Xây dựng ý thức pháp luật của doanh nhân Việt Nam

Mở đầu Từ khi nhà nước xoá bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị trường, chúng ta đã chứng kiến những đổi thay rõ rệt của bộ mặt kinh tế Việt Nam. Mà một trong những điều người ta dẽ nhận thấy nhất là nền kinh tế mở đã tạo môi trường thuận lợi để sản sinh và nuôi dưỡng hàng loạt các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân, nước ngoài…Hàng năm các Doanh nghiệp đã đóng góp một phần không nhỏ vào ngân sách nhà nước Do sự chi phối của các quy luật thị trường, để có thể tồn tại và phát

doc25 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1523 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Xây dựng ý thức pháp luật của doanh nhân Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
triển thì các doanh nghiệp phải hoạt động theo nguyên tắc kinh doanh, nghĩa là các chủ doanh nghiệp phải thu được lợi nhuận sau một chu trình hoạt động nhất định. Như vậy lợi nhuận là cơ sở tồn tại, là mục đích trực tiếp và là động lực trực tiếp của hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Cho nên nhiều doanh nghiệp đã bằng mọi thủ đoạn để đạt được mục đích cao nhất trong kinh doanh đó là thu nhiều lợi nhuận. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là sự hạn chế về ý thức pháp luật của các Doanh nhân. Đây là vấn đề nhức nhối trong xã hội mà từ lâu đã được nhiều người trong và ngoài giới nghiên cứu quan tâm. Cho tới nay, đã có nhiều bài báo, nhiều công trình khoa học bàn về ý thức pháp luật của doanh nhân. Những công trình ấy đã giúp chúng ta có thêm nhiều kiền thức về lĩnh vực này. Tuy nhiên, để tìm hiểu sâu sắc hơn về ý thức pháp luật của doanh nhân và có thể đóng góp một vài ý kiến của mình về vấn đề này, chúng tôi đã chọn đề tài : “Xây dựng ý thức pháp luật của doanh nhân Việt Nam .” Trong khuôn khổ một báo cáo khoa học và với trình độ còn hạn chế của một sinh viên năm thứ nhất, chúng tôi chỉ xin trình bày vấn đề xây dựng ý thức pháp luật của doanh nhân Việt Nam về việc chấp hành nộp thuế trong kinh doanh. Thuế được sử dụng như một công cụ có hiệu quả để góp phần thực hiện chính sách đối ngoại, bảo hộ sản suất trong nước và thúc đẩy hoà hợp kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều bức xúc về vấn đề nộp thuế của các Doanh nhân. Ngoài hai phần mở đầu và kết luận, báo cáo khoa học gồm ba phần chính, đó là: 1.Những vấn đề lí luận về ý thức pháp luật . 2.Vấn đề xây dựng ý thức pháp luật của doanh nhân trong hoạt động kinh doanh và trong lĩnh vực thuế. 3.Giải pháp nâng cao ý thức pháp luật của doanh nhân và tăng cường hiệu quả quản lí bằng pháp luật trong hoạt động kinh doanh . Nội dung 1. Những vấn đề lý luận chung về ý thức pháp luật. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay, việc nghiên cứu ý thức pháp luật trên phương diện lí thuyết và thực tiễn có ý nghĩa to lớn nó tác động mạnh mẽ và theo nhiều chiều hướng dẫn đến sự phát triển của các quan hệ xã hội. 1.1. khái niệm về ý thức pháp luật . ý thức pháp luật là một trong những bộ phận cấu thành của đời sống pháp luật bên cạnh lĩnh vực xây dựng và áp dụng, thực hiện pháp luật ý thức được coi là sự phản ánh thế giới xung quanh vào bộ não con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, ý thức là sản phẩm của xã hội, xét về bản chất thì ý thức có tính xã hội. ý thức trang bị cho con người những tri thức về bản chất và những qui luật khách quan của đối tượng, trên cơ sở đó giúp con người xác định đúng đắn mục tiêu và đề ra phương hướng hoạt động phù hợp. Từ đó, con người xác định biện pháp cụ thể để tiến hành và tổ chức các hoạt động thực tiễn. Cuối cùng, bằng nỗ lực và ý chí của mình, con người có thể thực hiện được những mục tiêu mà bản thân tự đề ra.