Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ. Thực trạng và giải pháp của Công ty sản xuất và XNK

Lời mở đầu . Đẩy mạnh xuất khẩu là một chủ trương kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước ta .Với lợi thế về xuất khẩu hàng dệt may, vấn đề thâm nhập và phát triển các thị trường mới, có dung lượng thị trường lớn đang đặt ra cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam những khó khăn và thách thức. Hàng dệt may Việt Nam đã có mặt và dần củng cố vị trí của mình tại các thị trường lớn như EU, Nhật Bản… Tuy nhiên hàng dệt may Việt Nam đang gặp những khó khăn không nhỏ trong việc đẩy mạnh lượng hàng xuất khẩu v

doc46 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1222 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ. Thực trạng và giải pháp của Công ty sản xuất và XNK, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à để tìm được lối ra cho bài toán thị trường tiêu thụ thì hướng cần thiết nhất là khai thác để thâm nhập và mở rộng thị phần ở những thị trường mới trong đó có Mỹ là một thị trường đầy hứa hẹn và có tiềm năng nhất. Tiềm năng hợp tác kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Mỹ là rất to lớn: cùng với việc ký kết hiệp định song phương, quan hệ thương mại Việt - Mỹ đã bước sang trang mới và đặc biệt sắp tới khi Việt Nam gia nhập WTO thì cơ hội xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ rộng mở hơn bao giờ hết. Vì vậy việc xem xét khả năng thâm nhập và đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ một thị trường có dung lượng tiêu thụ lớn nhất thế giới là có cơ sở và đã trở nên rất cần thiết. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi còn có không ít những khó khăn và thách thức đòi hỏi không chỉ sự nỗ lực rất lớn của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam mà cần có sự hỗ trợ tích cực từ phía Nhà nước để có thể tiếp cận và đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ. Công ty sản xuất, xuất nhập khẩu Dệt may là một thành viên của Tổng Công ty Dệt May Việt Nam, trong bước chuyển mình của toàn ngành dệt may Việt Nam, Công ty cũng đang từng bước mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm dệt may của mình sang thị trường Mỹ và trong những bước tiến này Công ty sẽ gặp không ít những khó khăn và thách thức. Trong quá trình thực tập tại Công ty, tôi thấy cần thiết phải có những biện pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sản phẩm dệt may của Công ty sang thị trường Mỹ nhất là trong bối cảnh hiện nay. Xuất phát từ ý tưởng đó cùng với những kiến thức được trang bị ở trường và những thông tin thực tế thu thập được trong thời gian thực tập, tôi đã quyết định lựa chọn đề tài: “Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ .thực trạng và giải pháp của công ty sản xuất và xuất nhập khẩu dệt may ” làm đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Đối tượng nghiên cứu đề tài tập trung vào hoạt động xuất khẩu của một doanh nghiệp và các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hoạt động xuất khẩu sản phẩm dệt may sang thị trường Mỹ của Công ty sản xuất, xuất nhập khẩu Dệt May. Trong đề tài này, tôi sử dụng phương pháp thống kê số liệu để phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Công ty sản xuất, xuất nhập khẩu Dệt May sang thị trường Mỹ trong thời gian qua, kết hợp với biện pháp tìm kiếm, thu thập và xử lý những thông tin có liên quan đến thị trường tiêu thụ sản phẩm dệt may ở Mỹ, từ đó đưa ra những biện pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ của Công ty sản xuất, xuất nhập khẩu Dệt May trong thời gian tới. Nội dung của đề tài được chia làm ba phần như sau: Chương I: Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu. Chương II: Thực trạng xuất khẩu sản phẩm dệt may của Công ty sản xuất, xuất nhập khẩu Dệt May sang thị trường Mỹ. ChươngIII: Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm dệt may của Công ty sản xuất, xuất nhập khẩu sang thị trường Mỹ. Trong khả năng có thể tôi đã rất cố gắng để hoàn thiện đề tài này, tuy nhiên do hạn chế về mặt kiến thức và về thời gian cũng như nguồn tài liệu nên chắc chắn bài viết này sẽ còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến để tôi có thể nhận thức về vấn đề này một cách hoàn thiện hơn. Chương I : Những vấn đề chung về xuất khẩu sang thị trường Hoa kỳ. Những vấn đề chung về xuất khẩu . Khái niệm và các hình thức xuất khẩu . Khái niệm xuất khẩu. Xuất khẩu hàng hoá là việc bán, cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho bên nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một bên hay hai hoặc nhiều bên đối tác. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là hoạt động mua bán và trao đổi hàng hoá (Bao gồm cả hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình) trong nước. Khi sản xuất phát triển và trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có lợi, hoạt động này mở rộng phạm vi ra ngoài biên giới của các quốc gia hoặc thị trường nội địa và khu chế xuất ở trong nước. Xuất khẩu nhằm khai thác được lợi thế so sánh của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Xuất khẩu là một hoạt động cơ bản của hoạt động ngoại thương, xuất hiện từ lâu đời, ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu. Hình thức cơ bản ban đầu của nó là hoạt động trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia, cho đến nay nó đã rất phát triển và được thể hiện thông qua nhiều hình thức. Hoạt động xuất khẩu ngày nay diễn ra trên phạm vi toàn cầu, trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế, không chỉ là hàng hoá hữu hình mà cả hàng hoá vô hình với tỷ trọng ngày càng lớn. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu . Hiện nay, trên thế gới có rất nhiều hình thức xuất khẩu khác nhau với nhiều biến tướng của nó. Nhưng nhìn chung là có sáu hình thức xuất khẩu chủ yếu sau: - Xuất khẩu trực tiếp . - Xuất khẩu gián tiếp . - Xuất khẩu tại chỗ . - Gia công quốc tế . - Tái xuất . - Buôn bán đối lưu . Các lý thuyết về xuất khẩu . lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam smith. Nhà kinh tế học đầu tiên đưa ra những cơ sở và lập luận nhằm giải thích cho sự ra đời của trao đổi và thương mại quốc tế là Adam smith. Những quan điểm và tư tưởng này của ông được trình bày trong học thuyết về lợi thế tuyệt đối . Theo Adam smith nếu hai quốc gia trao đổi thương mại trên cơ sở tự nguyện thì cả hai bên đều cùng có lợi. Nguồn gốc của lợi ích đó là do lợi thế tuyệt đối của mỗi quốc gia đem lại .ông chỉ ra rằng khi một quốc gia sản xuất một hàng hoá có hiệu quả hơn so với quốc gia khác ,nhưng lại kém hiệu quả hơn trong sản xuất hàng hoá thứ hai thì họ có thể thu được lợi ích bằng cách mỗi quốc gia chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu hàng hoá có lợi thế tuyệt đối ,nhập khẩu hàng hoá không có lợi thế .Bằng cách đó tài nguyên của mỗi quốc gia sẽ được sử dụng có hiệu quả hơn. Sản lượng của cả hai loại hàng hoá gia tăng chính là lợi ích từ chuyên môn hoá trong sản xuất được phân bố lại giữa hai quốc gia thông qua trao đổi thương mại . Adam smith cho rằng các quốc gia có thể thu được thặng dư từ thương mại trên cơ sở của tự do kinh doanh, Thương mại tự do có thể làm cho nguồn lực của thế giới được sử dụng có hiệu quả nhất và có thể tối đa hoá phúc lợi toàn thế giới . Mặc dù còn những tồn tại như không tính đến những sự khác biệt giữa các quốc gia và chỉ giải thích được một phần nhỏ trong thương mại quốc tế hiện nay ,song lợi thế tuyệt đối của Adam Smith đã đóng góp những giá trị to lớn vào sự phát triển của trao đổi và thương mại quốc tế. Mỗi quốc gia đều có những thế mạnh riêng trong phát triển kinh tế của mình .Lợi thế tuyệt đối trong sản xuất một hàng hoá nào đó được thể hiện ở chi phí sản xuất thấp trong từng quốc gia .Khi mỗi quốc gia biết phân tích và đánh giá đúng lợi thế tuyệt đối của mình ,thực hiện chuyên môn hoá sản xuất và tham gia vào phân công quốc tế, họ sẽ thu được lợi ích