Xây dựng hệ thống kiểm soát trong các tổ chức tín dụng

Lời mở đầu Kiểm toán “Auditing” là qui trình các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền, có kỹ năng nghiệp vụ, thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng được của một đơn vị nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về chuẩn mực đã được xây dựng. Cùng với sự phát triển của kiểm toán, công tác kiểm toán nội bộ cũng được các nhà quản lý quan tâm hơn, vì vậy trọng trách và vai trò, trách nhiệm của bộ phận kiểm toán nội bộ được nâng cao hơn. Kiểm toán nội bộ hiện nay đang là công c

doc36 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1341 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Xây dựng hệ thống kiểm soát trong các tổ chức tín dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ụ không thể thiếu được trong công tác quản lý điều hành của doanh nghiệp và nó càng trở nên cấp thiết hơn khi doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường. Sự ra đời và phát triển của các tổ chức tín dụng cùng với tính đa dạng của các hoạt động và hình thức tín dụng đã tạo nên một thị trường tín dụng sôi động. Nhưng điều đó cũng chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro có thể xảy ra với các tổ chức tín dụng, mà khả năng ngăn ngừa và chống đỡ rủi ro kém.Để giảm bớt, ngăn ngừa những tổn thất và các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng, ngoài các biện pháp thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước, trước hết đòi hỏi các tổ chức tín dụng phải có những biện pháp hữu hiệu, mà biện pháp quan trọng nhất là các tổ chức tín dụng phải thiết lập được hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ một cách đầy đủ và có hiệu quả. Trong thực tiễn, câu hỏi đặt ra đối với các nhà quản trị cuủa các tổ chức tín dụng, đối với các cơ quan quản lý Nhà nước ở đây là: thiết kế một hệ thống kiểm toán nội bộ như thế nào để hoạt động có hiệu quả nhất? Những tiêu chí cơ bản nào khi đánh giá hệ thống kiểm toán nội bộ của các tổ chức tín dụng? Giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác của hệ thống kiểm toán nội bộ của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam hiện nay? Để góp phần trả lời câu các câu hỏi trên, em xin trình bày một số ý kiến về các vấn đề sau: Phần I : Cơ sở lý luận về hệ thống kiểm soát nội bộ. Phần II: Xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng. Phần III: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ tại các tổ chức tín dụng. Bài viết của em được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của ThS Nguyễn Hồng Thuý. Do kiến thức của em còn hạn chế, hạn hẹp về thời gian, thông tin cho bài viết, bài viết của em chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của người đọc, đặc biệt của ThS Nguyễn Hồng Thuý để bài viết của em hoàn thiện hơn. Em xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, tháng 3/2004. Sinh viên thực hiện Chu Thị Thu Nga Nội dung. Phần I: Cơ sở lý luận về hệ thống kiểm soát nội bộ I. Hệ thống kiếm soát nội bộ và vai trò của kiểm soát nội bộ trong kiểm tra, kiểm soát. 1.1. Khái niệm về kiểm soát nội bộ . Kiểm soát nội bộ là một chức năng thường xuyên của các đơn vị, tổ chức và trên cơ sở xác định rủi ro có thể xảy ra trong từng khâu công việc để tìm ra biện pháp ngăn chặn nhằm thực hiện có hiệu quả tất cả các mục tiêu đặt ra của đơn vị. 1.2. Các yếu tố cấu thành hệ thống kiểm soát nội bộ. Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên phải hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ, phải nghiên cứu đánh giá sự hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ mà kiểm toán viên định dựa vào để xác định nội dung, thời gian và phạm vi của các phương pháp kiểm toán cần thực thi. Mục đích của kiểm toán viên trong việc nghiên cứu, đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ là thiết lập độ tin cậy vào hệ thống kiểm soát nội bộ, để xác định nội dung, thời gian và phạm vi của hệ thống kiểm soát nội bộ, để xác định nội dung, thời gian và phạm vi của các bước kiểm toán cơ bản. Để bảo đảm thực hiện các mục tiêu cũng như đảm bảo hiệu quả trong hoạt động các đơn vị và tổ chức cần xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ xem xét dưới 4 nhóm yếu tố: môi trường kiểm soát, hệ thống thông tin (hệ thống kế toán), các thủ tục kiểm soát và kiểm toán nội bộ. 1.2.1. Môi trường kiểm soát. Môi trường kiểm soát bao gồm toàn bộ các yếu tố ở bên trong và bên ngoài đơn vị có tác động đến việc thiết kế, vận hành và xử lý các loại dữ liệu trong các loại hình kiểm soát nội bộ. Môi trường kiểm soát chung thường có liên quan đến quan điểm, thái độ, nhận thức cũng như những hoạt động của nhà quản lý ở trong doanh nghiệp. Trên thực tế, tính hiệu quả của hoạt động kiểm tra, kiểm soát trong các hoạt động của một tổ chức phụ thuộc vào các nhà quản lý tại doanh nghiệp đó. Nếu các nhà quản lý cho rằng công tác kiểm tra, kiểm soát là quan trọng và không thể thiếu được đối với mọi hoạt động trong đơn vị thì mọi thành viên của đơn vị sẽ có nhận thức đúng đắn về họat động kiểm tra, kiểm soát và tuân thủ mọi qui định cũng như chế độ đề ra. Ngược lại, nếu hoạt động kiểm tra, kiểm soát bị coi nhẹ từ phía các nhà quản lý thì chắc chắn các qui chế về kiểm soát nội bộ sẽ không được vận hành một cách có hiệu quả bởi các thành viên của đơn vị. Các nhân tố trong môi trường kiểm soát bao gồm: *Đặc thù về quản lý: Các đặc thù về quản lý đề cập tới các quan điểm khác nhau trong điều hành hoạt động doanh nghiệp của các quản lý. Các quan điểm đó ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách, chế độ, các qui định và cách thức kiểm tra, kiểm soát trong doanh nghiệp. Bởi vì chính các quyết định, chính sách và thủ tục kiểm soát sẽ áp dụng tại doanh nghiệp. *Cơ cấu tổ chức: Cơ cấu tổ chức được xây dựng hợp lý trong doanh nghiệp sẽ góp phần tạo ra môi trường kiểm soát tốt. Cơ cấu tổ chức hợp lý đảm bảo một hệ thống xuyên suốt từ trên xuống dưới trong công việc ban hành các quyết định, triển khai các quyết định đó cũng như kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quyết định đó trong toàn doanh nghiệp. Một cơ cấu tổ chức hợp lý còn góp phần ngăn ngừa có hiệu quả các hành vi gian lận và sai sót trong hoạt động tài chính kế toán của doanh nghiệp. Một cơ cấu tổ chức hợp lý phải nhất lập sự điều hành và kiểm tra giám soát toàn bộ hoạt động và các lĩnh vực của doanh nghiệp sao cho không bị chhồng chéo hoặc bỏ trống: thực hiện sự phân tách chức năng, đảm bảo tính độc lập tương đối giữa các bộ phận, tạo khả năng kiểm tra, kiểm soát lẫn nhau trong các bước thực hiện công việc. Như vậy để thiết lập một cơ chế tổ chức thích hợp và có hiệu quả, các nhà quản lý phải tuân thủ các nguyên tắc sau: Thiết lập được sự điều hành và sự kiểm soát trên toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, không bỏ sót lĩnh vực nào, đồng thời không có sự chồng chéo giữa các bộ phận. Thực hiện sự phân chia rành mạch ba chức năng: xửlý nghiệp vụ, ghi chép sổ và bảo quản tài sản. Đảm bảo sự độc lập tương đối giữa các bộ phận nhằm đạt được hiệu quả co nhất trong hoạt động của các bộ phận nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong hoạt động của các bộ phận chức năng. *Chính sách nhân sự: Sự phát triển của mọi doanh nghiệp luôn gắn với đội ngũ nhân viên và họ luôn là nhân tố quan trọng trong môi trường kiểm soát cũng như chủ thể trực tiếp thực hiện mọi thủ tục kiểm soát trong hoạt động của doanh nghiệp. Nếu nhân viên có năng lực và tin cậy, nhiều quá trình kiểm soát có thể không cần thực hiện mà vẫn đảm bảo được các mục tiêu đề ra của kiểm soát nội bộ. Bên cạnh đó, mặc dù doanh nghiệp có thiết kế và vận hành các chính sách cụ thể va rõ ràng về tuyển dụng, đào tạ, sắp xếp đề bạt, khen thưởng, kỷ luật nhân viên. việc đào tạo, bố trí cán bộ và đề bạt nhân sự phải phù hợp vứi năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức, đồng thời phải mang tính kế tục và