Xác lập cán cân thanh toán quốc tế ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải pháp

Lời Mở đầu Cán cân thanh toán quốc tế, một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô hiệu quả nhất, đóng vai trò quyết định trong việc hoạch định các chính sách kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia, là công cụ quan trọng để các nhà kinh tế và các doanh nhân phân tích và xác định cho mình chính sách thích hợp trong quan hệ kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, trong nền kinh tế nước ta hiện nay, công cụ cán cân thanh toán chưa được xem như là một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng - như vai trò đã đư

doc64 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1531 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Xác lập cán cân thanh toán quốc tế ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợc khẳng định của nó. Những hiểu biết, cả về thực tiễn và lý luận, đều còn rất sơ sài và hạn chế. Ngay cả đối với những sinh viên khối kinh tế, việc hiểu biết rộng về cán cân thanh toán quốc tế vẫn chỉ dừng lại ở một khái niệm dường như rất trừu tượng. Là một sinh viên chuyên ngành Tài chính Quốc tế, em nhận thấy rằng, cán cân thanh toán là một vấn đề còn rất mới mẻ đối với nền kinh tế Việt Nam. Chính vì điều đó đã cho em ý tưởng thực hiện luận văn tốt nghiệp của mình về đề tài này. Điều này không những đem lại cho em những hiểu biết đầy đủ hơn về cán cân thanh toán mà còn đem đến cho em những khám phá mới về một công cụ thực sự hiệu quả trong quản lý kinh tế vĩ mô. Trong luận văn này, em đi sâu vào phân tích tình hình xác lập cán cân thanh toán ở Việt Nam trong giai đoạn trước đây và hiện nay, với đề tài “ Xác lập cán cân thanh toán quốc tế ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải pháp” . Nội dung luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1: Khái niệm và phương pháp xác lập cán cân thanh toán quốc tế. Chương 2: Thực trạng xác lập cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam hiện nay. Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện công tác xác lập cán cân thanh toán quốc tế ở Việt Nam. Trong quá trình hoàn thành bài luận văn của mình, em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của PGS.,TS. Phan Duy Minh và chú Hoàng Anh – Vụ Tài chính- Tiền tệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư . Tuy nhiên, do kiến thức về lĩnh vực này chưa thực sự sâu, rộng cũng như tài liệu trong lĩnh vực này tương đối ít và trình độ ngoại ngữ chưa tốt nên em có thể không truyền tải hết được những ý trong các tài liệu tiếng Anh mà em có tham khảo. Một lần nữa em xin được chân thành cảm ơn những người đã giúp đỡ em hoàn thành bài luận văn này. Em rất mong nhận được những nhận xét chân thành để có thể hoàn thiện kiến thức của mình hơn. Hà nội, ngày 19 tháng 4 năm 2003. Sinh viên thực hiện: Trần Thanh Phương Lớp K37- 0802. Chương 1 Khái niệm và phương pháp xác lập cán cân thanh toán quốc tế 1.1. Khái niệm, nội dung và ý nghĩa của cán cân thanh toán quốc tế: 1.1.1. Khái niệm: Cán cân thanh toán quốc tế là một bản báo cáo thống kê tổng hợp có hệ thống, ghi chép lại tất cả các giao dịch tiền tệ giữa người cư trú và người không cư trú trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Tuy nhiên, tùy theo yêu cầu mà cán cân thanh toán quốc tế có thể được lập và báo cáo thường xuyên hơn, ví dụ: hàng quý, hoặc nửa năm. Cán cân thanh toán quốc tế là một trong những báo cáo thống kê tổng hợp quan trọng đối với mỗi quốc gia. Các chỉ tiêu của cán cân thanh toán quốc tế cho biết có bao nhiêu hàng hóa và dịch vụ mà một quốc gia đã xuất khẩu và nhập khẩu và quốc gia này hiện đang là con nợ hay là chủ nợ đối với phần còn lại của thế giới. Ngoài ra, cán cân thanh toán quốc tế còn cho biết dự trữ ngoại hối của Ngân hàng Trung ương tăng lên hay giảm xuống trong kỳ báo cáo là ở mức nào. Như vậy, để hiểu được phạm vi của cán cân thanh toán quốc tế thì điều cần thiết là phải giải thích các thuật ngữ “ người cư trú “ và “ người không cư trú”. Nếu từ góc độ báo cáo thống kê cán cân thanh toán quốc tế thì “ quyền công dân” và “ nơi cư trú” không nhất thiết phải trùng nhau, ví dụ: có thể là công dân của nước này nhưng lại cư trú ở nước khác; khi lập cán cân thanh toán quốc tế ta chỉ quan tâm đến nơi cư trú mà không cần để ý đến quyền công dân là thuộc nước nào. Khái niệm “ người cư trú và người không cư trú” bao gồm: các cá nhân, các hộ gia đình, các công ty, các nhà chức trách và các tổ chức quốc tế. Khái niệm này làm phát sinh một số vấn đề cần giải thích như sau; - Đối với các công ty đa quốc gia sẽ là người cư trú đồng thời tại nhiều quốc gia. Do đó, để tránh trùng lắp thì chỉ các chi nhánh của công ty đặt tại nước sở tại mới được coi là người cư trú. - Đối với các tổ chức quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Thế giới, Liên hợp quốc … được xem như là người không cư trú đôí với mọi quốc gia, tức ngay cả với quốc gia mà tổ chức đóng trụ sở. - Đối với khách du lịch nước ngoài và những người nước ngoài khác được xem là người không cư trú nếu thời gian lưu trú tại nước sở tại là dưới một năm. Nhìn chung, khái niệm “ người cư trú” và “ người không cư trú” đối với mỗi quốc gia đều được hiểu theo luật định và tương đối thống nhất giữa các quốc gia. Đối với Việt Nam, khái niệm người cư trú và người không cư trú được quy định tại Khoản 2 thuộc Điều 3 trong Nghị định 164/1999/NĐ- CP, ngày 16 tháng 11 năm 1999 của Chính phủ về Quản lý cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam. Như vậy, tiêu chí để một giao dịch có thể được phản ánh trong cán cân thanh toán quốc tế là : giao dịch đó phải được tiến hành giữa người cư trú và người không cư trú. Mọi giao dịch được tiến hành trong nội bộ phạm vi của một quốc gia không được phản ánh vào cán cân thanh toán quốc tế. 1.1.2. Các quan điểm về cán cân thanh toán quốc tế. 1.1.2.1. Quan điểm của trường phái kinh tế trọng tiền. Đối với trường phái kinh tế trọng tiền thì cán cân thanh toán quốc tế tức là cán cân thanh toán vãng lai. Sự nhìn nhận của họ về cán cân thanh toán quốc tế cũng rất đơn giản. Họ cho rằng thực trạng của cán cân thanh toán quốc tế chỉ là một biểu hiện của thực trạng lưu thông tiền tệ của nước đó. Trong điều kiện tỷ giá cố định và sự toàn dụng nhân công, sự thiếu hụt (hay dư thừa) của cán cân thanh toán quốc tế là hậu quả của sự cung ứng tiền tệ quá mức (hay không đủ). Trong điều kiện đó, mặt bằng giá trong nước cao hơn (hoặc thấp hơn) mặt bằng giá trên thị trường thế giới. Điều đó sẽ khuyến khích (hoặc hạn chế) nhập khẩu và hạn chế ( hoặc khuyến khích) xuất khẩu. Hậu quả cuối cùng của nó sẽ là thiếu hụt ( hoặc dư thừa) cán cân thanh toán quốc tế. Sự thiếu hụt cán cân thanh toán quốc tế đòi hỏi phải sử dụng một phần dự trữ ngoại tệ để thanh toán các khoản chi về nhập khẩu. Điều đó dẫn đến việc giảm tổng khối lượng tiền tệ trong lưu thông (do dự trữ về ngoại tệ là một bộ phận trong tổng cung về tiền tệ). Ngược lại, sự bội thu về cán cân thanh toán quốc tế lại làm gia tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia, cũng như tổng cung về tiền tệ. Nhờ đó, cung và cầu tiền tệ dần dần trở lại cân bằng, loại bỏ được nguyên nhân của thiếu hụt (hoặc dư thừa) của cán cân thanh toán quốc tế. Tóm lại, theo trường phái kinh tế trọng tiền, sự thiếu hụt (hay dư thừa) cán cân thanh toán quốc tế hoàn toàn không liên quan gì đến cơ cấu kinh tế của nước có liên quan, mà chỉ là kết quả của những sai lầm trong chính sách tiền tệ. Nếu sự giảm (hay tăng) tổng cung về tiền tệ do giảm (hay tăng) dự trữ ngoại tệ quốc gia không bị vô hiệu hóa, thì cán cân thanh toán sẽ tự nó phục hồi lại sự cân bằng cơ chế giá - tiền; sự can thiệp của Chính phủ nhằm quản lý cán cân thanh toán quốc tế là không cần thiết. 1.1.2.2. Quan điểm của trường phái kinh tế tân cổ điển. Giống như trường phái kinh tế trọng tiền, sự quan tâm chủ yếu của trường phái kinh tế này cũng tập trung chủ yếu vào cán cân thanh toán vãng lai. Tuy vậy, họ cho rằng trong đẳng thức biểu thị mối tương quan giữa kinh tế đối nội và đối ngoại: ( T- G ) + (S -I ) = ( X-M ) Trong đó : T: Tổng số thu của ngân sách G: Tổng chi tiêu của Chính phủ S: Tổng số tiết kiệm của dân cư X: Tổng kim ngạch xuất khẩu M: Tổng kim ngạch nhập khẩu I: Tổng đầu tư thì S và I luôn cân bằng (tức là S – I = 0). Do đó, thực trạng của cán cân thanh toán quốc tế chỉ liên quan đến khu vực kinh tế nhà nước, trong đó thu và chi của ngân sách là biểu hiện trọng tâm.Trường phái kinh tế tân cổ điển thường tập trung phê phán sự thâm hụt kinh niên trong cán cân thanh toán của các nước đang phát triển. Họ coi sự thâm hụt đó của cán cân thanh toán quốc tế là hậu quả của những sai lầm trong chính sách kinh tế vĩ mô cũng như chính sách phát triển mà chính phủ các nước đó đã thực hiện trong mấy thập kỷ qua. Trước hết, họ cho rằng đường lối công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu được hầu hết các nước đang phát triển thực hiện cho đến đầu những năm 70 đã tạo ra những bất hợp lý trầm trọng trong thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường lao động cũng như thị trường vốn. Những bất hợp lý đó đã ảnh hưởng xấu đến cán cân thanh toán quốc tế theo nhiều cách: Thứ nhất, mức độ bảo hộ quá cao kết hợp với cơ cấu bẩo hộ bất hợp lý (chủ yếu bảo hộ hàng công nghiệp tiêu dùng) đã làm cho giá trong nước cao hơn giá trên thị trường quốc tế. Điều đó rõ ràng không khuyến khích các nhà sản xuất xuất khẩu. Ngược lại, các nhà sản xuất được khuyến khích mạnh mẽ việc nhập khẩu các nguyên liệu và máy móc để sản xuất các mặt hàng tiêu dùng công nghiệp. Do đó, nhu cầu về chi tiêu ngoại tệ có thể vượt quá khả năng cung ứng. Thứ hai, việc duy trì tỷ giá và lãi suất thấp trong một thời gian dài đã không phản ánh đúng giá của tiền tệ và tiền vốn. Điều đó, một mặt đã làm thui chột khả năng cạnh tranh và xuất khẩu; mặt khác, khuyến khích nhập khẩu và thúc đẩy mọi nhà doanh nghiệp (nhà nước cũng như tư nhân) xây dựng nhà máy với quy mô lớn, sử dụng nhiều vốn trái với lợi thế so sánh của các nước đang phát triển. Thêm vào đó, hiện tượng sử dụng không hết năng lực sản xuất cũng trở nên phổ biến. Thứ ba, quy mô của khu vực kinh tế nhà nước đã nhanh chóng mở rộng vượt ra ngoài khả năng quản lý của bộ máy nhà nước. Một phần không nhỏ chi tiêu của nhà nước (trong đó có cả chi cho tiêu dùng) đã phải dựa vào nguồn vốn vay bên ngoài, kể cả vay trên thị trường vốn quốc tế với lãi suất cao. Kinh nghiệm cho thấy rằng các doanh nghiệp nhà nước ở các nước đang phát triển đã phải gánh chịu phần chủ yếu nợ nước ngoài của các nước đó. Sự hoạt động kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước đã làm cho khả năng trả nợ xấu thêm, gây ảnh hưởng bất lợi tới thâm hụt cán cân thanh toán. Thêm vào đó, chính sách tiền tệ lỏng lẻo trở thành nguồn vốn bù đắp bội chi ngân sách cho các chính phủ cũng đã góp phần mở rộng thêm sự thâm hụt của cán cân thanh toán quốc tế. Với quan điểm cho rằng thâm hụt cán cân thanh toán ở các nước đang phát triển là hậu quả của những sai lầm (như đã nói ở trên) của các chính sách kinh tế, cho nên sửa chữa những sai lầm đó là cách thức để cải thiện cán cân thanh toán, thiết lập lại sự cân bằng kinh tế đối ngoại cũng như đối nội. 1.1.2.3. Quan điểm của trường phái kinh tế cơ cấu: Đây là trường phái kinh tế có ảnh hưởng lớn trong những năm 60 và 70; và hiện nay có thể được coi là trường phái kinh tế đối trọng với trường phái tân cổ điển. Trong nhiều vấn đề chính sách kinh tế, họ chỉ có quan tâm điểm khác với trường phái kinh tế tân cổ điển. Về vấn đề cán cân thanh toán quốc tế, họ cho rằng nên sử dụng cán cân thanh toán cơ bản (tức cán cân thanh toán vãng lai + thực thu về luân chuyển vốn dài hạn) để phân tích sự cân bằng đối ngoại và khả năng phát triển kinh tế của một nước. Theo họ, cán cân thanh toán vãng lai của các nước đang phát triển bị thâm hụt là điều tất yếu, trước hết do những nguyên nhân nội tại trong cơ cấu kinh tế của những nước đó, và những yếu tố bất lợi trên thị trường quốc tế. Trước hết, nền kinh tế của các nước đang phát triển phụ thuộc hoàn toàn vào bên ngoài về máy móc, thiết bị, công nghệ sản xuất và một phần quan trọng là các nguyên liệu cơ bản (kể cả dầu mỏ). Điều đó có ý nghĩa là nhập khẩu ở quy mô lớn không chỉ là điều kiện tiên quyết để phát triển mà còn để duy trì sự sản xuất bình thường ở các nước đang phát triển. Trong khi đó, khả năng xuất khẩu còn nhiều hạn chế, với chủng loại hàng hóa xuất khẩu rất hẹp, chỉ dừng lại ở việc xuất khẩu các loại hàng hóa ở dạng nguyên liệu thô, chưa có hàm lượng chất xám cao. Vì vậy, những biện pháp nhằm tăng cung cho xuất khẩu như phá giá đồng tiền, hoặc tăng đầu tư… không mang lại kết quả như mong đợi, hoặc phải cần một thời gian khá dài. Mặt khác, do suy thoái kinh tế ở các nước phát triển, cầu về những mặt hàng xuất khẩu từ các nước đang phát triển cũng giảm xuống. Một điều khác không kém phần quan trọng ở các nước đang phát triển là thuế nhập khẩu chiếm một vị trí quan trọng trong tổng thu về thuế của ngân sách. Do đó, giảm thuế nhập khẩu để thu hẹp thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai có thể sẽ làm giảm thu ngân sách. Giảm nhập khẩu cũng có thể làm giảm sản xuất ở trong nước. Trong khi đó nhu cầu về chi tiêu ngân sách ở các nước đang phát triển lại ngày càng cao. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đáp ứng các nhu cầu xã hội, Chính phủ không chỉ phải tăng chi cho đầu tư mà còn cả cho các chương trình xã hội. Điều cuối cùng phổ biến trong cơ cấu kinh tế của các nước đang phát triển là hàm lượng nhập khẩu trong các mặt hàng xuất khẩu cũng không phải là nhỏ. Do đó, giảm xuất khẩu cũng có thể làm giảm cả kim ngạch xuất khẩu từ các nước đó. Như vậy, theo các nhà kinh tế cơ cấu, khả năng tăng xuất khẩu ở các nước đang phát triển không thể có được một cách nhanh chóng và phụ thuộc cả vào khả năng nhập khẩu. Mặt khác, giảm nhập khẩu để cải thiện cán cân thanh toán vãng lai lại làm tăng thâm hụt ngân sách và giảm kim ngạch xuất khẩu; và hậu quả của nó không chỉ làm trầm trọng thêm sự thâm hụt cán cân thanh toán, mà còn giảm cả nhịp độ tăng trưởng kinh tế và tăng thêm thất nghiệp. Quan niệm trên cho thấy các nhà kinh tế cơ cấu rất quan tâm đến đầu tư phát triển. Họ cho rằng nhập khẩu để đầu tư là hiện tượng lành mạnh, là điều kiện cho sự phát triển lâu dài của các nước đang phát triển. Đầu tư có hiệu quả để thay đổi căn bản lợi thế so sánh là một trong những điều kiện tiên quyết để giải quyết tình trạng mất cân đối và phụ thuộc của các nền kinh tế đang phát triển. Tóm lại, phân tích các quan điểm của các trường phái kinh tế về cán cân thanh toán trên đây cho thấy rằng những tranh luận của họ không hoàn toàn loại trừ lẫn nhau, mà trái lại còn bổ sung cho nhau. Thực vậy, không chỉ cơ cấu kinh tế, mà cả những sai lầm trong chính sách kinh tế của các chính phủ đều là nguyên nhân của sự thâm hụt ngân sách. Như vậy, quản lý cán cân thanh toán quốc tế về lâu dài nên nhằm vào việc thiết lập sự cân bằng cán cân thanh toán vãng lai. Kinh nghiệm cho thấy rằng, những nước cải thiện và cân bằng được cán cân thanh toán vãng lai cũng là các nước thành công trong công nghiệp hóa, và theo đuổi những chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp với các mục tieu phát triển ( trừ các nước xuất khẩu dầu mỏ ). 