và khẳng định lợi thế của mình trong quá trình hội nhập . Học thuyết về lợi thế tương đối của David Ricardo . Khi xây dựng học thuyết của mình ,David Ricacdo dựa trên các giả thuyết chủ yêú như: thương mại tự do ,chỉ có hai quốc gia và hai loại sản phẩm ,giá trị được tính bằng lao động lao động có khả năng chuyển dịch trong mỗi quốc gia song lại không có khả năng chuyển dịch giữa các quốc gia ,chi phí sản xuất là cố định và không có chi phí vận chuyển … Theo học thuyết về lợi thế tương đối thì thậm chí một quốc gia sản xuất cả hai loại hàng hoá đều kém hiệu quả hơn quốc gia kia họ vẫn có thể thu được lợi ích từ thương mại .Đó là điểm khác căn bản so với học thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith và mở ra cách giải thích hoàn chỉnh hơn về trao đổi và thương mại quốc tế . Theo học thuyết về lợi ích tương đối quá trình sản xuất và trao đổi thương mại trong trường hợp này sẽ diễn ra như sau : quốc gia thứ nhất sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu sản phẩm có lợi thế tuyệt đối lớn hơn giữa hai sản phẩm trong nước và nhập khẩu sản phẩm có lợi thế tuyệt đối nhỏ hơn giữa hai sản phẩm đó ,Lợi thế tuyệt đối giữa hai sản phẩm trong nước chính là lợi thế so sánh ,hay còn gọi là lợi thế tương đối của chúng . Học thuyết về lợi thế tương đối của David Ricacdo là một trong những học thuyết quan trọng nhất của thương mại quốc tế ,nó mở rộng hơn và tiến bộ hơn hẳn học thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith .Học thuyết này còn dùng để lý giải các vấn đề về trao đổi khác trong tương quan về lợi thế so sánh . Với học thuyết về lợi thế tương đối chúng ta thấy rõ ràng hơn những lợi ích do thương mại quốc tế đem lại .Bất cứ nước nào dù họ có những khó khăn trong phát triển sản phẩm so với các nước khác đều có thể hy vọng vào những lợi ích dành cho mình nếu họ tham gia vào phân công lao động và trao đổi thương mại quốc tế. Đó chính là những cơ sở kinh tế của chủ trương mở cửa nền kinh tế, thúc đẩy quá trình hội nhập ,khu vực hoá và toàn cầu hoá hiện nay. Học thuyết về chi phí cơ hội của Haberler Học thuyết về lợi thế tương đối của David Ricardo tuy có những đóng góp rất quan trọng cho lý thuyết thương mại quốc tế song cũng hàm chứa những hạn chế nhất định đó là lao động không phải là đầu vào duy nhất của sản phẩm và nó được sử dụng với những tỷ lệ rất khác nhau để sản xuất ra các sản phẩm khác nhau .Vì vậy cần giải thích học thuyết lợi thế tương đối theo lối khác để đảm bảo tính khoa học và sức thuyết phục . Năm 1936 ,Haberler đã dựa trên lý thuyết về chi phí cơ hội để giải thích học thuyết lợi thế tương đối của Ricardo. Mặc dù kết quả nghiên cứu của hai ông là giống nhau song học thuyết của Haberler có ưu điểm nổi bật là :Thay cho việc giải thích bởi lý thuyết tính giá trị bằng lao động của Ricardo .Haberler đã giải thích bằng lý thuyết chi phí cơ hội .Điều đó tránh được các giả thiết coi lao động là yếu tố duy nhất và đồng nhất để sản xuất sản phẩm . Chi phí cơ hội của một hàng hoá là số lượng của một hàng hoá khác mà người ta phải hy sinh để có đủ nguồn lực sản xuất thêm một đơn vị hàng hoá thứ nhất. Quá trình phân tích mô hình thương mại với chi phí cơ hội tăng trong lý thuyết chuẩn về thương mại quốc tế cho chúng ta cách nhìn thực tế hơn ,song những kết luận được rút ra là giống nhau .Khi có lợi thế so sánh mỗi quốc gia sẽ đi vào chuyên môn hoá sản xuất các sản phẩm có lợi thế so sánh và trao đổi một phần sản lượng của nó với quốc gia khác .Khi gia tăng chuyên môn hoá sản xuất một loại hàng hoá quốc gia đó sẽ gánh chịu chi phí cơ hội tăng lên .Quá trình đó tiếp tục diễn ra cho đến khi giá cả sản phẩm so sánh ở hai quốc gia trở lên bằng nhau và thương mại đạt trạng thái cân bằng .Kết quả là khi có thương mại cả hai quốc gia sẽ đạt mức tiêu dùng cao hơn lợi ích mà mỗi quốc gia thu được là do tác động của hai nhân tố đó là do chuyên môn hoá sản xuất và do trao đổi thương mại . Nguồn lực sản xuất và học thuyết Heckscher – Ohlin (H-O). Trong học thuyết của David Ricardo và Haberler, cũng như lý thuyết chuẩn về thương mại quốc tế chúng ta thấy cơ sở của thương mại quốc tế là do lợi thế so sánh hay lợi thế tương đối của các quốc gia .Các nhà kinh tế học đều cho rằng cơ sở của lợi thế so sánh là do sự khác nhau của năng suất lao động giữa các quốc gia tạo nên .Cách giải thích này chưa đầy đủ và chưa thực sự thuyết phục .Vì vậy cần phải sử dụng đến học thuyết của các nhà kinh tế học Thụy Điển Heckscher và Ohlin (gọi là H-O). Học thuyết của Heckscher – Ohlin chỉ ra cơ sở của thương mại quốc tế là do có sự khác biệt về nguồn lực sản xuất trong mỗi quốc gia .Một quốc gia sẽ xuất khẩu sản phẩm thâm dụng yếu tố mà họ dư thừa tương đối và nhập khẩu sản phẩm thâm dụng yếu tố mà quốc gia đó khan hiếm tương đối . Yếu tố thâm dụng : Với hai sản phẩm X và Y và hai yếu tố sản xuất là lao động và tư bản ,sản phẩm Y được coi là sản phẩm thâm dụng vốn nếu tỷ lệ vốn / lao động (K/L) sử dụng trong sản xuất sản phẩmY lớn hơn tỷ lệ K/L trong sản xuất sản phẩm X. Khi xét một sản phẩm thâm dụng tư bản hay thâm dụng lao động ,điều quan trọng không phải là số lượng tuyệt đối của tư bản hay lao động dùng để sản xuất sản phẩm đó mà là ở tỷ lệ vốn/lao động hoặc của lao động / vốn cấu thành trong sản phẩm . Yếu tố dư thừa : Yếu tố dư thừa phản ánh tiềm năng dồi dào của một quốc gia về một yếu tố sản xuất nào đó – lao động hoặc tư bản . Như vậy yếu tố dư thừa của các quốc gia sẽ là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp làm cho giá cả của tư bản và tiền công lao động trong mỗi quốc gia có lợi thế so sánh trong tương quan giữa các quốc gia đó. Điều đó làm cho các nhà đầu tư sẽ cân nhắc và lựa chọn sử dụng các yếu tố đầu vào có lợi nhất cho sản phẩm . Như vậy nguồn lực của mỗi quốc gia và lợi thế so sánh về các yếu tố của nguồn lực là yếu tố cơ bản nhất để các quốc gia quyết định tham gia vào phân công lao động quốc tế và xây dựng mô hình thương mại của mình có hiệu quả nhất .Nói một cách khác sự khác nhau giữa các yếu tố sản xuất của mỗi quốc gia là đặc biệt quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả sản phẩm cuối cùng. Sự khác biệt trong giá cả sản phẩm giữa hai quốc gia sẽ xác định lợi thế so sánh và mô hình thương mại ,tức là quyết định quốc gia nào sẽ chuyên môn hoá và xuất khẩu , nhập khẩu sản phẩm gì . Học thuyết của Heckscher – Ohlin nêu trên là học thuyết phân tích và dự báo mô hình thương mại quốc tế .Trên cơ sở học thuyết này ,các nhà kinh tế hiện hành nghiên cứu sự tác động thương mại quốc tế đến giá cả của các yếu tố sản xuất. Trong số các nhà kinh tế học có công lao đóng góp hoàn thiện học thuyết này phải kể đến nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ là Paul A. Samuelson. Ông đã đưa ra học thuyết về sự cân bằng giá cả các yếu tố .Đây chính là hệ quả trực tiếp của học thuyết Heckscher – Ohlin .Vì vậy ,người ta gọi là học thuyết H-O-S . Theo Samuelson ,thương mại quốc tế sẽ dẫn đến sự cân bằng tương đối và tuyệt đối lợi suất của các yếu tố sản xuất giữa các quốc gia .Cụ thể là :thương mại quốc tế sẽ làm cho tiền lương của lao động đồng nhất và thu nhập của tư bản đồng nhất ngang nhau giữa các quốc gia có thương mại với nhau .Điều đó có nghĩa là giá cả yếu tố tương đối và tuyệt đối sẽ cân bằng . Đặc điểm của thị trường tiêu thụ sản phẩm dệt may ở Mỹ. Đặc trưng thị trường dệt may Mỹ. Khả năng sản xuất hàng dệt may ở Mỹ: Dệt may là ngành công nghiệp đứng thứ 10 trong ngành công nghiệp tại Mỹ, thu hút tới 1,4 triệu người lao động trong những năm 1970. Tuy nhiên, gần ba thập kỷ qua do những thành tựu về khoa học công nghệ (KHCN) đã góp phần giải phóng sức lao động của con người nên số lượng lao động trong ngành giảm nhanh chóng. Hoạt động trong ngành công nghiệp dệt Mỹ cũng giảm mạnh do đầu tư vào hoạt động trong ngành này không thu được lợi nhuận cao bằng những ngành khác và do sự cạnh tranh ồ ạt bằng giá cửa hàng nhập khẩu từ Châu Á. Mặc dù vậy ngành