng các giá trị, các tiêu thức của một doanh nghiệp khác hay của ngành làm cơ sở để tự đánh giá. - Phương pháp này có chi phí thấp và có thể hoàn thành trong một thời gian ngắn. * Nhược điểm: - Phương pháp đánh giá này có thể cho kết quả có mức độ chính xác thấp bởi không thể loại bỏ yếu tố chủ quan trong quá trình đánh giá. - Trong nhiều trường hợp phương pháp so sánh tỏ ra không hữu hiệu bởi điều kiện và đặc điểm của doanh nghiệp thường rất khác nhau. 5.3.3. Phạm vi áp dụng. Phương pháp so sánh này thường được áp dụng khi đánh giá so sánh trong các lĩnh vực: - Đánh giá so sánh những thuận lợi và bất lợi của môi trường kinh doanh. - Đánh giá so sánh về những ưu nhược điểm của sản phẩm của công nghệ đó vận dụng trong cạnh tranh hay lựa chọn công nghệ sản phẩm. - So sánh để lựa chọn địa điểm loại hình sở hữu cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp. - Đánh giá và lựa chọn ngành cung ứng các loại nguyên vật liệu cho doanh nghiệp. - Đánh giá và so sánh về tài chính giữa các doanh nghiệp. 5.4. Phương pháp kết hợp. Các phương pháp trên cho thấy mỗi phương pháp đều có những ưu và nhược điểm, có phạm vi áp dụng hữu hiệu nhất định do đó để tận dụng những ưu điểm và tránh những nhược điểm của mỗi phương pháp người đánh giá có thể áp dụng phương pháp kết hợp. 5.4.1. Nội dung phương pháp. Đánh giá doanh nghiệp theo phương pháp kết hợp là việc áp dụng nhiều phương pháp trong quá trình đánh giá và đối với mỗi nội dung cần đánh giá chỉ áp dụng những phương pháp đánh giá phù hợp với tiêu thức đó. 5.4.2. Những ưu nhược điểm của phương pháp kết hợp. * Ưu điểm: Ưu điểm nổi bật của phương pháp kết hợp là người đánh giá có thể tận dụng được điểm mạnh của từng phương pháp trong những phạm vi phù hợp. Đồng thời có thể hạn chế được những điểm yếu của mỗi phương pháp. Qua phân tích về những phương pháp đánh giá doanh nghiệp cho thấy không có phương pháp nào tỏ ra hoàn toàn chính xác mà chỉ có phương pháp thích hợp nhất có thể áp dụng cho mỗi nội dung đánh giá nhất định. Bởi vậy, để nâng cao tính chính xác của kết quả đánh giá, người đánh giá có thể áp dụng nhiều phương pháp đánh giá và so sánh kết quả của chúng để kiểm tra kết quả chính thức. Chương III Xác định giá trị doanh nghiệp của công ty Công trình Giao thông 208 I-/ Giới thiệu chung về công ty. Công ty Công trình Giao thông 208 là doanh nghiệp Nhà nước hạng I, hạch toán độc lập trực thuộc Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 4 - Bộ Giao thông vận tảy đã trải qua 38 năm thành lập và phát triển. Công ty thành lập năm 1965, có tên là Đoạn quản lý quốc lộ Hà Nội - nhiệm vụ chính là đảm bảo thông suốt tất cả các cửa ngõ và thủ đô, đó chính là các bến phà cầu phao. Năm 1971 trực thuộc Cục quản lý đường bộ Việt Nam và có tên là xí nghiệp sữa chữa giao thông Trung ương 208. Nhiệm vụ đảm bảo giao thông thông suốt khu vực Hà Nội và ứng cứu đảm bảo giao thông trên phạm vi toàn quốc khi có lệnh điều động. Bên cạnh đó công ty còn có nhiệm vụ duy trì bảo dưỡng 125 km quốc lộ I từ Hà Nội đến Dốc Xây (Thanh Hoá). Năm 1992 đổi tên thành Phân khu quản lý đường bộ 208 thuộc khu quản lý đường bộ II. Với lĩnh vực hoạt động kinh doanh chính của công ty là: bảo dưỡng thiết bị phao phá, ứng cứu đảm bảo giao thông toàn quốc khi có