liên tiếp. *Công tác kế hoạch: Hệ thống kế hoạch và dự toán, bao gồm các kế hoạch sản xuất, tiêu thụ, thu chi quĩ, kế hoạch hay dự toán đầu tư, sửa chữa tài sản cố định, đặc biệt là kế hoạch tài chính gồm những ước tính cân đối tình hình tài chính, kết quả hoạt động và sự luân chuyển tiền trong tương lai là những nhân tố quan trọng trong môi trường kiểm soát. Nếu việc thiết lập và thực hiện kế hoạch được tiến hành khoa học và nghiêm túc thì hệ thống kế hoạch và dự toán đó sẽ trở thành công cụ kiểm soát rất hữu hiệu. Vì vậy trong thực tế các nhà quản lý thường quan tâm xem xét tiến độ thực hiện kế hoạch, theo dõi những nhân tố ảnh hưởng đến kế hoạch đã lập nhằm phát hiện những vấn đề bất thường và xử lý, điều chỉnh kế hoạch kịp thời. Đây cũng là khía cạnh mà kiểm toán viên thường quan tâm trong kiểm toán báo cáo tài chính doanh nghiệp, đặc biệt trong việc áp dụng các thủ tục phân tích. *Uỷ ban kiểm soát: Uỷ ban kiểm soát bao gồm những người trong bộ máy lãnh đạo cao nhất của đơn vị như thành viên của hội đồng quản trị nhưng không kiêm nhiệm các chức vụ quản lý và những chuyên gia am hiểu về lĩnh vực kiểm soát. Uỷ ban kiểm soát thường có nhiệm vụ và quyền hạn sau: Giám sát sự chấp hành luật pháp của công ty. Kiểm tra và giám sát công việc của kiểm toán viên nội bộ. Giám sát tiến trình lập báo cáo tài chính. Dung hoà những bất đồng (nếu có) giữa ban giám đốc với các kiểm toán viên bên ngoài. * Môi trường kiểm soát bên ngoài: Môi trường kiểm soát chung của một doanh nghiệp còn phụ thuộc sự kiểm soát của các nhà quản lý nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến thái độ, phong cách điều hành của các nhà quản lý cũng như sự thiết kế, vận hành các qui chế thủ tục kiểm soát nội bộ. Thuộc nhóm này bao gồm: sự kiểm soát của các cơ quan chức năng của Nhà nước, ảnh hưởng của các chủ nợ, môi trường pháp lý, đường lối phát triển của đất nước... Như vậy môi trường kiểm soát bao gồm toàn bộ những nhân tố có ảnh hưởng đến quá trình thiết kế, vận hành và xử lý dữ liệu của hệ thống kiểm soát nội bộ doanh nghiệp, trong đó nhân tố chủ yếu và quan trọng là nhận thức về hoạt động kiểm tra, kiểm soát vaf điều hành hoạt động của các nhà quản lý doanh nghiệp. 1.2.2. Hệ thống kế toán. Hệ thống thông tin chủ yếu là hệ thống kế toán của đơn vị bao gồm hệ thống chứng từ kế toán, hệ thống sổ kế toán, hệ thống tài khoản kế toán và hệ thống bảng tổng hợp cân đối kế toán. Trong đó, quá trình lập và luân chuyển chứng từ đóng vai trò quan trọng trong công tác kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp. Mục đích của hệ thống kế toán của một tổ chức là sự nhận biết, thu thập, phân loại, ghi sổ và báo cáo các nghiệp vụ kinh tế tài chính của tổ chức đó, thoả mãn chức năng thông tin và kiểm tra của hoạt động kế toán. Một hệ thống kế toán hữu hiệu phải đảm bảo các mục tiêu kiểm soát chi tiết: Tính có thực: cơ cấu kiểm soát không cho phép chi chép những nghiệp vụ không có thực vào sổ sách của đơn vị. Sự phê chuẩn: đảm bảo mọi nghiệp vụ xảy ra phải được phê chuẩn hợp lý. Tính đầy đủ: bảo đảm việc phản ánh trọn vẹn các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Sự đánh giá: bảo đảm không có sai phạm trong việc tính toán các khoản giá và phí. Sự phân loại: bảo đảm các nghiệp vụ được ghi chép đúng theo sơ đồ tài khoản và ghi nhận đúng đắn ở các loại sỏ sách kế toán. Tính đúng kỳ: bảo đảm việc ghi sổ các nghiệp vụ phát sinh được thực hiện kịp thời theo qui định. Quá trình chuyển sổ và tổng hợp chính xác: số liệu kế toán đựoc ghi vào sổ phải được tổng cộng và chuyển sổ đúng đắn, tổng hợp chính xác trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp. 1.2.3. Các thủ tục kiểm soát. Các thủ tục kiểm soát do ban giám đốc đơn vị thiết lập và thực hiện nhằm đạt được mục tiêu quản lý cụ thể. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ qui định: “Kiểm toán viên phải hiểu biết các thủ tục kiểm soát của đơn vị để xây dựng kế hoạch chương trình kiểm toán”. Các thủ tục kiểm soát chủ yếu bao gồm: Lập, kiểm tra, so sánh và phê duyệt các số liệu, tài liệu liên quan đến đơn vị; Kiểm tra tính chính xác của các số liệu tính toán; Kiểm tra số liệu giữa sổ kế toán tổng hợp và sổ kế toán chi tiết; Kiểm tra và phê duyệt các tài liệu kế toán; Đối chiếu số liệu nội bộ với bên ngoài; So sánh, đối chiếu kết quả kiểm kê thực tế với số liệu trên sổ kế toán; Giới hạn việc tiếp cận trực tiếp với các tài sản và các tài liệu kế toán; Phân tích, so sánh giữa số liệu thực tế với dự toán, kế hoạch. Các thủ tục kiểm soát được thiết lập trong đơn vị dựa trên ba nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc phân công, phân nhiệm rõ ràng; nguyên tắc bất kiêm nhiệm; nguyên tắc uỷ quyền và phê duyệt. *Nguyên tắc phân công, phân nhiệm: Trách nhiệm và công việc cần được phân chia cụ thể cho nhiều bộ phận và cho nhiều người trong bộ phận. Việc phân công, phân nhiệm rõ ràng tạo sự chuyên môn hoá trong công việc, sai sót ít xảy ra và khi xảy ra thường dễ phát hiện do có sự kiểm tra chéo. *Nguyên tắc bất kiêm nhiệm: Sự cách ly thích hợp về trách nhiệm trong nghiệp vụ có liên quan nhằm ngăn ngừa các sai phạm và hành vi lạm dụng quyền hạn. *Nguyên tắc uỷ quyền và phê chuẩn: Theo sự uỷ quyền của các nhà quản lý, các cấp dưói được giao cho quyết định và giải quyết một số công việc trong phạm vi nhất định. Quá trình uỷ quyền được trực tiếp mở rộng xuống các cấp thấp hơn tạo nên một hệ thống phân chia trách nhiệm và quyền hạn mà vẫn không làm mất tính tập trung của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, để tuân thủ tốt các quá trình kiểm soát, mọi nghiệp vụ kinh tế phải được phê chuẩn đúng đắn. Sự phê chuẩn được thực hiện qua hai loại : phê chuẩn chung và phê chuẩn cụ thể. Sự phê chuẩn chung được thực hiện thông qua việc xây dựng các tổ chính sách chung về những mặt hoạt động cụ thể cho các cán bộ cấp dưới tuân thủ. Sự phê chuẩn cụ thể được thực hiện theo từng nghiệp vụ kinh tế riêng. Ngoài những nguyên tắc cơ bản trên, các thủ tục kiểm soát còn bao gồm: các quy định chứng từ sốách phải đầy đủ, quá trình kiểm soát vật chất đối với tài sản và sổ sách và kiểm soát độc lập việc thực hiện các hoạt động của đơn vị. 1.2.4. Kiểm toán nội bộ. Kiểm toán nội bộ là một bộ phận độc lập được thiết lập trong đơn vị tiến hành công việc kiểm tra và đánh giá các hoạt động phục vụ yêu cầu quản trị nội bộ đơn vị. Theo các chuẩn mực thực hành kiểm toán nội bộ do viện kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ ban hành năm 1978, “kiểm toán nội bộ là một chức năng đánh giá độclập được thiết kế trong một tổ chức để kiểm tra, đánh giá các hoạt động của tổ chức như là một hoạt động phục vụ cho một tổ chức”. Mục tiêu của kiểm oán nội bộ là giúp đỡ các thành viên của tổ chức hoàn thành trách nhiệm của họ một cách có hiệu quả. Theo liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC), kiểm toán nội bộ là ‘một hoạt động đánh giá được lập ra trong một doanh nghiệp như là một loại dịch vụ cho doanh nghiệp, bộ phận kiểm toán nội bộ của doanh nghiệp đó, có chức năng kiểm tra, đánh giá và giám sát thích hợp và hiệu quả của hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ”. 1.3. Vị trí của kiểm toán nội bộ trong kiểm tra, kiểm soát. Kiểm toán nội bộ là một nhân tố cơ bản trong môi trường kiểm soát, bộ phận kiểm toán nội bộ cung cấp một sự giám sát và đánh giá thường xuyên về toàn bộ hoạt động của đơn vị, trong đó có cả hệ thống kiểm soát nội bộ. Bộ phận kiểm toán nội bộ hữu hiệu sẽ giúp đơn vị có được những thông tin kịp thời và xác thực về các hoạt động nói chung, chất lượng công tác kiểm toán nói riêng để điều chỉnh, bổ sung các quy chế kiểm soát thích hợp và có hiệu lực hơn. Tuy nhiên, bộ phận kiểm toán nội bộ chỉ có thể phát huy tác dụng tốt nếu: Về tổ chức: Bộ phận kiểm toán nội bộ phải trực thuộc một cấp cao đủ để không giới hạn phạm vi hoạt động của nó. Đồng thời phải được giao quyền hạn tương đối rộng rãi và hoạt động tương