Xây dựng Dự án phát triển sản phẩm cho Trung tâm Mẫu & Đào tạo thuộc Viện nghiên cứu Da - Giầy (FATRACEN)

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Ngành công nghiệp Da giày Việt Nam có lịch sử phát triển từ lâu đời và hiện nay đang là một trong những ngành công nghiệp có lợi thế xuất khẩu, đóng góp đáng kể trong sự phát triển kinh tế của đất nước. Tuy có nhiều ảnh hưởng của vụ kiện bán phá giá đối với giày mũ da của EU nhưng kim ngạch xuất da giày năm 2006 của nước ta đạt khoảng 3,56 tỷ USD tăng 16,9% so với năm 2005 đã vượt 6,1% so với kế hoạch 3,35 tỷ USD. Một chặng đường phát triển lâu dài, những nỗ lực đáng kh

doc52 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1410 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Xây dựng Dự án phát triển sản phẩm cho Trung tâm Mẫu & Đào tạo thuộc Viện nghiên cứu Da - Giầy (FATRACEN), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
âm phục với biết bao thăng trầm và biến cố đã càng chứng minh tầm quan trọng của ngành trong sự phát triển của đất nước. Không nằm ngoài quy luật ấy, Viện nghiên cứu Da - Giầy cũng đã, đang và sẽ nỗ lực hết sức để hoà mình vào với sự phát triển chung của ngành và cũng đã có nhiều thay đổi đáng kể trên chặng đường phát triển của mình. Tháng 1 năm 2006 đánh dấu sự ra đời của Trung tâm Mẫu và Đào tạo thuộc Viện nghiên cứu Da - Giầy (FATRACEN). Với rất nhiều các hoạt động khác nhau về đào tạo da - Giầy, thiết kế mẫu mốt và tổ chức các hoạt động liên quan trong nghành Da - Giầy được các Doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và kinh doanh Da - Giầy biết tới. Rất nhiều lợi thế như vậy nhưng Trung tâm lại quên mất đi việc đưa tên tuổi của mình ra thị trường với nhiều loại sản phẩm có chất lượng và tư cách của một Doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh Da -Giầy để tận dụng trang thiết bị máy móc trong việc sản xuất thử nghiệm và chuyển giao công nghệ. Trước thực trạng đó Trung tâm cần có những nghiên cứu và đưa ra Dự án phát triển sản phẩm của mình trên thị trường. Dưới đây là một vài quan sát và nghiên cứu của Em về Trung tâm trong thời gian Em thực tập tại đó để góp phần vào việc xây dựng Dự án phát triển sản phẩm cho Trung tâm. Bài viết có cấu trúc bốn phần với những nội dung như sau: Phần I: Sự cần thiết của Dự án. Phần II: Tính khả thi của Dự án. Phân III: Mục tiêu của Dự án. Phần IV: Các hành động của Dự án. Do có nhiều hạn chế về thời gian và kiến thức nên bài viết của Em còn sơ sài và còn nhiều thiếu sót, Em rất mong nhận được sự nhận xét góp ý từ phía Cô Hoàng Thị Thanh Hương – Giáo viên hướng dẫn Em hoàn thành kỳ thực tập này và phía Quý Trung tâm nơi tạo điều kiện và giúp đỡ Em trong quá trình thực tập. Em xin chân trọng cảm ơn.  PHẦN I: SỰ CẦN THIẾT CỦA DỰ ÁN. CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH CỦA TRUNG TÂM. I. Chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm. Được thành lập vào ngày tháng 1 năm 2006 theo mô hình chuyển đổi tổ chức hoạt động của Viện nghiê cứu Da - giầy (theo Nghị định 115/2008/NĐ-CP của Chính phủ và thông tư liên tịch số 12/2006/TTLT/BKH&CN – BTC – BNV giữa Bộ Khoa học và công nghệ, Bộ Tài chính và Bộ Nội vụ). Trung tâm là một trong các khối đơn vị trực thuộc của Viện nghiên cứu với các chức năng chủ yếu sau: Nghiên cứu thời trang, thiết kế mẫu mốt, chuyển giao công nghệ, tổ chức các hoạt động trình diễn và định hướng thời trang phục vụ người tiêu dùng thuộc ngành Da Giày Tổ chức, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, chuyên môn nghiệp vụ ngành Da Giày Tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng, nâng bậc thợ, cấp chứng chỉ nghề, chứng chỉ nhận bồi dưỡng nghề theo quy định của pháp luật và Bộ Lao động- Thương binh- Xã hội về giáo dục và dạy nghề Thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ và thiết kế thời trang gắn với đào tạo nghề và sản xuất thuộc ngành Da Giày Tổ chức các hoạt động thông tin bằng các