Xúc tiến thương mại nhằm đẩy mạnh xuất khẩu rau quả sang Thị trường nhật bản

Lời nói đầu Tính cấp thiết của đề tài: Việt Nam được đánh giá là một đất nước giàu tiềm năng về cây trái do khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, các loại nông sản rất phong phú đa dạng. Rau quả là một ngành trồng trọt quan trọng trong nông nghiệp Việt Nam, và là mặt hàng xuất khẩu chủ lực nếu chúng ta biết khai thác lợi thế về điều kiện khí hậu, sinh thái đa dạng và nguồn lao động dồi dào. Đẩy mạnh trồng rau, cây ăn quả trong những năm tới không những sẽ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, giảm nhập

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1202 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Xúc tiến thương mại nhằm đẩy mạnh xuất khẩu rau quả sang Thị trường nhật bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khẩu, vừa tăng kim ngạch xuất khẩu, có thể mang lại hàng trăm triệu, thậm chí hàng tỷ USD cho đất nước. Nằm ở vùng Đông - Nam Châu á, chiều dài trên 15 vĩ độ, có hơn 3.000km bờ biển và hệ thống giao thông đường bộ, đường biển, đường hàng không thuận tiện, Việt Nam hội đủ các lợi thế so với nhiều nước để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa nói chung và xuất khẩu rau quả nói riêng. Tuy nhiên, số rau quả được sản xuất và xuất khẩu hàng năm vẫn kém xa tiềm năng đó. Lúc mất mùa , nông dân Việt Nam lao đao vì thiếu hàng bán. Khi được mùa, nông dân lại không ít lần khốn khổ do giá sụt mạnh. Làm thế nào để chấm dứt nghịch lý đó? Xúc tiến thương mại là một trong những biện pháp khả thi để giải quyết tình trạng trên. Tôi viết khóa luận này với mong muốn tổng kết sơ lược về thực tiễn sản xuất và xuất khẩu mặt hàng trên, đồng thời tìm hiểu những công cụ xúc tiến thương mại hữu hiệu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu rau quả. Trong quá trình hoàn thành khóa luận, tôi cố gắng đưa ra những con số và sự kiện mới nhất liên quan đến lĩnh vực này, cũng như ý kiến của một số nhà quản lý để tăng tính khách quan của công trình. Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận được người viết xây dựng dựa trên phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp giữa phương pháp phân tích và tổng hợp, giữa phương pháp logic và lịch sử; phương pháp so sánh, tổng kết thực tiễn… 3. Nội dung khóa luận Khóa luận gồm 3 chương : Chương I: trình bày khái quát về khái niệm xúc tiến thương mại, đưa ra những kiến thức chung về các hình thức xúc tiến thương mại và các tổ chức xúc tiến thương mại. Bên cạnh đó, chương I còn bao gồm phần giới thiệu tổng quan về tình hình công tác xúc tiến thương mại (nhất là xúc tiến xuất khẩu) của Việt Nam những năm qua. Chương II: bên cạnh những số liệu chung về tình hình sản xuất và xuất khẩu mặt hàng rau quả của Việt Nam, tôi giới thiệu thị trường Nhật Bản – bạn hàng lớn của Việt Nam và những điểm đáng chú ý khi xuất khẩu rau quả Việt Nam sang thị trường này. Chương III: tác giả đưa ra một số biện pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu rau quả Việt Nam sang thị trường Nhật Bản, đặc biệt là thông qua các công cụ xúc tiến thương mại. Tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng nhất đến PGS. NGƯT Vũ Hữu Tửu và bố mẹ tôi, những người đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi thực hiện công trình. Tôi cũng xin cảm ơn các anh chị ở mạng thông tin trực tuyến VASC Orient cũng như các cơ quan báo chí khác, xin cảm ơn các cán bộ của Cục Xúc tiến Thương mại (Vietrade), cán bộ Thư viện Quốc gia, Thư viện trường Đại Học Ngoại Thương và những người bạn đã tạo điều kiện cho tôi viết khóa luận này. Hà Nội, tháng 11/2002 Chương I: KháI quát về xúc tiến thương mại 1.1 Khái niệm và vai trò xúc tiến thương mại 1.1.1 Khái niệm : Những năm gần đây ở nước ta, cụm từ “ xúc tiến thương mại” được nhắc đến khá nhiều. Tuy nhiên, dường như chưa có một văn bản khoa học có tính chuyên ngành nào đề cập một cách đầy đủ và có hệ thống tới vấn đề này; cũng chưa có một trường đại học nào đưa vào chương trình giảng dạy của mình những kiến thức chuẩn mực và sâu rộng về xúc tiến thương mại. Trong khuôn khổ khoá luận này, tôi mong muốn giới thiệu những lý luận cơ bản nhất đã được nhiều người công nhận. Khái niệm xúc tiến thương mại được quy định tại khoản 5 điều 5 mục 1 Luật Thương Mại Việt Nam như sau : “Xúc tiến thương mại là hoạt động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ thương mại .” Theo quan điểm của Viện Nghiên Cứu Thương Mại – Bộ Thương Mại : “ Xúc tiến thương mại là các hoạt động nghiên cứu bàn giấy, khảo sát và các dịch vụ liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới hành vi mua bán nhưng không thuộc hành vi mua bán mà chỉ hỗ trợ nhằm đem lại hiệu quả cao nhất .” Trung tâm Phát triển Ngoại Thương và Đầu Tư (FTDC) thuộc UBND TP Hồ Chí Minh đưa ra một khái niệm khác: “ Xúc tiến thương mại là thúc đẩy và quảng bá bằng nhiều hoạt động và phương pháp khác nhau nhằm tăng cường sức mua bán, trao đổi hàng hoá, sản phẩm.” Trong chuyên đề “ Đổi mới và hoàn thiện quản lý Nhà nước về xúc tiến thương mại ở thị trường nước ta thời kỳ đến 2010” của Cục Xúc Tiến Thương Mại, các tác giả đã viết :” Xúc tiến thương mại là hoạt động trao đổi và hỗ trợ trao đổi thông tin giữa bên bán và bên mua, hoặc qua khâu trung gian nhằm tác động tới thái độ và hành vi mua bán và qua đó thúc đẩy việc mua bán và trao đổi hàng hoá và dịch vụ.” Như vậy, xúc tiến thương mại có thể được hiểu là những hoạt động có liên quan đến hành vi mua bán nhưng không thuộc hành vi mua bán, có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy việc mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ. 1.1.2 Vai trò Xúc tiến thương mại là một hoạt động đã có từ lâu đời. Cùng với sự suy vong của phương thức sản xuất tự cung tự cấp, nền sản xuất hàng hoá ra đời và từng bước chiếm ưu thế, khẳng định ảnh hưởng của nó đối với đời sống nhân loại. Nền sản xuất đó càng phát triển, lượng cung hàng hóa càng có xu hướng bắt kịp và vượt qua lượng cầu, dẫn đến việc các nhà sản xuất, các nhà buôn dần nhận thức được sự cần thiết của việc không ngừng tìm kiếm bạn hàng mới, thị trường mới, cũng như giới thiệu và quảng bá về sản phẩm của mình… để bán được nhiều hơn. Mặt khác, đời sống con người càng được nâng cao thì càng nảy sinh thêm nhiều nhu cầu, còn những nhu cầu sẵn có thì gia tăng về cả lượng và chất, vì vậy việc cố gắng thoả mãn chúng cũng được tiến hành một cách đa dạng, phong phú hơn. Xúc tiến thương mại, do đó, ngày càng chứng tỏ vai trò thiết yếu của mình trong quá trình tái sản xuất xã hội. Tuy vậy, ở Việt Nam, hoạt động này vẫn còn khá mới mẻ, nếu không muốn nói là lạ lẫm đối với một bộ phận không nhỏ thương nhân và nhà sản xuất. Tình trạng đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Trước hết cần phải thấy rằng, chúng ta vừa bước ra khỏi phương thức sản xuất tự cung tự cấp, dưới chế độ bao cấp và theo chỉ tiêu kế hoạch của Nhà Nước (thậm chí một số doanh nghiệp đến nay vẫn còn ở trong khuôn khổ đó), vì vậy lối làm ăn tự chủ, sáng tạo chưa phải là hoàn toàn phổ biến. Nhận thức về xúc tiến thương mại còn rất mơ hồ. Các hoạt động nghiên cứu thị trường một cách có hệ thống, thâm nhập thị trường mới, sử dụng dịch vụ tư vấn, kết nối thương mại điện tử…. chưa được đặt vào đúng vị trí của chúng. Nguyên nhân thứ hai là chúng ta còn thiếu một hệ thống chính sách, pháp luật đồng bộ, hiệu quả, làm cơ sở cho hoạt động xúc tiến thương mại. Khái niệm “xúc tiến thương mại” mới chỉ được đề cập một cách hết sức sơ lược trong Luật Thương mại và một số văn bản dưới luật. Chưa có luật nào điều chỉnh sự thành lập và hoạt động của cơ quan/ tổ chức chuyên về lĩnh vực xúc tiến thương mại cấp quốc gia. Thêm vào đó, cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội còn lạc hậu cũng khiến các doanh nghiệp không có điều kiện đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại cho riêng mình. Một thí dụ điển hình: mạng thông tin toàn cầu Internet đã từ lâu là một công cụ quan trọng để doanh nghiệp thuộc mọi quốc gia quảng bá hình ảnh của mình ở trong nước và nhất là trên trường quốc tế. Nhưng tại Việt Nam, kinh tế mạng, thương mại điện tử vẫn còn hết sức mới mẻ và được không ít người đón nhận một cách đầy e ngại. Không có kinh phí trang bị máy vi tính, cước dịch vụ Internet quá cao, đường truyền kém…, thực trạng đó khiến cho doanh nghiệp chưa hào hứng với xúc tiến thương mại thông qua con đường thương mại điện tử. Trong điều kiện nước ta đang ra sức tự hoàn thiện để hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh xuất khẩu và giao thương với nước ngoài đang là mục tiêu hàng đầu, hoạt động xúc tiến thương mại càng thể hiện rõ tầm quan trọng của nó. Nhiều năm qua, hàng Việt Nam không ngừng được cải tiến về chất lượng và gia tăng về số lượng; nhiều mặt hàng truyền thống (trong đó có rau quả) được đánh giá cao trên thị trường trong nước và quốc tế, nhưng kim ngạch chưa đạt mức tăng trưởng ổn định, người sản xuất chưa có thu nhập thoả đáng, thương hiệu chưa được khẳng định… một phần là do công tác xúc tiến thương mại chưa thật tốt. Không chỉ tác động tới đầu ra, công tác xúc tiến thương mại còn có thể ảnh hưởng tích cực tới đầu vào của sản xuất: giúp doanh nghiệp mua được nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị, công nghệ…chất lượng bảo đảm với giá cạnh tranh. Hơn nữa, với việc tìm kiếm và xây dựng quan hệ làm ăn mới, doanh nghiệp có thể chủ động hơn trong trường hợp bạn hàng cũ của mình không còn khả năng cung cấp. Đối với khâu tiêu dùng, xúc tiến thương mại cũng có vai trò rõ rệt. Những năm qua sức mua của người dân Việt Nam còn thấp một phần là do thiếu thông tin về thị trường, chưa được giới thiệu về những mặt hàng thực sự phù hợp với nhu cầu của họ. Nhiều khi họ phải chấp nhận hàng hoá kém phẩm chất, giá bán không hợp lý hoặc hàng nhái, hàng quá hạn sử dụng…Xúc tiến thương mại sẽ góp phần giảm bớt hiện tượng trên. Đối với công tác thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cũng như đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài, xúc tiến thương mại, đặc biệt là xúc tiến đầu tư là rất cần thiết để các bên hiểu rõ tiềm năng của thị trường, của đối tác, thủ tục và những đặc thù của môi trường đầu tư ở địa phương…nhằm giảm thiểu rủi ro, tăng khả năng sinh lời vốn đầu tư. Vì những lý do trên, Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ IX (2001) đã đặt ra những yêu cầu cụ thể cho hoạt động xúc tiến là : “Tạo thị trường ổn định cho một số mặt hàng nông sản thực phẩm và hàng công nghiệp có khả năng cạnh tranh; tìm kiếm các thị trường cho mặt hàng xuất khẩu mới. Nâng cao chất lượng các mặt hàng xuất khẩu, tăng thêm thị phần ở các thị trường truyền thống, tiếp cận và mở mang thị trường mới…”. Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ thời kỳ 2001- 2010 thì nhấn mạnh : “ Công tác thị trường, xúc tiến thương mại có ý nghĩa rất quan trọng, phải được triển khai mạnh mẽ nhằm tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho xuất khẩu.”