đối độc lập với bộ phận được kiểm tra. Về nhân sự: Bộ phận kiểm toán nội bộ phải có các nhân viên có khả năng đủ để thực hiện nhiệm vụ. II. Khái quát về kiểm toán nội bộ. 2.1. Bản chất của kiểm toán nội bộ. Kiểm toán nội bộ hình thành và phát triển xuất phát từ những lý do khách quan của nhu cầu quản lý của bản thân các đơn vị và các tổ chức kinh tế. Kiểm toán nội bộ là chức năng đánh giá một cách độc lập và khách quan cơ cấu kiểm soát nội bộ của đơn vị. Phạm vi của kiểm toán nội bộ bao gồm tất cả các hoạt động của đơn vị ở tất cả các cấp quản lý khác nhau. Kiểm toán nội bộ xem xét, đánh giá và báo cáo về thực trạng của hệ thống kiểm soát nội bộ và những thông tin, tài liệu và báo cáo kế toán, đưa ra những phân tích, kiến nghị, tư vấn mang tính chuyên nghiệp để các nhà quản lý có cơ sở tin cậy trong việc quản lý các hoạt động của đơn vị, hướng tới hiệu quả, chất lượng và phù hợp với các quy tắc và chế định của pháp luật. 2.2. Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu và quyền hạn của kiểm toán nội bộ. 2.2.1. Chức năng. Trước hết, chúng ta càn phải khẳng định rằng kiểm toán nội bộ hình thành do nhu cầu quản lý, cho nên chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu và vai trò của nó cũng trải qua quá trình phát triển từ thấp đến cao cùng với khoa học quản lý, trình độ và kinh nghiệm quản lý của các nhà lãnh đạo. Kiểm toán có các chức năng khách quan, cấu thành bản chất của hoạt động của kiểm toán nội bộ như sau: Rà soát lại hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ, giám sát sự họat động của hệ thống này cũng như tham gia vào việc hoàn thiện chúng theo hướng tuân thủ các quy định cuả cấp trên, các đơn vị mà trước tiên là các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán và quản lý tài chính. Giúp chủ doanh nghiệp kiểm tra lại các thông tin tác nghiệp: kiểm tra việc tính toán phân loại báo cáo các thông tin thẩm định cụ thể các khoản mục cá biệt theo yêu cầu của nhà quản lý. Chức năng đánh giá: Kiểm tra, đánh giá tính hiệu lực, tính kinh tế và tính hiệu quả trong các hoạt động của đơn vị bằng những phương pháp so sánh, phân tích kinh tế. Chức năng tư vấn: Kiến nghị về lãnh đạo và các cán bộ quản lý những biện pháp cụ thể nhằm chấn chỉnh công tác quản lý, tăng cường kỷ luật, nâng cao hiệu quả hoạt động. Như vậy, lĩnh vực chính của kiểm toán nội bộ là kiểm tra hoạt động, sau nữa là hoạt động kiểm toán tuân thủ chứ không phải là kiểm toán báo cáo tài chính doanh nghiệp. Kiểm toán viên nội bộ cũng phải thực hiện soát xét kiểm tra các thông tin tài chính giúp lãnh đạo đơn vị ký duyệt báo cáo theo đúng nghĩa của từ này. Kiểm toán nội bộ, về nguyên tắc, chỉ chịu trách nhiệm đối với các đối tượng sử dụng thông tin ở bên ngoài doanh nghiệp. Tuy nhiên, một vấn đề hết sức quan trọng ở đây là kiểm toán viên nội bộ vẫn phải giải đáp đúng nguyên tắc tuân thủ theo pháp luật và đánh giá một cách độc lập, khách quan mọi thông tin được kiểm toán. Do đó, kết luận của kiểm toán nội bộ vẫn là tài liệu có giá trị pháp lý và có thể là tài liệu tham khảo tốt cho người dùng tin và ngoại kiểm. Đối với doanh nghiệp Nhà nước, chủ sở hữu là Nhà nước, vì vậy, kiểm toán viên phải chịu trách nhiệm với Nhà nước mà trực thuộc trực tiếp là cơ quan tài chính và kiểm toán Nhà nước. Vì lẽ này, các kiểm toán viên nội bộ tiến hành kiểm tra báo cáo tài chính, giúp chủ doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về tính trung thực, hợp lý của báo cáo tài chính đối với Nhà nước, như quy định trong Nghị định 59/CP. Việc Nhà nước quy định trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhà nước la đúng đắn và tạo độ tin cậy cho báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì các quy định về kiểm toán nôi bộ trên đây có thể không cần thiết áp dụng. Tuy nhiên cần phải nghiên cứu để đưa thành quy định pháp lý đối với kiểm toán nội bộ của các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước. 2.2.2. Nhiệm vụ. Căn cứ vào chức