Ảnh hưởng của quá trình cắt giảm thuế xuất nhập khẩu sau hội nhập WTO đến thu ngân sách nhà nước của Việt Nam - Một số kiến nghị giải pháp

LỜI MỞ ĐẦU 1.Tính cần thiết của đề tài Vào WTO là tất yếu khách quan, vì vậy việc cắt giảm thuế là tất yếu khách quan. Thuế xuất nhập khẩu là một trong những nguồn thu quan trọng chiếm tỷ lệ cao trong thu NSNN.Nhưng thuế xuất nhập khẩu lại phụ thuộc rất nhiều vào độ mở của nền kinh tế. Nước ta đang trên tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế, và năm 2007 đánh dấu một bước ngoặt lớn trong tiến trình hội nhập. Đó là nước ta chính thức gia nhập vào WTO, vừa là cơ hội nhưng cũng vừa là thách thứ

doc159 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1784 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Ảnh hưởng của quá trình cắt giảm thuế xuất nhập khẩu sau hội nhập WTO đến thu ngân sách nhà nước của Việt Nam - Một số kiến nghị giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c đối với tình hình kinh tế đất nước, và ảnh hưởng đầu tiên và có thể coi là cực kỳ quan trọng đó là vấn đề tác động của thuế xuất nhập khẩu đến thu NSNN. Bởi vì sau khi gia nhập WTO, chúng ta phải cắt giảm hàng loạt các loại thuế xuất nhập khẩu.Mặc dù cắt giảm theo lộ trình nhưng ảnh hưởng của chúng tới thu ngân sách cũng khá lớn . Nhưng chúng vẫn có ảnh hưởng tích cực đó là kim ngạch thương mại và xuất khẩu tăng lên, và số thu từ thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ tăng vì số hàng nhập khẩu tăng. Khi cắt g ảm thuế xuất nhập khẩu làm cho các doanh nghiệp trong nước đứng trước cả cơ hội và thách thức. Đó là cũng được đ ãi ngộ khi tham gia vào thị trường thế giới, giúp doanh nghiệp đổi mới để cạnh tranh. Đó là các nhân tố làm t ăng thu n ội đ ịa trong n ư ớc v à th úc đ ẩy t ăng tr ư ởng v chuyển dịch cơ cấu kinh tế làm cho tăng thu ngân sách b ền vững. Nhưng nếu các doanh nghi ệp kh ông tự đ ổi mới mình sẽ dẫn đến bị phá sản. Đây là tác động x ấu tới thu nội địa. Vì vậy có thể nói ảnh hưởng cắt gi ảm thuế xuất nhập khẩu có rất nhiều chiều hướng. Vậy vấn đề đặt ra là chúng ta phải có những giải pháp nào để tăng thu ngân sách một cách bền vững trong quá trình việc cắt giảm theo lộ trình thuế xuất nhập khẩu. Đây quả là một bài toán khó và cần giải quyết trong thời kỳ hậu WTO. Chính vì vậy Qua thời gian thực tập tại Vụ Tài chính - Tiền tệ và tìm hiểu trên nhiều tài liệu em đã mạnh dạn chọn đề tài sau: “Ảnh hưởng của quá trình cắt giảm thuế xuất - nhập khẩu sau gia nhập WTO đến thu ngân sách Nhà nước của Việt Nam - một s ố kiến nghị gi ải ph áp” để làm chuyên đề tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. 2.1. Mục đích của đề tài: Luận giải cơ sở lý luận về vai trò của thuế xuất nhập khẩu đối với thu ngân sách và thực tiễn kinh nghiệm tăng trưởng bền vững thu ngân sách nhà nước của Trung Quốc trong quá trình cắt giảm thuế xuất nhập khẩu theo cam kết gia nhập WTO,cùng với việc phân tích thực trạng ảnh hưởng của quá trình cắt giảm thuế xnk đến thu ngân sách nhà nước sau một năm gia nhập WTO nhằm đề xuất được các giải pháp nhằm bảo đảm tăng trưởng bền vững thu ngân sách nhà nước. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Phân tích những vấn đề lý luận chung về thu ngân sách và thuế xuất nhập khẩu, vai trò của thu xuất nhập khẩu đối với thu ngân sách nhà nước trong điều kiện gia nhập WTO - Tóm tắt lộ trình cắt giảm thuế xuất nhập khẩu theo cam kết gia nhập WTO của Việt Nam đồng thời phân tích tác động của nó tới thu ngân sách - Tóm tắt lộ trình cắt giảm thuế theo cam kết gia nhập WTO của Trung Quốc, đánh giá các chính sách về tăng trưởng bền vững của Trung Quốc, rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Ngoài ra còn khảo sát kinh nghiệm của các nước đang phát triển khác về cải cách chính sách thuế và trợ cấp. - Phân tích thực trạng thu ngân sách nhà nước sau một năm gia nhập WTO, phân tích và đánh giá ảnh hưởng của quá trình cắt giảm thuế quan , đồng thời đề xuất một số giải pháp cơ bản thúc đẩy tăng trưởng bền vững thu ngân sách nhà nước trong quá trình cắt giảm thuế theo cam kết gia nhập WTO 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu : Quá trình cắt giảm thuế xuất nhập khẩu theo cam kết gia nhập WTO đến thu ngân sách nhà nước của Việt Nam 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Thu ngân sách nhà nước của Việt Nam giai đoạn 2001-2007 mà tập trung vào năm 2007, và quá trình cắt giảm thuế xuất nhập khẩu theo cam kết gia nhập WTO( chỉ nghiên cứu về hàng hoá) 4. Phương pháp nghiên cứu: Chuyên đề sử dụng phương pháp biện chứng, kết hợp lý luận và thực tiễn, phân tích tổng hợp, sử dụng phương pháp thống kê, toán học, mô hình đồ thị để làm rõ kết quat nghiên cứu. 5. Những đóng góp của đề tài Một là, luận giải được những vấn đề lý luận chung về vai trò thuế xuất nhập khẩu đến thu ngân sách nhà nước trong điều kiện gia nhập WTO Hai là, phân tích tác động của lộ trình cắt giảm thuế XNK theo cam kết gia nhập WTO đến thu ngân sách nhà nước của Việt Nam. Đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm của các nước đang phát triển và Trung Quốc về thúc đẩy tăng trưởng bền vững thu ngân sách nhà nước Ba là, Khái quát thực trạng thu ngân sách nhà nước sau một năm gia nhập WTO, đồng thời so sánh đối chiếu với giai đoạn 2001-2006 để rút ra những nhận xét về sự biến đổi của thu ngân sách Bốn là, Phân tích, đánh thu ảnh hưởng của quá trình cắt giảm thuế XNK đến thu ngân sách thấy được mức độ ảnh hưởng và chiều hướng tác dộng của quá trình đó tới thu ngân sách. Từ đó rút ra những nhận định mang tính quy luật về sự ảnh hưởng này và đưa ra những vấn đề cần giải quyết trong thời gian tới. Năm là, Nêu lên bối cảnh kinh tế trong và ngoài nước, những quan điênrm phương hướng và mục tiêu nhằm thúc đẩy tăng trưởng bền vững nguồn thu ngân sách nhà nước. Sáu là, Kiến nghị các giải pháp có tính khả thi nhằm thúc đẩy tăng trưởng bền vững thu ngân sách nhà nước đến năm 2010. 6. Kết cấu của chuyên đề Ngoài Lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Chuyên đẻ gồm 3 chương: Chương1: Vai trò của thuế xuất nhập khẩu đối với thu ngân sách nhà nước trong điều kiện gia nhập WTO Chương 2: Phân tích ảnh hưởng của cắt giảm thuế xuất nhập khẩu sau gia nhập WTO đến thu ngân sách nhà nước của Việt Nam Chương 3: Một số giải pháp đảm bảo tăng trưởng bền vững thu ngân sách nhà nước của Việt Nam trong lộ trình cắt giảm thuế xuất nhập khẩu CHƯƠNG 1 VAI TRÒ CỦA THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU ĐỐI VỚI THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG ĐIỀU KIỆN GIA NHẬP WTO 1.1. Thu ngân sách nhà nước 1.1.1. Khái niệm - Theo luật ngân sách nhà nước được Quốc Hội khoá IX nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại Kỳ họp thứ hai năm 2002 thì “ Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước Thu ngân sách nhà nước là quá trình Nhà nước sử dụng quyền lực để huy động một bộ phận giá trị của cải xã hội hình thành qũy ngân sách nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. 1.1.2. Đặc điểm - Nguồn tài chính được tập trung vào NSNN tương ứng với phần giá trị của GNP được tập trung vào tay Nhà nước, nó là khoản thu nhập của Nhà nước được hình thành trong quá trình Nhà nước tham gia phân phối cảu cải xã hội dưới hình thức giá trị. Thu NSNN phản ảnh các quan hệ nảy sinh trong quá trình phân chia các nguồn tài chính quốc gia giữa Nhà nước với các chủ thể trọng xã hội. Sự phân chia đó là tất yếu khách quan, xuất phát từ yêu cầu tồn tại phát triển của bộ máy Nhà nước cũng như yêu cầu thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước. Đối tượng phân chia là nguồn tài chính quốc gia, kết quả do lao động sản xuất trong nước tạo ra được thể hiện dưới hình thức tiền tệ - Về mặt nội dung, thu NSNN chứa đựng các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị nảy sinh trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước. - Thu NSNN gắn chặt với thực trạng kinh tế và sự vận động của các phạm trù giá trị như giá cả, lãi suất, thu nhập… Sự vận động của các phạm trù đó vừa tác động đến sự tăng giảm mức thu, vừa đặt ra yêu cầu nâng cao tác dụng điều tiết của các công cụ thu NSNN 1.1.3. Cơ cấu thu ngân sách nhà nước 1.1.3.1. Phân theo thu nội địa và thu ngoài nước a. Thu nội địa Thu nội địa là khoản thu cơ bản của NSNN do kết quả của hoạt động kinh tế trong nước mang lại bao gồm: - Thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh: Đây là lĩnh vực tạo ra đại bộ phận tổng sản phẩm xã hội và cũng là nơi tạo ra số thu chủ yếu cho ngân sách nhà nước. Thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm: +Thu khu vực doanh nghiệp nhà nước +Thu khu vưc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài +Thu khu vực ngoài quốc doanh - Thuế sử dụng đất nông nghiệp - Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao - Các khoản thu về nhà, đất - Các khoản phí, lệ phí - Các khoản thu khác b. Thu ngoài nước - Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu + Thuế xuất nhập khẩu và tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu + Chênh lệnh giá hàng nhập khẩu +Thuế VAT hàng nhập khẩu( số cân đối) - Thu viện trợ không hoàn lại bằng tiền hoặc hiện vật của Chính phủ các nước, các tổ chức và các cá nhân ở nước ngoài theo pháp luật - Vay nước ngoài của Chính phủ kể cả vay nợ các nước và các tổ chức tài chính quốc tế Việc phân loại các khoản thu ngân sách theo tiêu thức trên sẽ giúp cho việc đánh giá mức độ huy động các nguồn thu ở các khu vực kinh tế khác nhau trong nền kinh tế cũng như tổng quan thu trong và ngoài nước. Từ đó có các chính sách, biện pháp khai thác các nguồn thu một cách hợp lý, cân đối. 1.1.3.2. Phân theo sắc thuế a. Thu thuế - Thuế thu nhập doanh nghiệp - Thuế thu nhập cá nhân - Thuế nhà đất - Thuế môn bài - Lệ phí trước bạ - Thuế chuyển quyền sử dụng đất - Thuế giá trị gia tăng ( VAT) - Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng sản xuất trong nước - Thuế tài nguyên - thuế sử dụng đất nông nghiệp - Thuế xuất khẩu, nhập khẩu và TTĐB hàng nhập khẩu - Các loại thuế khác b. Thu phí, lệ phí và thu ngoài thuế - Thu chênh lệch giá hàng nhập khẩu - Thu phí,lệ phí - Thu tiền cho thuê đất - Thu khác ngân sách c. Thu về vốn( thu bán nhà ở, thu tiền sử dụng đất) d. Viện trợ không hoàn lại 1.1.4. Các nhân tố tác động tới thu ngân sách nhà nước 1.1.4.1. Nhân tố trong nước * Sự tăng trưởng của nền kinh tế Bên cạnh đó sự vận động của các phạm trù kinh tế như giá cả, thu nhập lãi suất cũng có tác động đến thu NSNN. Chúng vừa có tác động đến sự tăng giảm mức động viên của NSNN vừa đặt ra yêu càu sử dụng hợp lý các công cụ thu của NSNN để điều tiết các hoạt động kinh tế xã hội cho phù hợp. Do đó trong tổng thu của NSNN phải coi trọng nguồn thu trong nước là chủ yếu, mà quan trọng hơn cả là nguồn mới sáng tạo ra trong các ngành sản xuất. Ngày nay các hoạt động dịch vụ cũng là nơi tạo ra nguồn thu chủ yéu của NSNN. Do đó, để tăng thu cho NSNN. Về lâu dài con đường chủ yếu là nâng cao trình độ phát triển, tìm cách mở rộng sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất của nền kinh tế. Có thể nói tăng trưởng kinh tế là yếu tố tác động tới thu NSNN trong dài hạn, tạo nên tính bền vững cho thu NSNN. * Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế : Như đã nói ở trên thu NSNN lấy từ mọi lĩnh vưc,mọi ngành, mọi khu vực, mọi vùng , địa phương trong nền kinh tế. Vì vậy cơ cấu thu NSNN phụ thuộc vào cơ cấu của nền kinh tế theo ngành, theo khu vực, theo vùng,…Do đó khi có sự chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế thì chắc chắn sẽ làm chuyển dịch cơ cấu thu NSNN tương ứng. Nến chuyển dịch theo hướng tích cực thì cơ cấu thu ngân sách sẽ chuyển dịch theo hướng tăng tính bền vững cho thu NSNN. Nếu chuyển dịch theo hướng không tích cực sẽ làmm cho cơ cấu thu NSNN sẽ chuyển dịch theo hướng tăng tính bất ổn định cho thu NSNN. Do vậy cơ cấu kinh tế là một yếu tố tác động rất lớn tới cơ cấu thu NSNN và tính bền vững của thu NSNN. * Kim ngạch xuất - nhập khẩu So với các nước khác tỷ lệ thuế nhập khẩu của Việt Nam còn khá cao( khoảng 13% tổng thu NSNN). Vì vậy thu từ hoạt động nhập khẩu vẫn là nguồn thu khá lớn. Nhất là trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, thì đối với một nước phải luôn ở tình trạng nhập siêu thì mặc dù thuế suất có giảm nhưng nguồn thu từ hoạt động nhập khẩu vẫn tăng lên do kim ngạch nhập khẩu sẽ tăng rất mạnh. Ngoài ra xuất khẩu cũng mang lại nguồn thu cho NSNN từ các DN xuất khẩu. Và khi hội nhập kinh tế sâu rộng thì hoạt động xuất khẩu ngày càng phát triển.Vì vậy trong tương lai không xa nguồn thu từ hoạt động này sẽ khá lớn. * Vốn đầu tư toàn xã hội Vốn đầu tư toàn xã hội bao gồm toàn bộ vốn trong nước và ngoài nước. Vốn đầu tư toàn xã hội là yếu tố tác động tới sự phát triển nguồn vốn cho sự tăng trưởng kinh tế. Vì vậy nó cũng tác động tới thu NSNN. Trong giai đoạn hiện nay Nhà nước đang khuyến khích nguồn vốn từ khu vực tư nhân và nước ngoài. Có thể nói nguồn vốn FDI là một nhân tố tác động mang tính dài hạn và lợi ích mang lại hết sức to lớn đối với những nước như Việt Nam đang thiếu vốn, công nghệ, trình độ quản lý. Nhờ nguồn vốn đầu tư giúp cho các doanh nghiệp có thể đầu tư theo chiều sâu, chuyển giao công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh. Đặc biệt xuất khẩu trong khu vực FDI đại diện cho xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam vì phần lớn xuất khẩu của khu vực này là các mặt hàng chế tác có giá trị tăng cao. Như vậy thu hút FDI pahỉ được xem là hướng chủ đạo để đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam sau khi gia nhập WTO. Từ đó đóng góp nhiều hơn vào NSNN từ các doanh nghiệp xuất khẩu. * Hệ thống pháp luật và các chính sách trong lĩnh vực thu Nếu như các nhân tố trên tạo ra nguồn thu cho ngân sách thì hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về lĩnh vực thu và tổ chức thu là căn cứ, là quy định để chúng ta biết thu như thế nào , thu từ đâu, thu với tỷ suất bao nhiêu sao cho hiệu quả. Thu NSNN có thể lấy từ nhiều nguồn, duới nhiều hình thức nhưng nét dặc trưng là luôn gắn liền với quyền lực chính trị của Nhà nước, thể hiện tính cưỡng chế và mang tính không hoàn trả là chủ yếu. Do đó, các luật, các chính sách do Nhà nước quy định về nguồn thu và tổ chức quản lý thu là căn cứ cho quá trình động viên vào ngân sách. Các quy định về nguồn thu bao gồm các luật lệ, các quy định về phí, lệ phí, về bán tài nguyên, tài sản quốc gai, về các doanh nghiệp nhà nước.,.. Yêu cầu đối với các chính sách huy động nguồn thu NSNN là phải đảm bảo tập trung một bộ phận tài chính quốc dân vào tay Nhà nước để trang trải các khoản chi phí cần thiết cho việc vận hành bộ máy cũng như thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Đồng thời đảm bảo khuyến khích, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo nguồn thu ngày càng lớn. Đặc biệt cũng phải coi trọng yêu cầu công bằng xã hội, điều tiết thu nhập giữa các thành phần trong nền kinh tế. Có thể nói kết quả thu NSNN phụ thuộc rất lớn vào hệ thống pháp luật trong lĩnh vực thu. Đây là nhân tố chủ quan vì Nhà nước là chủ thể đưa ra các quyết định này, vừa mang tính khách quan vì hệ thống pháp luật được xây dựng trong mối quan hệ chặt chẽ với các yếu tố khác của nền kinh tế. 1.1.4.2. Hội nhập kinh tế quốc tế Hội nhập kinh tế quốc tế là một nhân tố cũng rất quan trọng đối với thu NSNN. Hội nhập kinh tế quốc tế tác động trực tiếp tới thu NSNN thông qua việc cắt giảm thuế quan theo lộ trình, thực hiện nguyên tắc tối huệ quốc và nguyên tác đối xử quốc gia; tuân thủ Hiệp định trị giá hải quan theo quy định của WTO. Hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động gián tiếp tới NSNN thông qua tác động đến nền kinh tế thông qua tăng trưởng, cơ câud kinh tế, tiêu dùng- tiết kiệm- đầu tư, thương mại và hệ thống kinh tế vi mô, đặc biệt là hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp, tốc độ tăng trưởng kinh tế, sự biến động của cơ cấu kinh tế, sự thay đổi tỷ lệ tiết kiệm- tiêu dùng- đầu tư. Trong đó hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp là điều mà chúng ta có thể thấy rất rõ , nó làm thay đổi cả mức độ và cơ cấu thu NSNN, cụ thể là số thu và cơ cáu các loại thuế như thuế VAT, tiêu thụ đặc biệt, nhập khẩu, thu nhập DN, thu nhập cá nhân,… Trong giai đoạn hiện nay nước ta đang ngày càng mở cửa để hội nhập ngày càng sâu rộng vào trường quốc tế , đặc biệt là sự kiên gia nhập WTO thì nhân tố này trở nên cực kỳ quan trọng vì nó không chỉ là tác động đơn thuần tới thu thuế xuất nhập khẩu mà còn tác động gián tiếp đến thu NSNN thông qua rất nhiều yếu tố khác. Do vậy nghiên cứu về hội nhập KTQT ảnh hưởng tới thu NSNN là điều cần thiết và cấp bách hiện nay. 1.2.Vai trò của thuế xuất nhập khẩu đến sự phát triển kinh tế xã hội và thu ngân sách 1.2.2. Khái quát thuế xuất nhập khẩu 1.2.1.1. