Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam: Cơ hội & thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO

Lời Mở Đầu Việt Nam đang thực hiện lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó một trong những mục tiêu hàng đầu là tăng kim ngạch xuất khẩu, tiến tới cân bằng xuất nhập khẩu.Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: phải “chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị trường các trung tâm thế giới, duy trì và mở rộng trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ cơ hội mở rộng thị trường mới”. Chính vì thế tăng cường xuất khẩu là rất quan trọng tới các doanh ngh

doc37 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1080 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam: Cơ hội & thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệp nói chung và các doanh nghiệp dệt may nói riêng. Với nghành Dệt May Việt Nam là một nghành hàng truyền thống, lâu đời và là một nghành công nghiệp mũi nhọn, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Đề tài “Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam: Cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO” phần nào nói lên được thực trạng,những cơ hội và thách thứccủa ngành dệt may Việt Nam hiện nay. Nội dung chính của đề án gồm 2 chương: +Chương I: Một số vấn đề chung về hoạt động xuất khẩu hàng hoá và ngành Dệt May Việt Nam. +Chương II: Cơ hội và thách thức đối với sản phẩm dệt may xuất khẩu của Việt Nam Mặc dù đã có nhiều cố gắng song do trình độ nghiên cứu còn hạn chế nên đề tài nghiên cứu này còn nhiều thiếu sót và nhược điểm. Vì vậy em mong nhận được sự góp ý của thầy và các bạn để em có thể hoàn thiện đề tài nghiên cứu hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy Trương Đức Lực đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ để em được nghiên cứu va hoàn thành đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I Một số vấn đề chung về hoạt động xuất khẩu hàng hoá và nghành dệt may Việt Nam I. Xuất khẩu hàng hoá. 1.khái niệm Xuất khẩu là một bộ phận cấu thành quan trọng của hoạt động ngoại thương;trong đó hàng hoá ,dịch vụ được bán ra nước ngoài nhằm thu ngoại tệ . Nếu xem xét dưới góc độ các hình thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là hình thức cơ bản đầu tiên của doanh nghiệp khi bước vào kinh doanh quốc tế . 2:Đặc điểm của xuất khẩu. - Xuất khẩu là sự mở rộng của giao dịch ,buôn bán :Doanh nghiệp muốn tồn tại và mở rộng sản xuất thì cần có thị trường tiêu thụ của mình .với thị truờng hạn hẹp trong nước ,doanh nghiệp cũng chỉ chiếm một phần hạn hẹp nào đó của thị trường vì thế mở rộng thị trường trong nước để tạo lọi thế cạnh tranh là rất khó khăn .Trong khi đó ,thị trường ở nước ngoài là một thị trường rộng lớn,với những nhu cầu đa dạng về chủng loại ,mẫu mã .khi đó,xuất khẩu hàng hoá doanh nghiệp mở rộng được thị trường của mình . -Với xu hướng hộp nhập quốc tế ,các quốc gia chuyển từ đối đầu sang đối thoại ,hợp tác cùng phát triển .các khối quốc gia cùng phát triển.việc xuất khẩu hàng hoá từ nước này sang nước khác ngày càng dễ dàng hơn. 3:Vai trò của xuất khẩu Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới,không một quốc gia nào có thể tự sản xuất tất cả các sản phẩm hàng hoá ,dịch vụ đáp ứng nhu cầu trong nước.vì vậy tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế là điều kiẹn cần thiết cho mỗi quốc gia.mỗi quốc gia phải thông qua trao đổi,mua bán với các quốc gia nhằm thoả mãn nhu cầu của mình.như vậy,hoạt động xuất khẩu góp phần quan trọng vào sự phát triển hay suy thoái ,lạc hậu của quốc gia so với thế giới.vai trò của xuất khẩu được thể hiện như sau: 3.1:Đối với nền kinh tế thế giới Thông qua hoạt động xuất khẩu,các quốc gia sẽ tập trung vào sản xuất những hàng hoá và dịch vụ mà mình có lợi thế. Xét trên tổng thể nền kinh tế thế giới thì chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu sẽ làm cho việc sử dụng các nguồn lực có hiệu quả hơn và tổng sản phẩm của toàn thế giới tăng lên . Bên cạnh đó xuất khẩu góp phần thắt chặt thêm quan hệ quốc tế giữa các quốc gia. 3.2:Đối với nền kinh tế quốc gia Xuất khẩu tạo nguồn vốn quan trọng ,chủ yếu của các quốc gia thoả mãn các nhu cầu nhập khẩu và tích luỹ để phát triển sản xuất.mỗi các quốc gia muốn tăng trưởng và phát triển cần những tư liệu sản xuất đó,họ phải nhập khẩu từ nước ngoài và để bù đắp nguồn vốn bị thiếu hụt họ sẽ lấy từ xuất khẩu.