[1.118] Như vậy, ý thức có ý nghĩa tích cực, năng động đến con người, đến hoạt động có mục đích của con người. Sức mạnh của ý thức tuỳ thuộc mức độ xâm nhập của nó vào con người, vào trình độ tổ chức hoạt động thực tiễn cùng với các điều kiện vật chất, hoàn cảnh khách quan, trong đó ý thức được thực hiện. Từ những hiểu biết về ý thức, giới chuyên môn cho rằng, ý thức pháp luật là: “ Tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, tính chất của chính người thực hiện thái độ, sự đánh giá về tính công bằng hay không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của pháp luật hiện hành, pháp luật trong quá khứ, pháp luật cần phải có, về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong cách xử sự của con người, trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức xã hội.” [2.40] Văn hoá pháp lí là khái niệm phổ quát hơn, bao gồm ý thức pháp luật, hệ thống pháp luật, trình độ vận dụng pháp luật, bản chất Nhà nước và chế độ xã hội, chính sách kinh tế, những điều kiện kết quả về địa lí tự nhiên, phong tục tập quán, truyền thống đạo đức dân tộc, lối sống, tính cách, cùng với những điều kiện kinh tế - xã hội bên ngoài mỗi quốc gia, xu thế vận động, phát triển quốc tế ở mỗi thời kỳ đều tham gia tác động, chi phối đến ý thức pháp luật. Chính vì vậy mà ý thức pháp luật vừa chịu sự quy định của tồn tại xã hội, vừa có tính tiên phong đối với tồn tại xã hội . ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội; tồn tại xã hội cũ mất đi nhưng ý thức xã hội nói chung và ý thức pháp luật nói riêng vẫn tồn tại trong thời gian dài . Hiện nay ở nước ta, vẫn tồn tại một số người còn có thái độ thờ ơ, phủ nhận pháp luật, không có thói quen xử sự theo pháp luật, còn tâm lý lệ làng lạc lạc hậu, bảo thủ, lạc hậu … Vì vậy có thể khẳng định rằng: không một hiện tượng nào có thể gây tác động tới pháp luật, trừ khi nó không được phản ánh vào ý thức pháp luật. Cho nên hiện nay với sự ra đời và phát triển của các loại hình pháp luật với hệ thống về quan hệ xã hội mới, ý thức pháp luật ngày càng được quan tâm cải thiện và chú trọng phát triển hơn. 1.2.Đặc điểm và bản chất của ý thức pháp luật. Với tính cách là một hình thái ý thức pháp luật, ý thức pháp luật chịu sự qui định của tồn tại xã hội nhưng nó có tính độc lập tương đối. Tính độc lập tương đối của ý thức pháp luật được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau: Một điều dễ nhận thấy là, ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội .Tồn tại xã hội cũ mất đi nhưng ý thức nói chung và ý thức pháp luật nói riêng vẫn còn tồn tại dai dẳng trong một thời gian dài. Những tàn dư của quá khứ được giữ lại, đặc biệt trong lĩnh vực tâm lí pháp luật. Ví dụ những biểu hiện của tâm lí pháp luật phong kiến như thờ ơ, phủ nhận đối với pháp luật hiện vẫn còn phổ biến trong xã hội ta. Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng pháp luật đặc biệt là tư tưởng pháp luật khoa học, có thể vượt lên trên sự phát triển của tồn tại xã hội. Nếu là tư tưởng pháp luật của giai cấp cầm quyền thì nó sẽ có cơ hội thuận lợi để thể hiện thành pháp luật và tạo ra những biến đổi tiến bộ trong đời sống . Ngoài ra, ý thức pháp luật phản ánh tồn tại xã hội của một thời đại nào đó, song nó cũng kế thừa những yếu tố nhất định thuộc ý thức pháp luật thời đại trước . Cuối cùng, ý thức pháp luật tác động trở lại đối với tồn tại xã hội, với ý thức chính trị, đạo đức cùng với các yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc pháp lí như nhà nước và pháp luật . Vì vậy, tính độc lập tương đối của ý thức pháp luật, đặc biệt là tính lạc hậu của ý thức pháp luật so với tồn tại xã hội cũng cần được nhận thức khách quan và đầy đủ hơn. Theo đó, tồn tại xã hội nên hiểu trên bình diện rộng, không chỉ giới hạn trong khuôn khổ mối quan hệ sản xuất thuần tuý mà còn bao hàm cả những quan hệ phi kinh tế hiện đang tồn tại và có sức mạnh chi phối đến lĩnh vực ý thức pháp luật của con người. Tiếp đến là tồn tại pháp luật thực tiễn xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật trong chính sách và cả bản thân ý thứ pháp luật cá nhân, các nhóm xã hội trong mối quan hệ qua lại khác nhau. Thực tiễn đã chỉ ra rằng