năng của kiểm toán nội bộ, để làm đúng và trọn vẹn chức năng của mình, kiểm toán nội bộ có những nhiệm vụ sau đây: Kiểm tra tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ, của hoạt động sản xuất, kinh doanh và điều hành kinh doanh. Kiểm tra, kiểm soát chất lượng thông tin kinh tế, tài chính, tính chuẩn xác và tin cậy của báo cáo tàichính trước khi trình ký duyệt. Tư vấn về công tác tài chính, kế toán. tham gia hướng dẫn nghiệp vụ tài chính, kế toán cho các đơn vị trong doanh nghiệp. Kiểm tra sự tuân thủ các nguyên tắc hoạt động, đặc biệt sự tuân thủ trong quản lý, đề xuất các giải pháp nhằm cải tiến, hoàn thiện hệ thống quản lý và công tác quản lý doanh nghiệp. 2.2.3. Quyền hạn. Được quyền yêu cầu cung cấp tài liệu và thông tin về tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Độc lập về chuyên môn, nghiệp vụ. Trường hợp cần thiết có quyền yêu cầu sự hỗ trợ về chuyên môn và nhân sự của các bộ phận chức năng. Kiến nghị mang tính chất xây dựng đối với các cấp lãnh đạo, các bộ phận trong doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả các mặt hoạt động sản xuất, kinh doanh và cong tác quản lý, điều hành doanh nghiệp. Có quyền bảo lưu ý kiến có liên quan đến kết quả kiểm toán. 2.3. Phạm vi hoạt động và các loại hình kiểm toán nội bộ. 2.3.1. Phạm vi hoạt động. Phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ trên bao gồm cả kiểm toán hoạt động, kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, trong đó trọng tâm là kiểm toán tuân thủ. Kiểm toán hoạt động: là kiểm toán đánh giá tính hiệu quả, tác dụngcủa một phương án kinh doanh, một quy trình công nghệ hoặc một loại tài sản cố định muốn đưa vào hoạt động. Vì vậy, kiểm toán quá trình hoạt động còn gọi là kiểm toán tính hiệu quả. Kiểm toán loại này baogồm việc sử dụng các kỹ năng khác nhau như kế toán, tài chính, kinh tế, kỹ thuật và khoa học... kết thúc cuọc kiểm toán thường lập một bản tường trình, đánh giá, kết luận các mặt tốt xấu gửi cho các cơ quan có liên quan. Nội dung chủ yếu của kiểm toán hoạt động gồm: Kiểm tra việc huy động, phân phối sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực (nhân lực, vật lực, hàng hoá, tài sản, tiền vốn, lợi thế kinh doanh...), của doanh nghiệp. Kiểm tra tính hiệu quả của hoạt động sản xuất, kinh doanh, phân phối và sử dụng thu nhập, kết quả bảo toàn và phát triển vốn. Kiểm tra và đánh giá tính hiệu quả hoạt động của các bộ phận chức năng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Kiểm toán tuân thr: thường do cấp trên kiểm tra các đơn vị cấp dưới về việc chấp hành các quy định, quy chế. Kiểm toán tuân thủ còn gọi là kiểm toán các quy tắc. Nội dung của kiểm toán tuân thủ: Kiểm tra tính tuân thủ pháp luật, chính sách, chế độ quản lý của nhà nước và tình hình chấp hành các chính sách, nghị quyết, quyết định, qui chế của Hội đồng quản trị, của Ban giám đốc. Kiểm tra tính tuân thủ các qui địnhvề nguyên tắc, qui trình nghiệp vụ, thủ tục quản lý của từng khâu công việc của từng biện pháp trong hệ thống kiểm soát nội bộ. Kiểm tra sự chấp hành cá nguyên tắc, các chính sách, các chuẩn mực kế toán từ khâu lập chứng từ, vận dụng hệ thống tài khoản, ghi sổ kế toán, tổng hợp thông tin và trình bày báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị, đến lưu trữ tài liệu kế toán... Kiểm toán báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị: là kiểm tra, xác nhận 2.3.2. Các loại hình kiểm toán nội bộ. Hoạt động kiểm toán nội bộ cơ thể tiến hành với nhiều loại hình khác nhau. Tuỳ từng yêu cầu khác nhau, từng điều kiện khác nhau, hoàn cảnh và từng khoảng thời gian không gian cụ thể, thì vận dụng các loại hình kiểm toán cụ thể một cách linh hoạt sao cho có hiệu quả. *Kiểm toán toàn diện và kiểm toán đặc biệt: Kiểm toán toàn diện nhằm vào toàn bộ hoạt động kinh doanh, hoạt động kế toán với mục đích xem xét sự chính xác của tài liệu, số liệu kế toán, đồng thời tìm hiểu xem các tài liệu này đã phản ánh trung thực tình hình hoạt