ở các nước kém phát triển lại rất cần các tư liệu sản xuất để phục vụ cho công cuộc CNH-HĐH, để có những tư liệu đó ,họ phải nhập khẩu từ nước ngoài và để bù đáp nguồn vốn bị thiếu hụt họ sẽ lấy từ xuất khẩu.ở các nước kém phát triển vật ngăn cản chính đối với nền kinh tế là tiềm lực về vốn trong quá trình phát triển.nguồn vốn huy động từ nước ngoài được coi là nguồn quan trọng trong quá trình phát triển, nhưng để có được nguồn đầu tư hoặc vay nợ thì các nước cho vay phải thấy được khả năng xuất khẩu của đất nước đó,vì đây là nguồn chính để đảm bảo nước này có đủ khả năng để trả nợ. Đẩy mạnh xuất khẩu được xem như một yếu tố quan trọng kích thích sự tăng trưởng kinh tế . Việc đẩy mạnh xuất khẩu sẽ tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, nhiều nghành nghề mới ra đời phục vụ cho xuất khẩu, gây phản ứng dây chuyền giúp cho các nghành kinh tế khác phát triển theo, dẫn đến kết quả tăng tổng sản phẩm xã hội và nền kinh tế phát triển nhanh. Xuất khẩu có ích lợi kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất. Để có thể đáp ứng được nhu cầu cao của thế giới về quy cách sản phẩm thì một sản phẩm sản xuất phải đổi mới trang thiết bị công nghệ, mặt khác người lao động phải nâng cao tay nghề, học hỏi những kinh nghiệm sản xuất tiên tiến. Đẩy mạnh xuất khẩu có ích lợi cho sự thay đổi cơ cấu kinh tế nghành theo hướng sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh tuyệt đối và tương đối của đất nước. Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu vào cho sản xuất, khai thác tối đa tiềm năng sản xuất trong nước. Xuất khẩu tạo những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này có ý nghĩa là xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo vốn, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến từ thế giới bên ngoàivoà trong nước nhằm hiện đại hoá nền kinh tế của đất nước, tạo ra năng lực sản xuất mới. Thông qua xuất khẩu, hàng hoá trong nước sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi các nhà sản xuất trong nước phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất phù hợp với nhu cầu thị trường. Ngoài ra, xuất khẩu còn đòi hỏi các nhà doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành. Xuất khẩu có tác động trực tiếp đến việc giải quyết công ăn việc làm và cỉa thiện đời sống của nhân dân, tác động của xuất khẩu đến đời sống nhân dân bao gồm nhiều mặt. Ngoài ra một phần kim ngạch xuất khẩu còn dùng để nhập khẩu những vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ cho đời sống và đáp ứng ngày càng phong phú hơn nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy kinh tế đối ngoại giữa các quốc gia. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là một hoạt đọng chủ yếu, cơ bản là hình thức ban đầu của hoạt động kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác như du lịch quốc tế, bảo hiểm, vận tải quốc tế, tín dụng quốc tế…phát triển theo. Ngược lại sự phát triển của các ngành này lại là những điều kiện tiền đề cho hoạt động xuất khẩu phát triển. 3.3.