ý thức pháp luật lạc hậu hơn so với cả tồn tại pháp luật. Có khi văn bản pháp luật mới đã ra đời của thực tiễn áp dụng pháp luật đã thay đổi nhưng có người vẫn chưa nắm bắt được do nhiều lí do khác nhau. Hoặc có sự chậm trễ trong việc tiếp cận với tư duy pháp lí mới của thế giới, của nền luật học nước nhà. Trên bình diện rộng hơn, lí luận, khoa học cũng thường lạc hậu hơn so với sự thay đổi của các quan hệ xã hội. Ngoài đặc điểm mang tính độc lập tương đối, ý thức pháp luật còn là hiện tượng mang tính giai cấp. Thế giới quan pháp lý của một giai cấp nhất định được qui định bởi vị trí của giai cấp đó trong xã hội. Mỗi quốc gia chỉ có một hệ thống pháp luật, lại song song tồn tại một số hệ thống ý thức pháp luật:như ý thức pháp luật của giai cấp thống trị, của các tầng lớp trung gian…Về nguyên tắc thì chỉ ý thức pháp luật của giai cấp thống trị mới được phản ánh vào trong pháp luật. Những đặc điểm trên làm cho ý thức pháp luật của giai cấp bị trị mâu thuẫn với ý thức pháp luật của giai cấp thống trị trong xã hội. Đối với Việt Nam ta, giữa giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác có lợi ích thống nhất cao. Điều đó phản ánh sự thống nhất về chính trị, tư tưởng của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. [3.293] 1.3. Mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và pháp luật. Pháp luật và ý thức pháp luật là hai hiện tượng pháp lí khác nhau nhưng có mối liên hệ biện chứng với nhau. ý thức pháp luật là hiện tượng thuộc lĩnh vực chủ quan của đời sống, rất gần gũi với pháp luật. Không có qui tắc xã hội nào có khả năng trở thành những qui phạm pháp luật chừng nào chúng chưa có sự tác động của ý thức con người. Ngược lại, các qui phạm pháp luật muốn thực hiện được trên thực tế cũng phải trải qua yếu tố con người có nghĩa là sự thực hiện pháp luật chính là quá trình đưa qui phạm vào ý thức pháp luật của cá nhân. ý thức pháp luật có ở tất cả các giai đoạn của cơ chế điều chỉnh pháp luật ý thức pháp luật không những có trước việc thiết lập các quan hệ pháp lý mà còn song song đi cùng với pháp luật trong quá trình thực thi, kể cả sau khi qui phạm pháp luật bị huỷ bỏ. Hiệu lực và hiệu quả của toàn bộ cơ chế điều chỉnh pháp luật phụ thuộc vào nhiều vào mức độ chín muồi của ý thức pháp luật các cá nhân trong xã hội. Mối quan hệ ý thức pháp luật với pháp luật được thực hiện trên các phương diện của đời sống - thực tiễn pháp lý như trong xây dựng pháp luật, thực hiện áp dụng pháp luật, thậm chí cả trong lĩnh vực ý thức pháp luật, văn hoá pháp lý. ý thức pháp luật của những thành viên này trong xã hội đến lượt mình lại có tác động đến ý thức pháp luật của những thành viên khác. Hệ thống pháp luật là sản phẩm vật chất của ý thức pháp luật và các dạng ý thức xã hội khác của con người trên cơ sở hiện thực khách quan của xã hộ. Trong thực tiễn không thể tách bạch một cách độc lập, không thể pháp luật và ý thức pháp luật cái nào thứ nhất, cái nào thứ hai; ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng cho hoạt động xây dựng pháp luật. Đồng thời, pháp luật là cơ sở cho ý thức pháp luật tác động đến yếu tố cá nhân, hướng họ xử sự phù hợp với các qui định, nguyên tắc chung của pháp luật. Pháp luật tác động theo chiều hướng tiêu cực hoặc tích cực là do nội dung của qui phạm pháp luật có tiến bộ hay không, và nhiều yếu tố khác, trên cơ sở đó hình thành nhiều quan điểm, nhiều học thuyết mới, những kiểu tư duy mới về pháp luật. Pháp luật tác động đến ý thức pháp luật góp phần thay đổi ý thức pháp luật cá nhân, và ý thức pháp luật nhóm.Vì vậy cần thiết phải hoàn thiện hệ tư tưởng pháp luật với tính cách là bộ phận lí luận khoa học của ý thức pháp luật mà ở đó phản ánh lợi ích và nhu cầu xã hội và chuyển hoá chúng thành các chế định và các qui phạm pháp luật. Đồng thời phải nâng cao ý thức pháp luật cho tầng lớp nhân dân vì trong quá trình phát triển và tăng cường tính dân chủ, nhân dân lao động ngày càng tham gia rộng rãi vào quá trình xây dựng pháp luật. 1.4. ý thức pháp luật trong thời kỳ đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta. Nhà nước và pháp luật không thể tồn tại thiếu vắng nhau. Đó là vấn đề mang tính qui luật.