hình thức hội nghị, chuuyên đề, hội thảo khoa học, tham quan, khảo sát học tập kinh nghiệm, đào tạo, in ấn, xuất bản các ấn phẩm, tài liệu, giáo trình phục vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học theo quy định của pháp luật Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu thiết kế thời trang thuộc ngành Da Giày với các cơ quan, đơn vị, cá nhân trong và ngoài nước Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của nhà nước. II. Cơ sở vật chất của Trung tâm. Tổng diện tích 2581 m2 trong đó: Văn phòng làm việc và kho 267m2, Xưởng thực nghiệm và phòng học 1200m2 và cửa hàng giới thiệu sản phẩm và dịch vụ là 1700m2. Giá trị tài sản bao gồm: Giá trị lô đất 12 tỷ 524000 đồng, Giá trị còn lại của nhà là 2 tỷ 870000 đồng. Tổng giá trị còn lại của máy móc thiết bị của Trung tâm là 3920 triệu 281795 đồng. Khu vực sản xuất được bố trí bao gồm 2 bộ phận Xưởng chế biến và bộ phận thiết kế và phát triển sản phẩm.Trong đó Xưởng chế biến bao gồm: bộ phận chặt, bô phận may, bộ phận gò ráp đế và hoàn thiện sản phẩm. Bộ phận thiết kế và phát triển sản phẩm. tại mỗi bộ phận này được trang bị các máy móc thiết bị phù hợp phục vụ cho việc sản xuất của mỗi bộ phận. Ở bộ phận Chặt được trang bị máy chặt, máy xẻ da, máy ép làm đế, máy xén cạnh đế, máy mài, máy dập ô dê. Ở bộ phận May được trang bị máy may và máy dẫy mép các loại phù hợp với công việc may của nhiều loại Giầy Dép, Máy xén lót, máy in cao tần, máy may Viện Nghiên Cứu Da - Giầy tính để chuyên may mác giầy dép được lập trình sẵn trong máy. Ở bộ phận Gò ráp đế và hoàn thiện sản phẩm được trang bị các loại máy móc thiết bị như máy gò mũi, máy gò hậu, máy định hình pho (định hình pho mũi và định hình pho hậu), máy bôi keo, máy sấy, máy làm lạnh, máy khêu đế giầy, máy mài, máy đóng ghim, máy trải chuốt, máy đóng đinh. Riêng bộ phận thiết kế và phát triển sản phẩm ngoài các thiết bị phục vụ cho việc thiết kế bao gồm máy Viện Nghiên Cứu Da - Giầy tính, máy vi tính, máy quét, các phần mền thiết kế và các máy móc thiết bị khác phục vụ công tác thiết kế. Theo nhận xét từ phía công nhân của xưởng chế biến thì việc trang bị các loại máy móc thiết bị như vậy là tương đối hoàn chỉnh với việc sản xuất sản phẩm của Trung tâm so với công việc trước đay khi máy móc thiết bị còn ít và tình hình trang bị còn chưa đáp ứng được nhu cầu giải phóng sức lao động chân tay của người lao động, làm giảm đi thưòi gian gain đoạn trong sản xuất. III. Tình hình sản xuất kinh doanh của Trung tâm. Trung tâm là đơn vị nghiên cứu khoa học công nghệ hoạt động theo phương thức tự trang trải kinh phí. Hiện nay, hoạt động của Trung tâm một phần vẫn được tài trợbởi ngân sách nhà nước cấp, một phần phải tự trang trải lấy. Các hoạt động chủ yếu đem lại thu nhập cho Trung tâm hiện nay là nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và đào tạo về Da - Giầy bên cạnh đó có sản xuất nhưng là sản xuất thực nghiệm, sản xuất quy mô nhỏ, sản xuất theo kế hoạch của phòng Kế hoạch vật tư của Viện nghiên cứu Da - Giầy ngoài ra còn sản xuất theo đơn đặt hàng nhưng nguồn thu là không đáng kể. Các mặt hàng sản xuất chủ yếu của Trung tâm là: Giầy Bảo hộ lao động, Giầy dép thời trang (Giầy dép dành cho nhân viên văn phòng, học sinh sinh viên, người trung niên) và làm Giầy mẫu đo chân. Tình hình sản xuất kinh doanh của Trung tâm không lấy gì làm nổi trội và sáng sủa. Có thể thấy được thực trạng đó qua bảng tổng hợp thực hiện và giao kế hoạch của Trung tâm năm 2006 và Quý I năm 2007 như sau; Bảng1: Tổng hợp và giao kế hoạch sản xuất năm 2006 Đơn vị tính: đôi Sản phẩm Kế hoạch năm Thực hiện năm % thực hiện với kế hoạch Giầy Bảo hộ lao động 7000 5103 72,9% Giầy thời trang 10000 328 32,8% Nguồn: Phòng kế toán Biêu đồ 1: Biểu đồ tổng hợp thực hiện và giao kế hoạch sản xuất năm 2006 Đơn vị tính: đôi Bảng 2: Tổng hợp thực hiện và giao kế hoạch sản xuất Quý I năm 2007 Đơn vị tính: Đôi sản phẩm Kế hoạch năm Kế hoạch Quý I