động của cơ quan, tình hình kinh doanh của doanh nghiệp chưa. Kiểm toán đặc biệt (hay kiểm toán chuyên đề) tập trung vào số nghiệp vụ nhất định, ví dụ như kiểm toán ngân quỹ, kiểm toán hoạt động bán hàng, kiểm toán chi phí, lợi nhuận... Tuy nhiên việc phân biệt giữa hai loại hình kiểm toán này cũng không đơn giản, vì đôi khi một cuộc kiểm toán đặc biệt chỉ nhằm vào một vấn đề như xác định xem công ty có lãi đúng quy định không, cũng đòi hỏi phải thực hiện một cuộc kiểm toán hầu như toàn diện mới có đủ yếu tố để xác định. Do đó, tiêu chuẩn phân biệt hai loại hình kiểm toán này nằm ở chỗ bao gồm bao nhiều hay ít đối tượng kiểm toán, chứ không phải ở quy mô hay só lượng các nghiệp vụ, tức là nhiều hay ít nghiệp vụ phải kiểm toán. Nếu cuộc kiểm toán chỉ nhằm vào một đối tượng, một vấn đề nào đó được xác định rõ thì đó là kiểm toán đặc biệt. Ngược lại, nếu cuộc kiểm toán bao quát nhiều vấn đề nhằm vào mục đích thì đó là kiểm toán tổng quát hay toàn diện. *Kiểm toán thường xuyên và kiểm toán định kỳ: Kiểm toán thường xuyên là thực hiện các việc thẩm tra, xem xét liên tục, hàng tuần, hàng tháng, trong suốt năm. loại hình này tỏ ra khá hữu hiệu vì nó có thể giúp cho việc phát hiện mau chóng, kịp thời các sai sót, nhờ đó hạn chế ngăn chặn được các tác hại. Nhờ được thực hiện thường xuyên, các cuộc kiểm toán này có tác dụng ngăn chặn, phòng ngừa rất hiệu quả. Kiểm toán định kỳ chỉ nhằm theo dõi tình hình qua các báo cáo tài chính kế toán hàng tháng, hàng quý, hàng năm nghiên cứu đánh giá bảng cân đối kế toán giữa năm hoặc cuối năm, để đưa ra những nhận xét, kết luận, đánh giá về công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Do khoảng cách về thời gian kiểm toán cách nhau khá xa, nên nhiều khi không mang lại kết quả mong muốn về các sai trái, tiêu cực (nếu có) đã gây ra những hậu quả khó có thể khắc phục. *Kiểm toán phòng ngừa và kiểm toán sau hoạt động: Kiểm toán phòng ngừa (tiền kiểm) là loại hình kiểm toán bao gồm những biện pháp phòng ngừa được áp dụng trước hoặc ngay sau khi một nghiệp vụ kế toán phát sinh,nhằm bảo đảm cho bộ máy kế toán hoạt động chuẩn xác và hợp thức, loại trừ các sai phạm trước hoặc ngay khi chúng xuất hiện. Kiểm toán sau hoạt động (hậu kiểm) là loại hình kiểm toán bao gồm các công việc kế toán đã được thực hiện xong một thời gian khá lâu, các nghiệp vụ kế toán đã được ghi vào sổ kế toán và tổng hợp lên báo cáo tài chính. Trong trường hợp này, cuộc kiểm toán chỉ nhằm xem xét, khảo sát để xác định xem các sổ kế toán có trung thực, chính xác không, đồng thời phát giác các vi phạm, gian lận (nếu có). Vì tính chất trái ngược nhau nên kỹ thuật kiểm toán giữa tiền kiểm và hậu kiểm cũng khác nhau. Mặc dù có các khác biệt trên, hai loại hình kiểm toán này vẫn có sự hỗ trợ nhau rất hữu hiệu. Một mặt, chính nhờ các kinh nghiệm, các kết luận rút ra được từ những cuộc hậu kiểm mà các chuyên mới xây dựng, thiết lập các biện pháp phòng ngừa cho công tác tiền kiểm. Mặt khác ban hành các biện pháp phòng ngừa không chỉ đơn thuần đưa ra các chỉ thị, các quy định mà còn phải có những sự kiểm soát theo dõi sự tuân thủ, chấp hành nữa và việc này có thể coi như một dạng hậu kiểm đầu tiên. 2.4. Tổ chức kiểm toán nội bộ. 2.4.1. Nguyên tắc, nhiệm vụ của tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ. a/ Nguyên tắc: Công tác kiểm toán nội bộ phải được thực hiện theo các nguyên tắc cơ bản sau: *Tính độc lập : Ngoài quyền chỉ đạo của Ban giám đốc về việc tổ chức các cuộc kiểm toán bổ sung, thì Kiểm toán nội bộ phải thực hiện nhiệm vụ của mình một cách tự chủ và độc lập. Đặc biệt cần đảm bảo rằng Kiểm toán nội bộ không chịu bất cứ một sự chỉ đạo rong việc lập báo cáo kiểm toán và đánh giá các kết quả kiểm toán. *Sự phân tách chức năng: Về nguyên tắc, không được phép giao cho các nhân viên làm việc tại kiểm toán nội bộ thực hiện những nhiệm vụ không nằm trong phạm trù kiểm toán. Tuyệt đối họ không được phép đảm nhận những nhiệm vụ không tương hợp