lệnh, xây dựng cơ bản nhỏ, đại tu sửa chữa các cầu đường bộ, rải thảm bê tông asphal, sửa chữa và làm mới các đường ở các tỉnh phía Bắc. Tháng 7-1992 phân khu quản lý đường bộ 208 tách làm đôi, một nửa thành lập phân khu quản lý đường bộ 234 trực thuộc khu quản lý đường bộ II, còn lại là công ty sửa chữa công trình 208 trực thuộc Cục đường bộ Việt Nam với nhiệm vụ trên. Công ty có đăng ký kinh doanh số 108842, ngày 19.8.1993 của trọng tài kinh tế Hà Nội và giấy phép kinh doanh số 2233 CGD do Bộ giao thông vận tải cấp ngày 19.8.1994. Năm 1995, đổi tên thành công ty Giao thông 208 trực thuộc Tổng công ty giao thông IV là doanh nghiệp Nhà nước được thành lập theo Nghị định 388 và hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà nước, có tư cách pháp nhân đầy đủ, trụ sở tại 26B - Vân Hồ II - Hai Bà Trưng - Hà Nội. Lĩnh vực hoạt động kinh doanh: đại tu nâng cấp và mở rộng đường bộ. Xây dựng cầu bê tông cốt thép, dàn trụ trung và nhỏ. Sản xuất và rải thảm bê tông asphal, lắp ráp cầu phao khi có bão lụt. Phạm vi hoạt động của công ty trên phạm vi cả nước và nước ngoài thông qua hình thức đấu thầu dự án trong và ngoài nước. II-/ Đánh giá thực trạng và triển vọng của công ty. 1-/ Thực trạng về công nghệ và khả năng cạnh tranh. Công nghệ chế tạo ra sản phẩm giao thông là một trong những yếu tố nói lên năng lực sản xuất của công ty. Để tăng cường sức mạnh cạnh tranh khi tham gia đấu thầu công ty đã tiến hành đầu tư thêm một số máy móc thiết bị hiện đại như: trạm trộn bê tông asphal 100T/h của Nam Triều Tiên và điều khiển tự động, máy rải Nigita của Nhật,... Chính sách đầu tư thiết bị của công ty là đầu tư trọng điểm, máy móc nào thật cần thiết cho thi công mới mua vì vốn để đầu tư chủ yếu là vốn vay. Máy móc của công ty chủ yếu được đầu tư bằng vốn vay ngắn hạn và máy móc chuyên dụng nên chi phí đầu tư cho máy móc rất cao. Nếu công ty có một hệ thống máy móc thiết bị đồng bộ và hiện đại thì nó sẽ giúp cho công ty đáp ứng được yêu cầu về máy móc thiết bị, tạo ra sự cạnh tranh về giá cả, chất lượng và tiến độ thi công. Đối với dàn máy của công ty hiện tại có khả năng thi công tất cả các tiêu chuẩn đòi hỏi. Ngoài máy móc thiết bị ra, công ty còn có năng lực thí nghiệm để tiến hành khảo sát, kiểm tra chất lượng công trình. Dụng cụ đo đạc kiểm tra của công ty gồm: máy thuỷ bình Nhật, Nga, Trung 3 cái, máy kinh vĩ Đức 2 cái, phễu rót đo độ chặt cát 3 cái,... Đây cũng là một yếu tố tạo sự tin tưởng của chủ đầu tư đối với công ty và tạo sự chủ động cho chính công ty. 2-/ Thực trạng về lao động của công ty. Với lực lượng lao động trực tiếp 221 người và 41 cán bộ quản lý có trình độ và kinh nghiệm thi công gắn liền với sự phát triển lâu dài của công ty đủ để khẳng định ưu thế của công ty. Hơn nữa, trình độ chuyên môn hoá và hợp tác hóa trong sản xuất tạo cho công ty một khả năng cạnh tranh lớn như công ty bố trí các đội theo giai đoạn thi công, các xí nghiệp có chuyên môn quản lý về máy móc thiết bị thi công, cán bộ quản lý và nhân công trực tiếp ở tất cả các ngành nghề để phục vụ cho các công việc chuyên môn. 3-/ Thực trạng về đối thủ cạnh tranh của công ty. Đối thủ cạnh tranh trực tiếp của công ty là các nhà thầu thuộc lĩnh vực xây dựng công trình giao thông vì họ đều có tư cách pháp nhân đi tham gia đấu thầu. Ngoài sự cạnh tranh của các công ty trực thuộc Tổng 4 trong sự phân chia công việc về đấu thầu quốc tế, còn có các công ty gần nơi có công trình bởi vì họ có quan hệ tốt với ban quản lý địa phương ở nơi đó. Bên cạnh đó còn có các đối thủ cạnh tranh tiền tàng họ có khả năng chuyển sang xây dựng các công trình giao thông như các công ty xây dựng thuỷ lợi,... và đặc biệt là các hãng thầu nước ngoài với kinh nghiệm thi công và năng lực tài chính, công nghệ hơn hẳn các nhà thầu trong nước như các hãng thầu Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc,... và họ đã lần lượt vào Việt Nam, giai đoạn đầu của đấu thầu cạnh tranh quốc tế họ đã thắng rất nhiều công trình và các nhà thầu Việt Nam trở thành thầu phụ cho họ. Các nhà thầu Châu á là đối thủ cạnh tranh trực tiếp của ta vì họ có giá bỏ thầu thấp vì họ tận dụng lao động nhàn rỗi của ta về những hạng mục không cần sử dụng máy móc nhiều và đối tác của họ là các Tổng công ty lớn của Việt Nam để họ tận dụng lợi thế ưu tiên,... Cũng một vấn đề nữa đối với nhà thầu trong nước là chưa nắm bắt được công nghệ đấu thầu quốc tế, nhưng hiện nay các nhà thầu trong nước đã nắm bắt được và đang liên tục thắng thầu bằng sự liên kết ngang giữa các Tổng công ty trong nước để có lợi thế cạnh tranh như Quốc lộ 1 đoạn Hà Nội - Cầu Giẻ và Vinh - Đông Hà,... 4-/ Thực trạng về nguyên vật liệu phục vụ sản xuất của công ty. Nguyên vật liệu trong xây dựng cơ bản là một trong những yếu tố đặc biệt quan trọng trong quá trình thi công. Nguyên vật liệu là một bộ phận của thực thể công trình nó chiếm từ 50-60% giá trị công trình. Trong cơ cấu giá thành với chức năng là tài sản lưu động nguyên vật liệu cũng chiếm khoảng 50%. Trong thi công xây dựng công ty sử dụng nhiều loại vật liệu cần thiết như nhựa đường, cát, đá,... Các loại vật liệu này được khai thác trên thị trường bằng mối quan hệ với các bạn hàng Shell, Pertrol và các vùng nguyên liệu đá cát của địa phương nào đó. Nhờ các mối quan hệ này mà sản phẩm của công ty l uôn đảm bảo đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng và được bạn hàng tín nhiệm. 5-/ Thực trạng về tình hình tài chính của công ty. Tình hình tài chính của công ty là bức tranh tổng hợp nhất về khả năng và tiềm lực của công ty. Để đánh giá tình hình tài chính của công ty trước hết ta đi đánh giá cơ cấu tài sản và vốn thông qua các chỉ tiêu sau: a. Tỷ trọng nợ phải thu = Năm 1997 1998 1999 Nợ phải thu 15.164.056.100 13.673.451.518 18.949.481.856 Tổng tài sản 23.452.694.214 24.395.655.082 33.842.092.011 Tỷ trọng nợ phải thu 0,646 0,557 0,56 Qua số liệu trên ta thấy tỷ trọng nợ phải thu qua các năm đã có sự chuyển biến rõ rệt điều này chứng tỏ công ty đã tích cực hơn trong việc đòi nợ. b. Tỷ trọng nợ phải trả = Năm 1997 1998 1999 Nợ phải trả 18.473.694.214 18.010.131.859 27.537.037.286 Tổng tài sản 23.452.694.214 24.395.655.082 33.842.092.011 Tỷ trọng nợ phải trả 0,787 0,74 0,81 Các tỷ số nợ phải trả của các năm 1997,1998,1999 cao hơn so với mức cho phép. Tỷ số này chứng tỏ mức độ rủi ro phá sản của doanh nghiệp rất cao. c. Tỷ suất tài trợ = Chỉ tiêu này càng chứng tỏ mức độ độc lập về tài chính của doanh nghiệp. Năm 1997 1998 1999 Nguồn vốn chủ sở hữu 4.979.195.319 6.085.523.223 6.305.034.725 Tổng tài sản 23.452.694.214 24.395.655.082 33.842.092.011 Tỷ suất tự tài trợ: Năm 1997 = 0,212 Năm 1998 = 0,26 Năm 1999 = 0,186 Qua số liệu trên ta thấy khả năng tự tài trợ của doanh nghiệp là rất thấp. Tình trạng của các doanh nghiệp nói chung và công ty 208 nói riêng luôn hoạt động trong điều kiện thiếu vốn. Quy trình hoạt động là khi có công trình công ty vay ngân hàng làm vốn sản xuất, khi được thanh toán công trình thì trả cho ngân hàng rồi lại vay khi có công trình khác. - Phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu: a. = x 100 Đơn vị: đồng Năm 1997 1998 1999 Lợi nhuận thực hiện 413.152.533 527.692.429 643.127.842 Tổng vốn 23.452.889.533 24.395.655.082 33.842.092.011 Tỷ số lợi nhuận thực hiện trên tổng vốn 1,76% 2,16% 1,9% Qua chỉ tiêu đạt được ta thấy cứ 1 đồng vốn thì làm ra 0,0225 đồng lợi nhuận năm 1997, 0,0286 đồng lợi nhuận năm 1998 và 0,0247 đồng năm 1999. Tỷ suất lợi nhuận của công ty năm 1998 cao hơn năm 1997 nhưng năm 1999 lại thấp hơn năm 1998. b. = x 100 Tỷ số này rất có ý nghĩa đối với các chủ sở hữu hiện tại và tiềm tàng của doanh nghiệp bởi vì nó cho biết khả năng thu nhập có thể nhận được nếu họ quyết định đầu tư vào công ty. Năm 1997 1998 1999 Lợi nhuận 413.152.533 527.692.429 643.127.842 Vốn chủ sở hữu 4.979.195.319 6.385.523.223 6.305.054.725 Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu 8,29% 8,26% 10,2% Như vậy tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu có xu hướng tăng kết quả đạt được nói chung là tốt. - Tình hình thanh toán của doanh nghiệp. Tình hình thanh toán của doanh nghiệp được thể hiện qua hệ số thanh toán tức là bằng tỷ số giữa số tiền có thể dùng để thanh toán với số tiền phải thanh toán. k = Để thanh toán doanh nghiệp dùng toàn bộ số tiền và những tài sản có thể chuyển thành tiền được như các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn và đầu tư ngắn hạn khác và các khoản phải thu. Thông qua bảng ta có: Các chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 I. Tiền 196.841.603 507.933.402 1. Tiền mặt 183.912.914 91.244.540 2. Tiền gửi ngân hàng 12.928.689 416.688.862 II. Các khoản phải thu 13.673.451.518 18.949.401.856 1. Phải thu của khách hàng 12.029.698.887 14.988.020.920 2. Trả trước cho người bán 1.498.095.765 1.588.150.954 3. Phải thu nội bộ 2.227.573.116 4. Các khoản phải thu khác 145.656.866 145.656.866 III. Các khoản phải trả 18.010.131.859 27.537.037.286 1. Nợ ngắn hạn 16.264.795.815 25.327.429.224 - Vay ngắn hạn ngân hàng 11.068.615.138 16.169.941.840 - Phải trả cho người bán 3.353.936.827 4.653.527.340 - Người mua trả tiền trước 250.274.899 1.360.200.899 - Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước 800.899.337 978.404.685 - Phải trả công nhân viên 21.029.275 36.255.086 - Phải trả cho các đơn vị nội bộ 290.666.000 - Các khoản phải trả khác 1.064.040.339 1.811.433.374 2. Nợ dài hạn 1.731.915.730 2.115.113.250 - Vay dài hạn 999.524.000 - Nợ dài hạn 1.731.915.730 1.115.589.250 a. = Các chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 I. Tiền 196.841.603 507.933.402 1. Tiền mặt 183.912.914 91.244.540 2. Tiền gửi ngân hàng 12.928.689 416.644.862 II. Các khoản đầu tư ngắn hạn III. Nợ ngắn hạn 16.264.795.815 25.327.429.224 1. Vay ngắn hạn 11.068.615.138 16.169.941.840 2. Phải trả cho người bán 3.353.936.827 4.653.527.340 3. Người mua trả tiền trước 250.274.899 1.360.200.899 4. Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước 800.899.337 978.404.685 5. Phải trả công nhân viên 21.029.275 36.255.086 6. Phải trả cho các đơn vị nội bộ 290.666.000 7. Các khoản phải trả khác 1.064.040.339 1.811.433.374 k97 = = 0,0276 k98 = = 0,012 k99 = = 0,02 Nhìn vào hệ số k ta thấy khả năng thanh toán ngay của doanh nghiệp rất thấp. Vì vậy doanh nghiệp rất gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ. b. = k97 = ...... = ...... k98 = = 1,095 k99 = = 1,052 Qua phân tích ta thấy các chỉ tiêu này của doanh nghiệp đều lớn hơn 1. Chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn trong vòng 1 năm hay 1 chu kỳ kinh doanh. Tuy nhiên hệ số này năm 1999 có giảm hơn so với năm 1998 là do tốc độ tăng của nợ ngắn hạn lớn hơn tốc độ tăng của tài sản lưu động. - Thực trạng lỗ lãi của công ty: Chỉ tiêu 1997 1998 1999 Vốn kinh doanh 4.565.098.057 4.843.068.057 5.343.068.057 Doanh thu 26.288.000.000 29.249.000.000 30.295.000.000 Lợi nhuận ròng (P) 413.052.553 527.692.429 643.127.842 Tỷ suất P/vốn kinh doanh 9% 10,8% 12% Như vậy cùng với sự tăng lên của vốn kinh doanh doanh thu và lợi nhuận cũng tăng theo. Từ tỷ suất lợi nhuận ròng trên vốn kinh doanh ta thấy tốc độ tăng của lợi nhuận ròng lớn hơn vốn kinh doanh. Chứng tỏ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty ngày càng có hiệu quả. Tổng kết lại ta có bảng đánh giá các chỉ tiêu tài chính như sau: Chỉ tiêu 1997 1998 1999 1. Cơ cấu tài sản và vốn a. Tỷ trọng nợ phải thu 0,646 0,557 0,56 b. Tỷ trọng nợ phải trả 0,787 0,74 0,81 c. Tỷ suất tự tài trợ 0,212 0,26 0,186 2. Hiệu quả sản xuất kinh doanh a. Tỷ suất lợi nhuận trên tổng vốn 2,25% 2,86% 2,41% b. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu 8,29% 8,26% 10,2% 3. Tình hình thanh toán a. Hệ số thanh toán nhanh 0,0276 0,012 0,02 b. Hệ số thanh toán hiện hành 1,095 1,052 Tóm lại, từ thực trạng tài chính của công ty ta thấy tình hình hoạt động sản xuất của công ty có thể có hiệu quả hơn nếu công ty có một lượng vốn đầy đủ, thông qua đó có thể mua sắm đầu tư thêm máy móc thiết bị hiện đại, đào tạo và thu nhận nhân lực có tay nghề, trình độ hơn. Vì vậy chuyển đổi hình thức sở hữu của công ty từ doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần sẽ đáp ứng dược nhu cầu đó. IV-/ Đánh giá về điều kiện và khả năng tiến hành cổ phần hoá của công ty xây dựng công trình giao thông 208. 1-/ Điều kiện để tiến hành cổ phần hoá. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là tiến hành chuyển đổi hình thức sở hữu, từ một chủ sở hữu là Nhà nước sang nhiều chủ sở hữu. Đây là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Việc cổ phần hoá sẽ đem lại co Nhà nước và các chủ sở hữu khác cùng có lợi khi doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, càng chịu rủi ro nếu doanh nghiệp hoạt động thua lỗ. Như vậy cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là việc phân tán rủi ro cho nhiều đối tượng cùng làm chủ doanh nghiệp giúp cho Nhà nước giảm chi ngân sách hàng năm. ở nước ta doanh nghiệp Nhà nước chiếm tỷ trọng lớn nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng đủ điều kiện để cổ phần hoá. Theo quy định tại Điều 1 Nghị định 44CP ngày 29-6-1998 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần thì công ty công trình giao thông 208 đã đủ điều kiện để cổ phần hoá. 1.1. Về loại hình doanh nghiệp. Công ty công trình giao thông 208 là một doanh nghiệp Nhà nước với hoạt động chính là xây dựng, sữa chữa các công trình giao thông, công ty thuộc loại doanh nghiệp Nhà nước có thể thực hiện cổ phần hoá và áp dụng hình thức chuyển đổi sở hữu khác nhau trong đó Nhà nước không cần giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt. 1.2. Về quy mô doanh nghiệp. Công ty Công trình Giao thông 208 có vốn chủ sở hữu 6,3 tỷ đồng với 416 lao động là doanh nghiệp có quy mô vừa. Đây là một trong những loại doanh nghiệp được Nhà nước quan tâm trong thời gian qua vì doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa góp phần lấp chỗ khuyết cho các doanh nghiệp có qui mô lớn. 1.3. Phương án kinh doanh. Phương án kinh doanh có hiệu quả là một trong những điều kiện cần và đủ, là nhân tố góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hoá thành công giúp cho người lựa chọn tin tưởng hơn khi ra quyết định. Nếu tiến hành cổ phần hoá một doanh nghiệp thua lỗ đối với nước ta sẽ không ai dám đầu tư nhất là trong điều kiện tư nhân nước ta không có tài chính đủ mạnh để biến một xí nghiệp có công nghệ lạc hậu, kinh doanh thua lỗ trở thành một doanh nghiệp có kỹ thuật tiên tiến kinh doanh có lãi. Một doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh có hiệu quả, đem lại thu nhập cho ngân sách Nhà nước nếu cổ phần hoá thì Nhà nước sẽ mất phần thu nhập này nhưng lại có được số tiền vốn đã bỏ ra trước đây và các khoản thuế phải nộp. Số tiền cho bán cổ phiếu thu về sẽ được đầu tư vào các doanh nghiệp khác, giúp cho các doanh nghiệp có khả năng thay đổi tình thế tạo ra sự hấp dẫn sau này. Từ thực trạng của công ty cho thấy công ty đang trên đà phát triển. Phương thức hoạt động tương đối ổn định nhưng hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao so với tiềm năng của công ty hứa hẹn một tương lai phát triển đúng với khả năng của công ty. Chính thực lực của công ty đã giúp cho công ty có lợi thế hơn so với các công ty khác, có tính thuyết phục hơn nếu quyết định cổ phần hoá. 2-/ Cổ phần hoá là một cơ hội tốt của công ty Công trình Giao thông 208. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nó có ảnh hưởng đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội. Đối với Nhà nước nó là một chiến lược lâu dài, còn đối với doanh nghiệp nó là một cơ hội tốt. Nhìn nhận và nắm bắt cơ hội kịp thời sẽ làm nên thành công trong bất cứ công việc nào cho dù là nhỏ hay cổ phần hoá thể hiện sự năng động. Xét về quản lý thì tính năng động là việc sắp xếp bộ máy sản xuất kinh doanh được hợp lý, không chịu sức ép của bất kỳ cấp nào. Bộ máy quản lý làm việc có hiệu quả sẽ giảm được chi phí quản lý, giảm tiêu cực trong cách nghĩ và làm việc. Xét về hoạt động sản xuất kinh doanh thì tính năng động thể hiện trong việc nghiên cứu tìm tòi phương hướng chiến lược và kế hoạch phát triển công ty riêng phù hợp với công ty và phù hợp với nhu cầu thị trường. Sản xuất linh hoạt, tư duy sáng tạo, thể hiện hết mình của các thành viên trong công ty. Nhận biết cơ hội này, ban lãnh đạo công ty 208 đã và đang chuẩn bị mọi yêu cầu thủ tục để tiến hành cổ phần hoá công ty. Trong năm 1999, ban lãnh đạo của công ty đã được tập huấn và bổ xung các bước trong quá trình cổ phần hoá. Đây là việc chuẩn bị bước đầu cho kế hoạch cổ phần hoá đặt ra cho năm 2000. 3-/ Mục tiêu cổ phần hoá của công ty. * Huy động vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh Vì trong các doanh nghiệp hiện nay nhu cầu vốn rất lớn đặc biệt là các doanh nghiệp trong ngành giao thông. Bởi vì nếu có vốn các doanh nghiệp mới có thể đầu tư đổi mới trang thiết bị, mua sắm các máy móc hiện đại tạo vị thế cạnh tranh trong đấu thầu các dự án. * Tạo điều kiện cho người lao động làm chủ thực sự doanh nghiệp. Gắn quyền lợi với trách nhiệm để họ hăng say sản xuất phát huy sức sáng tạo. Đây là một nhân tố góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. * Sắp xếp lại bộ máy quản lý năng động phù hợp với cơ chế thị trường. Bộ máy quản lý của công ty là do cổ đông bầu nên vì vậy họ sẽ chọn những người có đủ năng lực, trình độ, hết mình vì công việc. Mặt khác lợi ích của họ cũng nằm trong lợi ích của công ty cho nên họ sẽ phát huy hết khả năng của mình để đưa công ty ngày một phát triển. V-/ Căn cứ và quá trình xác định giá trị doanh nghiệp của công ty xây dựng công trình giao thông 208. 1-/ Căn cứ của việc xác định giá trị. a. Trên sổ sách. - Số liệu giao vốn gần nhất. - Biên bản xét duyệt quyết toán ba năm trước khi cổ phần hoá. - Toàn bộ chứng từ sổ sách có liên quan. b. Số liệu kiểm kê thực tế. - Tài liệu kiểm kê về tài sản, vốn, vật tư, hàng hoá. - Biên bản đối chiếu công nợ các bên đã xác nhận. - Hợp đồng giấy phép liên doanh liên kết. - Các tài liệu khác về đầu tư tài chính. c. Hiện trạng về giá hiện hành của từng loại vật tư hàng hoá được quy định như sau: - Đối với tài sản mà trên thị trường có lưu thông thì giá thị trường là giá đáng mua hoặc đáng bán tài sản đó. - Đối với tài sản là sản phẩm đầu tư xây dựng thì căn cứ vào giá đầu tư ở thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp do cấp có thẩm quyền quy định. - Nếu tài sản là đặc thù không lưu thông trên thị trường thì tính theo giá tài sản cùng loại có cùng công suất, tính năng kỹ thuật tương đương, nếu không có tài sản tương đương thì tính theo giá của tài sản ghi trên sổ sách kế toán. 2-/ Trình tự và phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp. Để tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp công ty thành lập một hội đồng kiểm kê tài sản, thành viên của hội đồng gồm: - Đồng chí: Phạm Huy Chất - Giám đốc công ty làm chủ tịch hội đồng. - Đồng chí: Đinh Viết Cường - Kế toán trưởng là nhân viên. - Đồng chí: Phạm Thanh Sơn - Trưởng phòng kỹ thuật là thành viên. - Đồng chí: Nguyễn Trọng Đạt - Trưởng phòng kinh doanh là thành viên. Công ty tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp theo hướng dẫn của Thông tư 104/1998/TT-BTC ngày 18/7/1998 của Bộ Tài chính. Các bước tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp. 2.1. Kiểm kê tài sản thuộc sở hữu của công ty. Tài sản thuộc sở hữu của công ty phải kiểm kê bao gồm: tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn, tài sản cố định và đầu tư dài hạn được phản ánh trong bảng cân đối kế toán theo chế độ hiện hành. Tài sản thuê ngoài, vật tư hàng hoá nhận giữ hộ, nhận gia công hộ. Trên cơ sở đó biết được chi tiết tình hình tài sản đang được sử dụng, tài sản không được sử dụng và tài sản không có nhu cầu sử dụng,... Tài sản cố định và đầu tư dài hạn Tài sản cố định và đầu tư dài hạn 7.190.700.945 I. Tài sản cố định 6.784.117.518 1. Tài sản cố định hữu hình 6.784.117.518 - Nguyên giá 13.605.935.176 - Giá trị hao mòn luỹ kế -6.824.817.658 2. Tài sản cố định thuê tài chính - Nguyên giá - Giá trị hao mòn luỹ kế 3. Tài sản cố định vô hình - Nguyên giá - Giá trị hao mòn luỹ kế II. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn 1. Đầu tư chứng khoán dài hạn 2. Góp vốn liên doanh 3. Đầu tư dài hạn khác 4. Dự phòng giảm giá đầu tư TC dài hạn III. Chi phí xây dựng cơ bản dở dang 406.583.427 Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn Đơn vị tính: đồng. Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn Thành tiền A. Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn 26.651.391.066 I. Tiền 507.933.402 1. Tiền mặt tồn quỹ 91.244.540 2. Tiền gửi ngân hàng 416.688.862 3. Tiền đang chuyển II. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn 1. Đầu tư chứng khoán ngắn hạn 2. Đầu tư ngắn hạn khác 3. Dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn III. Các khoản phải thu 18.949.401.856 1. Phải thu của khách hàng 14.988.020.920 2. Trả trước cho người bán 1.588.150.954 3. Phải thu nội bộ 2.227.573.116 4. Các khoản phải thu khác 145.656.866 5. Dự phòng khoản thu khó đòi IV. Hàng tồn kho 3.524.943.522 1. Hàng mua đang đi trên đường 2. Nguyên vật liệu tồn kho 217.382.550 3. Công cụ dụng cụ trong kho 17.758.619 4. Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang 3.289.802.353 5. Thành phẩm tồn kho 6. Hàng tồn kho 7. Hàng gửi đi bán 8. Dự phòng giảm giá hàng tồn kho V. Tài sản lưu động khác 3.669.112.286 1. Tạm ứng 145.208.835 2. Chi phí trả trước 40.936.732 3. Chi phí chờ kết chuyển 3.663.384.389 4. Tài sản thiếu chờ xử lý 5. Các khoản thế chấp, ký quỹ ngắn hạn 110.000.000 VI. Chi phí sự nghiệp 1. Chi phí sự nghiệp năm trước 2. Chi phí sự nghiệp năm nay các khoản phải trả của công ty I. Nợ ngắn hạn 507.933.402 1. Vay ngắn hạn 91.244.540 2. Nợ dài hạn đến hạn trả 416.688.862 3. Phải trả cho người bán 4. Người mua trả tiền trước 5. Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước 6. Phải trả công nhân viên 7. Phải trả cho các đơn vị nội bộ 14.988.020.920 8. Các khoản phải trả và phải nộp khác 1.588.150.954 9. Phải thu nội bộ 2.227.573.116 4. Các khoản phải thu khác 145.656.866 5. Dự phòng khoản thu khó đòi IV. Hàng tồn kho 3.524.943.522 1. Hàng mua đang đi trên đường 2. Nguyên vật liệu tồn kho 217.382.550 3. Công cụ dụng cụ trong kho 17.758.619 4. Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang 3.289.802.353 5. Thành phẩm tồn kho 6. Hàng tồn kho 7. Hàng gửi đi bán 8. Dự phòng giảm giá hàng tồn kho V. Tài sản lưu động khác 3.669.112.286 1. Tạm ứng 145.208.835 2. Chi phí trả trước 40.936.732 3. Chi phí chờ kết chuyển 3.663.384.389 4. Tài sản thiếu chờ xử lý 5. Các khoản thế chấp, ký quỹ ngắn hạn 110.000.000 VI. Chi phí sự nghiệp 1. Chi phí sự nghiệp năm trước 2. Chi phí sự nghiệp năm nay ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0070.doc
Tài liệu liên quan