ý thức pháp luật là sản phẩm của đời sống vật chất, tinh thần của xã hội và của đời sống Nhà nước và pháp luật. Sự thay đổi trong đời sống xã hội sớm muộn sẽ kéo theo sự biến chuyển trong lĩnh vực ý thức pháp luật. Song quá trình đó không thể xảy ra, bởi ý thức pháp luật có sức ỳ ghê gớm, lại được cộng hưởng cùng các hình thái ý thức xã hội khác như đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật. ở Việt Nam, những năm thực hiện cơ chế quản lí tập trung bao cấp đã sản sinh ra pháp luật tương ứng. Do tác động của nền kinh tế hiện vật, của những nhận thức, tư duy sai lệch về kinh tế, về xã hội. Dẫn đến nhận thức của cá nhân mỗi người về pháp luật cũng hạn chế, đặc biệt đó là thái độ thời ơ, lãnh đạm với pháp luật và với thực tiễn áp dụng pháp luật. Việc quản lý xã hội đã được chú ý thực hiện bằng mệnh lệnh hành chính, lấy đường lối thay cho pháp luật; thói quen ứng xử theo pháp luật dường như bỏ trống. Thực trạng đó ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động xây dựng pháp luật, hậu quả nặng nề của những bất cập đó là sự thui chột những tài năng sáng tạo của con người, kể cả tư duy khoa học pháp lí. Sau khi nhận thức được những sai lầm của cơ chế thị trường quản lý bao cấp, Đảng và nhà nước đã mạnh dạn đề ra đường lối đổi mới, thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần với sự quản lý của nhà nước. Công cuộc đổi mới đất nước, cơ chế kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp quyền đã đem lại những biến đổi to lớn trong đời sống nhân dân, trong đó có pháp luật và ý thức pháp luật. ý thức pháp luật trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền tất yếu có nhiều điểm khác với ý thức pháp luật trong giai đoạn trước, nó vừa có sự kế thừa vừa có tố chất mới làm nên những chuẩn mực nhất định để nhận diện Nhà nước pháp quyền. ý thức pháp luật trong Nhà nước pháp quyền còn mang bản sắc của xã hội được tổ chức ở trình độ cao. Nhà nước nào cũng đều có pháp luật để quản lý xã hội theo đường lối của mình. Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền phải có cơ chế đảm bảo cho được nguyên tắc: được làm tất cả trừ những gì luật cấm pháp luật phải công khai, minh bạch, dễ hiểu, thống nhất, dễ vận dụng, nhất quán, có độ tin cậy cao. Cùng với sự vận động, phát triển của xã hội, lĩnh vực ý thức pháp luật cũng có những biến đổi to lớn. Tư duy pháp lí được nâng cấp, bổ sung theo kịp những đổi thay của xã hội chen lẫn sự giậm chân, trì néo, nuối tiếc tư duy pháp lí cũ chưa chịu rút khỏi đời sống xã hội, tạo nên những lực cản đối với việc thực hiện, xây dựng và ban hành pháp luật. Bên cạnh đó, chúng ta nhận thấy ở Việt Nam hiện nay, xu hướng vận động của ý thức pháp luật ngày càng đa dạng, có thêm những ý thức mới trong lĩnh vực ý thức pháp luật xét trên cả về hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật. Đó chính là biểu hiện của xã hội công dân trong điều kiện Nhà nước pháp quyền, dân chủ hoá mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Khoa học pháp lí ngày càng phục vụ tốt hơn thực tiễn xã hội. Đời sống kinh tế thị trường, kinh tế hội nhập quốc tế đã có tác động đến ý thức pháp luật của mỗi cá nhân, mỗi tổ chức. áp dụng pháp luật của công quyền bằng nhiều cách thức khác nhau đã có ảnh hưởng đến yếu tố pháp luật của cá nhân và từ đó tác động đến hành vi của họ. Trước đây, việc xây dựng pháp luật là đặc quyền của các Nhà nước. Ngày nay, hoạt động này phải chịu sự kiểm soát của dư luận xã hội, phải xuất phát từ nhu cầu xã hội đồng thời thu hút sự tham gia của đông đảo các cá nhân và tập thể trong xã hội. Từ những đặc điểm đó cùng với việc xây dựng chiến lược phát triển hệ thống pháp luật, chúng ta cần triển khai chiến lược xây dựng ý thức pháp luật và nền văn hoá