Đối với doanh nghiệp Ngày nay xu hướng vươn ra thị trường nước ngoài là một xu hướng chung của các quốc gia và các doanh nghiệp. Việc xuất khẩu hàng hoá dịch vụ đem lại lợi ích sau: -Thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Những yếu tố đó đòi hỏi doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường. -Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. -Xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ kinh doanh với các bạn hàng cả trong và ngoài nước, trên cơ sở hai bên cùng có lợi, tăng doanh số và lợi nhuận, đồng thời phân tán và chia sẻ rủi ro, mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của doanh nghiệp. -Xuất khẩu khuyến khích việc phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp, chẳng hạn như hoạt động đầu tư, nghiên cứu và phát triển các hoạt động sản xuất, marketing…cũng như sự phân phối mà mở rộng trong việc cấp giấy phép. 4.Thông lệ quốc tế của các khối nước, khu vực mậu dịch tự do Trong quá trình xuất khẩu, việc hiểu về thông lệ quốc tế các khối nước, khu vực mậu dịch tự do là rất quan trọng bởi nó có tác động lớn tới kim ngạch xuất khẩu. Với thị trường xuất khẩu hàng dệt may, có các khối nước, khu vực mậu dịch tự do sau: 4.1. Tổ chức thương mại thế giới( WTO) WTO là tổ chức quốc tế duy nhất quản lý luật lệ giữa các quốc gia trong hoạt động thương mại quốc tế. Kể từ ngayg 7/11/2006 khi Việt Nam gia nhập WTO thì tổ chức này có 151 thành viên, hoạt động dựa trên 5 nguyên tắc cơ bản sau: -Nguyên tắc không phân biệt đối xử: Theo quy chế đãi ngộ Tối huệ quốc (MFN), mỗi nước thuộc WTO phải dành cho sản phẩm nhập khẩu từ một quốc gia thành viên khác đối xử không kém ưu đãi hơn so với sản phẩm nhập khẩu từ một nước thứ ba khác. Ngoài ra, theo quy chế đối xử quốc gia thì mỗi nước thành viên của WTO không giành cho sản phẩm nội địa những ưu đãi so với sản phẩm của nước ngoài (ưu đãi về thuế, các điều kiện vệ sinh, điều kiện kinh doanh…) -Nguyên tắc điều kiện hoạt động thương mại ngày càng thuận lợi: Với nguyên tắc này đòi hỏi mỗi nước phải xây dựng lộ trình cắt giảm thuế và các biện pháp phi thuế theo thoả thuận đã thông qua ở các vòng đàm phán song phương và đa phương để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tự do hoáthương mại. Trong trường hợp này, phải xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các sản phẩm trong nước và sản phẩm nhập khẩu. -Nguyên tắc xây dựng môi trường kinh doanh dễ dự đoán: Với nguyên tắc này, chính phủ của các nước thành viên thuộc WTO không thay đổi cơ chế chính sách kinh tế, trong đó có hàng rào thương mại một cách tuỳ tiện gây khó khăn cho các doanh nghiệp và nhà nhập khẩu trong việc thực hiện các chính sách kinh doanh dài hạn của mình. -Nguyên tắc tạo ra một môi trường kinh doanh mang tính cạnh tranh bình đẳng: Với nguyên tắc này chính phủ ở các quốc gia thuộc WTO ngoài việc thực hiện nghiêm chỉnh 2 cơ chế MFN và NT, thì còn phải giảm việc áp dụng các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như: trợ giá, tài trợ xuất khẩu…hoặc áp dụng các biện pháp giành đặc quyền đặc lợi trong kinh doanh cho một nhóm doanh nghiệp. -Nguyên tắc giành một số ưu đãi về thương mại cho các nước đang phát triển: WTO áp dụng nguyên tắc này thông qua các biện pháp: +Giành ưu đãi về thuế nhập khẩu khi thâm nhập vào thị trường các nước công nghiệp phát triển (GSP). +Không phải thực hiện nghĩa vụ của WTO như các nước công nghiệp phát triển. +Thời gian quá độ để điều chỉnh chính sách kinh tế và thương mại phù hợp với quy định của WTO dài hơn. 4.2 Khối liên minh Châu Âu Hiện nay EU là một thị trường rộng lớn gồm 15 quốc gia( Aó, Bỉ, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Italia, Ai Len, LucXămBua, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển, Anh). Thị trường EU thống nhất cho phép lưu thông tự do người, hàng hóa, dịch vụ và vốn giữa các thành viên tạo thành một thị trường rộng lớn *Tập quán, thị hiếu người tiêu dùng: Đây là một thị trường khá khó tính và có chọn lọc, đặc biệt là đối với hàng dệt may. Ngành dệt may của Châu Âu đang có xu hướng chuyển dần công nghệ sang các nước đang phát triển nên thị trường này có xu hướng nhập khẩu ngày càng nhiều hàng dệt may và may mặc. Thị trường EU có các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng( khác