với công tác kiểm toán. Về nguyên tắc, cũng không nên giao cho những nhân viên làm việc tại các phòng ban khác của tổ chức tín dụng đảm nhận các công việc kiểm toán nội bộ. Tuy nhiên điều đó không loại trừ khả năng, trong những trường hợp cụ thể có lý do chính đáng, cũng có những người khác tạm thời làm việc cho kiểm toán nội bộ vì họ có những kiến thức chuyên môn đặc biệt. Chừng nào tính độc lập của kiểm toán nội bộ được đảm bảo thì họ có thể trong khuôn khổ công việc của mình thực hiện công tác tư vấn cho Ban giám đốc hoặc cho các đơn vị tổ chức khác trong tổ chức tín dụng. *Thông tin đầy đủ: Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, kiểm toán nội bộ có quyền được nhận thông tin đầy đủ và không hạn chế. Như vậy, kiểm toán nội bộ phải được trả lời ngay về các thông tin mà họ yêu cầu, được cung cấp ngay tất cả mọi hồ sơ tài liệu cần thiết và được xem tất cả các quy trình hoạt động và kinh doanh trong tổ chức tín dụng. Các chỉ thị và nghị quyết của ban giám đốc phải được thông báo cho Kiểm toán nội bộ biết, nếu như chúng có thể có tầm quan trọng trực tiếp hay gián tiếp đối với Kiểm toán nội bộ. Ngoài ra, tất cả các đơn vị tổ chức đều có trách nhiệm cung cấp những thông tin cho kiểm toán nội bộ, nếu như trong lĩnh vực hoạt động của mình thấy có những sai phạm nghiêm trọng hay phát sinh những thiệt hại đáng lưu ý hoặc cố một nghi vấn cụ thể nào đó. Nếu có những hay đổi quan trọng trong cơ chế kiểm tra nội bộ thì phải thông báo kịp thời cho Kiểm toán nội bộ biết. *Trình độ nghiệp vụ của nhân viên: Ban giám đốc cần đảm bảo sao cho trang bị nhân sự và vật chất trước hết phải định hướng theo tổ chức và quy mô công việc của họ. Trang bị về nhân sự và vật chất trước hết phải định hướng theo tổ chức doanh nghiệp, các lĩnh vực kinh doanh, tình hình hoạt động kinh doanh và cơ cấu rủi ro của các tổ chức tín dụng cũng như theo các quy định về thanh tra giám sát. Thông qua các biện pháp thích hợp, cần phải đảm bảo rằng những người làm công tác kiểm toán nội bộ luôn có một trình độ nghiệp vụ phù hợp với bước phát triển mới nhất trong quy trình hoạt động và kinh doanh đưọc kiểm toán. Họ phải thấu hiểu về cơ cấu rủi ro của các quá trình. Họ phải có một kiến thức chuyên môn được cập nhật về kiểm toán và hiểu biết toàn diện về lĩnh vực được kiểm toán. Như vậy mới có thể thực hiện được công tác kiểm toán nội bộ một cách đúng đắn và hiệu quả. b/ Nhiệm vụ: Kiểm toán nội bộ phải thực hiện kiểm toán đối với tất cả các quy trình hoạt động và kinh doanh của tổ chức tín dụng tuỳ theo quy mô và mức độ rủi ro trong công việc của doanh nghiệp hay giao dịch kinh doanh. Kiểm toán nội bộ đặc biệt phải kiểm toán và đánh giá về khả năng hoạt động, tính hiệu quả, tính kinh tế và sự thoả đáng của cơ chế kiểm tra nội bộ, kiểm toán và đánh giá việc áp dụng, khả năng hoạt động, tính hiệu quả và sự thoả đáng của các cơ quản lý và điều hành rủi ro, của chế độ thông tin báo cáo, của hệ thống thông tin và của chế độ tài chính kế toán, kiểm toán và đánh giá việc tuân thủ các quy định của pháp luật và các quy định về pháp lý thanh tra hiện hành cũng như các quy định khác, việc chấp hành các quy chế, chế độ và quy tắc của doanh nghiệp cũng như tính nghiêm túc đúng đắn của tất cả các quy trình hoạt động kinh doanh và các quy định và biện pháp nhằm bảo vệ tài sản của doanh nghiệp. Nguyên tắc giám sát độc lập với quá trình không loại trừ khả năng kiểm toán nội bộ, trong khuôn khổ các quy định được cụ thể hoá trong từng trường hợp, cũng có thể thực hiện nhiệm vụ gắn liền với quá trình thực hiện dự án. Khi đó, kiểm toán nội bộ phải đảm bảo rằng tính độc lập của họ vẫn được giữ nguyên và không xảy ra bất kỳ một sự xung đột quyền lợi nào. Kiểm toán nội bộ cũng thực hiện các cuộc kiểm toán đặc biệt. Theo quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động kiểm toán nội bộ trong các TCTD có 11 nhiệm vụ, cụ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35620.doc
Tài liệu liên quan