Thực hiện Quý I % thực hiện so với Quý Giầy Bảo hộ lao động 10000 2500 1056 42.24% Gia công Giầy thời trang 4500 600 377 62.83% Giầy mẫu và đo chân 3168 792 96 12.12% Nguồn:Phòng kế toán Biểu đồ 2: Biểu đồ thực hiện và giao kế hoạch sản xuất Quý I năm 2007 Đơn vị tính: đôi Với kế hoạch mà phòng kế hoạch vật tư của Viện đề ra và đặt Trung tâm Mẫu sản xuất với số lượng sản phẩm như trên thì việc hoàn thành kế hoạch được giao còn thấp với số lượng sản xuất không phải là lớn ngoại trừ việc sản xuất Giầy Bảo hộ lao động năm 2006 với 72,9% thực hiện kế hoạch được giao và đơn đặt hàng gia công Giầy thời trang nhận được trong tháng 2 của Quý I là 62,83% thựuc hiện kế hoạch. Có thể do: Phương pháp công nghệ của sản xuất Da - Giầy đặc trưng nên hình thức sản xuất theo dây chuyền các bước công việc được làm tuần tự, công việc này làm song thì mới bắt tay vào làm các công việc tiếp theo các công việc có thời gian hoàn thành không giống nhau có công việc được thực hiện trong thời gian ngắn nhưng lại có những công việc thực hiện với thời gian dài do đó thời gian gián đoạn trong sản xuất là lớn và không tận dụng được sức lao động dôi dư trong thời gian nghỉ của người lao động. Chẳng hạn như công việc dán đế trong, việc mài đế và việc dập ghim được làm lần lượt từ khâu mài cá ngắn, cá dài, dập ghi cá ngắn sau đó mang bôi keo cá ngắn, cá dài và đế trong. Khâu dán đế trong phải đợi keo khô mới thực hiện dán được sau đó mới mang đi mài rồi mới vận chuyển sang bộ phận gò ráp và hoaàn thiện sản phẩm. Cộng thêm việc bố trí mặt bằng nhà xưởng làm cho việc sản xuất gặp nhiều khó khăn vì đường vận chuyển của nguyên vật liệu, bán thành phẩm dài tốn thời gian vận chuyển và chờ đợi để làm và hoàn thiện một đôi giầy. Với mặt bằng nhà xưởng, trang thiết bị hiện có và số lượng lao động bao gồm công nhân sản xuất và kỹ sư thiết kế của Trung tâm như hiện nay thì có thể sản xuất được từ 190 - 195 đôi giầy trong một ngày làm việc, còn nếu sử dụng hết công suất của máy móc thiết bị và con người thì có thể sản xuất được nhiều hơn nữa chăng hạn như trong giai đoạn hiện nay Trung tâm đang nhận gai công giầy thời trang cho Công ty Blue Sky thì việc năng suất lao động trên 250 đôi giầy. Nhưng theo lời của một số Công nhân trong xưởng chế biến thì rất hiếm khi Trung tâm phải sử dụng hết công suất của máy móc thiết bị và sức lao động của người công nhân. Từ tháng 2 năm 2007 trở lại đây với đơn hàng gia công Giầy thời trang của Công ty Blue Sky thì công việc có vẻ nhiều và việc sản xuất liên tục, làm thêm vào ngày thứ Bảy đã sử dụng hết công suất của máy móc và người lao động. Việc tìm kiếm các hợp đồng sản xuất và nghiên cứu nhu cầu thị trường để sản xuất sẽ tạo điều kiện cho việc sử dụng có hiệu quả công suất của máy móc thiết bị, tạo thêm thu nhập cho người lao động tạo nguồn thu để trang trả chi phí cho sản xuất và làm cho viêc kinh dopanh cửa hàng có hiệu quả hơn. Về kinh doanh dường như cũng gặp nhiều khó khăn, theo số liệu thu thập được trong năm 2006 và Quý I năm 2007 thì việc kinh doanh cửa hàng có vẻ không có kết quả tốt, không có vẻ khả quan. Với kế hoạch đặt ra trong năm 2006 là 30 triệu đồng thì cuối năm việc thực hiện kế hoạch đó lại không có kết quả không đem lại thu nhập từ phía cửa hàng bán lẻ. Còn trong Quý I thì việc thực hiện kinh doanh cửa hàng so với kế hoạch là 12,5 triệu cũng lại không đem lại doanh thu cho Trung tâm. Tình trạng đó đã từng xảy ra trong các năm về trước khi mà Trung tâm chưa được thành lập nguyên nhân của nó là do: Mẫu hàng, cỡ số và kiểu dáng ít không đáp ứng nhu cầu của khách hàng đôi khi khách hàng đã chọn được mẫu giầy nhưng cỡ số lại không phù hợp hoặc cỡ số phù hợp nhưng mẫu hàng lại không được ưa thích, ngoài ra về mầu sắc của giầy dép cũng là điều kiến khách hàng phải băn khoăn khi lựa chọn. Nhiều lúc khách hàng đã chọn được đôi giầy ưng ý về mẫu mã, kiểu dáng nhưng mầu sắc có vẻ vẫn chưa được hài lòng cho lắm. Theo quan