. Cơ sở pháp lý của hoạt động xúc tiến thương mại Tại các quốc gia trên thế giới, nơi mà xúc tiến thương mại đã trở thành phổ biến, khung pháp lý cho hoạt động này được Chính Phủ xây dựng khá sớm. ở Nhật Bản, từ những năm 50, cùng với việc Nhà nước bãi bỏ độc quyền ngoại thương, cơ sở pháp lý cho xúc tiến thương mại, nhất là xúc tiến xuất khẩu đã được nhanh chóng hoàn chỉnh với việc liên tiếp thông qua các đạo luật như Luật kiểm soát ngoại thương (1949), Luật bảo hiểm tín dụng xuất khẩu (1950), Luật mẫu mã hàng xuất khẩu (1958)…. (2.7) Về khung pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại ( TCXTTM)– hạt nhân của công tác xúc tiến thương mại, kết quả khảo sát 123 TCXTTM trên thế giới của Trung tâm Thương mại Quốc tế (International Trade Center - ITC) thuộc Liên Hợp Quốc cho thấy: Nếu TCXTTM là một bộ phận của một cơ quan hiện hữu (thí dụ :Bộ Thương mại) thì một quyết định của cơ quan đó cũng đủ để thành lập TCXTTM. Tuy nhiên, có thể chính người đứng đầu Chính phủ (tổng thống hay thủ tướng) ra quyết định thành lập tổ chức này bằng một sắc luật (decree). Nếu TCXTTM là một cơ quan tự trị (autonomous body) với trách nhiệm tự quản tài chính , TCXTTM phải được thành lập bằng một đạo luật riêng do cơ quan lập pháp Nhà nước ban hành. Trong các văn bản trên, ngoài việc tạo một nền tảng pháp lý cho sự thành lập của TCXTTM, các cơ quan ban hành còn xác định vị trí của TCXTTM trong cơ cấu Chính phủ, xác định các chức năng của TCXTTM và các cơ chế phối hợp các hoạt động của nó với các cơ quan khác của Chính phủ. Trong cơ cấu hệ thống quốc gia, nếu vai trò của TCXTTM thiếu rõ ràng thì các định chế khác sẽ không nhận thức hết trách nhiệm của TCXTTM, làm giảm bớt khả năng của TCXTTM trong việc tạo ảnh hưởng đến các tổ chức khác trong chính quyền. Điều này khiến các đề xuất, kiến nghị của TCXTTM khó được xem xét một cách nghiêm túc, hiệu quả hoạt động của TCXTTM không được công nhận hoặc giảm sút. Ngoài ra, mối liên hệ giữa TCXTTM và các thành viên cấp cao của Chính phủ thường không đầy đủ, do đó sự ưu tiên cho các hoạt động xúc tiến thương mại chưa đạt đến mức cần thiết làm cho khả năng của TCXTTM không được khai thác triệt để. Tóm lại, việc tạo dựng một khung pháp lý hoàn chỉnh cho sự ra đời và hoạt động của một TCXTTM quốc gia và của những đơn vị có liên quan sẽ góp phần quan trọng mang lại hiệu quả cho hoạt động xúc tiến thương mại của một quốc gia. Phân loại hoạt động xúc tiến thương mại: 1.3.1 Phân loại theo nội dung của hoạt động: Hoạt động phổ biến nhất mang tính vĩ mô là việc thúc đẩy sự hình thành và không ngừng cải thiện môi trường kinh doanh thuận lợi. Hoạt động này có sự tham gia của cả Chính phủ (hoạch định chiến lược, chính sách phát triển kinh tế, ban hành luật pháp…), các Bộ, ngành (cụ thể hoá chiến lược của Chính phủ), các hiệp hội ngành nghề ( hỗ trợ doanh nghiệp, làm cầu nối giữa doanh nghiệp và Chính phủ, thay mặt doanh nghiệp nêu kiến nghị với Chính phủ về việc cải thiện môi trường kinh doanh…) và các tổ chức, công ty có liên quan đến xúc tiến thương mại. Phạm vi của hoạt động này rất rộng: nó không chỉ tác động đến các thể chế, cơ cấu và hệ thống thương mại trong mỗi quốc gia mà còn góp phần ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh quốc tế (thí dụ: thông qua việc ký kết các hiệp định thương mại đa biên, thành lập các khu vực mậu dịch tự do…). Hoạt động phát triển cộng đồng doanh nghiệp, thông qua nhiều hình thức như đào tạo nhân lực cho doanh nghiệp, tư vấn và cung cấp thông tin, tổ chức hội nghị, hội thảo,…nhằm nâng cao trình độ nhân lực và tăng khả năng ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ của các doanh nghiệp. Công tác này được tiến hành bởi cơ quan thuộc các Bộ, các Viện nghiên cứu, các trường Đại học, phòng thương mại và công nghiệp, các hiệp hội…Với sự tham gia của các chuyên gia đầu ngành, những khoá học, hội nghị hay buổi thảo luận chuyên đề trên thường rất được lãnh đạo các doanh nghiệp chú ý tham gia bởi tại đó, họ không chỉ được củng cố thêm kiến thức căn bản mà còn được tham khảo những đánh giá, dự báo đáng tin cậy về lĩnh vực của mình. Hoạt động thông tin thương mại Thông tin thương mại (đặc biệt là thông tin về thị trường quốc tế) có thể được coi là mạch máu của xúc tiến thương mại nói chung và xúc tiến xuất khẩu nói riêng. Thông tin thương mại khá đa dạng, bao gồm thông tin về thị trường và về sản phẩm, từ những thông tin vĩ mô (tổng quan tình hình kinh tế, tình hình xuất nhập khẩu, tài chính, tín dụng…) đến vi mô (cơ hội bán hàng, tình hình thời vụ, đối thủ cạnh tranh, chi phí vận tải, bảo hiểm…). Nguồn thông tin cũng rất phong phú: các ấn bản trong và ngoài nước, mạng Internet (ngày càng quan trọng), danh bạ kinh doanh, thông tin từ các tổ chức xúc tiến thương mại, các cơ quan chính phủ và phi chính phủ. Thông tin nhiều khi có tính chất quyết định đối với thành công của từng hợp đồng, thậm chí của cả một doanh nghiệp. Hoạt động hỗ trợ các phái đoàn doanh nhân nước ngoài Tại hầu hết các quốc gia phát triển và đang phát triển hiện nay, việc tổ chức các đoàn, nhóm doanh nhân đi tham quan, khảo sát thị trường quốc tế nhằm tìm kiếm cơ hội xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ hay đầu tư là rất phổ biến. Đây có thể là những chuyến đi độc lập hoặc hộ tống quan chức cấp cao của Chính phủ (đặc biệt là quan chức thuộc Bộ Thương mại hay Bộ Ngoại giao…). Những buổi gặp gỡ, trao đổi giữa quan chức, doanh nhân nước sở tại với những phái đoàn đó mang lại rất nhiều lợi ích thiết thực như: đàm phán đưa đến ký kết ngay sau đó những hợp đồng xuất – nhập khẩu có giá trị, lập đề án hợp tác đầu tư giữa hai bên, hoặc ít nhất cũng đặt nền móng cho mối quan hệ tốt đẹp lâu dài…Không những thế, tổ chức tiếp đón thật tốt quan chức và thương nhân nước ngoài còn trực tiếp cải thiện hình ảnh về du lịch của nước sở tại, mang lại nguồn thu và góp phần vào sự phát triển của ngành này. Hoạt động xúc tiến thương mại ở nước ngoài Xúc tiến thương mại tại nước ngoài có rất nhiều hình thức đa dạng, bao gồm việc tổ chức/ tham gia hội chợ triển lãm thương mại, tổ chức các đoàn thương nhân khảo sát thị trường nước ngoài, lập chi nhánh hay văn phòng đại diện tại nước ngoài…Hoạt động này đương nhiên tốn rất nhiều chi phí, nhưng những lợi ích mà nó mang lại là không thể phủ nhận. Các trước tác của những nhà kinh tế học trường phái cổ điển phương Tây đã chỉ rõ: mỗi quốc gia, mỗi chủ thể kinh tế đều có lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh. Tuy nhiên, để nhận thức và tận dụng được những lợi thế đó, nhất là trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, con người không thể không nhờ tới sự giúp đỡ của những hoạt động tìm kiếm, hỗ trợ thông tin, quảng bá và thúc đẩy thương mại ở nước ngoài. Có thể nói, xúc tiến thương mại góp phần thu hẹp khoảng cách địa lý giữa các chủ thể kinh tế ở những quốc gia khác nhau. Đương nhiên, các chủ thể đó lựa chọn hình thức xúc tiến nào lại phụ thuộc tiềm lực kinh tế, đặc trưng của sản phẩm/dịch vụ mà họ muốn quảng bá, môi trường kinh doanh của nước sở tại. Nếu không thể tự mình tiến hành hoạt động xúc tiến, doanh nghiệp có thể dựa vào sự trợ giúp của đại diện thương mại của nước mình ở nước sở tại hoặc đại diện nước sở tại ở nước mình. Mặt khác, doanh nghiệp cũng nên sử dụng dịch vụ tư vấn của nước ngoài khi thâm nhập thị trường mới, như vậy sẽ tận dụng những mối quan hệ rộng rãi của đối tác ở nước sở tại. 1.3.2 Phân loại theo mục đích hoạt động Xúc tiến đầu tư Đây là hoạt động xúc tiến nhằm cung cấp thông tin về tiềm năng thị trường, bạn hàng, đối tác, thủ tục đầu tư, đặc thù môi trường đầu tư…cho nhà đầu tư nước ngoài để thu hút họ đầu tư vào nước sở tại hoặc cho nhà đầu tư trong nước khi họ có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài. Hoạt động này có thể bắt đầu ngay khi nhà đầu tư có ý định mở rộng kinh doanh, tiếp tục trong suốt quá trình tìm đối tác, cho đến lúc làm thủ tục đầu tư. Ngay cả khi dự án dự án đã đi vào hoạt động, công tác xúc tiến đầu tư vẫn cần được tiến hành để nhà đầu tư có thể nắm bắt những cơ hội mới. Cơ quan đầu mối của công tác này là những bộ hoặc cơ quan ngang bộ phụ trách quản lý lĩnh vực đầu tư của quốc gia (ở Việt Nam là Bộ Kế hoạch-Đầu tư và các Sở, ban trực thuộc). Xúc tiến nhập khẩu Hoạt động này có mục đích tìm hiểu về quốc gia xuất xứ/ nhà cung cấp của hàng hoá/dịch vụ mà nước sở tại đang cần nhập khẩu do trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không đủ đáp ứng nhu cầu. Xúc tiến nhập khẩu giúp cho nhà nhập khẩu tìm có thể so sánh, đối chiếu các nhà cung cấp, từ đó tìm được đối tác thích hợp với những điều kiện vận tải, giao nhận, thanh toán, bảo hành…thuận lợi nhất đi kèm chất lượng và giá cả hợp lý. Nhìn chung, hoạt động này kém sôi nổi hơn xúc tiến xuất khẩu (vì, nhưng trên đã nói, cung về mọi loại hàng hóa, dịch vụ trên thế giới ngày càng có xu hướng vượt cầu). Tuy nhiên nó vẫn cần được chú trọng, nhất là trong những trường hợp chịu sự chi phối của cả đường lối kinh tế - chính trị - ngoại giao của quốc gia. Xúc tiến xuất khẩu Đây là hoạt động nổi bật nhất, quan trọng nhất trong số những hoạt động xúc tiến thương mại đang diễn ra trên toàn cầu. Không chỉ là sự quảng bá cho một thương hiệu, cho hình ảnh của một công ty nhằm đẩy mạnh việc bán hàng ra nước ngoài, xúc tiến xuất khẩu hiện nay còn mang ý nghĩa xây dựng và tôn vinh uy tín, vị thế của quốc gia trên trường quốc tế, không những trong lĩnh vực thương mại mà còn ở nhiều lĩnh vực khác. 1.3.3 Phân loại theo chủ thể hoạt động Tổ chức thuộc Chính phủ : Có nhiều tổ chức thuộc Chính phủ có thể tiến hành hoạt động xúc tiến thương mại tuỳ theo mức độ chuyên trách, mức độ thường xuyên và nội dung hoạt động. Trong nước, Bộ Thương mại thường là cơ quan quản lý toàn bộ công tác này. Bên cạnh Bộ Thương mại còn có các Bộ, ban, ngành khác tham gia điều tiết những hoạt động liên quan đến lĩnh vực của họ. Tại các quốc gia phát triển thường có một cơ quan chuyên trách về công tác xúc tiến thương mại (Trade Promotion organization - TPO) như đã đề cập ở phần 1.2. Cơ quan này có 4 chức năng chính như sau: * Tư vấn, hướng dẫn và hỗ trợ các doanh nghiệp (cả trong và ngoài nước) trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá / dịch vụ hoặc đầu tư….. * Nghiên cứu, ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến vào việc phát triển thị trường, vạch phương hướng kinh doanh phù hợp với xu thế phát triển của kỹ thuật thương mại thế giới. * Cung cấp thông tin, phát hành ấn phẩm về thị trường, sản phẩm, cơ hội kinh doanh. *Tư vấn và đóng góp ý kiến cho cơ quan nhà nước trong việc đề ra chính sách, biện pháp, phương hướng phát triển hệ thống thương mại của quốc gia. Từ con số 88 tổ chức xúc tiến thương mại (TCXTTM) được ghi nhận trong năm 1988, đến năm 1994 trên thế giới đã có 123 TCXTTM. Một số nước có TCXTTM rất sớm như CFCE của Pháp (1943), DEP của Thái Lan (1952), JETRO của Nhật Bản (1958), KOTRA của Hàn Quốc (1962), CETRA của Đài Loan (1970)... (2.7) Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin và thương mại toàn cầu, một số loại hình tổ chức khác có hoạt động xúc tiến thương mại đã ra đời, đó là Trung tâm Đầu Mối Thương Mại ( Trade Point Center - TPC), Trung tâm Thương Mại Thế Giới ( World Trade Center - WTC). ở nước ngoài, cơ quan thuộc Chính phủ chịu trách nhiệm chính về xúc tiến thương mại là tham tán thương mại. Đó là người đại diện cho quyền lợi kinh tế – thương mại của nước mình ở nước sở tại. Giúp việc cho tham tán thương mại là cơ quan thương vụ trong Đại sứ quán. ở những nơi không có tham tán thì người đứng đầu thương vụ là tuỳ viên thương mại. Với chức năng đại diện cho Bộ Thương mại trong việc quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại của doanh nghiệp trong nước trong quan hệ với nước sở tại và tiến hành xúc tiến thương mại, thương vụ chịu sự chỉ đạo chính trị và đối ngoại của Đại sứ hay người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao, đồng thời chịu sự chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ trưởng Bộ Thương mại. Nhiệm vụ của thương vụ là: * Đại diện cho quyền lợi của Nhà nước và bảo vệ lợi ích trong quan hệ thương mại của doanh nghiệp trong nước ở nước sở tại. * Giúp đỡ, hướng dẫn, giám sát doanh nghiệp thực hiện đúng luật pháp , chính sách của Nhà nước, luật pháp và tập quán của nước sở tại trong hoạt động thương mại. * Đại diện cho Nhà nước khi được uỷ quyền trong đàm phán thương mại hoặc tham dự hội nghị thương maị quốc tế, khu vực hoặc của nước sở tại. * Tham gia soạn