công nghiệp dệt may Mỹ vẫn giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế và là ngành công nghiệp kỹ thuật tiên tiến do thực hiện thay đổi cơ cấu và đầu tư công nghệ và máy móc (hàng năm chi tới khoảng 3 tỷ USD để đầu tư và duy trì các thiết bị sản xuất hiện đại). ở Mỹ có 26000 cơ sở sản xuất, trong đó có gần 2/5 là cơ sở có số lao động từ 4 lao động trở xuống, trên 1/2 xí nghiệp có số lao động lớn hơn 4 và nhỏ hơn 100. Hiện nay là thời kì khó khăn của các công ty sợi và dệt may Mỹ bởi vì họ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt với sản phẩm dệt may nhập khẩu. Để mài sắc cạnh tranh, nhiều công ty theo đuổi khuynh hướng xây dựng liên kết: Thiết kế - Nguyên liệu - Sản xuất - Bán lẻ, thông qua việc thay đổi cơ cấu hoạt động bằng cách sát nhập, mua lại, hoặc loại bỏ. Nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ. Mỹ là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới: Năm 2005, nhập khẩu hàng may mặc dệt kim vào thị trường Hoa Kỳ đạt 33,291 tỉ USD, tăng 5,41% so với năm 2004. Trung Quốc là nước đứng đầu về xuất khẩu hàng may mặc dệt kim sang thị trường Mỹ, tiếp theo là Mehico, honduras,…Việt Nam là nước đứng thứ 7 . Sau khi hạn ngạch hàng dệt may được bãi bỏ, nhập khẩu từ các nước xuất khẩu hàng dệt may có chi phí thấp như Trung Quốc và Ấn Độ tăng mạnh. Bên cạnh hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, hàng may mặc dệt kim nhập khẩu từ Ấn Độ cũng tăng 37,91% so với năm 2004, lên 937 triệu USD. Do xuất khẩu của Trung Quốc sang Hoa Kỳ tăng quá nhanh, ngày 8/11/2005, Hoa Kỳ và Trung Quốc đó ký hiệp định hạn chế xuất khẩu 34 mặt hàng dệt may của Trung Quốc sang Hoa Kỳ trong thời hạn 3 năm. Hiệp định này có hiệu lực từ 1/1/2006, quy định hạn ngạch đối với một số mặt hàng dệt-may của Trung Quốc xuất khẩu sang Hoa Kỳ trong 3 năm từ năm 2006 đến năm 2008. Đặc điểm tiêu dùng hàng dệt may trên thị trường Mỹ. Với dân số hơn 278 triệu người (số liệu năm 2001), thu nhập bình quân đầu người hơn 36.000 USD, Mỹ là nước đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng dệt may. Mức chi tiêu, đặc điểm nhân khẩu học, sự thay đổi thói quen làm việc, gia tăng nhập khẩu là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến xu hướng tiêu dùng hàng dệt may trên thị trường mỹ Đặc điểm tiêu dùng. Mức chi tiêu cho tiêu dùng hàng dệt may. Nền kinh tế Mỹ tăng trưởng ổn định trong thập kỷ 90 đã giúp duy trì tiêu dùng ở mức cao. Mặc dù kinh tế Mỹ suy thoái từ tháng 3/2001 sau hơn 120 tháng tăng trưởng liên tục nhưng mức chi tiêu cho sản phẩm may mặc, đặc biệt là những sản phẩm may mặc thông thường thì giảm không đáng kể. Đó là dấu hiệu không gây lâm lý lo sợ cho các nhà sản xuất hàng dệt may Mỹ và các nhà xuất khẩu những sản phẩm này vào Mỹ. Đặc điểm nhân khẩu học ảnh hưởng đến tiêu dùng hàng dệt may. Thanh thiếu niên Mỹ ngày nay đang nhanh chóng trở thành người tiêu dùng hàng may mặc lớn nhất ở Mỹ. Trong mười năm tới, dự đoán số lượng thanh thiếu niên sẽ tăng nhanh hơn tốc độ tăng dân số. Lứa tổi thanh thiếu niên ngày nay thường có thu nhập cao hơn và chi tiêu nhiều hơn trước đây, trong đó tỷ lệ dành cho mua sắm quần áo cũng rất lớn. Lứa tuổi này rất trú trọng đến những loại quần áo hợp thời trang và “đồ hiệu”, đồng thời, họ cũng nhanh chóng thích ứng với hoạt động xúc tiến thương mại trên internet, tạo ra những cơ hội cho các công ty bán hàng qua internet. Lứa tuổi từ 45 trở lên chiếm 38% tổng dân số vào năm 2005 và 41% vào năm 2010. Những người thuộc lứa tuổi này có xu hướng dành tỷ lệ chi tiêu lớn hơn cho mua nhà, chi phí học đại học của con cái và các khoản tiết kiệm. Sự cắt giản chi tiêu cho quần áo buộc họ phải tìm kiếm những sản phẩm vùa đáp ứng được giá trị mà họ mong muốn vùa phù hợp với khoản tiền dự định chi tiêu. Mặc dù vậy, họ vẫn là nhóm người chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng mức tiêu thụ quần áo. Sự gia tăng số lượng người ở lứa tuổi 65 trở lên cũng là một dấu hiệu tốt cho những nhà