pháp lí. Các giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật, xây dựng ý thức , và lối sống tuân theo pháp luật không chỉ nhằm vào hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, bởi việc cung cấp cho các cá nhân những tri thức pháp luật, làm cho họ có thể nắm được những quy định chung các bộ luật. Thực trạng hệ thống các văn bản pháp lý ngày nay còn nhiều bất cập, đặc biệt là sự chồng chéo, mâu thuẫn trong toàn hệ thống, làm cho việc tìm kiếm thông tin pháp luật còn nhiều khó khăn. Các hoạt động dịch vụ pháp lí ở Việt Nam còn kém phát triển, hiện tượng dịch vụ ít, tính cạnh tranh còn yếu, phí dịch vụ rất cao so với mức thu nhập của người dân, loại hình dịch vụ chưa đa dạng, chất lượng dịch vụ thấp, chưa tạo được niền tin cho người dân. Để xây dựng Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân, tất cả mọi thành viên có thể nói, xã hội phải có hiểu biết về xã hội và phải ý thức tuân thủ pháp luật. Xây dựng ý thức, lối sống tôn trọng và tuân thủ pháp luật, phát triển hệ thống pháp luật nước nhà vừa đậm đà bản sắc dân tộc, vừa mang tính hiện đại, đảm bảo tính định hướng XHCN là mục tiêu đồng thời cũng là đòi hỏi cấp thiết đối với nước ta hiện nay. 2. Vấn đề xây dựng ý thức pháp luật của con người trong hoạt động kinh doanh. 2.1. Chủ thể của ý thức pháp luật . ý thức pháp luật là hiện tượng xã hội phức tạp, có nội hàm khái niệm rộng. Về phương diện cơ cấu, ý thức pháp luật được hình thành từ các thành tố như hệ tư tưởng pháp luật, tâm lí pháp luật. Dựa vào tiêu chí chủ thể, người ta chia thành: ý thức pháp luật nhóm, ý thức pháp luật cá nhân, ý thức pháp luật xã hội. ý thức pháp luật xã hội là ý thức pháp luật của bộ phận tiên tiến đại diện cho xã hội, ý thức pháp luật xã hội có cơ sở khoa học cao. Nó chứa đựng những khái niệm khoa học về bản chất, vai trò, các đặc trưng chức năng, nguyên tắc…của pháp luật và được hình thành dưới tác động trực tiếp của khoa học pháp lí ý thức pháp luật của nhóm xã hội và tất cả các thành viên trong xã hội chịu ảnh hưởng rất lớn của ý thức pháp luật xã hội. ý thứcpháp luật nhóm phản ánh những đặc điểm của các nhóm xã hội tương ứng. Đó là những quan điểm, nhận thức, tư tưởng, tính chất pháp luật của một nhóm người nhất định trong xã hội. Sự giống nhau về điều kiện đời sống và lợi ích tạo cho những thành viên của nhóm đó những khái niệm, những nhận thức, thái độ tương giống nhau đối với pháp luật . ý thức pháp luật cá nhân là những khái niệm, quan điểm, tâm trạng, tình cảm pháp lý của mỗi công dân. Không phải ý thức pháp luật của mỗi cá nhân đều đạt tới ý thức pháp luật xã hội .Trình độ ý thức cá nhân ở mỗi công đan có sự khác nhau. Do đó, nhiệm vụ cơ bản cuả công tác giáo dục pháp luật là nâng cao trình độ của ý thức pháp luật cá nhân lên ngang bằng với trình độ của ý thức pháp luật xã hội .[5.297] 2.2. ý thức pháp luật của Doanh nhân . 2.2.1. Khái niêm về Doanh nhân : Doanh nhân được hiểu là những người làm ra của cải vật chất cho xã hội, nộp thuế để nuôi bộ máy nhà nước . Doanh nhân có vai trò quan trọng trong việc xây dựng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Sự giàu mạnh của các doanh nghiệp góp phần làm tăng sự phát triển, giàu mạnh của mỗi quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Việc tồn tại những cơ chế “xin –cho; cấp- phát”,những mối quan hệ gắn liền với quyền lực đã hình thành qui tắc được: một bên chỉ được phép đi xin –tức các Doanh nhân, doanh nghiệp; còn một bên –tức cán bộ nhà nước có quyền “cho hay không cho” . Hệ quả là không tránh khỏi những tệ nạn chạy chọt, nhờ vả, từ đó kéo theo đường dây tham nhũng, quan liêu…Đồng thời suất phát từ đặc điểm, mục đích của hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường nên các Doanh nhân dù tồn tại dưới hình thức được nào cũng đều có chung mục đích là: “tìm kiếm lợi nhuận”. Xuất phát từ lợi nhuận mà các nhà doanh nghiệp không chỉ áp dụng toàn bộ các biện pháp kinh tế, các “nghệ thuật kinh doanh”, mà còn dùng các thủ đoạn, mánh khoé, lợi dụng sơ hở của pháp luật để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nhằm thu lợi nhuận cho mình . Có thể nói, ý thức pháp luật của Doanh nhân trong nền kinh tế thị trường còn nhiều vấn đề tồn tại. Cho nên nhà nước cần có những biện pháp kịp thời nhằm khắc phục những tình trạng trên, đồng thời nâng cao ý thức pháp luật cho các Doanh nhân để có thể hình thành một lực lượng Doanh nhân sáng chói, và một hệ thống doanh nghiệp hùng mạnh [6.39] 2.2.2. ý thức pháp luật của Doanh nhân trong việc chấp hành qui định pháp luật nhà nước về kinh doanh . Cùng với sự vận động và phát triển của xã hội , lĩnh vực ý thức pháp luật cũng đang diễn ra quá trình biến đổi to lớn. Từ ý thức cá nhân thời cơ chế quản lí tập trung, bao cấp như thờ ơ, thậm chí còn dị ứng với pháp luật. Với hoạt động áp dụng pháp luật, đến nay nhu cầu tìm hiểu và hành động theo pháp luật ngày càng gia tăng, đặc biệt là trong các doanh nghiệp tư nhân. Đây là một dấu hiệu lạc quan cho nền kinh tế – xã hội nước ta trong tiến trình hội nhập và phát triển. Tuy nhiên quá trình vận động của ý thức pháp luật còn có cả những ảnh hưởng tiêu cực. Hiện nay trong xã hội ta, ý thức pháp luật chưa trở thành văn hoá của quản lí, chưa được thấm sâu vào trong tinh thần của công dân do hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập, nhất là trong lĩnh vực kinh doanh. Kinh doanh là quá trình mà chủ thể phải thu được lợi nhuận sau một quá trình hoạt động nhất định. Lợi nhuận là mục đích cao nhất của kinh doanh, cho nên do tính qui định và sự chi phối của lợi nhuận đối với kinh doanh mà quan hệ giữa kinh doanh và ý thức chấp hành pháp luật của Doanh nhân luôn trở thành vấn đề của thực tiễn và lí luận. Đây là một vấn đề phức tạp, bởi lẽ, kinh doanh chỉ là kinh doanh khi nó là một hoạt động kinh tế nhằm mục đích sinh lợi cho các nhà kinh doanh. Bởi nếu không vậy thì người ta không tham gia vào quan hệ kinh doanh. Chính sức ép của việc thu lợi cá nhân làm cho hành vi kinh doanh dường như có một sự đối lập nhất định với việc chấp hành pháp luật. Các nhà kinh doanh luôn bị chi phối bởi những vụ lợi vật chất, lợi ích vật chất thúc đẩy họ vi phạm pháp luật mặc dù nhiều trường hợp họ nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật. Thực tế sự tồn tại các biện pháp chế tài kém hiệu quả đã khiến cho tính giáo dục, phòng ngừa, tác dụng răn đe và trừng trị của pháp luật không cao và đồng thời làm cho ý thức pháp luật của doanh nghiệp trong việc chấp hành pháp luật đi theo chiều hướng tiêu cực. Hành vi vi phạm pháp luật là hiện tượng khá phổ biến trong các doanh nghiệp, thể hiện tính tiêu cực của ý thức doanh nhân đối với pháp luật. Ngoài nguyên nhân xuất phát từ động cơ vụ lợi vật chất của các nhà doanh nghiệp, vi phạm pháp luật còn phát sinh nhanh do bản thân hoạt động kinh doanh là một lĩnh vực có sự phát triển rất năng động. Thực tế cho thấy, tính đa dạng, phức tạp và năng động của hoạt động của hoạt động kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường đôi khi vấp phải những ngại trở lại lớn, ví như việc, thể chế hoá thể chế hoá chính sách chưa kịp thời đã làm giảm hiệu quả quản lý của nhà nước trên một số lĩnh vực. Đây là điều kiện thuận lợi cho vi phạm pháp luật phát sinh và tồn tại. Bởi lẽ, thực tế cho thấy việc tuyệt đối hoá vai trò của pháp luật không những không thúc đẩy sự phát triển của sản xuất, kinh doanh mà ngược lại còn gây ra nhiều tổn hại về kinh tế, vì trong kinh doanh nếu không bị ràng buộc bởi ý thức pháp luật thì các Doanh nhân sẵn sàng lợi dụng những khiếm khuyết của pháp luật để thực hiện lợi ích của mình , bất chấp sự tổn hại lợi ích của người khác và của toàn xã hội. Nên việc xây dựng ý thức pháp luật của Doanh nhân tuy là một yếu tố vô hình nhưng đem lại những hiệu quả cụ thể. Các Doanh nhân có ý thức pháp luật hay không phụ thuộc nhiều về vấn đề đạo đức của Doanh nhân. Có thể nói đây là nhân tố bên trong của kinh doanh, mặc dù hành vi kinh doanh hàm chứa bên trong nó các đặc trưng là tính tha lợi, tính ích kỉ, do đó trái ngược với qui định bản chất của đạo đức. Trên thực tế nhiều Doanh nhân đã kinh doanh một cách vô đạo đức, thậm chí cố ý vi phạm pháp luật, điều đó làm thiệt hại đến lợi ích của mọi người, của xã hội. Vì vậy cần điều chỉnh một cách công bằng và hợp lí các lợi ích, để qua đó thúc đẩy sản xuất, kinh doanh nhà nước cần có một hệ thống các chính sách pháp luật luật về đạo đức của Doanh nhân hoàn chỉnh hơn và có những biện pháp hữu hiệu để quản lý. Đối với hoạt động kinh doanh thì sự can thiệp của đạo đức sẽ cản trở nguyên tắc đa hoá lợi ích và có ảnh hưởng đến ý thức pháp luật của Doanh nhân. Như vậy việc tách rời lợi ích với đạo đức trong kinh doanh là không phù hợp với thực tế. Người kinh doanh trong khi hướng tới lợi ích cá nhân phải biết tôn trọng lợi ích người khác, lợi ích của xã hội thì hành vi kinh doanh của họ mới được điều chỉnh bởi chuẩn mực đạo đức. Hơn thế nữa, nếu biết tôn trọng lợi ích của người khác, của xã hội thì lợi ích cá nhân mới có thể đảm bảo ổn định và lâu dài. Qua đây cho thấy, đạo đức ngày càng có vị trí quan trọng trong kinh doanh, đặc biệt là trong việc xây dựng ý thức pháp luật của Doanh nhân . Tóm lại, nước ta đang trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, nên việc xây dựng và nâng cao ý thức pháp luật của Doanh nhân là một đòi hỏi bức thiết, buộc Đảng và nhà nước cần phải quan tâm. 2.3. ý thức pháp luật của Doanh nhân trong việc chấp hành quy định pháp luật của nhà nước trong lĩnh vực Thuế Thuế là một khoản ta phải nộp cho Nhà nước, được pháp luật quy định theo mức thu và thời hạn nộp, nói cách khác thuế là hình thức đóng góp theo nghĩa vụ do luật quy định cho các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế trong xã hội nộp cho Nhà nước bằng một phần thu nhập của mình. Thuế đã tồn tại từ lâu trong lịch sử loài người và được nhiều nước trên thế giới sử dụng như một công cụ bắt buộc các công dân, các ngành nghề đóng góp để cho Nhà nước chỉ dùng vào các hoạt động bộ máy Nhà nước, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng, công trình phục vụ công cộng... 2.3.1. Tác động của thuế trong nền kinh tế thị trường Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, thuế có vai trò công cụ chủ yếu huy động nguồn lực vật chất cho Nhà nước. Đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, để huy động tập trung nguồn lực tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước thì thuế có vai trò quan trọng. Sử dụng công cụ thuế để huy động tiền thuế cho Nhà nước có nhiều ưu điểm lớn: Phạm vi thu thuế rộng, đối tượng nộp thuế gồm toàn thể nhân dân và pháp nhân hoạt động kinh tế và phát sinh nguồn thu nhập phải nộp thuế. Không những thế, nguồn huy động tập trung thông qua thuế là tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong nước tạo ra. Nhờ đó tăng đáng kể thu nhập xã hội tập trung trong tay Nhà nước để đảm bảo các nội dung chi tiêu và các điều kiện kinh tế xã hội. Mặt khác nguồn thu từ thuế được đảm bảo tập trung cách nhanh chóng, thường xuyên và ổn định. Ngoài ra, tính ưu thế của thuế so với các công cụ tài chính khác là ở chỗ: thuế là sự kết hợp giữa phương thức cưỡng bức, được quy định dưới hình thức pháp luật với kích thích vật chất, nhằm tạo ra sự quan tâm của đối tượng nộp thuế đến chất lượng hiệu quả kinh doanh. Vì những ưu điểm trên thuế luôn được coi là nguồn thu chú ý của NSNN. Nguồn thu của NSNN có thể gia tăng khi và chỉ khi nền kinh tế có sự tăng trưởng và đạt năng suất hiệu quả cao. Mặt khác thuế còn là công cụ điều tiết vĩ mô trong nền kinh tế thị trường. Vì lợi ích xã hội, Nhà nước có thể tăng hoặc giảm thuế đối với thu nhập của các tầng lớp dân cư và với doanh nghiệp để kích thích hoặc hạn chế sự phát triển các lĩnh vực, các ngành khác nhau của nền kinh tế bằng cách thông qua chính sách thuế ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của