1.1.3. Nội dung của cán cân thanh toán quốc tế. Cán cân thanh toán quốc tế bao gồm các hạng mục chủ yếu sau: - Cán cân vãng lai - Cán cân vốn - Cán cân tổng thể - Lỗi và sai sót - Cán cân bù đắp chính thức 1.1.3.1. Cán cân vãng lai. Cán cân vãng lai bao gồm 4 bộ phận chủ yếu là: Cán cân thương mại – còn được gọi là cán cân hữu hình, bởi vì nó phản ánh chênh lệch giữa các khoản thu từ xuất khẩu và các khoản chi cho nhập khẩu hàng hóa, mà các hàng hóa này lại có thể quan sát được bằng mắt thường khi di chuyển qua biên giới. Xuất khẩu làm phát sinh cung ngoại tệ và cầu nội tệ trên thị trường ngoại hối nên được ghi có (+) trong cán cân thanh toán quốc tế; và nhập khẩu làm phát sinh cầu ngoại tệ và cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối nên được ghi nợ (-) trong cán cân thanh toán quốc tế. Khi thu nhập từ xuất khẩu lớn hơn chi cho nhập khẩu hàng hóa, thì cán cân thương mại thặng dư và ngược lại. Cán cân dịch vụ - bao gồm các khoản thu, chi từ hoạt động dịch vụ về vận tải, du lịch, bảo hiểm, bưu chính, viễn thông, hàng không, ngân hàng… và từ các hoạt động dịch vụ khác giữa người cư trú và người không cư trú. Giống như xuất nhập khẩu hàng hóa, xuất khẩu dịch vụ làm phát sinh cung ngoại tệ (cầu nội tệ), nên nó được ghi vào bên có và có dấu (+); nhập khẩu dịch vụ làm phát sinh cầu ngoại tệ (cung nội tệ), nên nó được ghi vào bên nợ và có dấu (-). Các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất nhập khẩu dịch vụ cũng giống như các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa. Cán cân thu nhập – bao gồm: thu nhập của người lao động - đó là các khoản tiền lương, tiền thưởng và các khoản thu nhập khác bằng tiền, hiện vật do người không cư trú trả cho người cư trú và ngược lại; thu nhập về đầu tư – là các khoản thu từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp, lãi từ đầu tư vào giấy tờ có giávà các khoản lãi đến hạn phải trả của các khoản vay của người cư trú và người không cư trú. Các khoản thu nhập của người cư trú từ người không cư trú làm phát sinh cung ngoại tệ (cầu nội tệ) nên được ghi vào bên có (+) và các khoản chi trả cho người không cư trú làm phát sinh cầu ngoại tệ (cung nội tệ) nên được ghi vào bên nợ (-). Nhân tố chính ảnh hưởng lên giá trị thu nhập về đầu tư là số lượng đầu tư và tỷ lệ sinh lời (hay mức lãi suất) của các dự án đã đầu tư trước đây. Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều, bao gồm: các khoản viện trợ không hoàn lại, quà tặng, quà biếu và các khoản chuyển giao khác bằng tiền, hiện vật cho mục đích tiêu dùng do người không cư trú chuyển cho người cư trú và ngược lại . Các khoản thu làm phát sinh cung ngoại tệ (cầu nội tệ) nên được ghi vào bên có (+), các khoản chi làm phát sinh cầu ngoại tệ (cung nội tệ) nên được ghi vào bên nợ (-). Nhân tố chính ảnh hưởng lên chuyển giao vãng lai một chiều là lòng tốt, tình cảm và mối quan hệ giữa người cư trú và người không cư trú . 1.1.3.2. Cán cân vốn: Cán cân vốn dài hạn: luồng vốn dài hạn chảy vào và chảy ra khỏi một quốc gia được phân theo tiêu chí “chủ thể” và “khách thể”. Theo tiêu chí chủ thể, vốn dài hạn được chia theo khu vực tư nhân và khu vực nhà nước. Theo tiêu chí khách thể, các luồng vốn dài hạn được chia thành đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp và vốn dài hạn khác. Cán cân vốn ngắn hạn: luồng vốn ngắn hạn chảy vào và chảy ra khỏi một quốc gia cũng được phân theo tiêu chí “ chủ thể” thành khu vực nhà nước và khu vực tư nhân. Cán cân vốn ngắn hạn bao gồm nhiều hạng mục phong phú và chủ yếu là: tín dụng thương mại ngắn hạn, hoạt động tiền gửi, mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn, kinh doanh ngoại hối… Ngày nay, trong môi trường tự do hóa tài chính, các luồng vốn đầu cơ (hot money) tăng lên nhanh chóng, làm cho cán cân vốn ngắn hạn trở nên có ảnh hưởng đáng kể đến cán cân thanh toán quốc tế nói chung của mỗi quốc gia. 1.1.3.3. Lỗi và sai sót: Hạng mục này bao gồm các giao dịch kinh tế thực tế đã xảy ra nhưng không được ghi chép hoặc ghi chép có nhầm lẫn không chính xác. Những nguyên nhân khiến cho tồn tại sai sót và nhầm lẫn trong thống kê có thể là: - Do việc không thể tập hợp, thống kê được tất cả các giao dịch kinh tế xảy ra giữa người cư trú và người không cư trú. - Nhiều số liệu được thu thập dựa trên cơ sở lấy mẫu có tính chất dự đoán từ nhiều nguồn riêng biệt khác nhau, do đó có một số sai sót là điều khó tránh khỏi. - Nhằm trốn thuế nên một số giao dịch trong cán cân vốn được báo cáo với giá trị thấp hơn giá thực tế. - Một số công ty làm ăn gian dối có thể chủ tâm khai giảm giá trị vận đơn xuất khẩu và tăng giá trị vận đơn nhập khẩu nhằm che đậy mức lợi nhuận thực tế để tránh bị đánh thuế. - Vấn đề thanh toán ứng trước hay thanh toán trả chậm cũng gây nên những khó khăn nhất định trong việc ghi chép lại các giao dịch kinh tế đã xảy ra. 1.1.3.4. Cán cân tổng thể: Là tổng của các hạng mục 1.1.3.1, 1.1.3.2, 1.1.3.3, 1.1.3.4 . Kết quả của hạng mục này thể hiện tình trạng kinh tế đối ngoại của một quốc gia trong một thời kỳ hoặc tại một thời điểm nhất định.Ta có: Cán cân tổng thể = Cán cân vãng lai + Cán cân vốn + + Lỗi và sai sót 1.1.3.5. Cán cân bù đắp chính thức: Cán cân bù đắp chính thức bao gồm các hạng mục: Dự trữ ngoại hối quốc gia. Quan hệ với IMF và các NHTW khác. Thay đổi dự trữ của các NHTW khác bằng đồng tiền của quốc gia lập cán cân thanh toán. Trong đó, hạng mục dự trữ ngoại hối quốc gia đóng vai trò quyết định, do đó, để đơn giản, trong các phân tích sau đây chúng ta coi hạng mục dự trữ ngoại hối quốc gia chính là cán cân bù đắp chính thức. Ta có: Cán cân tổng thể + Cán cân bù đắp chính thức = 0 Hay: Cán cân tổng thể = - Cán cân bù đắp chính thức Hay : Cán cân vãng lai + Cán cân vốn + Lỗi và sai sót = - Cán cân bù đắp chính thức. Suy ra: Cán cân bù đắp chính thức + Cán cân vãng lai + Cán cân vốn = - Lỗi và sai sót Đẳng thức cuối cùng cho thấy, số dư của hạng mục lỗi và sai sót chính là độ lệch giữa cán cân bù đắp chính thức và tổng của cán cân vãng lai và cán cân vốn. Bởi vì, cán cân bù đắp chính thức, cán cân vãng lai và cán cân vốn luôn được xác định ( luôn thể hiện là một số cụ thể trên cán cân thanh toán quốc tế ), do đó, đẳng thức trên được áp dụng để xác định số dư lỗi và sai sót khi lập cán cân thanh toán quốc tế trong thực tế. Tóm lại, giá trị của cán cân bù đắp chính thức đúng bằng với cán cân tổng thể nhưng ngược dấu. Thực tế, đây là một dạng “cân đối tài khoản kế toán” để tổng các hạng mục trong cán cân thanh toán quốc tế phải bằng “0”. Nhìn vào hạng mục này, có thể thấy ngay dự trữ ngoại hối của quốc gia đựơc tăng lên hay giảm đi. Bảng 1.1: Mẫu cán cân thanh toán quốc tế ( mẫu của iMF ) Của :…………………………………… Thời gian biên lập:……………………… Đơn vị tính: triệu USD Các hạng mục Số tiền Nợ ( - ) Có ( + ) Cán cân vãng lai ( TK vãng lai ) 1.Cán cân thương mại. - Xuất khẩu ( FOB) - Nhập khẩu ( CiF ) 2. Cán cân dịch vụ. - Vận tải. - Bảo hiểm. - Du lịch. - Ngoại giao. - Chuyển tiền. - Dịch vụ khác… II. Cán cân vốn. Cán cân vốn ngắn hạn. Cán cân vốn dài hạn. III. Lỗi và sai sót. ( lỗi và sai sót ước tính) IV. Cán cân tổng thể. ( kết quả của CCTTQT) V. Cán cân bù đắp chính thức. Dự trữ ngoại hối. Vay nợ nước ngoài. Vốn của IMF. Nguyên tắc ghi chép và hạch toán vào cán cân thanh toán quốc tế. Ghi chép. Trong cán cân thanh toán quốc tế các khoản phát sinh sẽ được ghi “ Nợ” hoặc ghi “Có”: Ghi Có: trong trường hợp nhận được chi trả từ nước ngoài. Tức là những khoản giao dịch mang về cho quốc gia một số lượng ngoại tệ nhất định. Trong cán cân thanh toán những khoản này được mang dấu “+”. Ghi Nợ: trong trường hợp phải chi trả cho nước ngoài. Nghĩa là những khoản giao dịch làm cho quỹ ngoại tệ ở trong nước (của Chính phủ hoặc tư nhân) giảm đi. Trong cán cân thanh toán những khoản này được mang dấu “-“. Hạch toán: Hạch toán trong giao dịch quốc tế được thực hiện theo nguyên tắc ghi sổ kép. Nghĩa là một khoản giao dịch được ghi