sản xuất hàng may mặc. Nhóm người này ít quan tâm đến thời trang mà chú ý nhiều hơn đến sự thoải mái và tiện dụng, phù hợp với lối sống và hoạt động của họ. Sự thay đổi thói quen làm việc có ảnh hưởng tới tiêu dùng sản phẩm may mặc. Một xu hướng đang làm thay đổi nhu cầu về hàng dệt may là người tiêu dùng ít đến cửa hàng hơn trước vì công việc bận rộn và họ thích dành thời gian nghỉ ngơi ở nhà với gia đình hoặc bạn bè. Xu hướng này sẽ tạo cơ hội cho các nhà sản xuất mặt hàng dệt may trang trí nội thất như khăn, rèm, thảm…song đó lại là điều bất lợi cho các nhà sản xuất quần áo, nó cũng khiến cho việc mua quần áo mới không còn quan trọng đối với một số người và làm tăng thị phần của các loại quần áo và hàng trang trí nội thất bán qua đường bưu điện và internet. Một yếu tố nữa phải kể đến là sự thay đổi các quy định trong công sở và thói quen làm việc. Ngày càng có nhiều công ty chấp nhận cho nhân viên mặc quần áo tự do thay vì đồng phục (ví dụ như phong trào mặc thường phục vào các thứ sáu “cusual Fridays”) cùng với sự gia tăng số lượng người làm việc tại nhà, cũng tạo ra sự thay đổi trong sản xuất hàng hoá. Xu hướng mặc quần áo theo phong cách tự do đã làm tăng nhu cầu với quần áo thường, sơ mi ngắn tay, áo thun…Xu hướng này dự báo sẽ còn tiếp tục phát triển trong những năm tới. Dự báo tiêu dùng hàng dệt may trên thị trường Mỹ. Cũng như các sản phẩm khác, mặt hàng dệt may bao gồm hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị. Vì vậy chất lượng và giá cả trở thành những vấn đề quan trọng đối với người tiêu dùng khi họ quyết định mua hàng. Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá, sản phẩm chỉ có thể khẳng định vị trí và năng lực cạnh tranh của mình bằng chính chất lượng. Người tiêu dùng sẽ bị thuyết phục không chỉ bởi tên tuổi của các nhà sản xuất nổi tiếng, quan trọng hơn là giá trị và hiệu quả kinh tế do sản phẩm đem lại. Những đặc tính cơ bản ảnh hưởng đến chất lượng hàng dệt may bao gồm: sự vừa vặn về kích cỡ, độ bền, sự tiện lợi khi sử dụng, kiểu dáng và nhãn mác. Theo thói quen mua hàng truyền thống, người tiêu dùng thường đánh giá chất lượng sản phẩm thông qua thương hiệu, nhãn mác sản phẩm. Đây là diểm khác biệt cơ bản về thói quen tiêu dùng ở các nước phát triển và các nước đang phát triển. Thương hiệu nổi tiếng cũng mang ý nghĩa quan trọng để tạo nên sức hấp dẫn của sản phẩm, song ngày nay người tiêu dùng Mỹ không quá coi trọng vấn đề này nữa, chỉ có khoảng 32% khách hàng luôn chú ý vào nhãn mác sản phẩm trước khi họ quyết định mua hàng. Người tiêu dùng Mỹ quan tâm tới chất lượng nhiều hơn, 60% người tiêu dùng tìm hiểu kỹ chất lượng sợi trước khi quyết định mua hàng, chỉ 17% khách hàng thừa nhận họ tôn sùng và sử dụng những sản phẩm may mặc của một hãng sản xuất duy nhất mà họ cho là nổi tiếng thế giới, tất nhiên tỷ lệ này rơi vào các ngôi sao điện ảnh, ca sĩ, người mẫu hoặc những người nổi tiếng. Tính cách người dân Mỹ phóng khoáng, điều này cũng có ảnh hưởng rất lớn tới sự lựa chọn sản phẩm của họ. Họ mua hàng phần nhiều theo cảm hứng, vì vậy nếu không tìm thấy loại sản phẩm mà mình ưa chuộng, họ có thể mua một một chủng loại khác để thay thế. Tuy nhiên khả năng thích ứng với các loại sản phẩm khác nhau cũng tuỳ thuộc vào lứa tuổi. Giới trẻ có khả năng thích ứng lớn nhất với sự đa dạng của các loại hàng khác nhau. Nếu ở lứa tuối 15-19, 34% người tiêu dùng quyết định mua chủng loại sản phẩm khác khi không tìm thấy kiểu sản phẩm mà mình định mua ban đầu thì với độ tuổi 20-24, tỷ lệ này giảm xuống 26% và có xu hướng giảm khi tuổi càng cao. Đây là một điểm cần chú ý trong tương lai, Mỹ sẽ trở thành nước có dân số già, tỷ lệ nhóm tuổi 45-65 đang có xu hướng tăng lên. Việc tìm hiểu phong cách mua hàng của người tiêu dùng Mỹ có ý nghĩa rất quan trọng đối với các nhà sản xuất và xuất khẩu trong việc đưa ra thị trường loại sản phẩm thích hợp . Điểm đặc trưng trong xu hướng tiêu dùng Mỹ là sở thích mua những sản phẩm. mang phong cách cổ điển hơn những sản phẩm mốt thời thượng Một thói quen đáng ghi nhớ của người tiêu dùng Mỹ là họ quyết định mua hàng theo thời vụ. Bắt đầu mỗi mùa tiêu thụ, họ sẽ đi mua hàng ngay chứ không chờ đến cuối mùa để mua với mức giá rẻ hơn. tỷ lệ khách hàng mua đồ vào đầu mùa tiêu thụ ở Mỹ chiếm khoảng 64%, đứng thứ ba trên thế giới sau Nhật Bản (73%) và Hồng Kông (67%). Vì vậy nếu yếu tố giao hàng đúng thời hạn, bắt kịp thời vụ cũng rất quan trọng trong việc sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ. Thị hiếu người dân Mỹ rất đa dạng do nhiều nền văn hoá khác nhau cùng tồn tại với nhiều sắc tộc, nhiều tôn giáo, tín ngưỡng. Đối với hàng hoá là những đồ dùng cá nhân như dày dép, quần áo người Mỹ thích sự giản tiện, thoải mái. Thị trường mỹ khá dễ tính về sản phẩm may song lại rất khó tính về sản phẩm dệt và chất lịệu sản phẩm dệt. Người Mỹ thích vải sợi bông cotton không nhàu, khổ rộng. Ngưòi Mỹ đang có xu hướng thay đổi tiêu dùng từ các loại sản phẩm dệt thoi sang các sản phẩm dệt kim vì những ưu điểm mới của sản phẩm này Chính sách nhập khẩu sản phẩm dệt may của Mỹ. Quy định về thuế quan. Muốn xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ, trước hết cần nghiên cứu kỹ hệ thống thuế nhập khẩu của họ.. các mức thuế áp dụng cho từng loại hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ được quy định trong danh mục điều hoà thuế quan Mỹ (Harmlonized Tariff Schedules - HTS). HTS được xây dựng phù hợp với công ước HS của tổ chức Hải quan Quốc tế (WCO). Danh mục điều hoà thuế quan Mỹ (HTS). Hệ thống điều hoà này quy định chi tiết danh pháp quốc tế về thuế suất và phân chia hàng hoá thành 21 nhóm và 97 chương. Nhìn chung biểu thuế nhập khẩu vào Mỹ được tính theo 3 phương pháp cơ bản sau: Thuế suất trị giá: Là thuế suất tính theo tỷ lệ % giá trị nhập khẩu. Đây là thuế suất phổ thông và hầu hết các hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ đều được tính theo phương thức này. Thuế suất đặc định: Là thuế suất thể hiện bằng một khoản phí cụ thể. Ví dụ: một chiếc đĩa compact phải chịu thuế suất 1USD bất kể giá trị của đĩa này là bao nhiêu. Thuế phối hợp: là mức thuế áp dụng cả hai phương thức tính theo thuế suất trị giá và thuế suất đặc định. Mỹ cũng áp dụng thuế suất hạn ngạch để hạn chế nhập khẩu một số loại mặt hàng. Các hàng hoá này khi nhập khẩu vào Mỹ sẽ được cắt giảm thuế quan nhưng nếu hàng nhập khẩu vượt quá số lượng quy định sẽ chịu mức thuế suất cao hơn. Một khi hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ được phân loại đúng thì thuế suất được xác định bằng cách tham chiếu áp với các cột theo mô tả và phân loại của HTS . áp mã thuế nhập khẩu. Luật pháp Mỹ cho chủ hàng được chủ động xếp ngạch thuế cho các mặt hàng nhập và nộp thuế theo kê khai, do đó người nhập hàng cần phải hiểu nguyên tắc xếp loại. Định giá tính thuế hàng nhập khẩu. Nguyên tắc chung là đánh thuế theo giá giao dịch, nhưng giá giao dịch ở đây không phải giá trên hoá đơn mà phải cộng thêm nhiều chi phí khác như tiền đóng gói, tiền hoa hồng cho trung gian nếu người mua phả trả, tiền máy móc thiết bị cùa nhà nhập khẩu mua cấp cho nhà sản xuất để giúp nhà sản xuất làm ra được món hàng cần đặt, tiền lệ phí bản quyền, tiền thưởng thêm cho người bán nếu có. Ngoài ra, giá giao dịch để tính thuế không tính thuế vận cguyển và phí bảo hiểm lô hàng. Những quy định về hạn ngạch và visa Những quy định về hạn ngạch nhập khẩu. Nói chung Mỹ không có giới hạn về hạn ngạch trừ khi trong hiệp định hàng dệt may có quy định về hạn ngạch. Tuy nhiên Luật thương mại Mỹ cho phép Chính phủ đơn phương áp đặt các hạn ngạch mang tính hành chính đối với các loại hàng dệt may. Có hai loại hạn ngạch: hạn ngạch tuyệt đối và hạn ngạch theo thuế suất. Quy định về visa. Hàng đệt cần có “visa” mới được vào Mỹ. Một visa hàng dệt là dấu xác nhận trên một hoá đơn hoặc một “giấy phép kiểm soát nhập khẩu” do Chính phủ nước ngoài cấp. Visa này được dùng để kiểm soát việc xuất khẩu hàng dệt may hoặc dùng để ngăn cấm việc nhập lậu hàng này vào Mỹ. Một visa hàng dệt có thể bao gồm hàng có hạn ngạch hoặc không hạn ngạch. Hàng dệt có hạn ngạch có thể cần hoặc không cần một visa tuỳ thuộc vào nước xuất xứ. Một visa hàng dệt không có bảo đảm cho cho việc nhập khẩu hàng vào Mỹ. Nếu thời hạn chấm dứt mà visa cho hàng đệt được cấp sau đó bởi Chính phủ nước ngoài và hàng đã nhập khẩu vào Mỹ, lô hàng này sẽ không được giải phóng cho nhà nhập khẩu cho đến khi hạn ngạch mới được cấp phép. Quy định về xuất xứ hàng dệt may. Hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ phải tuân thủ theo những quy định nghiêm ngặt về tờ khai xuất xứ hàng hoá. Tờ khai xuất xứ hàng hoá phải được đính kèm với bất kỳ lô hàng nhập khẩu nào. Quốc gia cuối cùng nơi mà lô hàng dệt may được xuất khẩu qua Mỹ không nhất thiết là được coi là “quốc gia xuất xứ” của hàng hoá đó. Một sản phẩm hàng dệt may nhập vào Mỹ được xem là sản phẩm của một lãnh thổ hoặc quốc gia nhất định là nơi duy nhất mà sản phẩm đó được trồng, chế biến hay sản xuất toàn bộ. Tờ khai xuất xứ hàng hoá được nộp cho Hải quan Mỹ ngay khi hàng nhập. Tờ khai xuất xứ đơn được dùng cho việc nhập khẩu hàng dệt may mà chỉ có nguồn gốc xuất xứ từ một quốc gia hoặc chỉ được gia công tại một quốc gia khác nơi mà nó được sản xuất.. Thông tin cần có là ký hiệu nhận dạng, mô tả hàng và số lượng, quốc gia xuất xứ và ngày nhập khẩu. Quy định về nhãn hiệu thương mại ở Mỹ. Luật về nhãn hiệu ở Mỹ khác của ta ba điểm: - Luật ở đó xuất phát từ ba nguồn: (I) những bản án do các toà án tuyên, gọi là thông luật, (II) luật cho các tiểu bang ban bố, (III) luật do Quốc hội liên bang ban hành. ở nước ta chỉ có một nguồn là Bộ luật dân sự. - Luật của liên bang tiếp nối truyền thống của thông luật nên nó duy trì một số quy định của thông luật. Điều này làm cho điều kiện để cho nhãn hiệu được bảo hộ ở bên Mỹ khác với của ta. ở Việt Nam, chủ nhãn hiệu đặt ra một nhãn hiệu, xin đăng ký bảo hộ, nếu không có ai đăng ký trước thì nhãn hiệu được bảo hộ. Điều này được gọi là bảo hộ theo ngày ưu tiên. ở Mỹ phải sử dụng nhãn hiệu trong giao thương (đã dùng hay dự định sẽ dùng) thì mới xin bảo hộ được và nếu không dùng là mất, dù thời gian bảo hộ vẫn còn. - Người vi phạm nhãn hiệu ở Mỹ chịu nhiều hình phạt hơn. Ngoài sự khác biệt này thì việc đăng ký sử dụng và bảo vệ không khác nhau lắm. Về việc đăng ký, vì là người nước ngoài, ta bị buộc phải sử dụng một đại diện là công dân Mỹ chứ mình không tự đi đăng ký được, cho nên các cá thể đăng ký cũng không cần thiết nếu đã bằng lòng trả tiền dịch vụ. Về tên thương mại (Trade name) thì nó là tên của cơ sở kinh doanh. Cho đến nay chỉ có thể đăng ký bảo hộ cho tên thương mại tại tiểu bang. Tên miền (Domain name) là địa chỉ của một cơ sở nằm trên internet, được viết bằng một cách thức theo quy định quốc tế để mọi người sử dụng internet có thể truy nhập được. Tên miền được đăng ký với một tổ chức tại địa phương (là ISP0 hay qua tổ chức này với một tổ chức thế giới (ICANN) giống như khai báo địa chỉ. Quy định về chống bán phá giá, trợ giá ,tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội của Mỹ. Bán phá giá là việc hàng hoá nhập khẩu được bán với giá thấp hơn với giá công bằng (fair value), gây ảnh hưởng hoặc đe doạ gây ảnh hưởng đến ngành công nghiệp trong nước của nước nhập khẩu sản xuất mặt hàng tương tự. Mỹ có quyền áp đặt thuế chống phá giá lên hàng nhập khẩu để bù lại mức phá giá. Việc xác định bán phá giá được tính trên cơ sở so sánh mức giá bán tại Mỹ với mức giá bán sản phẩm giống hệt hoặc tương tự tại thị trường nội địa bên bị báo cáo (hoặc tại một nước thứ ba). Trường hợp việc so sánh giá bán không thể thực hiện được, giá bán của hàng hoá được tính bằng cách so sánh chi phí sản xuất hàng hoá đó (gồm chi phí nguyên liệu, lao động, đầu vào…) cộng thêm chi phí quản lí, bán hàng và lợi nhuận. Nếu mức giá bán ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32876.doc
Tài liệu liên quan