sát thì khách hàng chhủ yếu của Trung tâm là những người đi làm đa số là nhân viên Văn phòng, một số ít là học sinh sinh viên và người trung tuổi là khách hàng quen hoặc được bạn bè, người quen giới thiệu đến Cửa hàng của Trung tâm để mua hàng vì họ cho rằng với mẫu mã, kiểu dáng, chất lượng và giá cả như vậy họ là tương đôốiphù hợp với họ và họ sẵn sàng mua nó. Nhưng với một số sinh viên các trường đại học dường như ít biết đến sản phẩm của Trung tâm với lý do được hỏi là chưa từng nghe tới tên tuổi của Trung tâm hay đối với một số khác được bạn bè người thân giới thiệu đên đó mua Giầy thường có một tâm trạng chung về kiểu dáng thời trang có vẻ không thu hút họ cho lắm tuy họ cũng công nhận là sản phẩm có giá cả và chất lượng tương đối phù hợp. Một thông tin không lấy gì làm thú vị về việc kinh doanh của cửa hàng đó là các mặt hàng mà Trung tâm đang kinh doanh không hoàn toàn do Trung tâm sản xuất ra. Lượng hàng mà Trung tâm sản xuất được so với lượng hàng mà Trung tâm mua ngoài về để bán là rất thấp trong khi năng lực sản xuất của Trung tâm có thể đáp ứng được nếu được chú ý vào tìm kiếm nhu cầu khách hàng và phát triển sản phẩm, một công việc mà Trung tâm dưòng như bỏ ít thời gian và công sức vào nghiên cứu. Khách hàng vào xem hàng là tương đối nhiều nhưng lượng khách hàng bỏ tiền để mua hàng thì không lớn. Dựa vào báo cáo tổng hợp năm 2006 và Quý I năm 2007 thì việc kinh doanh cửa hàng không đem lại doanh thu cho Trung tâm vậy số lượng hàng bán ra lại không phải là sản phẩm của Trung tâm. Nhiều người đến đây đa từng nhận xét trông cửa hàng của Trung tâm như một cái kho hang hơn là một cửa hàng trưng bày vầ bán sản phẩm vì cách bố trí trong cửa hàng hơi lộn xộn và không bắt mắt cho lắm. Nhiều người đã qua đây nhiều lần nhưng vẫn không chọn cho mình được một đôi giầy dép ưng ý. Cũng đã có nhiều khách hàng phàn nàn về sản phẩm của Trung tâm, họ cho biết các mẫu mã, kiểu dáng ở đây có vẻ còn ít và cũ rất ít các mẫu hàng mới, không lấy gì làm thời trang cho lắm. Có những đôi giầy thời trang dành cho lứa tuổi thanh niên thì mầu hơi xấu, kiểu hơi thô cứng so với lứa tuổi của họ. Còn những đôi giầy dành cho người trung niên thì lại được thiết kế tương đối trẻ chung so với tầm tuổi của họ. Do đó việc sản xuất sản phẩm dựa trên các mẫu thiết kế của Trung tâm dường như không phù hợp với phần đông thị hiếu của người tiêu dùng. Doanh thu từ việc sản xuất sản phẩm của Trung tâm thông qua các đơn hàng của phòng Kế hoạch vật tư được thống kê như sau: Bảng 3: Bảng tổng hợp thực hiện và giao kế hoạch doanh thu từ sản xuất năm 2006 Đơn vị tính: 1000 đồng Sản phẩm Kế hoạch năm 2006 thực hiện năm 2006 % thực hiện so với kế hoạch Giầy Bảo bộ lao động 770000 565456 72,44% Giầy thời trang 120000 33568 27,97% Nguồn: Phòng kế toán Biểu đồ 3: Biểu đồ doanh thu từ hoạt động sản xuất năm 2006 Đơn vị tính:1000 đồng Bảng 4: Bảng tổng hợp thực hiện và giao doanh thu từ sản xuất của Quý I năm 2007 Đơn vị tính: 1000 đồng Sản phẩm Kế hoạch năm 2007 kế hoạch Quý I/07 Thực hiện Quý I/07 % thực hiện so kế hoạch Giầy Bảo hộ lao động 1300000 325000 129739 39,92% Gia công giầy thời trang 367600 91900 9649 10,5% Nguồn: phòng kế toán Biểu đồ 4: Biểu đồ thực hiện kế hoạch doanh thu từ sản xuất Quý I năm 2007 Đơn vị tính: 1000 đồng Từ các số liệu thống kê trên ta thấy việc giao kế hoạch và việc thực hiện doanh thu sản xuất có sự chênh lệch nhau tương đối lớn, việc thực hiện kế hoạch đều rất thấp. Ngoài ra, việc sản xuất Giầy Bảo hộ lao động chiếm phần lớn trong doanh thu sản xuất của Trung tâm 86,52% so với kế hoạch năm 2006 và 77,96% so với kế hoạch Quý I năm 2007, còn về thực hiện 94,4% thực hiện năm 2006 và 93,08% thực hiện Quý I năm 2007. Sự chênh lệch này là tương đối bất bình thường vì trong thực tế Giầy thời trang có giá trị lớn hơn mà việc thực hiện doanh thu của nó lại thấp chiếm tỷ trọng thấp. Thể hiện sự so sánh đó qua biểu đồ sau: Biểu đồ 5: Cơ cấu sản