thảo, đàm phán ký kết hiệp định thương mại hay văn bản cam kết khác về kinh tế – thương mại giữa hai quốc gia trong lĩnh vực được Bộ Thương mại uỷ quyền; theo dõi, đôn đốc, kiến nghị giải pháp thực hiện những cam kết đó. * Giúp Bộ thương mại xây dựng các chiến lược thị trường, bạn hàng và soạn thảo chính sách, biện pháp củng cố, phát triển và nâng cao hiệu quả quan hệ kinh tế thương mại với nước sở tại và các nước khác trong khu vực. * Xây dựng các mối quan hệ và giới thiệu cho các cơ quan nhà nước, tổ chức phi chính phủ, các hiệp hội và doanh nghiệp nước sở tại về luật pháp, chính sách, tình hình kinh tế, khả năng xuất khẩu cũng như nhu cầu nhập khẩu của nước mình nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại giưã hai quốc gia. * Nghiên cứu và thu thập thông tin, tài liệu về tiến bộ kỹ thuật, đổi mới công nghệ ở nước ngoài để phục vụ sản xuất trong nước, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ trong nước. * Thực hiện và chỉ đạo các hoạt động xúc tiến như hội chợ triển lãm, quảng cáo hàng hoá, môi giới, tư vấn… ở cấp thấp hơn thương vụ, Chính phủ thường đặt cơ quan lãnh sự thương mại tại các địa phương của nước sở tại. Đó có thể là lãnh sự chuyên nhiệm do Bộ Ngoại giao của nước được đại diện cử đến, hưởng lương và phụ cấp theo quy định của Bộ Ngoại giao ; hoặc có thể là lãnh sự tuyển nhiệm - người đến kinh doanh ở địa phương, được chính quyền địa phương chọn cử. Nhiệm vụ của lãnh sự là: * Tìm hiểu đường lối, chính sách của chính quyền nơi đặt cơ quan lãnh sự và phổ biến lại cho doanh nghiệp trong nước. * Tìm hiểu thị trường, nhu cầu tiêu dùng và đầu tư của địa phương cũng như tình hình kinh doanh của nước mình với địa phương đó nhằm cung cấp thông tin và tư vấn khi cần thiết. * Ký chứng nhận những văn bản giấy tờ như hoá đơn lãnh sự, giấy chứng nhận trường hợp bất khả kháng… ở nước ngoài, thương vụ còn có thể được hỗ trợ bởi mạng lưới các văn phòng đại diện thương mại dưới sự điều hành trực tiếp của TCXTTM, nhưng chỉ những TCXTTM có quá trình hoạt động lâu dài và nguồn lực tài chính dồi dào mới phát triển được mạng lưới đó. Có thể nêu ra đây hai thí dụ: JETRO (TCXTTM Nhật Bản) ra đời năm 1951, đến nay có khoảng 1500 nhân viên hoạt động tại 35 văn phòng đại diện tại Nhật Bản và 80 chi nhánh tại nước ngoài với ngân sách lên tới 47 tỷ Yên/ năm , trong đó Nhà nước cấp 33 tỷ; KOTRA (TCXTTM Hàn Quốc), thành lập năm 1962, biên chế 847 người, 11 văn phòng trong nước và 107 chi nhánh tại khắp các châu lục, ngân sách 118 tỷ won, Nhà nước cấp 104 tỷ (2.7). Trong thực tế, có khoảng một nửa các quốc gia mà văn phòng đại diện thương mại tại nước ngoài liên kết trực tiếp với TCXTTM. Đại diện thương mại của TCXTTM tại nước ngoài thường mang chức năng riêng biệt về xúc tiến xuất khẩu, nhưng bên cạnh đó, họ cũng đảm trách các vấn đề như xúc tiến đầu tư và tìm nguồn nhập khẩu. Một số ít quốc gia tổ chức bộ phận thương vụ sao cho người đại diện của các Bộ có thể liên lạc và nhận các thông tin, hướng dẫn từ TCXTTM, do đó đẩy mạnh và làm cho công việc có hiệu quả nhiều hơn. Tổ chức phi Chính phủ Tại hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay đều có một tổ chức đại diện cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần và khu vực kinh tế, bảo vệ và hỗ trợ doanh nghiệp trong những hoạt động thương mại của họ, thúc đẩy quan hệ thương mại trong cộng đồng doanh nghiệp trong nước và với cộng đồng thương nhân quốc tế. Tên gọi của loại hình tổ chức này khá đa dạng, nhưng tên thông dụng nhất là Phòng thương mại và công nghiệp (Chamber of Commerce and Industry) hoặc Phòng thương mại (Chamber of Commerce). Phòng thương mại của một quốc gia tập hợp giới kinh doanh toàn quốc và cả những cá nhân, tổ chức liên quan. Ngoài chức năng hỗ trợ, thúc đẩy và bảo vệ hoạt động kinh doanh hợp pháp của các doanh nghiệp, tổ chức này cũng có nhiệm vụ bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp trong nước (phát minh, sáng chế, bí quyết kỹ thuật, giải pháp hữu ích). Phòng thương mại có vai trò quan trọng trong việc tư vấn cho các Chính phủ về các vấn đề pháp lý, chính sách kinh tế, nhằm cải thiện môi trường kinh doanh. Cơ quan này cũng thường phụ trách công tác đào tạo cộng đồng doanh nghiệp, tổ chức các cuộc tiếp xúc giữa các doanh nghiệp và quan chức chính phủ, giữa doanh nhân trong nước và nước ngoài… nhằm hỗ trợ sự trao đổi thông tin và tìm kiếm cơ hội kinh doanh. Phòng thương mại còn là nơi nhận tư vấn và giải quyết tranh chấp giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Nếu Phòng thương mại quốc gia đăng ký với Phòng thương mại quốc tế (ICC) để trở thành uỷ ban quốc gia của ICC thì với những quan hệ rộng rãi của nó trong hệ thống các tổ chức xúc tiến thương mại thuộc ICC, Phòng thương mại quốc gia còn có thể là mạnh mẽ những hoạt động xúc tiến thương mại ở nước ngoài (thông tin thương mại, triển lãm, hội chợ, phái đoàn thương mại…). Những ấn phẩm của Phòng thương mại giới thiệu hoạt động kinh doanh trong và ngoài nước thường được rất nhiều chủ thể kinh tế quan tâm tham khảo. Ngoài Phòng thương mại, ở mỗi quốc gia còn có nhiều loại hình tổ chức xúc tiến thương mại như các viện nghiên cứu, trường đại học thương mại, công ty kinh doanh dịch vụ tư vấn và thông tin thương mại… Đặc biệt, các công ty tư vấn và cung cấp thông tin thương mại có vai trò rất đáng kể, vì đó là chủ thể năng động nhất, nhạy bén và sáng tạo nhất trong lĩnh vực xúc tiến thương mại, bởi dịch vụ này trực tiếp mang lại lợi nhuận cho họ. Tổ chức quốc tế Trên thế giới có rất nhiều tổ chức quốc tế tham gia hoạt động xúc tiến thương mại. Trong khóa luận này, tôi chỉ giới thiệu những tổ chức lớn nhất và những tổ chức có quan hệ mật thiết với Việt Nam. Xét về số quốc gia thành viên, tổ chức xúc tiến thương mại quốc tế có quy mô lớn nhất hiện nay là Tổ chức Thương mại thế giới (World Trade Organization - WTO). Tiền thân của WTO là Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan (General Agreement on Trade and Tariff-GATT), được 23 quốc gia ký kết năm 1947. Sau gần 50 năm hoạt động, GATT đã góp phần không nhỏ vào tự do hóa thương mại thế giới, đẩy mạnh quá trình giao lưu kinh tế quốc tế giữa các quốc gia, khu vực trên thế giới thông qua. Năm 1986 , vòng đàm phán về thành lập Tổ chức thương mại thế giới được bắt đầu ở Uruguay, với sự tham gia của 123 quốc gia. Tháng 4/1994, văn kiện thành lập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) được ký kết tại Ma-rốc. Với mục đích tự do hóa thương mại và dịch vụ thông qua đàm phán, không phân biệt đối xử thông qua việc áp dụng quy chế MFN và NT…, WTO đã thúc đẩy mối quan hệ hợp tác, buôn bán giữa các quốc gia, nhất là đối với hàng nông sản, dệt may, các loại hình thương mại dịch vụ (thông qua Hiệp định GATS); hoạt động chống bán phá giá, hạn chế trợ cấp… Tháng 1/1995 Việt Nam nộp đơn gia nhập WTO. WTO đã thành lập Ban công tác xem xét việc gia nhập của Việt Nam. Tháng 8/1996 Việt Nam hoàn thành "Bị vong lục về chế độ ngoại thương của Việt Nam" gửi cho Ban Thư ký WTO để chuyển tới các thành viên của Ban công tác. Bản bị vong lục giới thiệu tổng quan về tình hình kinh tế, chính sách kinh tế vĩ mô và chính sách thương mại hàng hoá, dịch vụ và sở hữu trí tuệ của Việt Nam. Năm 1998, phiên họp đầu tiên của Ban công tác đã đem lại những kết quả khả quan. Từ đó đến nay, Việt Nam có những nỗ lực không ngừng để trở thành thành viên của WTO. Chính phủ đã ký kết thành công Hiệp định thương mại song phương với Mỹ và đang thực hiện tốt. Với EU, đối tác đầu tiên mà Việt Nam chọn đàm phán để gia nhập WTO, Chính phủ đã tiến hành hai cuộc đàm phán (tháng 4 và tháng 11/2002) (3.4). Các quốc gia lớn như Trung Quốc, Nhật Bản… đều bày tỏ sự ủng hộ đối với việc gia nhập của Việt Nam. Việt Nam hiện đang tiếp tục đưa ra đề xuất về cam kết thuế nhập khẩu, lộ trình cắt giảm hàng rào phi thuế đặc biệt là các hạn chế định lượng như cấm nhập, hạn ngạch, các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ vận tải. Tại khu vực Châu á - Thái Bình Dương có 2 tổ chức mà hoạt động liên quan trực tiếp tới Việt Nam là APEC và ASEAN. Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC) thành lập tháng 11/1989 tại Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế thương mại và Ngoại giao 12 nước ._.khu vực châu á - Thái Bình Dương. Mục đích của diễn đàn là tự do hóa thương mại và đầu tư trong khu vực đến năm 2020, thúc đẩy sự hợp tác kinh tế – kỹ thuật giữa các quốc gia thành viên. Từ khi ra đời, APEC là cầu nối hợp tác về 12 lĩnh vực, trong đó có những lĩnh vực rất có ý nghĩa với Việt Nam như phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ… Việt Nam được kết nạp vào APEC tại Hội nghị cấp cao lần thứ 9 của APEC, diễn ra ở Vancouver (Canada) tháng 11/1997. Việc trở thành thành viên APEC tạo rất nhiều thuận lợi cho Việt Nam trên con đường gia nhập WTO. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) ra đời năm 1967, chỉ gồm 5 quốc gia thành viên. Từ năm 1984 đến năm 1999, quá trình kết nạp thành viên mới đã diễn ra liên tục, đến nay cả 10 quốc gia Đông Nam á đều đã gia nhập ASEAN. Tổ chức này thật sự có ảnh hưởng rất quan trọng đến sự phát triển kinh tế các nước thành viên. Là một thành viên mới của ASEAN, mấy năm nay Việt Nam rất tích cực tham gia những hoạt động xúc tiến thương mại chung của khu vực. Có những hoạt động đã mang lại kết quả rất rõ nét, mà thí dụ điển hình là Hội chợ Quốc tế ASEAN diễn ra hai năm một lần. Tại Hội chợ mới đây ở Bangkok (Thái Lan), trong khu trưng bày rộng đến 20.000m2 , hơn 500 doanh nghiệp đến từ các quốc gia ASEAN và một số nước như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản… đã dựng 800 gian hàng tiêu chuẩn để giới thiệu sản phẩm của mình. Bên lề hội chợ, một loạt hoạt động như hội thảo, họp báo, diễn đàn doanh nghiệp… đã được tổ chức, tạo cơ hội thuận lợi cho doanh nhân các nước tìm kiếm cơ hội làm ăn. Việt Nam cũng mang đến hội chợ hàng loạt sản phẩm độc đáo, rất được bạn bè quốc tế quan tâm. Hội chợ ASEAN 2004 do Việt Nam tổ chức, dự kiến diễn ra tại Trung tâm Hội chợ triển lãm Giảng Võ (Hà Nội) sẽ là cơ hội tốt để quảng bá rộng rãi hơn sản phẩm của Việt Nam với thế giới. Vài nét về thực tiễn hoạt động xúc tiến thương mại của Việt Nam thời gian qua Từ khi công cuộc đổi mới bắt đầu trên đất nước ta, hoạt động thương mại quốc tế đã thực sự khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế, nhờ đó, xúc tiến thương mại cũng dần dần được coi trọng hơn. Tuy nhiên, chỉ vài năm trở lại đây, xúc tiến thương mại mới trở thành hoạt động có tổ chức, có hệ thống ở cấp quốc gia. ở cấp Chính phủ, xúc tiến thương mại hiện nay đang được thực hiện bởi nhiều cơ quan khác nhau trong đó Bộ Thương Mại đóng vai trò chủ chốt. Bộ Thương Mại là cơ quan đầu mối nghiên cứu và hoạch định chính sách, xây dựng khung pháp lý đối với hoạt động thương mại nói chung và xúc tiến thương mại nói riêng. Đây cũng là đầu mối đàm phán, ký kết các hiệp định và thoả thuận thương mại song phương - đa phương với các nước. Bộ còn trực tiếp tiến hành một số hoạt động xúc tiến thương mại như : thông tin thương mại, nghiên cứu thị trường, giới thiệu bạn hàng, đào tạo và tư vấn thương mại, hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia hội chợ triển lãm ở nước ngoài, tổ chức các đoàn doanh nghiệp đi khảo sát thị trường nước ngoài, đón tiếp các đoàn thương nhân nước ngoài vào Việt Nam, tổ chức các hội nghị, hội thảo xúc tiến thương mại…..Bộ máy chuyên môn của Bộ để thực hiên những công tác trên gồm : 41 Cơ quan đại diện thương mại ở nước ngoài Cục xúc tiến thương mại (Vietrade) Vụ Chính sách thị trường ngoài nước, Vụ Chính sách thương mại đa biên, Vụ quản lý xuất nhập khẩu, Vụ kế hoạch thống kê Trung tâm thông tin thương mại, Viện Nghiên cứu thương mại Các trường đại học – cao đẳng đào tạo về thương mại… Trong những cơ quan trên, Cục Xúc tiến thương mại ra đời muộn nhất (7 – 2000). Tiền thân của Cục là Ban Xúc tiến thương mại, thành lập vào cuối năm 1998 bởi quyết định số 1664/1998/QĐ-BTM ra ngày 25/12/1998. Tên giao dịch tiếng Anh của cơ quan này là Vietnam Trade Promotion Commission (viết tắt là VIETRADE) . Chức năng chủ yếu của Vietrade là thống nhất tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại trong cả nước, đàm phán song phương và đa phương với các tổ chức xúc tiến thương mại trong khu vực và thế giới, hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài mở rộng thị trường, tìm kiếm đối tác, phát triển sản phẩm...Cơ quan này cũng là cầu nối giữa các cơ quan Chính phủ với cộng đồng doanh nghiệp, thay mặt doanh nghiệp nêu những kiến nghị với Chính phủ, và thay mặt Chính phủ phổ biến chính sách, pháp luật cho doanh nghiệp. Vietrade còn giúp Bộ trưởng Bộ thương mại thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các hoạt động xúc tiến thương mại. Hoạt động của Cục diễn ra chủ yếu trong lĩnh vực nghiên cứu, dự báo và định hướng về thị trường trong và ngoài nước, thu thập xử lý và cung cấp thông tin thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác xúc tiến thương mại, tiến hành trực tiếp một số hoạt động xúc tiến thương mại khác ở tầm quốc gia. Tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các Sở Thương mại và các tổ chức xúc tiến thương mại cũng tiến hành một số hoạt động xúc tiến phục vụ cho doanh nghiệp tại địa phương mình. Đến nay, gần 20 tỉnh thành trực thuộc Trung ương đã thành lập các trung tâm hoặc phòng xúc tiến thương mại trực thuộc UBND hoặc Sở Thương mại mà nổi bật nhất là các trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư của Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng. Ngoài Bộ Thương mại, các cơ quan thuộc Chính phủ khác cũng tiến hành công tác xúc tiến thương mại trong lĩnh vực của mình. Tổng Cục du lịch thực hiện các hoạt động xúc tiến du lịch, gồm các hoạt động cải thiện môi trường, đàm phán các hiệp định du lịch đa phương và song phương với nước ngoài, trực tiếp thực hiện một số hoạt động thông tin du lịch và quảng bá du lịch trong và ngoài nước. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội tổ chức công tác xúc tiến xuất nhập khẩu lao động, tìm đối tác nước ngoài có nhu cầu chủ yếu về lao động giản đơn (phù hợp với khả năng của người lao động Việt Nam). Bộ cũng xúc tiến liên lạc với chuyên gia nước ngoài, mời họ sang làm việc với Việt Nam trong những lĩnh vực mới, đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao. Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm đầu mối xúc tiến thu hút đầu tư nước ngoài. Đây là nhiệm vụ rất quan trọng bởi nước ta cần thu hút rất nhiều vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý của nước ngoài trong công cuộc CNH-HĐH. Những năm qua, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp một tỷ trọng đáng kể trong tổng thu nhập quốc dân của Việt Nam, một phần là nhờ hiệu quả của công tác xúc tiến đầu tư mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì. Bên cạnh đó, Bộ cũng tiến hành xúc tiến đầu tư ra nước ngoài. Vài năm gần đây, số doanh nghiệp Việt Nam mở chi nhánh, văn phòng và tham gia liên doanh ở nước ngoài ngày càng tăng. Do đó, công tác xúc tiến đầu tư càng chứng tỏ vai trò của nó. Các Bộ sản xuất chuyên ngành khác (Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Thủy sản…)cũng thực hiện một số hoạt động xúc tiến thương mại như cung cấp thông tin về thị trường, định hướng sản xuất và kinh doanh, hỗ trợ nghiên cứu phát triển sản phẩm, hỗ trợ quản lý và nâng cao chất lượng sản phẩm…Đáng chú ý nhất là hoạt động ngoại giao của các cơ quan Đảng và Chính phủ ở Trung ương và địa phương, đặc biệt là Bộ ngoại giao. Các hoạt động đó đã và đang góp phần tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài. Các tổ chức xã hội – nghề nghiệp Trước khi Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam (VCCI) tách ra khỏi Bộ Thương Mại (năm 1993) để trở thành một tổ chức xã hội và phi chính phủ, mọi hoạt động xúc tiến thương mại ở Việt Nam đều do Chính Phủ và một vài doanh nghiệp nhà nước thực hiện. Hiện nay, số các tổ chức phi chính phủ tham gia vào hoạt động xúc tiến thương mại ngày càng tăng. Cả nước có tới hàng trăm tổ chức xã hội nghề nghiệp (kể cả chi nhánh của các tổ chức này ở các địa phương) có chức năng xúc tiến thương mại hoặc có tiến hành các hoạt động xúc tiến thương mại.Trong số đó, VCCI là tổ chức ra đời sớm nhất và cũng là lớn nhất. Tiền thân của VCCI là Phòng Thương mại nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thành lập năm 1963 với chức năng xúc tiến quan hệ thương mại chủ yếu giữa Việt Nam và các nước XHCN, nhằm phục vụ nhu cầu nhập khẩu của đất nước. Khi mới ra đời, tổ chức này mới chỉ có 93 tổ chức thành viên. Năm 1982, tổ chức được đổi tên thành Phòng Thương mại và Công nghiệp nước CHXHCN Việt Nam. Trong thời kỳ đổi mới, VCCI đã đóng góp rất tích cực vào công cuộc CNH-HĐH. Theo quy chế thông qua tại kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc năm 1997, VCCI là một tổ chức quốc gia, tập hợp và đại diện cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và các hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam, có chức năng xúc tiến các mối quan hệ kinh tế, thương mại và công nghệ giữa Việt Nam và các nước trên thế giới trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi. Đại diện cho quyền lợi của mọi doanh nghiệp Việt Nam, VCCI hỗ trợ hầu hết các liên minh, hiệp hội chuyên ngành của Việt Nam và các hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài. VCCI tham gia các TCXTTM khu vực và quốc tế như Phòng thương mại quốc tế (ICC), Liên đoàn Phòng Thương mại và Công nghiệp châu á-Thái Bình Dương (CACCI), Hội đồng các doanh nghiệp vừa và nhỏ thế giới (WASME), Phòng Thương mại và Công nghiệp ASEAN (ACCI)… VCCI là sáng lập viên, đồng thời là bộ phận lãnh đạo và thư ký cho Uỷ ban quốc gia Việt Na về Hội đồng hợp tác kinh tế Thái Bình Dương (PECC). Hoạt động xúc tiến thương mại của VCCI rất đa dạng. Hàng năm VCCI tổ chức hàng trăm hội chợ triển lãm, hội thảo, diễn đàn, những cuộc gặp gỡ, tiếp xúc giữa các cơ quan Chính phủ và doanh nghiệp, giữa thương nhân trong và ngoài nước… VCCI thường xuyên xuất bản các ấn phẩm cung cấp nhiều thông tin hữu ích cho doanh nghiệp. Ban tư vấn của VCCI gồm nhiều chuyên gia hàng đầu về các lĩnh vực khác nhau, là nơi hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan hệ kinh doanh. Ban cũng cung cấp dịch vụ như thông tin thương mại, tư vấn pháp luật, tư vấn chuyển giao công nghệ… cho những thương nhân nước ngoài đến Việt Nam tìm cơ hội làm ăn. Bên cạnh VCCI, các hiệp hội ngành hàng như: Hiệp hội Dệt may (VITAS), Hiệp hội Da giày (LEFASO), Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản (VASEP), Hiệp hội Lương thực (VIETFOOD), Hiệp hội cà phê và ca cao (VICOFA), Hiệp hội điều, Hiệp hội chè, Hiệp hội bao bì , Hiệp hội quảng cáo… những năm gần đây cũng rất tích cực làm công tác xúc tiến thương mại. Các tổ chức này thường có trụ sở chính tại Hà Nội và văn phòng đại diện tại TP Hồ Chí Minh hoặc ngược lại. Có điều kiện tiếp xúc với các nguồn thông tin cập nhật cũng như với các quan chức Chính phủ, những hiệp hội này thường xuyên hỗ trợ thành viên của mình trong sản xuất kinh doanh, nhất là trong việc hoạch định chiến lược xuất nhập khẩu và chiến lược thâm nhập thị trường. Ngoài ra, Liên minh các hợp tác xã Việt Nam (với chi nhánh ở hầu hết các tỉnh thành trong cả nước), các hiệp hội công thương, hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các địa phương, hiệp hội doanh nghiệp trẻ Việt Nam, các tổ chức xúc tiến thương mại chính phủ và phi chính phủ của nước ngoài ở Việt Nam… cũng tiến hành một số hoạt động xúc tiến thương mại chủ yếu phục vụ cho các hội viên của họ. Đối với các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh, chính sách khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước, sự hỗ trợ, tư vấn và đào tạo của các tổ chức, cơ quan ban ngành có liên quan đã làm cho số doanh nghiệp có quan tâm đến hoặc có tiến hành hoạt động xúc tiến thương mại tăng lên nhanh chóng. Nhiều doanh nghiệp lớn đã thành lập bộ phận chuyên trách công tác này. ở các trung tâm kinh tế lớn, xu hướng này càng rõ nét. Tại thành phố Hồ Chí Minh, bà Hoàng Kim Hồng, giám đốc Sở Thương Mại cho biết, các doanh nghiệp trên địa bàn thời gian gần đây có thái độ rất tích cực đối với công tác xúc tiến thương mại. Trong năm 2001, các doanh nghiệp đã đầu tư 255 tỷ VND vào các đợt khuyến mại để làm giải thưởng và quà tặng cho khách hàng. 141 hội chợ lớn nhỏ trong nước được tổ chức đã thu hút khá đông doanh nghiệp tham gia. Hàng chục doanh nghiệp tham gia Tuần lễ Việt Nam tại Bỉ, hội chợ triển lãm mùa xuân tại Dubai, hội chợ hàng may mặc thể thao ở Chicago (Mỹ)… thu nhiều kết quả tốt đẹp . Bên cạnh đó, cuộc khảo sát thị trường Lào và Đông bắc Thái Lan làm cơ sở cho việc tổ chức hội chợ hàng Việt Nam chất lượng cao tại Lào cũng được nhiều doanh nghiệp hưởng ứng.67 doanh nghiệp đã mở 73 văn phòng đại diện và chi nhánh ở nước ngoài để mở rộng thị phần xuất khẩu, nhiều nhất là tại Campuchia (13 địa điểm), Mỹ (12), Nga(7). Năm 2001, UBND thành phố Hồ Chí Minh đã mạnh dạn đầu tư 5 tỷ VND cho công tác xúc tiến thương mại, năm 2002 là hơn 10 tỷ VND. Số tiền này được chi chủ yếu vào việc hỗ trợ doanh nghiệp mở thị trường, cung cấp thông tin, khảo sát thị trường, tổ chức hội chợ…, đặc biệt, một số thị trường lớn sẽ được ưu tiên như Nhật Bản (21% tổng kim ngạch xuất khẩu), Trung Quốc (15%), Singapore (12%), Đài Loan (3%)… Trọng tâm của công tác xúc tiến thương mại năm 2002 của các doanh nghiệp TP Hồ Chí Minh vẫn là đẩy mạnh quảng bá thương hiệu cho các mặt hàng chủ lực thông qua hội chợ triển lãm, quảng cáo, mở văn phòng đại diện, chi nhánh, các gian hàng, tầng hàng Việt Nam trong các siêu thị ở nước ngoài…Công tác tăng cường thông tin thương mại cũng sẽ được chú trọng hơn nữa. UBND thành phố sẽ không ngừng phối hợp với các doanh nghiệp và tổ chức tư vấn để thu thập thông tin thị trường quốc tế cho các sản phẩm xuất khẩu của thành phố (3.4). Năm 2002, TP Hồ Chí Minh tổ chức khoảng 10 đoàn doanh nghiệp tham gia các hội chợ quốc tế. UBND TP dành 13 tỷ đồng từ ngân sách cho hoạt động xúc tiến thương mại, đồng thời thực hiện một loạt biện pháp cải thiện môi trường đầu tư. Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP Hồ Chí Minh (ITPC) kết hợp với tổ chức BOI (Thái Lan) và Cục Thống kê TP xây dựng cơ sở dữ liệu ngành công nghiệp của TP năm 2002-2003, nhằm cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà kinh doanh. Bên cạnh đó, ITPC cũng đã mời chuyên gia hải quan Hoa Kỳ và Việt Nam giới thiệu những thủ tục cần thiết khi xuất hàng sang Mỹ (tháng 10/2002), góp phần tháo gỡ những trở ngại trong nhận thức của nhà sản xuất và xuất khẩu Việt Nam. Trong chương trình xúc tiến thương mại 2002-2005, TP đề ra 9 biện pháp đẩy mạnh xúc tiến thương mại và đầu tư như: thông tin chủ động và thường xuyên, đổi mới và đơn giản hóa thủ tục đầu tư, thực hiện chế độ một đầu mối trong việc hướng dẫn nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình đầu tư, hỗ trợ kinh phí cho công tác này… (3.4) ở Hà Nội, thời gian qua, UBND thành phố đã khuyến khích các sở, ban, ngành đi nghiên cứu, tìm hiểu thị trường, quảng bá sản phẩm, đồng thời đưa ra nhiều cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp trong các hoạt động xúc tiến thương mại. Sở Thương mại Hà Nội đặt trọng tâm vào việc khai thác thị trường trong nước và xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh, tạo lập các kênh phân phối hàng hóa ổn định. Sở đã tổ chức hàng trăm lượt doanh nhân tham gia các đoàn khảo sát, hội chợ, triển lãm trong và ngoài nước, tổ chức trên 20 cuộc hội thảo, tập huấn. Sở cũng thành lập Phòng trưng bày và giới thiệu sản phẩm tại Thụy Sỹ, và đang nghiên cứu xây dựng các trung tâm giao dịch, phòng trưng bày khác tại Nhật Bản, Hoa Kỳ, Nga, Dubai… Giám đốc Sở Thương mại Hà Nội cho biết, UBND thành phố có thể sẽ lập các tổng kho ngoại quan tại một số thị trường trọng điểm, đẩy mạnh công tác nghiên cứu và xử lý thông tin cho doanh nghiệp một cách nhanh nhất. (Đầu Tư, 20/11/02) Tháng 8/2002, một đoàn xúc tiến đầu tư-thương mại của Hà Nội do ông Nguyễn Thế Quang, Phó Chủ tịch UBND TP dẫn đầu đã đến Mỹ. Làm việc với doanh nghiệp Mỹ tại nhiều thành phố lớn (Los Angeles, New York, Washington…), doanh nghiệp Hà Nội đã giới thiệu khả năng hợp tác kinh tế tại Việt Nam và tìm được nhiều cơ hội làm ăn nhiều tiềm năng (3.4). Trong năm 2002, doanh nghiệp Việt Nam khá mạnh dạn chi cho xúc tiến thương mại, đặc biệt là chi cho hoạt động khảo sát thị trường nước ngoài. Các đoàn cán bộ của Chính phủ và đại diện doanh nghiệp đã tới nhiều nước trong khu vực như Philippnes, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Một số đoàn còn đến tận các thị trường xa như Tây Âu, Mỹ, châu Phi, Trung Cận Đông, các nước SGN. Bên cạnh việc giúp các doanh nghiệp trực tiếp giao dịch, đàm phán với các đối tác, các đoàn công tác liên ngành còn có nhiệm vụ phát hiện những rào cản đối với xuất khẩu cảu Việt Nam từ phía các quốc gia bạn hàng, đồng thời chủ động cùng phía đối tác tháo gỡ. Khi về nước, cán bộ các bộ, ban, ngành đề xuất với Chính phủ những chính sách nhằm đạt mục tiêu đẩy mạnh thâm nhập thị trường nước ngoài. Thành tựu thu được từ những chuyến khảo sát như vậy không phải là nhỏ: phía Việt Nam ký hàng trăm hợp đồng, bản thỏa thuận với đối tác nước ngoài, tổng trị giá hàng tỷ USD. Đặc biệt, những thị trường mà trước đây rất ít doanh nghiệp Việt Nam “dám” vào khai phá như châu Phi, Trung Cận Đông thì nay đã được “kéo gần” hơn nhiều nhờ chuyến khảo sát hồi tháng 10/2002 do Chủ tịch nước Trần Đức Lương dẫn đầu. Riêng Hiệp hội nhựa TP.HCM (VSPA) đã ký một số thỏa thuận, hợp đồng với bạn hàng các nước Libăng, Iran, Namibia, Angola… tổng trị giá 16 triệu USD. Theo ông Trần Hoàng Quốc Trang, Chủ tịch VSPA, sau khi thâm nhập các thị trường này, kim ngạch xuất khẩu của ngành nhựa trong nước sẽ tăng nhanh, đạt 300-400 triệu USD/năm (3.4). Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, phần lớn các doanh nghiệp, đặc biệt tại các tỉnh, thành nhỏ, đều chưa có nhận thức đầy đủ về xúc tiến thương mại. Theo kết quả điều tra năm 2002 của Dự án VIE/98/021 (Dự án hỗ trợ xúc tiến thương mại và phát triển xuất khẩu do Trung tâm thương mại quốc tế ITC và Cục Xúc tiến thương mại thực hiện), 90% số doanh nghiệp được điều tra không biết thế nào là xúc tiến thương mại, 90% gặp khó khăn trong nghiên cứu thị trường xuất khẩu, kể cả việc lựa chọn thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó, 86% doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc thu thập, xử lý và sử dụng thông tin thương mại, 82% gặp khó khăn khi tìm hiểu các luật lệ, thủ tục xuất nhập khẩu tại một số nước bạn hàng chính, 76% có trở ngại trong công tác xây dựng chiến lược phân phối xuất khẩu, kể cả việc lựa chọn và chỉ định đại lý. Thêm nữa, 64% số doanh nghiệp khó khăn trong phát triển và cải tiến sản phẩm xuất khẩu, 60% trong tính toán giá thành và định giá xuất khẩu, 50% trong kỹ thuật đàm phán thương mại quốc tế, 39% trong bao gói hàng hóa xuất khẩu… Dự án VIE/08/021 chỉ ra 4 nguyên nhân dẫn đến những khó khăn trên là: thiếu nguồn nhân lực, thiếu thông tin, thiếu kinh phí và thiếu các mối quan hệ cần thiết (2.6). Phần lớn các doanh nghiệp hiện nay còn mang tâm lý ỷ lại, cho rằng Chính phủ phải dẫn đầu trong công tác xúc tiến thương mại, nhất là xúc tiến xuất khẩu. Tuy nhiên, như Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm đã trả lời phỏng vấn báo giới bên lề kỳ họp Quốc hội tháng 3/2002, xúc tiến thương mại không phải là việc riêng của Chính phủ. Phó Thủ tướng nêu rõ: "Từng hiệp hội, địa phương, doanh nghiệp phải chú trọng xúc tiến thương mại. Không ai hiểu năng lực cạnh tranh, khả năng thâm nhập thị trường của mỗi mặt hàng bằng chính người sản xuất ra mặt hàng đó". Tuy nhiên, rất nhiều địa phương hiện đang gặp khó khăn trong việc thành lập trung tâm xúc tiến thương mại. Phát biểu tại Hội nghị trao đổi kinh nghiệm quản lý Nhà nước về thương mại do Bộ Thương mại tổ chức tại Đà Nẵng (tháng 7/2002), nhiều cán bộ các tỉnh, thành bày tỏ sự băn khoăn không biết bố trí trung tâm này thuộc sở nào (Sở Thương mại hay Sở Kế hoạch - Đầu Tư), quy định hình thức hoạt động ra sao, bố trí nhân lực như thế nào… Đặc biệt, các tỉnh chưa rõ việc trả lương cán bộ xúc tiến thương mại và cấp kinh phí cho trung tâm này. Riêng về xúc tiến thương mại thông qua thương mại điện tử, đến nay rất ít doanh nghiệp nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề. Theo số liệu đưa ra tại Hội thảo “Doanh nghiệp trong chiến lược thương mại điện tử quốc gia”(tháng 10/2002) cho thấy, hiện mới có 2% tổng số doanh nghiệp trong cả nước có website riêng, 8% bắt đầu nghiên cứu việc sử dụng Internet, 90% vẫn đang ''đứng ngoài cuộc''. Trong những giao dịch thử qua thương mại điện tử, 33,1% số DN tham gia là DN vừa và nhỏ, 54,9% chưa thành công, 58% gặp khó khăn về thiết bị, 37% thiếu nguồn nhân lực... Cũng tại hội nghị này, nhiều đại biểu đã bày tỏ sự bức xúc trước vấn đề nguồn nhân lực phục vụ hoạt động thương mại điện tử của các doanh nghiệp, không chỉ là mặt kỹ thuật (hiểu biết công nghệ thông tin) mà còn về phương diện ngôn ngữ (thông thạo ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh). Công nghiệp phần mềm Việt Nam hiện tăng trưởng với tốc độ thấp: 13%/năm (bằng 1/2 tốc độ của giai đoạn 1996-2000) (3.4). Tình trạng mất cân đối nghiêm trọng khiến nhiều người lo ngại: phần cứng đang chiếm tỷ trọng gấp bốn lần tỷ trọng phần mềm và dịch vụ. Số chuyên viên tham gia ngành công nghiệp phần mềm hiện chỉ khoảng 6.500 người. Một số mạng thông tin trong nước đã đăng tải rất nhiều thông tin có giá trị về thị trường ngoài nước (thí dụ:VASC Orient, Vnexpress, VDC…). Tuy nhiên, do phải lấy thu bù chi nên phần lớn có phí truy nhập khá cao. Với mức phí này, kết hợp với mức độ phổ cập rất thấp của Internet, nhiều doanh nghiệp và bà con nông dân sẽ không thể tiếp cận được.Trong tình hình đó, việc đẩy mạnh xúc tiến thương mại bằng con đường thương mại điện tử thật khó khăn. Mới đây, ngày 10/10/2002, Bộ VHTT đã ký quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT ban hành Quy chế quản lý và cấp phép cung cấp thông tin, thiết lập trang thông tin điện tử trên Internet. Theo đánh giá của giới kinh doanh, quy chế trên có rất nhiều điểm bất cập. Riêng việc “bắt” các doanh nghiệp, nếu muốn đưa một đoạn quảng cáo rất nhỏ lên Internet cũng phải tới tận Bộ VH-TT xin phép, đã hạn chế rất nhiều khả năng xúc tiến thương mại bằng con đường điện tử. Nguồn kinh phí cho hoạt động xúc tiến thương mại ở nước ta trước nay được trích từ khá nhiều quỹ, chủ yếu là ngân sách Nhà nước. Những năm gần đây, cùng với sự tiến bộ trong nhận thức, các doanh nghiệp bắt đầu có quỹ riêng cho công tác xúc tiến thương mại, tuy nhiên chưa đáng kể. Năm 2002, Chính phủ đã có nhiều quyết định táo bạo trong việc tài trợ cho hoạt động xúc tiến thương mại. Tháng 3/2002, Công văn số 1321/VPCP-KTTH của Văn phòng Chính phủ đã công bố việc hỗ trợ 50% tiền vé máy bay khi tham gia 5 đoàn công tác của Bộ Thương mại đi khảo sát các thị trường Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Nga và châu Phi. Riêng đoàn đi châu Phi được hỗ trợ 100%. Tháng 10/2002, Bộ Tài chính đã ra thông tư xác lập ngân quỹ dành cho xúc tiến thương mại được ấn định bằng 0.25% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm (trước đây tối đa là 2%). Phần lớn các hoạt động sẽ được hỗ trợ 50% kinh phí, riêng những hoạt động quan trọng như quảng bá thương hiệu quốc gia, xây dựng cơ sở hạ tầng xúc tiến thương mại, thương mại điện tử… được hỗ trợ 70%. Tuy nhiên, theo ý kiến của một số doanh nghiệp, việc phân bổ kinh phí như trên có chỗ chưa hợp lý. Một số doanh nghiệp ít gặp khó khăn trong hoạt động xuất khẩu, không “vướng” những trở ngại trong việc thâm nhập thị trường nên kim ngạch xuất khẩu cao thì được hỗ trợ nhiều, trong khi những doanh nghiệp cần được giúp nhiều lại được hưởng ít kinh phí. Hơn nữa, nếu rải đều kinh phí hỗ trợ cho hàng ngàn doanh nghiệp thì số tiền mỗi doanh nghiệp nhận được không đáng là bao, nếu tập trung cho những chương trình trọng điểm quốc gia thì có thể hiệu quả cao hơn. Trong báo cáo đọc trước Quốc hội tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa XI ngày 12/11 vừa qua, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Sinh Hùng khẳng định, Chính phủ sẽ đầu tư xây dựng 3 trung tâm xúc tiến thương mại ở nước ngoài, đồng thời tăng mức hỗ trợ cho các doanh nghiệp làm công tác xúc tiến thương mại vào năm 2003. Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết, số các doanh nghiệp vươn lên tìm thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm đang tăng lên hàng tháng. Do đó, Chính phủ sẽ áp dụng thêm những chính sách hỗ trợ nâng cao hiệu quả công tác này, nhằm giúp các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, kinh doanh, khắc phục các khó khăn về mặt bằng sản xuất, vốn, ứng dụng công nghệ mới. Đặc biệt, Chính phủ sẽ tăng cường hỗ trợ thông tin thương mại để các nhà sản xuất trong nước nắm bắt nhanh nhạy hơn những biến động của thị trường thế giới, kịp thời điều chỉnh sản xuất theo lượng cầu của từng thời kỳ. Một khoản ngân sách sẽ được trích ra để hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm tạo những sản phẩm có sức cạnh tranh cao. Riêng đối với xúc tiến thương mại bằng con đường thương mại điện tử, Bộ Thương mại đang kiến nghị Chính phủ cho phép hỗ trợ toàn bộ kinh phí truy cập Internet cho tất cả các Sở Thương mại và có kinh phí thỏa đáng giúp các Sở phổ biến thông tin đến toàn bộ cộng đồng doanh nghiệp. Hình thức phổ biến sẽ là phát hành bản tin định kỳ hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Theo một số chuyên gia, chỉ cách này mới có thể đưa được thông tin chính xác, cập nhật và đúng nhu cầu đến hàng vạn doanh nghiệp, hàng triệu hộ nông dân. Chương 2 : Thực tiễn sản xuất và xúc tiến xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản 2.1 Vài nét về tình hình sản xuất 2.1.1 Tiềm năng của Việt Nam Đất nước ta có diện tích 331.689 km2 trải dài từ 23 0 22 đến 8 0 30 vĩ độ Bắc. Thuộc bán đảo Trung ấn, Việt Nam có phần gắn với lục địa, có phần “ đầm mình vào đại dương”. Là một quốc gia nhỏ, nhưng Việt Nam có lợi thế khá rõ rệt trong việc phát triển ngành kinh tế nông nghiệp nói chung và ngành rau quả nói riêng. Chúng ta sẽ lần lượt xem xét bốn thế mạnh cơ bản sau: Điều kiện tự nhiên : Trước hết, có thể nói nước ta vị trí địa lý vô cùng thuận lợi để tạo lập và mở rộng các mối quan hệ nhiều mặt với thế giới. Nằm trên vòng cung Châu á - Thái Bình Dương, Việt Nam như ở chính giữa “bao lơn trung đoạn” nhìn ra đường biển quốc tế Âu - á, á - Âu; là cửa ngõ ra biển của những nước láng giềng trong lục địa (Trung Quốc, Lào…). Đây cũng là khu vực đang diễn ra những dòng giao lưu kinh tế – xã hội hết sức sôi động và đầy hứa hẹn. Chính vị trí này tạo cho nước ta một môi trường kinh tế linh hoạt và góp phần giảm đáng kể chi phí vận chuyển trên các tuyến giao thông quốc tế. Thật vậy, từ các cảng biển và sông lớn, tàu vận tải Việt Nam chỉ mất từ 3 đến 5 giờ để hoà nhập vào hệ thống đường biển quốc tế. Theo các cung đường này, tàu bè đến Đông Nam á, Trung Đông, Châu Âu, Châu Mĩ, đặc biệt là Đông Bắc á (Nhật Bản)….đều rất thuận lợi. Thời gian để tàu đi từ Sài Gòn đến Hồng Kông chỉ hết 1 ngày, đến Singapo hết 2 ngày, đến Hàn Quốc 5 ngày và đến Nhật Bản chỉ 6 ngày, vì vậy việc vận chuyển rau quả xuất khẩu đảm bảo thời hạn sử dụng là khá dễ dàng. Vị trí địa lý trên còn tạo cho Việt Nam những điều kiện khí hậu độc đáo để phát triển ngành trồng trọt. Thuộc vành đai khí hậu nhiệt đới, nước ta nhận một lượng bức xạ mặt trời khá lớn (120 kcal/ cm2/ năm), nhiệt độ bình quân tới trên 200 C, lượng mưa 2000mm/ năm, tại các miền núi đón gió có nơi mưa 3000mm/ năm, độ ẩm tương đối trên 80%…..Khí hậu Việt Nam thay đổi theo vĩ độ, cao độ và cả địa hình, vừa đa dạng vừa độc đáo mà các quốc gia cùng vĩ độ không có. Nước ta có nhiều vùng khí hậu rất khác biệt : Miền Bắc có chế độ gió mùa đông bắc, tương phản nóng lạnh rõ rệt giữa các mùa trong năm; Miền Trung đón gió mùa Tây Nam nhiệt độ cao và độ ẩm thấp; Miền Nam có khí hậu nhiệt đới thuần tuý, nóng ẩm, mưa nhiều. Sự đa dạng trên chính là thuận lợi để phát triển những vùng chuyên canh đặc sản : rau quả ôn đới và á nhiệt ở Miền Bắc, sản phẩm nhiệt đới ở Miền Nam… Đặc điểm địa hình nước ta cũng khá độc đáo. Với 3/4 diện tích là đồi núi, cao nguyên, 7 khu vực địa hình (Trung du và miền núi phía bắc, đồng bằng sông Hồng, Bắc trung bộ, Duyên hải nam trung bộ, Tây nguyên, Đông nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long) là 7 chế độ nhiệt, ẩm và 7 hệ sinh thái khác nhau. Do đó, ngay cả trong một vùng khí hậu thuần nhiệt đới (Nam Bộ) vẫn có những tiểu vùng khí hậu ôn đới (Đà Lạt) khiến cho nông sản, thực vật càng phát triển phong phú. Về thổ nhưỡng, hai đồng bằng rộng lớn nhất là đồng bằng Bắc Bộ (1,5 triệu ha) và đồng bằng Nam Bộ (6,2 triệu ha) cung cấp một lượng đất phù sa khổng lồ cho các loại cây trồng. Bên cạnh đó, tại đồng bằng miền Trung, đồng bằng Nam Trung Bộ, các vùng cao nguyên, trung du….cũng có thể phát triển nhiều cây ăn quả và rau xanh có giá trị. Ngoài khí hậu, địa hình và thổ nhưỡng, hệ thống thuỷ văn của Việt Nam cũng rất thuận lợi cho trồng trọt. Với hàng loạt sông lớn phân bố khắp Bắc-Trung-Nam đi kèm vô số sông ngòi kênh rạch, hệ thống này cung cấp một lượng nước và phù sa hết sức dồi dào (830 tỉ m3 nước / năm). Điều kiện nguồn nhân lực Dân số Việt Nam từ nhiều năm nay phát triển với một tốc độ khá cao. Với 80 triệu dân (con số do Trung tâm Nghiên cứu thông tin và Tư liệu dân số của ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em công bố ngày 10/10/2002) và dự báo có thể ổn định vào giữa thế kỷ 21 với quy mô khoảng 113 triệu người, 50% dân số nước ta đang ở độ tuổi dưới 20. Lực lượng lao động rất đông đảo, đặc biệt những người sống bằng nghề nông đang sở hữu một vốn kinh nghiệm phong phú và vô giá được tích luỹ từ bao đời nay về trồng trọt, chăn nuôi. Người Việt Nam thông minh, ham học hỏi, tiếp thu khá nhanh các thành tựu khoa học kĩ thuật, lại cần cù chịu khó nên càng ngày sẽ càng tiến bộ hơn về mọi mặt nói chung và về nghề nông nói riêng. Điều kiện chính trị – xã hội Từ giữa những năm 80 đến nay, cuộc cách mạng về nhận thức đã và đang dẫn đến những biến đổi to lớn trong đời sống kinh tế - xã hội nước ta. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam (12/1986), đại hội mở màn cho công cuộc đổi mới vĩ đại, các nhà lãnh đạo đã khẳng định, nông nghiệp và sản xuất hàng xuất khẩu là hai lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu của nền kinh tế. Từ đó đến nay, Nhà nước đã ban hành hàng loạt chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn. Được Chính phủ quan tâm sâu sắc, ngành này đã có những bước tiến kỳ diệu, khác hẳn tình trạng yếu kém trì trệ trước kia. Việt Nam ngày nay đã trở thành một trong những nước đứng đầu thế giới về hàng loạt mặt hàng nông sản. Bên cạnh những cây trồng chủ lực như lúa gạo, cà phê, điều, tiêu…, những năm gần đây, rau và cây ăn quả được Nhà nước khuyến khích phát triển mạnh mẽ. Riêng trong năm 2002, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam đầu tư khoảng 233,3 triệu USD cho phát triển nông lâm nghiệp. Với mặt hàng rau quả, năm nay Bộ huy động khoảng 957 tỷ đồng để xây dựng 10 dây chuyền chế biến rau quả, tổng công suất 57.000 tấn/năm. Các sản phẩm được chú trọng là rau quả đóng hộp (30.000 tấn), nước qu._.ào Nhật Bản phải chú trọng hơn đến tiêu chuẩn an toàn thực phẩm. Bên cạnh các quy định pháp lý, các nhà xuất khẩu còn nên quan tâm đến giải thưởng G-Mark -Hệ thống tiêu chuẩn chất lượng và thiết kế đẹp, do Bộ Công thương Nhật Bản khởi xướng năm 1957. Đây là tiêu chuẩn công nhận những sản phẩm ưu việt, chất lượng cao, được thiết kế độc đáo, phù hợp với người Nhật. Từ năm 1998, hệ thống này chính thức mang tên Giải thưởng Mẫu thiết kế đẹp G-Mark do Tổ chức Xúc tiến Mẫu thiết kế công nghiệp Nhật Bản (JIDPO) quản lý. Ông Shinji Yajima, thành viên Tổ chức Xúc tiến kiểu dáng công nghiệp Nhật Bản cho biết: mọi sản phẩm đang được bán tại Nhật hoặc có chiến lược bán cho Nhật đều có thể đệ đơn để xin nhận giải thưởng G-Mark. Quá trình xét trao giải gồm 2 giai đoạn: xem xét giấy tờ và xem xét sản phẩm thực tế. Khi 2 giai đoạn này kết thúc, giải thưởng này sẽ được trao cho nhà sản xuất đủ tiêu chuẩn, nhà sản xuất sẽ gắn biểu tượng G-Mark lên sản phẩm của mình. Theo Trung tâm ASEAN Nhật Bản, G-Mark là biểu tượng của những sản phẩm có chất lượng cao, là “giấy thông hành” rất hiệu quả để sản phẩm đến với khách hàng. Các doanh nghiệp có thể coi G-Mark như sự kiểm tra hướng phát triển của sản phẩm, đồng thời là sự hỗ trợ cụ thể đối với hoạt động bán hàng của công ty. Lệ phí cho việc sử dụng biểu tượng này là 100.000 yên/năm. Tại các thành phố lớn của Nhật hiện có hai xu hướng mua sắm mới mà doanh nghiệp Việt Nam rất nên quan tâm: bán hàng qua bưu điện theo catalogue hàng mẫu và bán hàng qua Internet. Những phương thức này được ưa chuộng do tiết kiệm nhiều thời gian cho những công chức Nhật vốn hết sức bận rộn. Tuy nhiên, hàng bán theo phương thức này cần liên tục thay đổi mẫu mã, kiểu dáng để hấp dẫn khách hàng (đa phần là nữ). 2.4 Công tác xúc tiến thương mại đưa mặt hàng rau quả vào thị trường Nhật Bản Thời gian gần đây, không chỉ các cơ quan Chính phủ mà cả các doanh nghiệp Việt Nam cũng rất quan tâm đến công tác xúc tiến thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu rau quả vào thị trường Nhật Bản. Chuyến khảo sát gần đây nhất diễn ra từ ngày 24/9 đến ngày 5/10 do Thứ trưởng Bộ Thương mại Phan Thế Ruệ dẫn đầu đã thu kết quả rất khả quan. Phía Nhật đã nhiều lần đề nghị Việt Nam khoanh vùng sản xuất các sản phẩm chất lượng cao, trong đó có rau quả. Họ sẵn sàng giúp các nhà sản xuất Việt Nam trong khâu giống, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, hướng dẫn cách bảo quản cũng như bao tiêu sản phẩm… Đặc biệt, một biên bản thỏa thuận về hợp tác kiểm dịch động – thực vật giữa hai nước đã được ký giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và Bộ Nông Lâm Ngư nghiệp Nhật Bản. Theo bản thỏa thuận này, phía Nhật sẽ thành lập một trạm kiểm dịch động – thực vật. Tất cả những hàng hóa đã được trạm này chứng nhận chất lượng đều có thể yên tâm vào Nhật. Trước đó, hồi tháng 2/2002, một đoàn công tác liên ngành do Thứ trưởng Bộ Thương mại Mai Văn Dâu dẫn đầu, với sự tham gia của đại diện Chính phủ,các bộ, các doanh nghiệp đã khảo sát thị trường Nhật Bản.Trong chuyến đi này, đoàn đã có các cuộc tiếp xúc với đại diện 20 công ty, tập đoàn Nhật Bản để thỏa thuận về việc đưa hàng nông, thủy sản Việt Nam vào thị trường Nhật Bản. Làm việc với đoàn, Bộ trưởng Nông-Lâm-Ngư nghiệp Nhật Bản cho biết, phía bạn sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam đào tạo cán bộ kiểm dịch và cung cấp thiết bị kiểm dịch cho Việt Nam với mục đích nâng cao chất lượng hàng nông sản xuất khẩu. Bộ trưởng khẳng định, Việt Nam là quốc gia giàu tiềm năng về các mặt hàng rau quả, thủy sản, gạo. Theo ông, những mặt hàng đó có thể dễ dàng vào thị trường Nhật nếu nâng cao chất lượng hơn một chút. Cũng trong tháng 2, một đoàn gồm 15 doanh nghiệp Việt Nam đã tham gia hội chợ thương mại Thái Bình Dương – Ehime 2002 tại tỉnh Ehime (Nhật Bản). Các thương nhân Việt Nam đã giới thiệu những sản phẩm đặc trưng, có khả năng cạnh tranh của Việt Nam. Nhiều bạn hàng cũng như người tiêu dùng Nhật Bản tỏ ra rất quan tâm đến những sản phẩm này. Đây thật sự là cơ hội tốt để phát triển quan hệ thương mại giữa hai bên. Các chuyến khảo sát đã giúp cả các nhà quản lý và doanh nghiệp Việt Nam hiểu rõ hơn về thị trường Nhật Bản. Thứ trưởng Bộ Thương mại Phan Thế Ruệ cho biết, rau quả Việt Nam thừa sức cạnh tranh ở Nhật, nhưng hiện nay tỷ trọng còn thấp so với Trung Quốc, Philippines… Ông cho rằng, để hàng Việt Nam vào Nhật nhiều hơn, các doanh nghiệp cần tạo dựng và kiên trì củng cố uy tín của mình vì người Nhật khá khó tính. Đồng thời, việc kiểm soát chặt chẽ mọi khâu, từ gieo trồng, thu hoạch, chế biến, đến đóng gói, xuất đi… phải được thực hiện thường xuyên. Về phía Nhật Bản, tổ chức có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc đưa hàng Việt Nam đến với người tiêu dùng Nhật Bản là Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (Japan External Trade Organization - JETRO). Tiền thân của JETRO là Tổ chức Nghiên cứu Xuất khẩu Nhật Bản, ra đời năm 1951. Trong hai năm tiếp theo, hai tổ chức thương mại khác cũng được Chính phủ Nhật Bản thành lập là Hội đồng Ngoại thương (năm 1952) và Hội đồng hòa giải thương mại Nhật Bản. Đến năm 1954, ba tổ chức trên được hợp nhất với Tổ chức khôi phục Ngoại thương Nhật Bản rồi trở thành Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản vào năm 1958. Để đáp ứng nhu cầu phát triển quan hệ giao lưu kinh tế ngày càng mạnh mẽ giữa hai quốc gia Việt – Nhật, JETRO đã mở hai văn phòng đại diện tại Hà Nội (tháng 10/1993) và tại TP Hồ Chí Minh (tháng 10/2000). Hoạt động của JETRO ở Việt Nam tập trung vào ba mảng: Xúc tiến xuất khẩu hàng Việt Nam sang Nhật Bản Hỗ trợ đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam Hỗ trợ phát triển nền kinh tế thị trường của Việt Nam Những mặt hàng được JETRO quan tâm ở Việt Nam là rau quả, thủ công mỹ nghệ, may mặc, hàng trang trí nội thất… Những năm qua JETRO đã giúp các nhà xuất khẩu Việt Nam thu thập thông tin về khách hàng Nhật Bản, giới thiệu hàng Việt Nam cho người tiêu dùng Nhật Bản trên trang web của JETRO (địa chỉ: www.jetro.go.vn). Tại văn phòng đại diện của JETRO luôn có nhiều ấn phẩm về thương mại, đầu tư, cung cấp nhiều thông tin bổ ích cho các nhà quản lý và doanh nghiệp. JETRO đã tổ chức 3 hội chợ xúc tiến xuất khẩu tại Việt Nam, mời 2 đoàn doanh nghiệp Nhật Bản sang xem hàng trực tiếp và đàm phán k‎ý hợp đồng với phía Việt Nam. Tổ chức này còn thường xuyên đào tạo kỹ năng xúc tiến thương mại và giúp doanh nghiệp Việt Nam làm quen với phương thức kinh doanh qua mạng. JETRO đã từng hỗ trợ các nhà xuất khẩu Việt Nam sang Nhật tham gia Hội chợ về hàng thực phẩm (FOODEX) và nhiều hội chợ, triển lãm chuyên ngành khác (Triển lãm quà tặng-Gift Show, Triển lãm đồ dùng gia đình-International Houseware Show, Hội chợ nội thất-Furniture Fair)… … Chương III : Giải pháp tăng cường công tác xúc tiến thương mại nhằm đưa mặt hàng rau quả vào thị trường Nhật Bản. 3.1 Các giải pháp cải thiện môi trường pháp lý cho hoạt động xúc tiến thương mại Như đã đề cập ở chương I, khung pháp lý cho hoạt động xúc tiến thương mại của Việt Nam chưa thật hoàn thiện. Bộ luật liên quan nhiều nhất đến hoạt động này là Luật Thương mại 1997 mới chỉ có vỏn vẹn một định nghĩa về xúc tiến thương mại. Các chính sách về xúc tiến thương mại như hỗ trợ tài chính, bảo hiểm ngành hàng, lập trung tâm xúc tiến thương mại ở nước ngoài… mới được quy định rải rác tại các văn bản do nhiều bộ, ngành ban hành. Chính phủ rất cần bổ sung sự thiếu hụt trên bằng pháp lệnh, hoặc tối thiểu cũng là nghị định về xúc tiến thương mại, trong đó nêu rõ các loại hình được coi là xúc tiến thương mại, các cơ quan quản lý hoạt động này, kinh phí hàng năm cho xúc tiến thương mại, nguyên tắc hoạt động của trung tâm xúc tiến thương mại đặt tại Việt Nam cũng như ở nước ngoài… Chính phủ cũng cần nêu rõ nhiệm vụ của đại diện bộ, ban, ngành tại các địa phương trong việc hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp, nhiệm vụ cung cấp thông tin của đại diện thương mại Việt Nam ở nước ngoài cho doanh nghiệp trong và ngoài nước… Đối với xúc tiến thương mại bằng con đường thương mại điện tử, hiện khung pháp lý đang là một vấn đề nổi cộm. Đáng lẽ Pháp lệnh Thương mại điện tử phải được Bộ Thương mại trình Chính phủ vào tháng 11/2002, sau đó Chính phủ sẽ xem xét phê duyệt vào đầu năm 2003. Tuy nhiên, quá trình này hiện đang chậm so với kế hoạch. Chính phủ cần chỉ đạo Bộ Thương mại nhanh chóng hoàn thành văn bản trên. Bộ Thương mại nên mời các cán bộ của Tổng cục Bưu Điện, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tư pháp, Ban Cơ yếu Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Công thương, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, và một số bộ ngành có liên quan khác tham gia Ban soạn thảo pháp lệnh này. 3.2 Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của rau quả xuất khẩu 3.2.1 Phát triển ngành rau quả một cách hợp lý với chính sách đầu tư thích đáng Theo chiến lược xuất, nhập khẩu thời kỳ 2001-2010, kim ngạch xuất khẩu rau quả dự kiến đến năm 2010 đạt 1,85 tỷ USD, trong đó phấn đấu để xuất khẩu rau quả tươi và ướp lạnh đạt 180-300 triệu USD (chiếm 10-15%), rau quả chế biến phấn đấu đạt 1-1,1 tỷ USD (chiếm 50-60%). Chiến lược này phải được triển khai đồng bộ từ các Bộ liên quan đến người nông dân trên đồng ruộng với từng mặt hàng rau quả trên 4 vấn đề lớn : tổ chức sản xuất, thị trường tiêu thụ và cơ chế chính sách. Riêng khâu tổ chức sản xuất phải đồng bộ 4 khâu : trồng, thu hoạch, chế biến, tiếp thị. Xây dựng mô hình sản xuất và lưu thông rau quả hàng hóa phù hợp với yêu cầu thực tiễn Để tiến dần đến việc xuất khẩu rau quả với khối lượng lớn, Nhà nước nên tổ chức sản xuất lại theo hướng phát triển kinh tế trang trại, quy hoạch vùng phục vụ xuất khẩu. Các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần vận động nông dân gieo trồng theo đơn đặt hàng hoặc hợp đồng của các công ty xuất khẩu, các nhà thu gom. Cách làm đó sẽ tạo cầu nối giữa nhà xuất khẩu với người sản xuất rau quả, kết hợp xây dựng các mối quan hệ, các kênh lưu thông từ sản xuất đến xuất khẩu. Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi nhất để các chủ trang trại sản xuất kinh doanh rau, quả được thành lập các hợp tác xã cổ phần trên tinh thần hoàn toàn tự nguyện, có thể kinh doanh đa ngành, vừa cung ứng vật tư, máy móc, nguyên - nhiên liệu..., vừa tiêu thụ sản phẩm, tiếp thị và xúc tiến thương mại. Nhà nước hỗ trợ các hợp tác xã rau, quả và vốn tín dụng, giống mới, công nghệ sinh học, đào tạo cán bộ quản lý trang trại và kỹ thuật canh tác cho người lao động... Nâng cao chất lượng rau quả hàng hóa Thị trường thế giới ngày nay tiêu thụ các chủng loại hàng rau quả với đòi hỏi cao về chất lượng theo hướng rau quả sạch, bảo đảm vệ sinh thực phẩm. Do đó, để đạt được mục tiêu, Chính phủ cần có hệ thống chính sách đồng bộ, bên cạnh vấn đề thị trường xuất khẩu không thể không chú trọng vấn đề giống cây trồng. Bên cạnh việc nghiên cứu tuyển chọn và lai tạo các giống tốt ở trong nước, Nhà nước cần có chính sách quản lý chặt chẽ việc nhập khẩu cây giống, tránh việc nhập giống cây có ảnh hưởng xấu cho sản xuất trong nước. Để có thể tìm và mở rộng thị trường trái cây Việt Nam, Nhà nước cần có những định hướng sát thực cho người sản xuất về giống, chủng loại, cung cấp các thông tin về nhu cầu ở các thị trường chủ yếu để nhà sản xuất vạch ra chiến lược thị trường và sản phẩm phù hợp. Giữa các doanh nghiệp kinh doanh rau quả và người sản xuất cần có sự liên kết chặt chẽ trong sản xuất, thu hoạch, bảo quản để tăng chất lượng trái cây. Tại các vùng sản xuất, nông dân cần được hướng dẫn để đầu tư cải tạo vườn tạp; canh tác theo các vùng chuyên canh tập trung, phù hợp với điều kiện khí hậu, đất đai, phát triển các cây đặc sản có lợi thế. Các nhà sản xuất cũng cần đầu tư cho công nghệ sau thu hoạch như: phát triển các máy bảo quản, chế biến quả tươi gắn với vùng nguyên liệu, đa dạng hoá các sản phẩm chế biến như bột quả, nước quả cô đặc quả sấy khô ngâm đường, mứt... Công tác nghiên cứu khoa học cần được chú trọng, đặc biệt là trong việc chọn giống, nhân giống, ứng dụng thiết bị kỹ thuật, chuyển giao công nghệ trong trồng trọt ... Nhà nước có thể xem xét để đưa ra quy định, theo đó các công ty sản xuất giống phải trích một số phần trăm lợi nhuận cho tác giả. Cách làm này đã và đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng, cho kết quả khả quan, bởi khuyến khích được đông đảo các nhà khoa học tham gia sáng tạo giống mới. Chính phủ cũng cần tăng cường kiểm soát chất lượng hạt giống và nâng cao trách nhiệm của các đơn vị sản xuất hạt giống, nhằm bảo đảm giống không bị thoái hóa. Đầu tư thích đáng xây dựng hệ thống chế biến và bảo quản rau quả Hoạt động này phải được tiến hành dựa trên một hệ thống chính sách hợp lý, đồng bộ, khuyến khích đầu tư phát triển và tận dụng được các nguồn vốn trong và ngoài nước. Các nhà quản lí nên thu hút vốn đầu tư trong nước, đồng thời chú trọng thu hút đầu tư nước ngoài, chủ yếu trong lĩnh vực chế biến rau quả xuất khẩu, vì đây là mũi nhọn quan trọng để đẩy mạnh xuất khẩu trong thời gian tới. Các công ty nước ngoài có ưu điểm về vốn về kỹ thuật, lại có sẵn thị trường tiêu thụ và khả năng tiếp cận thị trường. Một số công ty liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài về chế biến rau quả xuất khẩu tại Lâm Đồng, Đồng Nai, KCX Tân Thuận, TP Hồ Chí Minh ... đã đi vào hoạt động. Các cơ sở này đều có thể phát triển tốt, nhưng quy mô còn nhỏ, kim ngạch xuất khẩu chỉ khoảng 1,5-2 triệu USD mỗi năm. Đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này cần đa dạng, song nên chú trọng một số loại rau quả quan trọng, có khả năng xuất khẩu với khối lượng lớn. Đối với thị trường trong nước, các nhà sản xuất cần tập trung nâng cao chất lượng, sản lượng, hạ giá thành sản phẩm. Nhà nước nên đề ra các chính sách thích hợp để khu vực tư nhân tham gia lưu thông, phân phối, xuất khẩu, tạo hướng đi mới cho nông dân các vùng chuyên canh rau quả, đồng thời tăng cường công tác khuyến nông, phát triển dịch vụ về giống, khoa học kỹ thuật, chăm sóc phòng trừ sâu bệnh, bảo vệ sinh môi trường sản phẩm ... Cần nhập khẩu các công nghệ, thiết bị mới như chế biến rau quả bằng phương pháp đông lạnh, sấy khô thẩm thấu, đóng gói chân không… Có như vậy, ngành công nghiệp xanh mới có thể hoà chung vào sự phát triển kinh tế xã hội, nâng tỷ trọng giá trị ngành trồng trọt nói chung và ngành trồng trọt rau quả nói riêng trong cơ cấu nền kinh tế. 3.2.2 Đổi mới chính sách tài chính tín dụng, hỗ trợ cho phát triển rau quả Trước hết, Bộ Tài chính có thể xem xét các loại thuế áp dụng cho ngành sản xuất và xuất khẩu rau quả. Để khuyến khích xuất khẩu rau, quả đề nghị Nhà nước áp dụng mức thuế giá trị gia tăng đối với ngành rau, quả ở mức 0%. Luật khuyến khích đầu tư trong nước quy định đối với dự án khuyến khích đầu tư (trong đó có dự án sản xuất, chế biến rau, quả) được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 2 năm đầu và được giảm 50% tối đa trong 4 năm tiếp theo, thì nên vận dụng cho ngành rau, quả ở mức tối đa là 4 năm. Đầu tư vào lĩnh vực này cần không ít thời gian và chịu nhiều rủi ro, do đó, sự hỗ trợ trên sẽ giúp các nhà sản xuất vượt qua những khó khăn ban đầu. Mặt khác, các hiệp hội, các sở thương mại và những cơ quan có liên quan cần Chính phủ lập các Quỹ bảo hiểm cây trồng để hỗ trợ cho người sản xuất trong trường hợp rủi ro bất khả kháng như: sâu bệnh gây thiệt hại mùa màng, thiên tai... Sự hỗ trợ này sẽ rất có ý nghĩa đối với người nông dân, bởi trước nay họ vẫn chịu thua thiệt rất nhiều vì thiên tai. Nguồn vốn cho quỹ có thể trích từ lợi nhuận của các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng này, từ kinh phí của các hợp tác xã nông nghiệp, hoặc từ ngân sách địa phương và kêu gọi chính người nông dân tham gia… Về chính sách tín dụng, Bộ Tài chính và các ngân hàng, quỹ cho vay… nên đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho ngành rau, quả được vay ưu đãi từ nguồn vốn của Quỹ hỗ trợ phát triển, bảo đảm đủ vốn cho các dự án và kéo dài thời gian thanh toán vốn vay tuỳ đặc điểm của từng dự án. Thông thường, trong thời gian đầu tham gia sản xuất kinh doanh, các dự án xuất khẩu rau, quả chưa phát huy hiệu quả ngay, nhất là đối với các loại cây dài ngày. Hơn nữa, sau khi cắt giảm thuế theo danh mục CEPT (1/1/2003), rau quả trong nước sẽ bị cạnh tranh gay gắt bởi hàng nhập khẩu từ ASEAN. Nếu không có chính sách ưu đãi tài chính, có thể nhiều loại rau quả Việt Nam sẽ yếu thế ngay trên “sân nhà”, nhất là trước những đối thủ như Thái Lan, Indonesia… Đối với các vùng sản xuất rau, quả tập trung với khối lượng lớn, ký hợp đồng thường xuyên cung ứng rau, quả xuất khẩu với các doanh nghiệp, Nhà nước cũng nên áp dụng các biện pháp hỗ trợ đặc biệt như: ưu tiên xây dựng kết cấu hạ tầng, ưu tiên xây dựng các Trung tâm thương mại, các chợ rau, quả, cho vay ưu đãi từ nguồn vốn của Quỹ hỗ trợ phát triển... 3.3 Giải pháp tăng cường hiệu quả của công tác xúc tiến thương mại đưa rau quả Việt Nam vào Nhật Bản 3.3.1 Nâng cao nhận thức về xúc tiến thương mại Trước hết, các doanh nghiệp Việt Nam cần có nhận thức sâu sắc hơn về vai trò của công tác xúc tiến thương mại để thực hiện mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu. Trách nhiệm này trước hết thuộc về các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan như Cục Xúc tiến thương mại, các sở thương mại, các viện, trường đại học chuyên ngành… Những cơ quan này có trách nhiệm thường xuyên nâng cao nhận thức và kiến thức cho các doanh nghiệp thông qua các hội thảo, khóa học, buổi thuyết trình với nội dung sát thực tiễn. Những hoạt động này cần được tổ chức một cách đồng bộ, tránh trùng lắp nội dung, tránh tình trạng “vừa thừa vừa thiếu”, giẫm chân lên nhau, lãng phí tiền bạc và thời gian của cả Nhà nước và doanh nghiệp. Hoạt động phổ biến kiến thức phải được phổ cập đến đông đảo cộng đồng doanh nghiệp, chấm dứt cảnh “nước chảy chỗ trũng” như hiện nay, nghĩa là doanh nghiệp ở các tỉnh – thành lớn thì dễ tiếp xúc với “trung ương”, còn những nơi vùng sâu vùng xa lại thường xuyên chịu thiếu thốn. Kiến thức về xúc tiến thương mại cần được đưa vào giáo trình giảng dạy của các trường khối thương mại như một môn học chuyên ngành, với mục đích trang bị kiến thức cơ bản cho các doanh nhân và các nhà quản lý kinh tế tương lai. 3.3.2 Xây dựng chiến lược xúc tiến thương mại hợp lý Mỗi tỉnh, thành, mỗi doanh nghiệp cần sớm xây dựng một chiến lược xúc tiến thương mại riêng cho mình, không nên trông chờ vào chiến lược của Chính phủ rồi làm theo một cách thụ động. Chiến lược phải phù hợp với điều kiện tài chính, nhân lực riêng của doanh nghiệp, tùy nhu cầu trong từng thời kỳ mà chọn hình thức xúc tiến phù hợp. Mỗi doanh nghiệp nên có bộ phận phụ trách xúc tiến thương mại riêng, hoạt động độc lập hoặc thuộc phòng marketing. Ngân sách cho hoạt động xúc tiến thương mại phải được quy định bằng một tỷ lệ nhất định trong doanh thu/lợi nhuận hàng năm. Chiến lược xúc tiến thương mại phải được nghiên cứu cho một thời gian dài. Đối với các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu mặt hàng rau quả, các nhà quản trị cần chú trọng công tác dự báo xu hướng tiêu dùng sản phẩm mà họ cung cấp, bởi giá nông sản rất phụ thuộc