hai lần, một lần ghi Nợ và một lần ghi Có (đối ứng) với giá trị như nhau. Vai trò của cán cân thanh toán quốc tế. Kết quả của cán cân thanh toán quốc tế có vai trò kinh tế, chính trị rất quan trọng đối với một quốc gia. Vai trò này được thể hiện ở chỗ: Cán cân thanh toán quốc tế cho biết một cách trực quan về tình trạng công nợ của một quốc gia tại một thời điểm nhất định: là nước mắc nợ hay là chủ nợ. Cán cân thanh toán quốc tế phản ánh địa vị tài chính của quốc gia trên trường quốc tế. Địa vị này là kết quả tổng hợp của các hoạt động thương mại, dịch vụ và các chính sách rút vốn ra khỏi nước đó. Cán cân thanh toán quốc tế vừa có ý nghĩa kinh tế vĩ mô vừa có ý nghĩa kinh tế vi mô nên khi cán cân thanh toán quốc tế có khả năng bội chi thì các quốc gia thường tìm các biện pháp khắc phục để lấy lại thế cân đối. 1.2.xác lập các chỉ tiêu trong cán cân thanh toán quốc tế. Ngày nay, việc tính toán cán cân thanh toán quốc tế của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều dựa trên hướng dẫn của IMF, theo cuốn “Balance of Payments Manual” ấn bản năm 1993, đã hướng dẫn tỉ mỉ cách ghi chép số liệu để phản ánh vào cán cân thanh toán quốc tế. Như phần trên đã nêu, nội dung quan trọng nhất của cán cân thanh toán quốc tế chính là cán cân vãng lai và cán cân vốn, lập được hai hạng mục này sẽ lập được các hạng mục tiếp theo, do đó, công việc đầu tiên khi muốn xác lập cán cân thanh toán quốc tế là phải tổng hợp được số liệu để lập nên cán cân vãng lai và cán cân vốn. 1.2.1. Tổng hợp số liệu lập cán cân vãng lai ( theo “Balance of Payments Manual). Để lập được cán cân vãng lai, phải tổng hợp được tất cả số liệu từ các giao dịch có nội dung kinh tế và phát sinh giữa người cư trú và người không cư trú. 1.2.1.1. Hàng hoá và dịch vụ. Hàng hoá: hàng hoá để tổng hợp số liệu ở đây bao gồm. Hàng hoá chung: gồm hầu hết các loại hàng hoá được xuất khẩu đến hoặc nhập khẩu từ người không cư trú bởi người cư trú. Hàng hoá phục vụ cho việc chế biến: gồm việc xuất khẩu ( hoặc nhập khẩu ) hàng hoá qua biên giới để chế biến ở nước ngoài và tái nhập khẩu sau và giá trị của hàng hoá đó được đánh giá dựa trên tổng giá trị trước và sau khi chế biến. Điều này là một ngoại lệ đối với nguyên tắc thay đổi quyền sở hữu. Sửa chữa hàng hoá: gồm việc sửa chữa đối với hàng hoá được cung cấp hoặc nhận được từ người không cư trú được vận chuyển bằng tàu hoặc bằng máy bay, việc sửa chữa này không được tính vào tổng giá trị hàng hoá trước và sau khi sửa chữa. Hàng hoá có được từ việc bốc dỡ: gồm tất cả các loại hàng như: nhiên liệu, thực phẩm, hàng dự trữ… mà người cư trú/người không cư trú thực hiện bốc dỡ từ tàu, máy bay… Vàng phi tiền tệ: xuất nhập khẩu vàng không được xem như là tài sản dự trữ. Vàng phi tiền tệ cũng được xem như những loại hàng hoá khác và cũng được chia nhỏ thành những đồ dự trữ giá trị và vàng phục vụ công nghiệp. Dịch vụ: Dịch vụ vận tải: có trong hầu hết các loại hình dịch vụ được thực hiện bởi người cư trú cho người không cư trú và ngược lại. Du lịch: trong đó gồm hàng hoá và dịch vụ – những mặt hàng có liên quan tới sức khoẻ và giáo dục- được yêu cầu bởi khách du lịch nước ngoài (gồm cả những người thám hiểm) vì mục đích kinh tế hoặc cho tiêu dùng cá nhân trong thời gian họ làm việc hoặc du lịch (dưới một năm). Điều này có nghĩa những dịch vụ hành khách quốc tế không bao gồm trong du lịch mà đã bao gồm trong dịch vụ vận tải. Sinh viên và người đi chữa bệnh đều được xem là người du lịch bất kể thời gian là bao lâu. Quân đội , nhân viên sứ quán và công nhân không cư trú không được xem là người du lịch, tuy nhiên, những khoản chi tiêu của công nhân không cư trú lại bao gồm trong du lịch trong khi đó những khoản tương tự của quân đội và nhân viên sứ quán lại được coi là chi tiêu cho dịch vụ của chính phủ. Dịch vụ thông tin liên lạc: gồm các giao dịch về viễn thông giữa người cư trú và người không cư trú đó là: bưu điện, thư tín và các dịch vụ viễn thông. Dịch vụ xây dựng: gồm việc xây dựng và lắp đặt trên cơ sở có thời hạn được tiến hành ở nước ngoài/ở nền kinh tế thu thập số liệu hoặc trong vùng đất tháp vào/những công ty không cư trú và nhân công của họ. Dịch vụ bảo hiểm: bao gồm việc cung cấp bảo hiểm cho người không cư trú bởi các công ty bảo hiểm cư trú và ngược lại. Loại hình dịch vụ này boa gồm bảo hiểm vận chuyển hàng hoá (hàng hoá xuất nhập khẩu), dịch vụ bảo hiểm trực tiếp (bao gồm bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ), và các dịch vụ tái bảo hiểm. Dịch vụ tài chính: các dịch vụ trung gian tài chính và các dịch vụ phụ trợ được tiến hành giữa người cư trú và người không cư trú. Bao gồm trong loại hình dịch vụ này là những khoản hoa hồng, phí cho việc lập thư tín dụng, dịch vụ cho thuê tài chính, giao dịch ngoại hối, dịch vụ thẻ tín dụng cho ngưòi tiêu dùng và phục vụ cho công việc, dịch vụ môi giới chứng khoán, dịch vụ bảo lãnh phát hành, thoả thuận về các công cụ tự bảo hiểm, hạn ngạch tín dụng… Dịch vụ phụ trợ gồm dịch vụ điều hành hoạt động của thị trường tài chính, dịch vụ lưu ký chứng khoán. Dịch vụ tin học và thông tin: gồm giao dịch giữa người cư trú và người không cư trú liên quan đến tư vấn phần cứng, hoàn thành phần mềm, dịch vụ thông tin và việc bảo dưỡng, sửa chữa máy tính và các thiết bị có liên quan. Phí sử dụng bản quyền và bằng sáng chế: gồm lợi tức (xuất khẩu) và khoản phải trả (nhập khẩu) của người cư trú và người không cư trú cho việc sử dụng tài sản vô hình, tài sản phi tài chính và những quyền của chủ sở hữu như là: nhãn hiệu thương mại, bản quyền, bằng phát minh, dây chuyền công nghệ....và việc sử dụng bằng phát minh thông qua thoả thuận để sản xuất hàng hoá. Dịch vụ phục vụ kinh doanh khác:được cung cấp bởi người cư trú cho người không cư trú và ngược lại gồm những việc liên quan đến thương mại, dịch vụ cho thuê hoạt động, việc kinh doanh hỗn hợp, dịch vụ kỹ thuật. Dịch vụ giải trí, văn hoá, cá nhân: bao gồm dịch vụ phim ảnh, chương trình radio và truyền hình, thu thanh, thể thao.... Chi cho dịch vụ của chính phủ: gồm tất cả các dịch vụ liên quan đến chính phủ hoặc các tổ chức quốc tế và khu vực. 1.2.1.2. Thu nhập. - Thu nhập của người làm công: gồm lương, thưởng, lợi nhuận khác, bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật, bao gồm theo đó là biên giới, theo mùa, những người làm công không cư trú (nhân viên địa phương làm trong các sứ quán). - Thu nhập từ đầu tư: thu nhập từ tài sản tài chính ở nước ngoài của người cư trú và khoản phải trả cho khoản nợ đối với nước ngoài.Thu nhập từ đầu tư bao gồm thu nhập từ đầu tư trực tiếp, thu nhập từ danh mục đầu tư, và thu nhập từ các khoản đầu tư khác.Thu nhập từ đầu tư trực tiếp được chia thành thu nhập từ chứng khoán (cổ tức, thu nhập tái đầu tư, lợi nhuận từ các chi nhánh) và thu nhập từ các khoản cho nợ (lãi suất). Thu nhập từ danh mục đầu tư được chia thành thu nhập từ chứng khoán (cổ tức) và thu nhập từ các khoản cho nợ (lãi suất). Thu nhập từ các khoản đầu tư khác gồm lãi suất từ các khoản cho vay, từ khoản bảo hiểm nhân thọ và từ quỹ lương hưu. Cán cân chuyển giao một chiều. Chuyển giao là phần bù đắp cho những thay đổi, diễn ra giữa người cư trú và người không cư trú, về quyền sở hữu hoặc các hạng mục tài chính cho dù việc chuyển giao đó là tự nguyện hay bắt buộc. Cán cân chuyển giao một chiều bao gồm tất cả những sự chuyển giao ngoại trừ: chuyển quyền sở hữu tài sản cố định, chuyển giao quỹ có liên quan tới sự hợp nhất hoặc nhượng bán tài sản cố định, chủ nợ giảm nợ. 1.2.2.. Cán cân vốn. 1.2.2.1. Tài khoản vốn. Chu chuyển vốn: bao gồm tất cả các hoạt động liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu tài sản cố định; chuyển các quỹ liên quan đến hoặc có điều kiện đối với việc hợp nhất hoặc chuyển nhượng tài sản cố định; chủ nợ huỷ nợ. Chu chuyển vốn bao gồm hai bộ phận: Chính phủ nói chung: được chia nhỏ thành miễn nợ. Được chia nhỏ thành chu chuyển của những người di cư, miễn nợ, và những dòng chu chuyển khác. Hợp nhất/ chuyển nhượng tài sản phi sản xuất và tài sản phi tài chính: bao gồm những tài sản vô hình như : bằng phát minh sáng chế, tài sản cho thuê hoặc những hợp đồng có thể chuyển nhượng được, lòng tốt…Mục này không bao gồm đất đai trong một lãnh thổ kinh tế nhất đ._.