hẳn thị trường các nước đang phát triển). EU tiến hành kiểm tra các sản phẩm ngay từ nơi sản xuất và có các hệ thống báo động giữa các nước thành viên, đồng thời bãi bỏ việc kiểm tra các sản phẩm ở biên giới. Tất cả các sản phẩm chỉ có thể bán được ở thị trường này khi đảm bảo 5 tiêu chuẩn an toàn chung của EU( tiêu chuẩn chất lượng; tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường,tiêu chuẩn về lao động) VD: Đối với các loại vải lụa, EU lập ra một hệ thống thống nhấtvề mã hiệu cho các loại sợi cấu thành nênloại vải hay lụa nào được sản xuất ra trên cơ sở hai hay nhiều loại sợi mà một trong các loại ấy chiếm tối ưu 85% tổng trọng lượng thì trên mã hiệu có thể đề tên loại sản phẩm sợi đó kêm theo tỷ lệ tối thiểu 85%, hoặc ghi cấu thành chi tiết của sản phẩm. Những sản phẩm gồm hai hoặc nhiều loại sợi mà không loại sợi nào đạt tỷ lệ 85% tổng trọng lượng thì trên mã hiệu ít nhất phải ghi tỷ lệ của hai loại sợi quan trọng nhất kèm theo tên các loại sợi khác đã được sử dụng. Để đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng, EU còn tích cực tham gia chống nạn hàng giả bằng cách không cho nhập khẩu những sản phẩm đánh cắp bản quyền. *Kênh phân phối: Hệ thống kênh phân phối EU là một bộ phận gắn liền với hệ thống mậu dịch thương mại toàn cầu. Mặt khác, EU là một trong 3 trung tâm kinh tế-thương mại lớn nhất thế giới với mức sống cao, đồng đều của người dân trong khối cho thấy một thị trường rộng lớn và phát triển. Không những thế, EU ngày càng hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật, các tiêu chuẩn và chính sách thuế giúp các nước có thể cạnh tranh lành mạnh hơn trên thị trường này. Hệ thống phân phối là yếu tố quan trọng trong lưu thông và xuất khẩu hàng hoávì thế nó có các hình thức sau: Các trung tâm Châu Âu, các đơn vị chế biến dây chuyền phân phối, các nhà bán buôn, bán lẻ và người tiêu dùng. Trong đó tập trung chủ yếu vào hình thức các trung tâm thu mua Châu Âu với quy mô ngày càng rộng khắp. Các trung tâm này mua chung sản phẩm sản xuất trên thế giới và phân phối cho nhiều nhà phân phối quốc gia. Những trung tâm này thường tập hợp trên 50 nhà phân phối trở lên hoạt động trên phạm vi toàn Châu Âu, làm trung gian giữa nhà sản xuất và nhà phân phối sản phẩm. Từ đó ta thấy kênh phân phối EU rất phức tạp. Muốn tiếp cận được kênh phân phối EU , các doanh nghiệp phải nắm được đặc điểm kênh phân phối để từ đó có những biện pháp cụ thể xâm nhập vào. *Chính sách thương mại nội khối: Trong thị trường lớn EU, lưu thông hàng hoá với các biện pháp: Xoá bỏ hoàn toàn mọi thuế quan đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu giữa các thành viên; xoá bỏ hạn ngạch trong thương mại nội khối; xoá bỏ tất cả các biện pháp tương tự hạn chế về số lượng, các rào cản về thuế giữa các nước thành viên, và tự do đi lại, cư trú trên toàn lãnh thổ liên minh như tự do đi lại về địa lý, di chuyển nghề nghiệp, nhất thể hoá về xã hội. Tự do lưu chuyển các dịch vụ như: tự do cung cấp các dịch vụ, tự do chuyển tiền bằng điện tín, công nhận lẫn nhau về cả các văn bằng. Lưu chuyển tự do vốn: được áp dụng chính sách tháo dỡ tất cả các hạn chế về ngoại hối, thống nhất luật pháp và nguyên tắc quản lý thị trường của các thành viên, thanh toán tự do. Tuy chính sách thương mại nội khối có một quy tắc hoạt động chung nhưng thực tế chưa hoàn toàn, cộng thêm những khác biệt về văn hoá giữa các nước thành viên nên nhiều công ty nước ngoài hiểu lầm thị trường Châu Âu có nhiều mặt đồng nhất do đó đã phải chịu nhiều thất bại. *Chính sách ngoại thương: Trong sự phát triển kinh tế của EU, ngoại thương đã đóng một vai trò hết sức quan trọng. Nó đã đem lại sự tăng trưởng kinh tế và tạo ra việc làm trong các ngành sản xuất, dịch vụ. Chính sách ngoại thương của EU được xây dựng trên những nguyên tắc: -Không phân biệt đối xử, minh bạch, có đi có lại và cạnh tranh công bằng. -Các