vào yếu tố này. Những mặt hàng trước đây là đắt giá, nhưng khi không còn phù hợp với thị hiếu thì không nên đầu tư quá nhiều cho việc quảng bá, tiếp thị nữa. Ngược lại, đối với những rau quả đặc sản, đang hoặc sẽ được ưa chuộng tại một thị trường nào đó thì cần được giới thiệu một cách tích cực đến người tiêu dùng. 3.3.3 Đẩy mạnh công tác thông tin thương mại Các cơ quan có điều kiện tiếp xúc với nguồn thông tin thường xuyên phải có trách nhiệm đưa thông tin đến với những người có nhu cầu: kể cả nhà sản xuất, người kinh doanh xuất nhập khẩu, nhà đầu tư lẫn người tiêu dùng. Các bộ, ban, ngành (nhất là Bộ Thương mại, Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Tổng Cục Du lịch…) nếu đã có trang web riêng phải dành vị trí thích đáng cho thông tin thị trường trên trang chủ của mình. Nếu có thể thì cho đăng những bài viết, bài nhận định của các chuyên gia kinh tế mang tính tổng hợp và chuyên sâu, góp phần định hướng cho sản xuất và kinh doanh. Hiện nay nhiều cơ quan đã có trang web nhưng độ cập nhật rất kém. Thật đáng buồn là trên website của Bộ Kế hoạch và Đầu Tư, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam…, thông tin mới nhất là từ tháng …2/2002, thậm chí từ tháng 6/2001. Nhiều bộ đến nay còn chưa có cả website, thậm chí nhiều chuyên viên của bộ còn hết sức “mù mờ” về Internet và thương mại điện tử. Điều đó chứng tỏ ngay cả các cơ quan Chính phủ cũng không coi trọng lắm vấn đề này, vậy thì việc doanh nghiệp đôi khi xem thường cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Tình trạng này phải được chấm dứt. Chính phủ trước hết phải nâng cao nhận thức cho chính nhân viên các bộ, ban thuộc Chính phủ, sau đó cần đầu tư cho cơ sở vật chất để có thể cung cấp thông tin một cách đầy đủ nhất. Mặt khác, khi đã xây dựng phương tiện cung cấp thông tin (thí dụ: website), cơ quan quản lý không chỉ có trách nhiệm duy trì mà còn phải luôn đổi mới hoạt động của phương tiện để đáp ứng nhu cầu không ngừng tăng. 3.3.4 Xúc tiến thương mại điện tử ''Trong chiến lược của mỗi doanh nghiệp phải có mục tiêu riêng, lộ trình riêng để phát triển thương mại điện tử, phù hợp với nhu cầu của mình''. Đó là khuyến cáo của ông Bùi Sơn Dũng, Phó Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại trong Hội thảo ''Doanh nghiệp trong chiến lược thương mại điện tử quốc gia'' khai mạc sáng nay (28/10) tại Hà Nội. Thực vậy, doanh nghiệp không nên “nhào” vào làm trang web nếu chưa xác định được mục tiêu cụ thể, chưa thấy rõ những lợi ích mà trang web đó sẽ mang lại cho mình. Để tránh tiêu tốn quá nhiều chi phí, doanh nghiệp cần lập chiến lược thương mại điện tử với lộ trình cụ thể, đồng thời liên tục theo dõi những kết quả của lộ trình đó. Trên trang web cần giới thiệu rõ ràng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Đặc biệt, với mặt hàng rau quả, website cần nêu rõ sản phẩm thuộc giống nào, công nghệ gieo trồng, bảo quản, chế biến ra sao… Nếu sản phẩm đã được chứng nhận chất lượng bởi cơ quan của Việt Nam hay Nhật Bản, hoặc đoạt những giải thưởng như G-Mark… thì càng cần được giới thiệu kỹ. Khi cần tư vấn về xúc tiến thương mại bằng con đường điện tử, doanh nghiệp không nên ngần ngại đến Cục Xúc tiến thương mại hoặc các trung tâm công nghệ thông tin, trung tâm xúc tiến thương mại địa phương. Mặt khác, theo ông Trần Quốc Khánh, Phó Vụ trưởng Vụ Xuất nhập khẩu (Bộ Thương mại), mỗi doanh nghiệp cần có ít nhất một chuyên viên về thương mại điện tử (tốt nhất là thuê chuyên gia từ các Công ty chuyên về thương mại điện tử nếu không thể tự đào tạo). Bên cạnh đó, doanh nghiệp không thể thiếu cán bộ marketing làm công tác tuyên truyền cho hoạt động thương mại điện tử của mình. Bộ phận marketing đó có nhiệm vụ trước tiên là định vị khách hàng của doanh nghiệp, chủ yếu tại thị trường nước ngoài (trong đó có Nhật Bản), bởi đối với người tiêu dùng Việt Nam, thương mại hiện còn rất lạ lẫm. Thêm nữa, để chấm dứt tình trạng các hoạt động xúc tiến thương mại điện tử được tổ chức rời rạc, thiếu sự liên kết nên chưa đem lại hiệu quả mạnh mẽnhư thời gian qua, Chính phủ cần thành lập một cơ quan đứng ra nhận trách nhiệm phối hợp các hoạt động thương mại điện tử. Tổ chức đó sẽ là cầu nối giữa các Doanh nghiệp Việt Nam với Chính phủ, với các tổ chức quốc tế để doanh nghiệp có thể tiếp nhận và sử dụng một cách hiệu quả hơn những hoạt động hỗ trợ phát triển thương mại điện tử. Cuối cùng, Chính phủ cần có chiến lược nâng cấp cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin ở Việt Nam để phục vụ tốt hơn cho xúc tiến thương mại điện tử. Hiện nhiều doanh nghiệp đang cố gắng nhập những công nghệ thông tin hiện đại để phục vụ đời sống và kinh doanh trong nước, nhưng lại “vướng” cơ sở hạ tầng quá thấp trong nước. Do vậy, khắc phục sự yếu kém này sẽ tạo điều kiện thuận lợi rất lớn cho sự phát triển của kinh tế nước ta nói chung và của xuất khẩu nói riêng. Về phía các doanh nghiệp, khi cần sử dụng thông tin, phải chủ động tìm nguồn cung cấp đáng tin cậy, không nên để thiếu hiểu biết, dẫn đến những thua thiệt không đáng có trong kinh doanh. Về thị trường Nhật Bản, các doanh nghiệp có thể tìm thông tin tại trang web của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) hoặc liên hệ trực tiếp với văn phòng của tổ chức này tại Hà Nội hoặc TP Hồ Chí Minh. 3.3.5 Nâng cao hiệu quả xúc tiến thương mại ở nước ngoài Về lâu dài, các doanh nghiệp lớn nên xem xét xúc tiến mở văn phòng đại diện hoặc chi nhánh tại các thị trường lớn, trong đó có Nhật Bản. Điều này sẽ rất có lợi cho doanh nghiệp trong việc nắm bắt những biến động của cung, cầu và giá cả, đặc biệt với những mặt hàng “nhạy cảm” với mùa vụ và với thị hiếu như rau quả. Khi có tranh chấp xảy ra ở nước bạn, nếu phía Việt Nam có đại diện trực tiếp thì có lợi hơn nhiều là qua bên thứ ba. Tuy nhiên, nếu chi phí cho việc mở văn phòng quá cao (nhất là ở một quốc gia có mức sống đắt đỏ như Nhật Bản), doanh nghiệp có thể thuê công ty Nhật làm đại diện cho mình - điều mà chính các công ty Nhật Bản cũng đang làm ở Việt Nam. ở tầm vĩ mô, Chính phủ cần sớm bổ nhiệm tham tán thương mại chuyên về ngành hàng tại các nước. Chỉ thị số 31/2001 của Thủ tướng Chính phủ đã cho phép thực hiện thí điểm chế độ tham tán kinh tế chuyên trách ngành hàng bên cạnh sứ quán hoặc cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, nhưng đến nay việc thực hiện chưa thật hiệu quả. Chế độ này là hết sức cần thiết, nhất là đối với ngành hàng nông nghiệp, bởi thị trường nông sản thế giới vốn rất bấp bênh, lại nhiều rào cản, cần có người nắm vững chuyên môn theo dõi thường xuyên. Chính phủ cần cử ngay tham tán nông nghiệp cho bốn thị trường lớn của Việt Nam là Trung Quốc, Mỹ, EU, Nhật Bản. Mặt khác, đối với các nước có diện tích lớn, mỗi tỉnh hoặc bang đều có sự độc lập tương đối, thì việc chỉ đặt một tham tán ở thủ đô là không hợp . Thí dụ, Nhật Bản có bốn đảo lớn và vô số đảo nhỏ, một vị tham tán ở Tokyo chắc chắn không thể bao quát hết tình hình thị trường cả nước. Vì vậy, Chính phủ có thể xem xét đặt thêm tham tán ở các‏ địa phương trọng điểm. Với sự giúp đỡ của các đối tác và chính quyền địa phương, Chính phủ cần xúc tiến thành lập sớm trung tâm giới thiệu sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam tại Nhật để có thể quảng bá hàng Việt Nam rộng rãi hơn. Trung tâm này có thể bao gồm hệ thống nhà hàng, quán ăn đặc sản, cung cấp đến tận người tiêu dùng cuối cùng những món ăn chế biến từ rau quả và những thực phẩm khác có nguồn gốc từ Việt Nam. Nhà sản xuất Việt Nam cần chú trọng hơn hoạt động tiếp thị để chứng minh cho người tiêu dùng Nhật thấy rằng những sản phẩm rau quả Việt Nam đang lưu thông ở Nhật đều đã qua kiểm duyệt theo Luật An toàn thực vật và Luật Vệ sinh thực phẩm của Nhật. Trong lĩnh vực xuất khẩu rau quả, để đạt được hiệu quả kinh tế cao, công tác nghiên cứu dự báo, tổ chức và mở rộng thị trường xuất khẩu cần được coi trọng cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Phát triển thị trường xuất khẩu không chỉ là việc riêng của Bộ Thương mại, mà đòi hỏi có sự phối hợp chặt chẽ của các ngành, các địa phương và các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần chủ động, tích cực tìm kiếm thị trường, nguồn hàng, vận dụng kinh nghiệm đã được tổng kết qua nhiều năm trong lĩnh vực xuất khẩu rau quả. Dù điều kiện kinh phí có hạn, doanh nghiệp cũng nên tổ chức các đoàn công tác đi tiếp thị, tổ chức tham quan, khảo sát, tham gia hội thảo, hội chợ triển lãm để học tập kinh nghiệm tiên tiến của nước ngoài, giới thiệu sản phẩm và tìm kiếm bạn hàng. Tại Nhật Bản, hàng năm các hội chợ thương mại tổng hợp cũng như hội chợ chuyên ngành được tổ chức khá thường xuyên. Các doanh nghiệp nên cố gắng mang sản phẩm của mình đến những hội chợ đó, bởi việc giới thiệu trực tiếp tới người tiêu dùng trong những dịp như vậy sẽ rất thuận lợi. Doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm hơn nữa tới những tiêu chuẩn chất lượng về mặt hàng rau quả do Chính phủ Nhật quy định, thí dụ tiêu chuẩn JAS, giải thưởng G-Mark, chứng nhận về bảo vệ môi trường sinh thái do các phòng thí nghiệm của Nhật cấp. Mặt khác, họ nên mở rộng liên doanh với các đối tác Nhật để sản xuất, chế biến, bảo quản các loại rau quả được trồng từ hạt giống của Nhật. Hàng rau quả nên xuất sang Nhật lúc giáp vụ, sẽ bán được với giá có lợi hơn nhiều thời điểm giữa vụ. Sau khi đã xuất thành công những lô hàng đầu tiên sang Nhật, doanh nghiệp cần chú trọng giữ uy tín lâu dài của mình trước những khách hàng khó tính. Hàng năm, các bộ, ngành của nước ta như: Bộ Công nghiệp, Tổng Công ty Dầu khí, Tổng Công ty Bưu chính - Viễn thông, Tổng Công ty Điện lực, Tổng Công ty Hàng không, Tổng Công ty Hàng hải... có giá trị nhập khẩu rất lớn. Nếu gắn được nhập khẩu của các Bộ, Ngành này với đàm phán về xuất khẩu rau, quả thì đó có thể là biện pháp hiệu quả để đẩy mạnh xuất khẩu rau, quả. Chính phủ cần tiếp tục đàm phán các hiệp định thương mại song phương và đa phương, đàm phán trả nợ nước ngoài bằng nông sản (trong đó có rau, quả) nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xâm nhập thị trường nước ngoài. Chính phủ cần sớm thành lập một số Trung tâm xúc tiến thương mại (trong đó có hệ thống kho ngoại quan, phòng trưng bầy và giao dịch rau, quả ) để khuyếch trương xuất khẩu nói chung và rau, quả nói riêng tại Nhật Bản và các thị trường lớn như: Trung Quốc, Hoa Kỳ, Singapore, Pháp, Đức, Nga, các Tiểu vương quốc ả rập thống nhất... Kết luận Ngành rau quả Việt Nam đã và đang phát triển, khẳng định tiềm năng to lớn và vai trò quan trọng trong kinh tế cả nước. Hơn thế, ngành rau quả Việt Nam đang đứng trước vận hội mới, nhất là khi Việt Nam khai thông được một số thị trường lớn sau khi ký hiệp định thương mại song phương với nhiều quốc gia phát triển và trở thành thành viên WTO. Tuy vậy, hàng Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với không ít thách thức khi cắt giảm thuế, giảm bảo hộ và trợ cấp của Nhà nước theo cam kết của AFTA, WTO và các hiệp định thương mại. Việt Nam có tận dụng được cơ hội, khắc phục được khó khăn hay không, không chỉ phụ thuộc vào các nhà quản lý, các cơ quan Chính phủ, mà còn phụ thuộc vào mỗi doanh nghiệp, mỗi người nông dân. Liên tục nâng cao chất lượng, cải tiến khâu chế biến, bảo quản nông sản hàng hóa, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, đó là nhiệm vụ của mọi cá nhân, tổ chức có liên quan. Các doanh nghiệp cũng cần nhận thức rõ tầm quan trọng của thị trường Nhật Bản đối với nền kinh tế đối ngoại nói chung và đối với xuất khẩu rau quả nói riêng, từ đó đầu tư xứng đáng cho các biện pháp xúc tiến thương mại, nhằm ngày càng mở rộng thị phần hàng Việt Nam tại thị trường Nhật Bản. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKLuanFT U.doc
  • docb×a.doc
Tài liệu liên quan