ịnh nhưng có thể bao gồm cả việc mua bán đất của đại sứ quán nước ngoài. 1.2.2.2. Tài khoản tài chính. Đầu tư trực tiếp: phản ánh lợi tức lâu dài của một pháp nhân thường trú tại một quốc gia (nhà đầu tư trực tiếp) vào một pháp nhân thường trú tại một quốc gia khác (công ty có vốn đầu tư trực tiếp) – bao gồm tất cả các giao dịch giữa nhà đầu tư trực tiếp và công ty có vốn đầu tư trực tiếp. Đầu tư vào giấy tờ có giá: bao gồm các giao dịch về chứng khoán vốn và chứng khoán nợ, các công cụ của thị trường tiền tệ, chứng khoán tài chính phái sinh,... Các khoản đầu tư khác: bao gồm tín dụng thương mại ngắn và dài hạn, các khoản cho vay, các tài khoản có thể thu hồivà các tài khoản phải trả.... Tài sản dự trữ: bao gồm các giao dịch về tài sản được kiểm soát bởi các cơ quan chức năng trong nền kinh tế nhằm phục vụ cho mục tiêu cân bằng cán cân thanh toán quốc tế và cho những mục đích khác khi cần thiết. Các loại tài sản dự trữ đó có thể là vàng, đồng SDR, dự trữ ở IMF, tài sản ngoại hối khác... Như trên đã trình bày là những hướng dẫn của IMF về việc tổng hợp các chỉ tiêu, số liệu để lập cán cân thanh toán quốc tế của mỗi quốc gia. Cán cân vãng lai và cán cân vốn là hai bộ phận quan trọng nhất của cán cân thanh toán quốc tế, do đó, sau khi lập được hai hạng mục này thì việc lập các hạng mục khác sẽ trở nên đơn giản do chúng chỉ mang tính chất tính toán đơn thuần, không có nhiều phức tạp như khi lập cán cân vãng lai và cán cân vốn. Chương 2 Thực trạng xác lập cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam hiện nay 2.1. Xác lập cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam thời kỳ trước năm 1990. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây và những năm đầu của thời kỳ đổi mới cơ chế kinh tế, chúng ta chưa sử dụng công cụ cán cân thanh toán quốc tế. Do cơ chế cũ chỉ chú trọng đến việc sản xuất sản phẩm và kế hoạch hoá trên cơ sở hiện vật tự nhiên nên phần giá trị của các hoạt động kinh tế chưa được chú trọng. Các quan hệ tiền hàng và quy luật giá trị chỉ đóng vai trò hỗ trợ cho các quá trình kinh tế. Vì vậy, việc lập kế hoạch theo dõi các hoạt động như xuất nhập khẩu, dịch vụ sản xuất, vay nợ, viện trợ và trả nợ chỉ nhằm mục đích chủ yếu là: Thống kê được nguồn ngoại tệ có trong kỳ kế hoạch. Nguồn ngoại tệ này chủ yếu thu được từ lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá, viện trợ và vay nợ nước ngoài. Phần dịch vụ sản xuất của các ngánh như hàng hải, hàng không, bưu điện. chỉ là nguồn thu nhỏ bé, đóng góp không đáng kể cho Ngân sách Nhà nước. Chỉ ra những nhu cầu chi cho cần thiết trong kỳ kế hoạch mà Ngân sách Nhà nước cần đảm bảo. Trong số đó chủ yếu và lớn nhất là phần nhập khẩu hàng hoá để đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước, chi trả tiền cước vận tải hàng nhập. Ngoài ra là để đáp ứng một số nhu cầu khác như: chi cho đoàn ra, đoàn vào; chi cho đóng niên liễm; chi cho các sứ quán ta ở nước ngoài. Để đáp ứng yêu cầu trên, hàng năm chúng ta thường lập bảng cân đối thu, chi ngoại tệ để theo dõi chi tiêu ngoại tệ của Ngân sách Nhà nước. Do các nước trong khối SEV lấy đồng Rúp chuyển nhượng làm đơn vị để thanh toán nên bảng cân đối thu, chi ngoại tệ được lập với đơn vị tính là Rúp chuyển nhượng. Mặt khác có những mặt hàng về vật tư, thiết bị, không nhập được trong khối COMECON nên phải nhập bằng đồng ngoại tệ tự do chuyển đổi; đồng thời do những nhu cầu khác nữa của nền kinh tế song song với bảng cân đối ngoại tệ tính bằng đồng Rúp chuyển nhượng ta còn có bảng cân đối ngoại tệ với đơn vị tính là đồng Đô la Mỹ. Nội dung của bảng cân đối thu, chi ngoại tệ được thể hiện trên bảng sau: Bảng 2.1: Cân đối thu chi ngoại tệ. Đơn vị: Rúp chuyển nhượng-USD Tổng số thu: Thu xuất khẩu hàng hoá. Thu dịch vụ và chuyển tiền: Vận chuyển ( chủ yếu hàng không, đường biển ). Bưu điện. Bảo hiểm. Xuất khẩu lao động, chuyên gia. Du lịch. Phục vụ đoàn ngoại giao. Chuyển tiền. Viện trợ. Vay nợ. Tổng số chi: Chi nhập khẩu hàng hoá. Chi dịch vụ và chuyển tiền: Chi vận tải hàng nhập ( nếu có FOB ) Chi bưu điện. Chi bảo hiểm. Chuyển tiền ( kinh phí ngoại giao ở nước ngoài ). Chi khác. 3. Chênh lệch thu, chi (+,- ). Nhìn vào bảng cân đối ngoại tệ trên đây có thể đánh giá ngay được các khoản thu, các khoản chi ngoại tệ của Ngân sách Nhà nước. Trong thời kỳ trước đây, mọi hoạt động kinh tế đều đượckế hoạch hoá theo những mục tiêu nhất định do Nhà nước nắm. Vì vậy, việc lập bảng cân đối ngoại tệ được dựa trên cơ sở các kết quả ký kết nghị định thư trao đổi hàng năm với các nước (chủ yếu trong khối COMECON). Bảng cân đối ngoại tệ thực chất là hệ thống lại những hàng hoá, thiết bị nhận được từ các nước trong năm kế hoạch dưới dạng giá trị. Đồng thời cũng thống kê tổng giá trị hàng hoá của ta xuất sang các nước; tổng giá trị viện trợ, vay nợ mà ta nhận được. Trên cơ sở tính toán cân đối các khoản dựa trên bảng cân đối ngoại tệ bằng đồng Rúp chuyển nhượng, sẽ xây dựng bảng cân đối ngoại tệ với đơn vị tính bằng đồng USD. Thực chất của bảng cân đối này chỉ là nhằm bố trí nguồn nhập bổ sung các vật tư, thiết bị không nhập từ khu vực XHCN mà thôi. 2.2. Xác lập cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam thời kỳ sau năm 1990. 2.2.1. Thời kỳ 1990 đến năm 1999. Từ năm 1990 đến năm 1999, cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế ở nước ta, những nhu cầu về kiểm soát cán cân thưong mại, kiểm soát các nguồn giao lưu về vốn; đặc biệt là các khoản đầu tư trung và dài hạn, đầu tư trực tiếp… đã nảy sinh đòi hỏi phải có một công cụ quản lý vĩ mô có hiệu lực giúp Nhà nước nắm được các quá trình kinh tế trên. Đáp ứng nhu cầu này chính là vai trò của cán cân thanh toán quốc tế. Nhờ sự giúp đỡ của IMF, WB chúng ta đã bắt đầu xây dựng cán cân thanh toán của Việt Nam. Trong những năm đầu chuyển từ lập bảng cân đối chi tiêu với đơn vị tính là Rúp chuyển nhượng sang xây dựng cán cân thanh toán, chúng ta đã gặp rất nhiều khó khăn do nền kinh tế vẫn đang trong giai đoạn chuyển sang nền kinh tế thị trường do đó việc gặp nhiều khó khăn là một điều tất yếu khó tránh khỏi. Xin nêu một số vấn đề cụ thể: Trong nền kinh tế nước ta trước cải cách kinh tế, ngoài kinh tế quốc doanh còn có một bộ phận sản xuất nhỏ và cá thể. Phần này chiếm tỷ lệ không nhiều và có tỷ trọng không đáng kể. Nhưng từ khi tiến hành cải cách kinh tế, hoạt động của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển nhanh và ngày càng có tỷ trọng đáng kể trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Trong khi đó, chế độ ghi chép và báo cáo các số liệu chưa được quy định chặt chẽ và chưa đi vào nề nếp. Trước đây, các số liệu đều thống kê theo hệ MPS; vì vậy việc thu thập và xử lý số liệu lúc này gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình tính toán các chỉ tiêu của cán cân thanh toán; bởi vì: Một số chỉ tiêu trước đây không có trong hệ thống thông tin báo cáo kế hoạch của các Bộ hoặc các cơ quan tổng hợp. Ví dụ như các chỉ tiêu xuất nhập khẩu tiểu ngạch. Lúc này chưa có nhiều cơ quan theo dõi và quản lý xuất nhập khẩu. Đến năm 2000, vấn đề này mới được giải quyết. Một số chỉ tiêu có quy định trong quá trình xây dựng và báo cáo kế hoạch của các Bộ, các ngành, các địa phương nhưng chưa được tính toán và tổng hợp chính xác. Ví dụ: Thống kê số lượng và chủng loại các mặt hàng nhập khẩu theo các nguồn cụ thể như viện trợ, vay nợ, đầu tư trực tiếp…. Cho đến cuối năm 1996, các cơ quan tổng hợp chưa bóc tách được cụ thể hàng năm có bao nhiêu hàng nhập thuộc nguồn viện trợ, bao nhiêu thuộc nguồn vay nợ hoặc đầu tư trực tiếp. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho việc tính toán các chỉ tiêu của cán cân thanh toán. Một số chỉ tiêu trước đây tính theo hệ MPS, đến thời điểm này mới bắt đầu tính lại theo hệ SNA nên còn rất nhiều sai sót. Điều dễ nhận thấy là trong ngành giao thông, bưu điện. Trước đây chỉ thống kê và tính phần 2 ngành này phục vụ cho quá trình tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Những phần dịch vụ không tạo ra của cải vật chất theo hệ MPS thì không được thống kê vào thu nhập quốc dân. Trong quá trình cải cách kinh tế, đến thời điểm này, việc phân công chức năng, nhiệm vụ của các Bộ, ngành vẫn còn nhiều chồng chéo, chưa hợp lý mà lại không bao quát hết nhiệm vụ. Hiện có nhiều cơ quan theo dõi xuất khẩu (UBKHNN, Bộ Thương mại, Tổng cục Thống kê, Tổng cục Hải quan….) nhưng số liệu chỗ thì trùng lặp, chỗ lại không thống kê được. Hơn nữa, chưa có một quy định chuẩn nào về chế độ báo cáo tổng hợp nên chưa bóc tách được số liệu. Đến ngày 30/8/1993 mới có Nghị định 58/CP quy định về quy chế vay và trả nợ nước ngoài. Như vậy, đến lúc này chức năng theo dõi việc vay và trả nợ nước ngoài mới được quy định cụ thể. Điều đó cũng có nghĩa là trước đây, muốn có số liệu tổng hợp về vay nợ, trả nợ, nợ quá hạn; trả gốc, trả lãi là rất khó khăn. Không phải dễ dàng gì để tìm được số nợ do các địa phương vay và trả trong một giai đoạn kế hoạch nào đó trước đây.. Mặc dù quá trình xây dựng cán cân thanh toán có nhiều khó khăn, nhưng mấy năm qua, chúng ta đã từng bước nâng cao được chất lượng các chỉ tiêu của cán cân thanh toán. Đến thời điểm này cán cân thanh toán của Việt Nam đã được xây dựng với những nội dung chính sau: Bảng 2.2:Cán cân thanh toán của Việt Nam thời kỳ 1990 - 1995. Đơn vị tính: triệu USD. Hạng mục 1990 1991 1992 1993 1994 1995 Cán cân thương mại -41 -63 -60 -547 -1.192 -2.346 Xuất khẩu ( FOB) 1.731 2.042 2.475 2.985 4.054 5.198 Nhập khẩu ( FOB ) -1.772 -2.105 -2.535 -3.532 -5.245 -7.543 Dịch vụ phi đại lý (ròng) 55 179 312 78 19 159 Dịch vụ đại lý ( ròng ) -412 -339 -384 -560 -337 -310 Chuyển giao ( ròng ) 138 91 123 264 305 627 Cán cân vãng lai. - Ngoại trừ quà biếu tặng. -350 -188 -73 -957 -1.340 -2.020 - Bao gồm quà biếu tặng -262 -133 -9 -763 -1.205 -1.870 Cán cân vốn 122 -60 271 352 897 1.870 Các khoản vay trung và dài hạn. -46 -192 52 -597 -275 -284 - Các khoản giải ngân. 233 65 487 54 272 443 - Trả nợ định kỳ. -279 -256 -435 -651 -547 -727 Khoản vay ngắn hạn ( ròng ) 48 -88 -41 -117 124 310 Đầu tư trực tiếp nước ngoài. 120 220 260 832 1.048 1.781 Lỗi và sai sót. -2 143 6 -645 -101 114 Cán cân tổng thể. -142 -50 268 -1.056 -409 -177 Cán cân bù đắp chính thức. 142 50 -268 1.056 409 177 - thay đổi dự trữ ngoại tệ. -159 -276 -463 477 -292 -449 - IMF ( ròng ) -6 -39 175 92 - Nợ khất lại 301 332 386 -265 526 534 - Tái cơ cấu - - -190 883 - - Nguồn: Bộ Thương Mại, Tổng cục Hải quan, Ngân hàng Nhà nước.. Như phần lý luận ở chương 1 đã nêu, cán cân thanh toán có vai trò hết sức quan trọng đối với việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô của một quốc gia, những nhà quản lý kinh tế sẽ dựa vào tình hình cán cân thanh toán của quốc gia mình - được lập hàng quý, nửa năm hoặc năm mà đề ra các chính sách kinh tế phù hợp cho sự phát triển kinh tế của quốc gia trong từng thời kỳ. Để có thể hiểu rõ hơn tầm quan trọng của cán cân thanh toán đối với các chính sách kinh tế của nước ta, chúng ta hãy xem xét và phân tích tình hình kinh tế của Việt Nam thông qua cán cân thanh toán đã được lập trong thời kỳ này. Dựa vào bảng trên chúng ta sẽ xem xét tình hình kinh tế Việt Nam năm 1995 : Nhìn vào bảng trên ta thấy cán cân vãng lai thâm hụt tới 10% GDP năm 1995, trong khi xuất khẩu, nhập khẩu đều tăng trưởng mạnh, xuất khẩu tăng 27,1% giá trị tính bằng USD và nhập khẩu tăng 41,2% giá trị tính bằng USD. Song song với những tiến triển của cán cân vãng lai, cả nguồn ODA và FDI chảy vào Việt Nam đã tăng gấp hai lần, kéo theo đó là dự trữ ngoại tệ chính thức từ 876 triệu USD vào cuối năm 1994 lên tới 1,4 tỷ USD vào cuối năm 1995. Tuy nhiên, do sự gia tăng mạnh mẽ của nhập khẩu trong cả năm 1995 nên lượng dự trữ chính thức chỉ có thể đáp ứng được trong 2,3 tháng nhập khẩu tính theo “giá trị tháng nhập khẩu”. Số liệu ước tính năm 1996 cho thấy thâm hụt thương mại sẽ tiếp tục tăng. Đã có dấu hiệu cho thấy sự tăng trưởng xuất khẩu sẽ chậm lại trong khi nhập khẩu- cả tư bản và hàng tiêu dùng- vẫn tiếp tục tăng mạnh. Thông tin về nguồn tài trợ cũng cho thấy những khoản vay ngắn hạn sẽ gia tăng. Chính phủ đã thực hiện những bước đi nhằm hạn chế thâm hụt cán cân vãng lai, đặc biệt là sự gia tăng xuất nhập khẩu cũng như sẽ kiểm soát việc vay nợ nước ngoài một cách chặt chẽ hơn. Nếu những bước đi này không thành công, Chính phủ cần thắt chặt các chính sách kinh tế vĩ mô hơn nữa. Những bước đi quan trọng này góp phần đưa Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới nhanh chóng hơn. Năm 1995, Việt Nam trở thành thành viên ASEAN, điều này giúp cho việc hội nhập của nền kinh tế nước ta vào hệ thống thương mại Đông Nam á càng gần gũi hơn. Bên cạnh đó, với việc quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã được bình thường hoá và quan hệ chính thức đã được thiết lập với EU, những bước đi hướng tới quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới có thể làm tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta. Trong năm 1995, xuất khẩu đạt 5,2 tỷ USD so với 4,1 tỷ USD năm 1994. Sự tăng trưởng mạnh của xuất khẩu Việt Nam chủ yếu dựa vào các mặt hàng xuất khẩu truyền thống như dầu thô, nông sản và hàng công nghiệp nhẹ. Dầu thô tiếp tục là mặt hàng quan trọng nhất, đạt 7,6 triệu tấn, giá trị hơn 1 tỷ USD. Trong các mặt hàng nông sản thì gạo và cà phê chiếm tới 1 tỷ USD. Sản phẩm của ngành công nghiệp nhẹ là nhóm hàng xuất khẩu lớn thứ 2 với 1,6 tỷ USD trong đó may mặc chiếm 800 triệu USD và hàng thuỷ sản 620 triệu USD, tiếp tục là những mặt hàng quan trọng. Một số sản phẩm của ngành công nghiệp nhẹ như giầy dép đã có những bước tiến đáng kể với việc xuất khẩu được lượng hàng hoá có giá trị 200 triệu USD. Sự vươn lên và phát triển của các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam cho thấy đầu tư nước ngoài đã thúc đẩy năng lực xuất khẩu của nền kinh tế Việt Nam. Bên cạnh việc đa dạng hoá các sản phẩm, Việt Nam đã nhanh chóng tiếp cận với nhiều thị trường mới, một ví dụ điển hình chính là sự gia nhập của hàng hoá Việt Nam vào thị trường Mỹ theo quá trình bình thường hoá quan hệ, từ xấp xỉ 50 triệu USD năm 1994 lên tới khoảng 200 triệu USD năm 1995. Những mặt hàng như cà phê, chè, cá và hải sản – những mặt hàng không phải đối tượng chịu thuế quan của Mỹ đã mở đường vào thị trường Mỹ. Những tiến bộ này thực sự đáng ghi nhận đặc biệt khi những cuộc đàm phán thương mại chính thức bắt đầu vào tháng 11 năm 1995. Nhập khẩu được ghi nhận tăng trưởng rất mạnh trong năm 1995, đạt khoảng 7,5 tỷ USD. Trong năm 1994, hàng hoá tư bản - đi theo các dự án đầu tư nước ngoài – chiếm một phần lớn trong tổng nhập khẩu (2,8 tỷ USD) và bên cạnh đó là nguyên liệu thô cũng như đầu vào trung gian (1,4 tỷ USD). Tuy nhiên, những mặt hàng nhập khẩu khác như hàng tiêu dùng chiếm tới 45% trong tổng mức gia tăng nhập khẩu của năm 1995, những mặt hàng đó là xe máy, linh kiện ô tô- cho thấy sự gia tăng mạnh mẽ của cầu trong nước. Hơn nữa, trong 9 tháng đầu năm 1996 cho thấy nhập khẩu vẫn tiếp tục tăng mạnh và hàng hoá tư bản tiếp tục góp một phần lớn trong sự gia tăng nhập khẩu năm 1996. Đối với cán cân vãng lai và cán cân vốn, với sự tăng trưởng vượt xa của nhập khẩu so với xuất khẩu, thâm hụt thương mại tăng từ 1,2 tỷ USD năm 1994 lên 1,9 tỷ USD năm 1995. Sự gia tăng của cán cân chuyển giao một chiều – 476,7 triệu USD đã góp phần hạn chế thâm hụt cán cân vãng lai. Mặc dù vậy, thâm hụt cán cân vãng lai vẫn là 10% GDP cao hơn dự báo và cao hơn năm 1994 (8,6%). Sự thâm hụt này chủ yếu được bù đắp bởi nguồn FDI lên tới 1,8 tỷ USD, cao hơn dự đoán. Phần còn lại được bù đắp bởi các khoản ODA và các khoản vay khác (chẳng hạn nguồn tiền gửi tư nhân từ nước ngoài về cho người thân trong nước). Một số nguồn khác bao gồm các khoản giải ngân từ IMF và các khoản tín dụng thương mại ngắn hạn là 310 triệu USD. Những luồng vốn này góp phần tạo nên lượng dự trữ ngoại tệ chính thức lên tới 1,4 tỷ USD vào cuối năm 1995. Tuy nhiên, lượng dự trữ này chỉ có thể đáp ứng được 2,3 tháng nhập khẩu. Bảng 2.3: Cán cân thanh toán Việt Nam thời kỳ 1996 - 1998. Đơn vị tính: triệu USD. Hạng mục 1996 1997 1998 Cán cân thương mại -3.143 -1.315 -981 -Xuất khẩu ( FOB ) 7337 9145 9365 - Nhập khẩu ( FOB ) -10.480 -10.460 -10.346 - Cán cân dịch vụ và chuyển nhượng một chiều ( ròng ). 712 -349 -86 -Dịch vụ phi đại lý. -61 -623 -539 -Trao đổi chính thức. 150 175 172 Cán cân vãng lai. -2.431 -1.664 -1.067 Cán cân vốn. 2.079 1.662 216 -Vay trung và dài hạn. 772 1.007 1.121 - Trả nợ định kỳ. -674 -632 -690 -Vay ngắn hạn ( ròng ). 224 -612 -644 -Tổng FDI. 1.813 2.074 800 Lỗi và sai sót. 71 -2 327 Cán cân tổng thể. -281 -4 -524 Cán cân bù đắp chính thức. -Thay đổi dự trữ ngoại tệ (ròng). -438 -265 63 -Tín dụng IMF (ròng) 178 -54 -78 -Khoản giảm nợ. 0 0 413 -Thay đổi các khoản nợ còn phải trả. 541 323 126 Nguồn: IMF- Việt Nam country profile. Nhìn vào Bảng 2.3 ta thấy thâm hụt cán cân thương mại lên tới 3,143 tỷ USD trong năm 1996 (hoặc 14% GDP). Nhập khẩu và xuất khẩu tăng nhanh, gần 40% tính theo USD. Tất cả các thành phần của hàng hoá xuất khẩu đều tăng. Hàng chế biến xuất khẩu tăng mạnh lên 2 tỷ USD trong năm 1996 do sự gia tăng mạnh mẽ của các mặt hàng dệt, hàng may mặc và giầy dép. Xuất khẩu hàng nông sản, dầu thô cũng tăng nhanh trong năm 1996. Xuất khẩu gạo tăng lên 3,2 triệu tấn, đảm bảo Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới. Xuất khẩu dầu thô tăng 30% chia đều giữa mức tăng về giá và lượng. Thâm hụt thương maị năm 1996 chỉ được bù trừ một phần nhỏ bởi mức thặng dư của cán cân dịch vụ, dẫn đến mức thâm hụt của cán cân vãng lai khoảng 11% GDP trong năm 1996, cao hơn mức 10% của năm 1995. Phần lớn mức thâm hụt được bù trừ bằng nguồn FDI. Giải ngân của hỗ trợ phát triển chính thức – ODA,kể cả viện trợ không hoàn lại, tăng từ khoảng 430 triệu USD trong năm 1995 lên đến 570 triệu USD trong năm 1996. Các nguồn vay nợ thương mại và vay nợ ngắn hạn cũng tăng thêm. Đây là một mối lo ngại vì khả năng trả nợ nước ngoài của Việt Nam vẫn còn yếu kém. Nói chung, đã có một mức thặng dư trong cán cân thanh toán và dự trữ ngoại tệ tăng thêm trên 400 triệu USD, nhưng mức tăng dự trữ ngoại tệ này chậm và thấp hơn mức tăng của nhập khẩu, dẫn đến mức dự trữ ngoại tệ giảm, tính theo “giá trị tháng nhập khẩu” tương đương, từ 2,3 “giá trị tháng nhập khẩu” năm 1995 xuống 2,2 “giá trị tháng nhập khẩu” vào cuối năm 1996. Mức dự trữ này được xem là thấp nếu so với thông lệ quốc tế và phản ánh tình trạng mỏng manh của cán cân thanh toán Việt Nam. Trong hai năm 1997 và 1998, tình hình cán cân thanh toán Việt Nam đã có nhiều xáo trộn không như các chuyên gia kinh tế đã dự báo do cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ Châu á.Thâm hụt cán cân thương mại của hai năm so với năm 1996 đã giảm đi rất nhiều do trong hai năm trên xuất khẩu đã có những bước tiến vượt bậc, xuất khẩu năm 1997 là 9,145 tỷ USD so với 7,337 tỷ USD. Bên cạnh những bước tiến của lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu trong hai năm 1997 và 1998 không những không tăng mà còn giảm. Tuy nhiên, đây không phải là điều tốt (nó chỉ đáng nói về mặt số liệu) mà là do chúng ta đã cố kìm hãm nhập khẩu lại nên cán cân vãng lai tốt lên nhưng tthực trạng nền kinh tế lại xấu đi. Cán cân thương mại hai năm 1997, 1998 lần lượt là -1.315 triệu USD và -981 triệu USD so với -3.143 triệu USD năm 1996. Tuy nhiên, cán cân vốn lại không có được những bước tiến như vậy mà liên tục suy giảm trong hai năm 1997 và1998. Một điều rất đáng mừng đối với cán cân thanh toán Việt Nam là các khoản vay nợ ngắn hạn đã giảm nhiều điều đó cũng có nghiã là chúng ta đã thực hiện tốt chính sách vay nợ và thực hiện thành công việc trả nợ nước ngoài. Phần lớn mức thâm hụt cán cân thanh toán chủ yếu vẫn được bù đắp từ nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta. Nguồn vốn FDI sau một thời gian liên tục tăng nhưng đến năm 1998 đã gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, đây cũng là khó khăn chung của toàn bộ khu vực do những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á mang lại. Điều này đặt ra cho chúng ta những thách thức to lớn trong quá trình “hiện đại hoá, công nghiệp hoá đất nước” do nguồn vốn đầu tư nước ngoài chiếm vị trí rất quan trọng trong cơ cấu vốn đầu tư của đất nước. Trên đây, chúng ta đã xem xét, phân tích tình tình kinh tế đất nước thông qua việc lập cán cân thanh toán. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, việc xây dựng cán cân thanh toán vẫn chưa có một văn bản pháp quy nào quy định cụ thể nhiệm vụ cũng như vai trò của các cơ quan chức năng trong công tác này. Chúng ta vẫn cần rất nhiều đến sự trợ giúp của Quỹ tiền tệ Quốc tế cũng như Ngân hàng Thế giới. 2.2.2. Thời kỳ từ 1999 đến nay. Năm 1999 đánh dấu một mốc quan trọng trong việc xác lập cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam. Ngày 16/11/1999 Nghị định số 164/1999/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam, ngày 28/3/2000 Thông tư hướng dẫn thi hành một số điểm về lập cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam theo Nghị định số 164/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 của Chính phủ cũng đã được ban hành. Theo đó, việc lập cán cân thanh toán quốc tế được quy định cụ thể từng nhiệm vụ cho các Bộ, các cơ quan, Ban ngành có liên quan. Theo Nghị định số 164/1999/NĐ-CP thì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan chịu trách nhiệm chủ trì lập, theo dõi và phân tích cán cân thanh toán; Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Tổng cục Thống kê cùng phối hợp với Ngân hàng Nhà nước trong việc lập, theo dõi và phân tích cán cân thanh toán. Trách nhiệm của từng cơ quan được quy định cụ thể như sau: Ngân hàng Nhà nước chủ trì cùng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Tổng cục Thống kê phân tích cán cân thanh toán, đề xuất các giải pháp cải thiện cán cân thanh toán trình Chính phủ. Ngân hàng Nhà nước còn là đầu mối thu thập, tổng hợp số liệu, lập và theo dõi cán cân thanh toán thực tế và cán cân thanh toán dự báo. Chủ động điều hành chính sách tiền tệ, hoạt động tín dụng, quản lý ngoại hối, đề xuất các biện pháp quản lý vay trả nợ nước ngoài của khu vực doanh nghiệp nhằm cải thiện cán cân thanh toán. Cung cấp bảng cán cân thanh toán thực tế, cán cân thanh toán dự báo cho các Bộ, ngành có liên quan khi cần thiết. Trình Chính phủ cán cân thanh toán dự báo và thực tế và báo cáo phân tích cán cân thanh toán. Bộ Kế hoạch và Đầu tư: chịu trách nhiệm theo dõi tác động của kết quả cán cân thanh toán đến các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô để đề xuất các giải pháp, chủ trương, chính sách kinh tế dài hạn trình Chính phủ. Bộ Thương mại: chịu trách nhiệm điều hành hoạt động xuất nhập khẩu, theo dõi tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đến cán cân thanh tóan để đề xuất các biện pháp, chính sách thương mại nhằm cải thiện cán cân thương mại cũng như cán cân thanh toán. Bộ Tài chính: chịu trách nhiệm điều hành chính sách tài khoá để đảm bảo cân đối thu chi ngân sách, đề xuất các biện pháp, chính sách tài khoá tác động tích cực đến cán cân thanh toán. Trong Nghị định số 164/1999/NĐ-CP cũng đã giải thích rõ các từ ngữ, các khái niệm cũng như quy định phạm vi áp dụng. Theo Nghị định số 164/1999/NĐ-CP thì cán cân thanh toán bao gồm cán cân thanh toán dự báo và cán cân thanh toán thực tế: Cán cân thanh toán dự báo được lập trên cơ sở các chỉ tiêu kinh tế tài chính dự báo cho thời gian tới. Cán cân thanh toán thực tế được lập trên cơ sở số liệu kinh tế tài chính thực tế phát sinh trong kỳ báo cáo. Nguyên tắc lập cán cân thanh toán: Cán cân thanh toán phản ánh toàn bộ các giao dịch tiền tệ giữa Người cư trú và Người không cư trú (đã được quy định rõ trong Nghị định số 164/1999/NĐ-CP). Cán cân thanh toán được lập theo đơn vị tiền tệ thích hợp do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định. Các giao dịch kinh tế được thống kê tại thời điểm chuyển giao quyền sở hữu. Giá trị các giao dịch kinh tế được tính theo giá thị trường và được quy đổi ra đơn vị tiền tệ thích hợp theo tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước quy định. Về cơ bản, nội dung của cán cân thanh toán Việt Nam theo quy định của Nghị định số 164/1999/NĐ-CP cũng tương tự như mẫu của IMF đưa ra áp dụng chung cho các quốc gia trong quá trình lập cán cân thanh toán. Nội dung của cán cân thanh toán Việt Nam được quy định như sau: Cán cân vãng lai tổng hợp toàn bộ các giao dịch tiền tệ giữa Người cư trú và Người không cư trú về hàng hoá, dịch vụ, thu nhập của người lao động, thu nhập từ đầu tư trực tiếp, thu nhập từ đầu tư vào giấy tờ có giá, lãi vay và lãi tiền gửi nước ngoài, chuyển giao vãng lai một chiều và các giao dịch khác theo quy định của pháp luật. Cán cân vốn và tài chính tổng hợp toàn bộ các giao dịch tiền tệgiữa Người cư trú và Người không cư trú về chuyển vốn từ nước ngoài vào Việt Nam, chuyển vốn từ Việt Nam ra nước ngoài trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp, đầu tư vào giấy tờ có giá, vay và trả nợ nước ngoài, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài, chuyển giao vốn một chiều, các hình thức đầu tư khác và các giao dịch khác theo quy đinh của pháp luật Việt Nam làm tăng hoặc giảm tài sản có hoặc tài sản nợ. Cán cân tổng thể là tổng hợp của cán cân vãng lai và cán cân vốn và tài chính. Phần bù đắp tổng hợp những thay đổi trong tài sản có ngoại tệ ròng và những thay đổi về nợ quá hạn. Nghị định số 164/1999/NĐ-CP cũng quy định cụ thể về thời hạn cung cấp số liệu, theo đó thời hạn cung cấp tình hình, số liệu được quy định như sau: Thời hạn cung cấp tình hình, số liệu cho Ngân hàng Nhà nước: Các Bộ, ngành có liên quan có trách nhiệm cung cấp thông tin, số liệu dự báo của quý chậm nhất vào ngày 15 của tháng cuối cùng của quý trước; thông tin, số liệu dự báo năm và thông tin, số liệu dự báo cho thời kỳ trung hạn chậm nhất vào ngày 10/11 của năm trước. Các Bộ, ngành có liên quan có trách nhiệm cung cấp thông tin, số liệu thực tế của quý chậm nhất vào ngày 20 của tháng đầu của quý sau và thông tin, số liệu thực tế năm chậm nhất vào ngày 31 tháng 01 của năm sau. Tổng cục Hải quan ( nay thuộc Bộ Tài chính ) cung cấp số liệu nhanh 10 ngày một lần. Các tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế khác cung cấp số liệu hàng tháng chậm nhất vào ngày 20 của tháng tiếp theo; cung cấp thông tin, số liệu quý, năm chậm nhất vào ngày 31 tháng 01 của năm sau. Thời hạn báo cáo thông tin, số liệu cán cân thanh toán của Ngân hàng Nhà nước cho Chính phủ: Báo cáo cán cân thanh toán dự báo quý chậm nhất vào ngày 25 của tháng cuối cùng của quý trước và cán cân thanh toán dự báo năm chậm nhất vào ngày 20 tháng 11 của năm trước. Báo cáo tình hình thực hiện cán cân thanh toán thực tế quý chậm nhất vào ngày làm việc cuối cùng của tháng đầu quý sau; cán cân thanh toán thực tế năm chậm nhất vào ngày 10 tháng 02 của năm sau. Bảng 2.4: Mẫu cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam. Đơn vị: Triệu…. Quý Năm I Cán cân vãng lai. 1 Cán cân thương mại. Xuất khẩu ( FOB ). Nhập khẩu ( FOB ). 2 Thu, chi từ dịch vụ ( ròng ). Thu. Chi. 3 Thu nhập. Thu nhập của người lao động. Thu nhập về đầu tư. + Thu nhập từ đầu tư trực tiếp. + Thu nhập từ đầu tư vào giấy tờ có giá. + Nợ lãi đến hạn phải trả của các khoản vay nợ. ( Trong đó: thực trả ) 4 Chuyển giao vãng lai một chiều. Chuyển giao của khu vực Nhà nước. Chuyển giao của khu vực tư nhân. II Cán cân vốn và tàI chính. 1 Chuyển giao vốn một chiều. 2 Đầu tư trực tiếp ( ròng ). 3 Đầu tư vào giấy tờ có giá. 4 Tín dụng trung- dài hạn. Vay. Nợ gốc đến hạn phải trả của các khoản vay nợ. ( Trong đó: thực trả ) 5 Tín dụng ngắn hạn. Vay. Nợ gốc đến hạn phải trả của các khoản vay nợ. ( Trong đó: thực trả ) III Lỗi và sai sót. IV Cán cân tổng thể. V Nguồn bù đắp. 1 Thay đổi tài sản có ngoại tệ. Thay đổi dự trữ ( - tăng; + giảm ). Sử dụng vốn của IMF ( ròng ). + Vay. + Trả. 2 Thay đổi nợ quá hạn. Theo thông tư số 05/2000/TT-NHNN1 ra ngày 28/3/2000 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thi hành một số điểm về lập cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam theo Nghị định số 164/1999/NĐ-CP, các Bộ, ngành có liên quan khi tập hợp số liệu để lập cán cân thanh toán thì tương ứng với mỗi Bộ, ngành đều có những mẫu bảng, biểu riêng để thuận tiện cho việc tổng hợp số liệu. Tiếp theo chúng ta sẽ xem xét, phân tích tình hình cán cân thanh toán của Việt Nam trong những năm gần đây khi Nghị định số164/1999/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý cán cân thanh toán của Việt Nam đã có hiệu lực thi hành. Bảng 2.5:Cán cân thanh toán của Việt Nam thời kỳ 1999 – 2001. Đơn vị tính: Triệu USD Hạng mục 1999 2000 2001 Cán cân vãng lai. 1.285 642 1.059 Cán cân vãng lai ( không kể viện trợ cho Chính phủ ). 1.154 906 909 Cán cân vốn và tàI chính. -334 -772 563 Lỗi và sai sót. -183 247 -1.275 Cán cân tổng thể. 768 117 347 Nguồn: IMF, Ngân hàng Nhà nước Dưới đây ta sẽ phân tích tình hình kinh tế Việt Nam trong năm 2001 thông qua các chỉ tiêu trên cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam. Kinh tế thế giới và kinh tế trong nước năm 2001 có nhiều biến động đã tác động đến cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam. Sau 3 quý thặng dư, cán cân vãng lai quý IV đã thâm hụt 120 triệu USD một phần do tác động của sự kiện 11/9. Tuy nhiên, tính cả năm cán cân vãng lai vẫn có thặng dư ước đạt 1.059 triệu USD. Như vậy, cán cân vãng lai của Việt Nam thặng dư trong 3 năm liền kể từ năm 1999. Trong cán cân vãng lai, cán cân thương mại hàng hoá và dịch vụ tương đối cân bằng. Mặc dù có giảm so với năm 2000, song thâm hụt cán cân thu nhập (theo nhân tố sản xuất) vẫn lên tới 510 triệu USD. Chuyển giao tư nhân (ròng) giảm xấp xỉ 14% so với năm 2000 do suy thoái kinh tế ở các nước phát triển đã làm giảm thu nhập của Việt kiều cũng như sự kiện 11/9 đã hạn chế việc chuyển kiều hối về nước trong quý IV năm 2001. Do có những cải thiện nhất định trong môi trường đầu tư cộng với sự ổn định về mặt chính trị, đầu tư nước ngoài (vốn giải ngân, kể cả vốn chủ sở hữu và vốn vay) tăng hơn so với năm 2000. Các khoản vay ròng ngắn hạn, trung và dài hạn cũng không quá mất cân đối. Khác với tình trạng thâm hụt năm 2000, cán cân vốn và tài chính năm 2001 ước bội thu 563 triệu USD. Do vậy, cán cân tổng thể thặng dư xấp xỉ 350 triệu USD (do sai số còn lớn) góp phần tăng dự trữ ngoại hối, ổn định kinh tế vĩ mô và hạn chế áp lực căng thẳng cung cầu về ngo._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37131.doc