biện pháp được áp dụng phổ biến trong chính sách này là thuế quan và hạn chế về số lượng hàng rào kỹ thuật, chống bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu. Chính sách thương mại và đầu tư của EU bấy lâu nay chủ yếu nhằm vào các thị trường truyền thống có tính chiến lược là Châu Âu và Châu Mỹ. Châu á thì chính sách thương mại mới hình thành. Trong khi đó EU coi Việt Nam không phải là nền kinh tế thị trường nên gần như Việt Nam không được hưởng ưu đãi của EU dành cho các nước đang phát triển. *Bốn nguyên tắc khi thâm nhập thị trường EU: - Nắm được thị hiếu của người tiêu dùng: +Tính đa dạng của thị trường( 4 mùa, lứa tuổi ,khu vực) + Không phải “có cầu mới có cung”, phải chuyển sang cách nghĩ “cung tạo ra cầu”. + Chuẩn bị nhiều chủng loại sao cho phong phú, đa dạng…để đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng các nước thành viên EU. -Nguyên tắc hạ giá thành sản phẩm: + Gía sản phẩm tại thời điểm hàng cập cảng của một nước thành viên( tính cả chi phí vận chuyển và thuế) +Đối thủ cạnh tranh là quốc tế ( Trung Quốc và ASEAN) + Thị trường quyết định giá cả( vì người tiêu dùng EU không nghĩ đến giá cả là quan trọng nhất mà là thương hiệu của sản phẩm) -Đảm bảo thời gian giao hàng. -Duy trì chất lượng sản phẩm. 4.3. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) Để xây dựng ASEAN thành khu mậu dịch tự do ( AFTA) các nước thuộc khối khu vực đã thông qua 9 chương trình hợp tác kinh tế: -Chương trình hợp tác thương mại: Sự hợp tác thương mại của ASEAN được thực hiện trong 5 chương trình : + Chương trình xây dựng ASEAN trở thành khu vực mậu dịch tự do bằng thực hiện kế hoạch thu thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung – CEPT : Thực chất của chương trình CEPT là các nước thành viên ASEAN đạt được sự thoả thuận giảm thuế quan chung xuống còn ở mức 0% - 5% trong thương mại nội bộ các nước ASEAN . +Chương trình hợp tác hàng hoá: Thành lập ngân hàng dữ liệu ADBC và dự án nghiên cứu thị trường hàng hoá. + Hội chợ thương mại ASEAN: Thực hiện hàng năm luân phiên các nước với sự tham gia nhiều nước trong và ngoài khu vực. + Chương trình tham khảo ý kiến tư nhân: Do phòng Thương mại và Công nghiệp ASEAN thực hiện. + Chương trình phối hợp lập trường trong các vấn đề thương mại quốc tế có tác động đến ASEAN nhằm bảo vệ quyền lợi của các nước ASEAN trên trường quốc tế. -Chương trình hợp tác trong lĩnh vực hải quan: + Thực hiện thống nhất phương pháp định giá tính thuế hải quan giữa các nước ASEAN. +Thực hiện hài hoà các thủ tục hải quan trong 2 lĩnh vực : Mộu khai báo CEPT chung và đơn giản hoá thủ tục nhập khẩu ở nhiều khâu. + Thực hiện áp dụng một danh biểu thuế hài hoà thống nhất của ASEAN. Chương trình hợp tác trong lĩnh vực công nghiệp : Từ khi thành lập ASEAN đến nay đã có nhiều chương trình hợp tác giữa các nước thành viên trong lĩnh vực công nghiệp. Ví dụ, chương trình hợp tác công nghiệp AICO đã khuyến khích liên kết sản xuất giữa các xí nghiệp của các nước ASEAN, kể cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ, và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của ASEAN. Các sản phẩm được sản xuất bởi các xí nghiệp tham gia chương trình AICO được hưởng mức ưu đãi thuế quan tối ưu của chương trình CEPT và các chính sách phi thuế khác do từng nước quy định. Chương trình hợp tác trong lĩnh vực nông, lâm. ngư nghiệp và lương thực. Chương trình hợp tác về đàu tư: Để các nước ASEAN tăng cường đầu tư vào nhau và thu hút vốn từ các khu vực khác họ đã cùng nhau ký kết hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư ASEAN và ký hiệp định về thành lập khu đầu tư ASEAN - AIA. Chương trình hợp tác trong lĩnh vực dịch vụ với mục đích : + Đẩy mạnh hợp tác giữa các nước thành viên ASEAN trong lĩnh vực dịch vụ nhằm nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, đa dạng hoá năng lực sản xuất, cung cấp và phân phối dịch vụ trong nội bộ khối cũng như ra ngoài khu vực. + Xoá bỏ đáng kể hàng rào hạn chế thương mại dịch vụ giữa các thành viên. + Thực hiện tự do hoá thương mại dịch vụ bằng cách mở rộng và thực hiện sâu sắc hơn những cam kết mà các nước đã đưa ra tại WTO vì mục đích thực hiện khu vực mậu dịch tự do đối với dịch vụ trong ASEAN. Chương trình hợp tác trong lĩnh vực khoáng sản và năng lượng. Chương trình hợp tác trong lĩnh vực tài chính và ngân hàng: Hợp tác trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, thuế, kiểm toán và bảo hiểm giữa các nước ASEAN đã đóng vai trò quan trọng trong hỗ trợ cho các hoạt động thương mại, đầu tư và hợp tác công nghiệp trong khu vực. Các chương trình hợp tác kinh tế khác: Trong các lĩnh vực : giao thông vận tải và thông tin liên lạc; sở hữu trí tuệ; hợp tác trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng… 4.4 Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) Hiệp định tự do Bắc Mỹ ( NAFTA) được ký kết vào tháng 10 năm 1993 giữa 3 nước Mỹ, Canada và Mexico, có hiệu lực từ ngày 1/1/1994. NAFTA được đưa vào thực thi đã tạo ra một thị trường hàng hoá và dịch vụ lớn nhất thế giới với số dân khoảng 400 triệu người và GDP thực tế khoảng 9000tỷ USD. NAFTA được xây dựng trên cơ sở các điều khoản của Hiệp định tự do thương mại song phương được ký kết giữa Mỹ và Canada, có hiệu lực từ ngày 1/1/1989, ngoại trừ điều khoản về xuất xứ hàng hoá. Trong đó, NAFTA yêu cầu loại bỏ ngay lập tức các loại thuế quan của 68% lượng hàng hoá Mỹ xuất khẩu sang Mexico và 49% lượng mặt hàng nhập khẩu từ Mexico. Mỹ và Canada thoả thuận cắt giảm thuế quan từ năm 1989 nên về thực chất chỉ có sự cắt giảm thuế quan giữa Mexico và các thành viên còn lại. Các thành viên NAFTA đã cam kết chấm dứt các hạn chế đối với các nhà đầu tư nước ngoài là thành viên của hiệp định, tuân thủ nguyên tắc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở mức độ cao và tự do hoá thương mại trong lĩnh vực dịch vụ. Hiệp định này cũng đưa ra các tiêu chuẩn và sự hợp tác trong vấn đề môi trường và lao động. Một cơ sở nữa trong việc thực thi có hiệu quả hiệp định là việc đề ra một cơ chế giả quyết tranh chấp, đây cũng là nguyên tắc được đề xuất trong khuôn khổ WTO sau này. NAFTA được xây dựng bởi những quy định riêng về quản lý quá trình tự do hoá thương mại, những quy định này được bổ sung hoặc thay thế những điều khoản chưa phù hợp ( theo quy định của hiệp định WTO) . Những quy định này tập trung vào các lĩnh vực mua sắm của chính phủ, tiêu chuẩn sản phẩm, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn về viễn thông, đầu tư, quy định về xuất xứ hàng hoá…những lĩnh vực mà các vòng đàm phán của WTO dường như vẫn chưa tìm được đường ra trên tinh thần đồng thuận. NAFTA cũng đề cập đến việc cắt giảm phi thuế quan, bao gồm hạn chế nhập khẩu, hạn chế số lượng và giấy phép nhập khẩu. Ví dụ, trong vòng 10 năm Mêxico sẽ dỡ bỏ những hạn chế về đầu tư và thương mại trong lĩnh vực sản xuất ôtô. Nhờ việc thực hiện NAFTA, Mỹ sẽ ngay lập tức xoá bỏ hạn ngạch đối với với hàng dệt may của Mêxico. Theo các lịch trình vạch sẵn, từ ngày 1/1/1998 Mỹ và Canada đã dỡ bỏ toàn bộ các loại thuế đối với những hàng hoá được quy định trong khuôn khổ của hiệp định, đối với Mêxico, những quy định liên quan đến lĩnh vực sản xuất ôtô cũng đã được sửa đổi. Qua đó, NAFTA trở thành một khu vực kinh tế có tính bảo hộ cao. 5.Chính sách xuất khẩu của Việt Nam * Những luận cứ cơ bản mà các nước đưa ra cho các chính sách thương mại nhằm khuyến khích xuất khẩu là: - Khuyến khích xuất khẩu cho phép vượt qua sự hạn hẹp của thị trường trong nước, do đó sẽ lợi dụng được tính kinh tế theo quy mô, kinh tế phạm vi và kinh tế mục tiêu ( tăng hiệu quả kinh tế nhờ đa dạng hoá sản xuất ) - Khuyến khích xuất khẩu sẽ thúc đẩy tính hiệu quả trong toàn bộ nền kinh tế nhờ tham gia vào cạnh tranh quốc tế. Khuyến khích xuất khẩu nhằm phân bổ nguồn lực quốc gia phù hợp với chi phí va lợi nhuận xã hội cận biên, tận dụng tốt hơn lợi thế của đất nước. Các biện pháp nhằm khuyến khích xuất khẩu bao gồm: - Trợ cấp xuất khẩu là khoản tiền chính phủ trả cho các nhà xuất khẩu ( công ty hay tư nhân ) đưa hàng hoá ra bán ở nước ngoài. Trợ cấp xuất khẩu có thể được tính theo khối lượng hay giá trị của hàng hoá xuất khẩu. - Các khoản trợ cấp tín dụng xuất khẩu tương tự như trợ cấp xuất khẩu, nhưng dưới hình thức một khoản. Ngoài những công cụ chính sách thương mại trên, chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái của các nước cũng có ảnh hưởng ngày càng quan trọng đối với thương mại quốc tế. Chẳng hạn, chính sách nhằm ngăn chặn việc chuyển đổi ngoại tệ, chính sách quy định và duy trì đồng nội tệ quá cao. * ở Việt Nam, chính sách khuyến khích xuất khẩu mà Chính phủ đã và sẽ ban hành, cùng với những nỗ lực của toàn ngành dệt may sẽ giúp cho các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam khẳng định uy tín và vị thế thương hiệu của mình trên thị trường thế giới. Quỹ hỗ trợ xuất khẩu được thành lập theo Quyết định 195/1999/QD-TTg, do thủ tướng ký ngày 27-9-1999 nhằm tập trung tài chính, hỗ trợ khuyến khích doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất và mở rộng trị trường xuất khẩu. Đến tháng 6-2001, Bộ Thương mại đã thống nhất với Bộ Tài chính điều chỉnh, bổ sung vào văn bản hướng dẫn sử dụng Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu mục quy chế chi hoa hồng trong môi giới thương mại. Quyết định này theo đánh giá chung của các chuyên gia trong ngành và doanh nghiệp đã tăng thêm phần tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước trong việc quyết định các hình thức, mức chi và hạch toán các khoản chi hoa hồng phù hợp với đặc điểm của từng đối tác giao dịch và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Quyết định 46/2001/QD-TTg, ngày 4-4-2001, ban hành quy chế quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá trong 5 năm. Quyết định này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể chủ động bố trí kế hoạch sản xuất và kinh doanh trong thời gian dài, tạo hành lang thông thoáng, tháo gỡ vướng mắc lâu nay mà doanh nghiệp vẫn thường gặp bởi quy chế “xin – cho”. Đồng thời, thực hiện Quyết Định 133/2001/QD-TTg ngày 10-9-2001 của Thủ tướng , Bộ tài chính đã ban hành quy chế hoạt động của quỹ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, để làm căn cứ cho vay và bảo lãnh tín dụng ( kể cả tín dụng xuất khẩu trả chận đến 720 ngày). II. Ngành dệt may Việt Nam Sản phẩm dệt may là loại sản phẩm với yêu cầu công nghệ máy móc thiết bị không quá hiện đại và trình độ lao động thấp. Chính vì thế xu hướng chung của thế giới là chuyển dịch sự phát triển sản phẩm của ngành dệt may từ những nước phát triển sang các nước đang phát triển. Việt Nam và một số nước đang phát triển khác đang ở giai đoạn chuyển giao lần thứ tư của công nghệ ngành dệt may thế giới. Với đặc điểm là một nước đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu, với trình độ lao động thấp, Việt Nam phù hợp với sự hình thành và phát triển ngành dệt may trong giai đoạn hiện nay. Tính đến hết năm 2006, cả nước hiện có 800 doanh nghiệp may ( không kể các doanh nghiệp có sử dụng công nghệ may ) hoạt đọng trong tất cả các thành phần kinh tế, trong đó có 115 doanh nghiệp quốc doanh, còn lại là ngoài quốc doanh ( gồm cả tư nhân và vốn đầu tư nước ngoài). Bảng 1: Bảng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam Năm Tổng số: Hàng dệt Hàng may Tr USD Giá trị: Tỷ lệ% Giá trị: Tỷ lệ% Tr USD Tr USD 1993 335 4.5 1.34 330.5 98.66 1994 554 12.8 2.31 541.2 97.69 1995 850 5 0.59 845 99.41 1996 1151 8 0.7 1143 99.3 1997 1349 6 0.44 1343 99.56 1998 1350 6.5 0.48 1343.5 99.52 1998 1747.3 7.2 0.41 1740.1 99.59 2000 1847.8 7.7 0.42 1840.1 99.58 Các sản phẩm cơ bản của ngành dệt may Việt Nam là sợi, vải, thành phẩm và quần áo may sẵn. Theo thống kê giai đoạn 1991-2000, quần áo may sẵn tăng trưởng cao nhất, bình quân là 12,15%/năm; sợi tăng trưởng bình quân 7,73%/năm; vải, thành phẩm tăng trưởng bình quân bình quân 3%/năm; quần áo dệt kim tăng trưởn bình quân 2,55%/năm. Từ đó ta thấy sự tăng trưởng của vải sợi không đủ để sản xuất ra thành phẩm và quần áo may sẵn, do đó kéo theo phải nhập vải nguyên liệu cho công nghệ may. Bảng 2: Chỉ tiêu sản xuất và xuất khẩu đến năm 2010 Chỉ tiêu Đơn vị 2000 2005 2010 Kim ngạch xuất khẩu tr USD 2000 3000 4000 Hàng may 1630 2200 3000 Hàng dệt 370 800 1000 Sản lượng Vải lụa thành phẩm tr m 800 1330 2000 Sản phẩm dệt kim tr sp 70 150 210 Sản phẩm may 350 480 720 Sản phẩm may quy chuẩn 580 780 1200 Nguồn: KT&DB III.Xu hướng cạnh tranh trên thị trường các sản phẩm dệt may thế giới 1. Xu hướng phát triển của sản phẩm dệt may trên thế giới Ngày nay, khi mức sống của người dân tăng lên thì các yêu cầu về sản phẩm của mỗi người cũng tăng tạo nên xu hướng phát triển chung về sản phẩm dệt may là: - Hàng dệt may theo phong cách phương Tây sẽ tăng lên. - Kiểu trang phục công sở sẽ được sẽ được phổ biến. - Thẩm mỹ của lứa tuổi trung niên và cao niên được cải thiện. - Hàng may mặc cho trẻ em làm thay đổi khái niệm về tiêu dùng và thiết kế. - Vải, sợi, phụ liệu, thiết kế và kiểu dáng kỹ thuật sẽ có những bước đột phá. - Đồ thể thao vẫn được ưa chuộng. - Hàng may đo vẫn thông dụng. 2. Xu hướng cạnh tranh sản phẩm dệt may trên thị trường thế giới Sản phẩm dệt may của các nước đang phát triển ở châu á bao gồm cả Trung Quốc ( cả Hồng Kông), Hàn Quốc đang cạnh tranh khốc liệt với các nước Châu Mỹ La Tinh ở các thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn trên thế giới là EU, Mỹ, Nhật Bản, Canada… Trong đó Trung Quốc đang là nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới và cũng đang có nhiều lợi thế cạnh tranh. Chẳng hạn, trong năm 2002, EU thực hiện việc xoá bỏ chế đọ thuế quan và chế độ han ngạch cho 48 nước nghèo nhất thế giớivà các nước thuộc thành viên của WTO, trong đó có Trung Quốc. Ngoài ra, Trung Quốc còn được hưởng thuế MFN của Hoa Kỳ và Nhật Bản đối với hàng dệt may. Trong xu thế cạnh tranh, các nước phát triển luôn tìm cách thực hiện hiệp định về hang dệt may (ATC) sao cho có lợi thế nhất. Do vậy, mặc dù đã đạt được một số cam kết qua các vồng đàm phán, các nước đang phát triển vẫn phải tiếp tục đối mặt với những hàng rào thương mại ngày càng gia tăng đối với hàng dệt may, bao gồm: - Các nước đang phát triển tuy có được dỡ bỏ một phần nhưng vẫn phải bị han ngạch đối với một số hàng xuất khẩu. - Mức thuế trung bình của các nước công nghiệp đối với hàng dệt và may nhập khẩu từ các nước đang phát triển là 11%, cao hơn 3 lần đối với các nước đang phát triển. Điển hình là Bănglađét_ một nước nghèo nhất thế giới chịu mức thuế cao 20% đối với những mặt hàng xuất khẩu vào Mỹ và Canada. - Hoa Kỳ và EU đang tìm cách đưa ra những biện pháp tự vệ mới đối với hàng của nhiều nước áp dụng tới cuối năm 2009 Những biện pháp này đang làm tổn hại các nước đang phát triển, vì dệt may là một trong những mặt hàng xuất khẩu quan trọng chiếm trên 10% kim ngạch xuất khẩu của các nước này. Ước tính chỉ riêng Nam á sẽ mất khoảng 3 tỷ USD/ năm do những rào cản thương mại đối với hàng dệt may của các nước giàu có. Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Đơn vị tính: triệu USD STT Tên nước Trị giá 1 Trung quốc 50000 2 ấn Độ 12500 3 Indonexia 8000 4 Thái Lan 6500 5 Băngladét 4000 6 Việt Nam 2000 Nguồn: Bộ Công Nghiệp Chương II Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam I.Thực trạng và xu hướng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam Ngành dệt may Việt Nam đã phát triển hàng trăm năm. Trước những năm 90, thiết bị ngành dệt may dựa vào những thiết bị cũ trước đây chủ yếu do Liên Xô cung cấp. Thị trường t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0657.doc
Tài liệu liên quan