chủ doanh nghiệp. Việc điều chỉnh chính sách thuế góp phần hoàn thành cơ cấu ngành hợp lí theo yêu cầu phát triển nền kinh tế trong từng giai đoạn.Trong khi áp dụng các chính sách thuế cho từng loại hàng hoá dịch vu, từng ngành kinh doanh khác nhau, Nhà nước có thể thúc đẩy phát triển các ngành quan trọng nhất, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế hoặc san bằng tốc độ tăng trưởng giữa các ngành nghề. Với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, Nhà nước cần phải khuyến khích tích luỹ và tích tụ trong các doanh nghiệp để tạo ra nguồn vốn đầu tư. Việc thay đổi chính sách thuế có ảnh hưởng đến qui mô, tốc độ tích luỹ tiền tệ, do đó tác động đến quá trình đầu tư phát triển kinh tế. Thuế được sử dụng như một công cụ có hiệu quả để góp phần thực hiện chính sách đối ngoại và bảo hộ sản xuất trong nước và thúc đẩy hoà hợp kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Do vậy trong nền kinh tế thị trường luôn biến động, các luật thuế ban hành sau một thời gian đã dần dần bộc lộ những nhược điểm còn phù hợp thì phải được sửa đổi, bổ sung để phù hợp nền kinh tế trong nước và thế giới. 2.3.2 Thực trạng nộp thuế ở nước ta hiện nay. Nhà nước ban hành các chính sách thuế phải bảo đảm nguyên tắc cơ bản là bình đẳng và công bằng, để vừa đảm bảo đời sống tối thiểu cho người nộp thuế vừa góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển trong từng thời kỳ. Song, dù chính sách có hoàn thiện đến đâu vẫn còn tồn tại tình trạng bất cập như nạn thất thu thuế. Không những ở Việt Nam mà nhiều nước trên thế giới, các chính phủ đã có những nỗ lực trong việc chống thất thu thuế để đảm bảo nguồn thu cho NSNN. Thực trạng thất thu thuế ở nước ta là một chủ đề khiến dư luận xã hội rất quan tâm. Trong những năm gần đây, đặc biệt là sau khi Luật Doanh nghiệp 1999 ra đời, thì các loại hình doanh nghịêp hoạt động trong nhiều lĩnh vực đã phát triển một cách mạnh mẽ, không những cả về số lượng mà cả về qui mô kinh doanh. Chính những thành phần kinh tế này đã góp phần quan trọng và sự đi lên của nền kinh tế, hàng năm đã góp phần không nhỏ vào NSNN. Bên cạnh những đóng góp không nhỏ ở các DNNQD hiện nay, còn nổi lên một vấn đề bức xúc đó là tình trạng thất thu thuế khá lớn - đó là một căn bệnh trầm kha của nước ta trong thời kỳ đổi mới, xuất phát từ mâu thuẫn về lợi ích giữa các chủ thể, cá thể có liên quan mật thiết với nhau. Đối với các doanh nhân thì mục đích cao nhất trong kinh doanh là lợi nhuận, nên nhiều trường hợp các doanh nhân lợi dụng sơ hở của chính sách và sự lỏng lẻo về công tác quản lý để tìm cách trốn thuế. Ngoài ra, nếu được sự tiếp tay của các cán bộ ngành thuế thì hành vi trở nên rất tinh vi và khó phát hiện.[7.] Vì vậy, để giảm thiểu tình trạng thất thu thuế của các Doanh nhân Việt Nam phụ thuộc phần lớn vào ý thức của các chủ thể trong việc kê khai và chấp hành nộp thuế theo đúng quy định. 2.3.3. Nguyên nhân thất thu thuế. Vấn đề chống thất thu thuế đang là mối quan tâm của chính phủ, đảm bảo là của ngành thuế tuy thất thu thuế không phải là vấn đề nan giải nhưng cũng không thể giải quyết dứt khoát trong thời gian ngắn mà cần phải xác định đây là một cuộc đấu tranh lâu dài, bền bỉ bằng các nguồn kinh phí, chính sách quản lý Nhà nước, quản lý thuế để từng bước khép dần kết chuyển thất thu. Để giải quyết vấn đề này chúng ta cần làm rõ hơn nguyên nhân đưa đến thất thu. Theo chúng tôi những nguyên nhân chủ yếu là: Nguyên nhân khách quan: + Cơ chế, chính sách thuế chưa hoàn chỉnh, có quá nhiều loại thu, nhưng vẫn sơ hở, chồng chéo, chắp vá, không bao quát hết nguồn thu và diện thu. + Sự phát triển đa dạng của hoạt động kinh doanh trên thị trường không gắn liền với nhận thức mới về nghĩa vụ đóng thuế, các doanh nghiệp luôn tìm cách trốn thuế, lậu thuế Nguyên nhân chủ quan: + Trong hình thức thu NSNN, hệ thống thu thuế là quan trọng nhất._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0062.doc
Tài liệu liên quan