phẩm sản xuất của Trung tâm Năm 2006 Quý I năm 2007 Với đề án chuyển đổi trung tâm trở thành đơn vị nghiên cứu khoa học theo phương thức tự trang trải kinh phí thì tình hình sản xuất kinh doanh như vậy không mấy khả quan cho việc trang trải các chi phí hoạt động của Trung tâm và không mấy thu hút những lao động có tay nghề và chuyên môn cao đến làm việc tại Trung tâm. Với rất nhiều tồn tại bất cập trong sản xuất và kinh doanh như vậy việc cần thiết đối với Trung tâm hiện nay là nên xây dựng một dự án phát triển sản phẩm đưa sản phẩm và tên tuổi của trung tâm ra thị trường nhằm thu hút các đối tác, tìm kiếm các đơn hàng, sản xuất các mặt hàng mà thị trường có nhu cầu và dự báo nhu cầu tiêu dùng trong thời gian tới để đưa ra phương án sản xuất kinh doanh đem lại hiệu quả cao. CHƯƠNG II: LỢI ÍCH CỦA VIỆC XÂY DỰNG DỰ ÁN ĐỐI VỚI SỰ TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRUNG TÂM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY. Ngành Da - Giầy Viêt Nam có lịch sử hình thành và phát triển từ rất lâu, đa số đều đi lên từ các đơn vị thủ công nhỏ lẻ. Một chặng đường phát triển tương đối dài với nhiều biến động thăng trầm nhưng ngành Da - Giầy vẫn khẳng đinh được vị trí của mình trong nền kinh tế của nước nhà. Từ năm 2004, Việt Nam đã trở thành nước đứng thứ tư thế giới về xuất khẩu da giày, sau Trung Quốc, Hồng Kông và Italy. Sau vụ kiện bán phá giá Giầy mũ da Việt Nam và thị trường EU trong năm 2006 Ngành Da - Giầy đã rút ra cho mình nhiều bài học kinh nghiệm và đinh hưóng cho mình trên con đường phát triển sau này. Hơn nữa, với sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO) đã làm cho thị trường Da - Giầy ngày càng náo động và có nhiều cơ hội để các Doanh nghiệp phát triển mở rộng thị trường, để hội nhập cùng sự phát triển chung của Ngành Da - Giầy thế giới. Có thể nói đây là thời điểm để các nhà sản xuất Giầy dép thể hiện năng lực của mình và tranh tài cao thấp. Với lịch sử hình thành và phát triển 34 năm của Viện nghiên cứu Da- Giầy và sự ra đời Trung tâm Mẫu và đào tạo Da - Giầy thì việc đứng ngoài cuộc chiến này sẽ làm cho họ trở thành những nguời thất bại, tụt hậu và trở thành những người đi sau cuộc chiến trong tiến trình phát triển của ngành Da - Giầy. Nên việc xây dựng dự án phát triển sản phẩm của Trung tâm là rất cần thiết và có nhiều ý nghĩa quan trọng có thể làm thay đổi diện mạo của Trung tâm của Viện vì nó sẽ tạo ra những lợi ích có thể nhìn thấy được như: Tìm kiếm được nhiều hơn các đơn hàng sản xuất - kinh doanh trong và ngoài nước mà trước đây Trung tâm chưa từng có. Quảng bá tên tuổi và hình ảnh của trung tâm trên thị trường trong và ngoài nước. Tìm kiếm và thiết lập được các mối quan hệ có lợi với các đối tác trong lĩnh vực nguyên phụ liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra đáp ứng tình hình sản xuất kinh doanh của Trung tâm trong hiện tại và tương lai. Sản xuất Giầy dép theo nhu cầu thị trường đã nghiên cứu tránh tình trạng hàng sản xuất ra không bán được do không đáp ứng được nhu cầu thị trường về một số yếu tố mà khách hàng hay chú đến (mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc và xu hướng thời trang của từng giai đoạn). Đề ra phương án bố trí mặt bằng sản xuất, máy móc thiết bị cho sản xuất và phục vụ sản xuất phù hợp, phương thức sản xuất và các phương án sản xuất phù hợp với từng giai đoạn phát triển khác nhau của thị trường. Là cơ sở để bố trí và sắp xếp nhân lực một cách phù hợp. Tóm lại, lợi ích lớn nhất mà Trung tâm có thể thấy được trong việc thực hiện dự án này đó là quảng bá được tên tuổi và hình ảnh của mình trên thị trường, từng bước xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm của Trung tâm. Hơn nữa, dự án còn mang lại một khoản thu nhập tương đối cho việc trang trải các khoản chi phí hoạt động của Trung tâm. Đưa Trung tâm vào quỹ đạo phát triển chung của ngành và tạo dựng vị thế của mình. PHẦN II: TÍNH KHẢ THI CỦA DỰ ÁN. CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ DỰ ÁN. Đây là một dự án kinh doanh được xây dựng trên cơ sở sự phát triển của Trung tâm nói riêng và sự phát triển của ngành, thị trường Da Giầy nói chung. Dự án được xây dựng từ ý tưởng và sự mong muốn của Giám đốc Trung tâm khi thấy được tầm quan trọng của thị trường trong sự tồn tại và phát triển của Trung tâm trong thời buổi kinh tế hội nhập như ngày nay. Khi mà Việt Nam gia nhập WTO đứng trước nhiều thách thức và nguy cơ của nền Công nghiệp nước nhà. Khi mà hàng hoá nước ngoài tham gia vào thị trường nước ta đe doạ sự phát triển của hàng hoá nôi địa. Với ngành Da - Giầy thì sự đe doạ ấy là tương đối lớn và dễ nhận thấy vì Giầy dép nước ngoài rất đa dạng và phong phú, hàng đát tiền có, hàng rẻ tiền có, hàng có nhãn mác có, hàng không nhãn mác có. Do đó việc thực hiện dự án này sẽ tìm ra hướng đi phù hợp cho Trung tâm, tìm được đoạn thị trường của mình, tìm được khách hàng của mình và tạo dựng cho mình chỗ đứng trên thị trường và không bị lãng quên trong ngành. Nội dung của dự án là phát triển sản phẩm dựa trên những nghiên cứu về nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Như vậy công việc của dự án là vạch ra các hành động phù hợp với những nghiên cứu đã thực hiện đi vào thực hiện một cách chi tiết từng công vệc phải làm và thời gian hoàn thành của từng công việc đó để đạt được mục tiêu mà dự án đã đề ra. Để làm được điều đó đòi hỏi sự thay đổi trong suy nghĩ và tư duy của người lao động trong Trung tâm giúp họ nhận ra sự cần thiết của sự thay đổi, sự cần thiết thực hiện dự án; thay đổi cách thức làm việc và sự kết thực hiện của các bộ phận trong Trung tâm, sự kiên trì trong quá trình thực hiện dự án. CHƯƠNG II: CĂN CỨ XÁC ĐỊNH DỰ ÁN. Căn cứ lớn nhất của dự án này xuất phát từ phía nhu cầu tồn tại và phát triển của Trung tâm trong sự phát triển của thị trường, của xã hội. Đây là nhu cầu tất yếu trong giai đoạn hiện nay khi mà chính Trung tâm nhận ra cần phải thay đổi để phù hợp với thực tế hơn, để có kết quả tốt hơn. Để đảm bảo cho các hoạt động của mình sau khi chuyển đổi hoạt động theo mô hình tự trang trải kinh phí và để các hoạt động trở lên tốt hơn, từng bước cải tạo Trung tâm theo hướng ngày càng tốt hơn để Trung tâm ngày càng phát triển hơn hoà nhập vào sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam và xu hướng phát triển của thị trường thế giới. Để phục vụ nhu cầu thị trường, phục vụ nhu cầu ngày càng cao của con người, của xã hội. Mặc dù việc kinh doanh không phải là một trong các hoạt động chính đem lại thu nhập cho Trung tâm nhưng việc xây dựng dự án phát triển sản phẩm dựa trên những nhu cầu cần thiết từ phía bản thân Trung tâm sẽ là động lực chính để việc thực hiện dự án được tốt hơn, sẽ không làm cho hình ảnh của Trung tâm bị nhạt nhoà, bị lãng quên, bị tụt hậu so với những gì mà Trung tâm làm được trong suốt thời gian tồn tại của mình và bị chậm bước trên sự phát triển của ngành. Căn cứ từ phía thị trường người tiêu dùng. Do mức thu nhập ngày càng cao, mức sống được cải thiện đáng kể nên việc chăm chút cho cuộc sống cũng được chs ý nhiều hơn. Con người luôn hướng tới cái đẹp ăn mặc đẹp, đi xe đẹp, đeo trang sức đẹp và đi những đôi giầy dép đẹp phù hợp với những gì mà họ lựa chọn cho mình trước khi nghĩ đến nên mang những đôi giầy dép nào thì phù hợp. Vì thế chuyện có hiều hơn một đôi giầy dép là chuyện hết sức bình thường đối với con người hiện nay và việc thay đổi liên tục các mẫu giầy dép cũng là chuyên hết sức bình thường và càng có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây. Bất kỳ ai trể em ,người lớn, thanh niên hay người già cũng có nhu cầu đi lại và việc mang một đôi giầy dép như thế nào ngoài việc bảo vệ đôi chân họ thì những đôi giầy dép đó cũng phần nào thể hiện giá trị con người họ. Một người khoác trên mình một bộ complê và mang một đôi giầy tây đích thị là một nhân viên công sở hay một doanh nhân. Như hiện nay, một công chức hay một nhân viên công sở bình thường không thể đi mãi một đôi giầy dép cho tất cả các trang phục của mình hay trong tất cả các buổi làm việc của mình. Vì có những hôm họ mang trên mình những bộ véc công sở rất đẹp và sang trọng, cũng có hôm họ chỉ mặc những bộ trang phục bình thường thì việc mang giầy dép cũng khá quan trọng không làm cho họ trở nên lực cười trước mặt mọi người. Ngoài công việc ra họ còn có cuộc sống riêng của mình với nhiều mối quan hệ khác nhau, khi thì đi chơi với bạn bè, khi thì đo công việc gia đình hay nhiều mối quan hệ và công việc khác nữa làm cho họ phải thay đổi hình ảnh của mình trong những lần gặp gỡ đó. Do vậy, việc lựa chọn giầy dép không còn giống như việc lựa chọn giầy dép để đi làm nữa. Hơn thế nữa người ta cũng không thể đi mãi một đôi giầy dép được nhu cầu thay đổi theo xu hướng thời trang, theo mùa theo tình huống và hoàn cảnh giao tiếplà tương đối cần thiết. Nên việc căn cứ vào nhu cầu này là tương đối sát thực cho việc xây dựng dự án. Căn cứ vào tình hình thị trường cung cấp các sản phẩm giầy dép trên thị trường. Hiện nay, trên thị trường Việt Nam có rất nhiều các Doanh nghiệp thuộc nhiều loại hình khác nhau, các cơ sở sản xuất chuyên sản xuất – kinh doanh các sản phẩm giầy dép các loại rẻ có, đắt có, cao cấp có, bình dân có. Mặt khác, hội nhập kinh tế quốc tế làm cho thị trường này cũng trở nên phong phú hơn, náo động hơn đặt ra tình huống buộc các Doanh nghiệp phải giải đáp, phải cân nhắc trước mỗi hành động của mình. Lúc này sự cạnh tranh là mạnh mẽ và quy mô cạnh tranh được mở rộng không chỉ đơn thuần là hàng Việt cạnh tranh với hàng Việt nữa mà tham gia vào thị trường này có thêm nhiều tên tuổi sừng sỏ của Giầy dép thế giới như: Nike, Adidas, Reebok, ….. Sẽ có những Doanh nghiệp phải nói lời tạm biệt với thị trường này, cũng có những Doanh nghiệp sẽ phát triển và ngày càng phát triển hơn nữa. Mỗi Doanh nghiệp đều có những lý giải riêng và cách thức hành động riêng cho sự tồn tại và phát triển của mình, Căn cứ và tình hình biến động của thị trường này để hoạch định những kế hoạch hoạt động là một việc cần thiết nên làm. Có rất nhiều các căn cứ khác nữa để xác định dự án nhưng những căn cứ được nêu trên gần với thực tế của thị trường Da giầy hiện nay, là những căn cứ tương đối tốt để xây dựng dự án. Dựa vào những căn cứ này để có những nghiên cứu hợp lý, vạch ra cách thức hành động cho dự án. CHƯƠNG III: KHÍA CẠNH KỸ THUẬT CỦA DỰ ÁN. Đây là một dự án phục vụ cho việc kinh doanh mở rộng thị trường mà chủ dự án là Trung tâm Mẫu và Đào tạo - Viện nghiên cứu Da - Giầy. Khi nhận ra sự cần thiết của thị trường, sự cần thiết phải thay đổi trong tư duy và cách thức hành động để theo kịp xu hướng phát triển của ngành trong giai đoạn hiện nay. Dự án sẽ tập trung đi vào nghiên cứu nhu cầu thị trường để thiết kế và sản xuất sản phẩm theo những nhu cầu đó. Tiếp đến là việc đưa sản phẩm ra thị trường, chọn kênh phân phối phù hợp để có kết quả kinh doanh tốt, tìm kiếm và thu hút các đối tác trong kinh doanh. Khía cạnh kỹ thuật của dự án không chỉ đơn giản là các nghiên cứu mà còn là việc vận dụng các nghiên cứu đó như thế nào để dự án được thực hiện một cách tốt nhất. Về phía nghiên cứu nhu cầu thị trường có thể thực hiện các thao tác kỹ thuật như: Thu thập đầy đủ các thông tin càn thiết cho việc nghiên cứu thị trường tiêu thụ sản phẩm của dự án; thông tin thu thập được phải đảm bảo độ chính xác và tin cậy nhằm đưa ra các dự báo và kế hoạch hành động phù hợp; Sử dụng phương pháp phân tích phù hợp trong rất nhiều các phương pháp phân tích … Có thể chi tiết việc nghiên cứu nhu cầu thị trường ra như sau: Thu thập thông tin thị trường. Sử dụng công cụ nghiên cứu thị trường để: - Thu thập thông tin về các sản phẩm mới được phát triển hiện có trên thị trường. Qua đó bạn có thể chủ động đề ra biện pháp để đối phó với những biến động bất ngờ trên thị trường của ngành Da giầy. - Thu thập thông tin về chính sách nhà nước như: thuế xuất nhập khẩu, quota và các thoả thuận cấp nhà nước có liên quan đến thị trường, nguồn cung cấp nguyên liệu, vật tư cho sản phẩm của Trung tâm ... . Qua đó có thể dự đoán thị trường và xây dựng kế hoạch kinh doanh của mình. - Thu thập thông tin về hoạt động của các đối tác, khách hàng tiềm năng. Qua đó đưa ra những quyết định đúng đắn, ngăn ngừa rủi ro ... Đối với dự án này việc thu thập thông tin sẽ được tiến hành theo phương pháp quan sát và thu thập các thông itn sẵn có trên thị trường để đưa ra các dự báo về thị trường của Trung tâm vì nhóm nghiên cứu còn nghèo nàn về số lượng người tham gia và thời gian thực hiện ngắn ngủi. Nếu Trung tâm thực sự quan tâm đến việc thu thập thông tin thì sau dự án này Trung tâm có thể triển khai thu thập thông tin theo hình thức khác có giá trị thực tế hơn cho việc ra quyết định của mình. Nghiên cứu nhu cầu thị trường. Thu thập thông tin về nhu cầu của khách hàng, xu hướng tiêu dùng để qua đó có thể tung sản phẩm mới hoặc cải tiến sản phẩm hiện hữu nhằm có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường, cũng cố vị trí của mình trên thị trường. Có thể sử dụng phương pháp thu thập thông tin sơ cấp nếu muốn việc ra quyết định là chính xác phục vụ đúng đối tượng khách hàng mà Trung tâm đã nghiên cứu. Cũng có thể sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp thông qua những số liệu có sẵn trên thị trường nếu Trung tâm có ý định sản xuất kịnh doanh theo xu hướng có sẵn trên thị trường. Mỗi phương pháp thu thập thông tin nói trên đều có những mặt tích cực và tiêu cực của nó song việc vậnd ụng kết hợp hai phương pháp này xẽ làm giảm chi phí và thời gian cho công tác nghiên cứu mà vẫn thu được kết quả mong muốn. Theo dự án này thì việc thu thập dữ liệu sơ cấp là rất khó khăn đối với một sinh viên do đó những nghiên cứu về nhu cầu thị trường sẽ được nghiên cứu qua các dữ liệu có sẵn về thị trường và phân tích theo mục đích nghiên cứu của dự án. Nghiên cứu kênh phân phối. Thu thập thông tin về thói quen và hành vi tiêu dùng của người tiêu dùng để thiết lập kênh phân phối cho sản phẩm mới sắp được tung ra thị trường. Hoặc phát triển thêm kênh phân phối mới cho sản phẩm hiện hữu khi phát hiện sự thay đổi trong hành vi tiêu dùng của một bộ phận khách hàng. Như thực tế hiện nay của Trung tâm thì kênh phân phối chưa có, phân đoạn thị trường chưa rõ ràng và chưa đáp ứng được đoạn thị trường đã chọn. Việc nghiên cứu kênh phân phối sẽ làm cho việc phát triển sản phẩm của Trung tâm phần nào được tốt hơn, đưa tên tuổi của mình ra đoạn thị trường rộng lớn hơn. Đánh giá mức độ nhận biết của một thương hiệu và hình ảnh của thương hiệu. Thu thập thông tin bằng cách phỏng vấn khách hàng nhằm đánh giá mức độ nhận biết về thương hiệu trước và sau khi tung ra một chiến dịch quảng bá thương hiệu nhằm để đo lường hiệu quả của hoạt động truyền thông. Nhưng việc khó khăn với Trung tâm hiện nay là thương hiệu sản phẩm chưa có nên việc đánh giá này chỉ được thực hiện thông qua việc phỏng vấn về sử dụng sản phẩm giầy dép của Trung tâm và dấu ấn về sản phẩm trong tâm trí khách hàng để phân biệt với các sản phẩm Da giầy khác trên thị trường. Thu thập thông tin đối thủ cạnh tranh. Thu thập thông tin của đối thủ cạnh tranh nhằm phục vụ cho việc phân tích cạnh tranh. Thu thập thông tin về hoạt động của đối thủ cạnh tranh nhằm phán đoán chiến lược của họ như các kế hoạch đầu tư nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, bổ sung nhân lực, xây dựng kho tàng, nhà máy, kênh phân phối. Thu thập thông tin về các hoạt động chuẩn bị của đối thủ cạnh tranh về các hoạt động truyền thông như chương trình khuyến mại, khuyến mãi. Qua đó có thể đề ra chiến lược chặn trước hoặc đáp trả trước khi quá muộn. Đây cũng là công việc cần thiết khi nghiên cứu thhị trường và đề ra phương án tốt cho việc._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0326.doc
Tài liệu liên quan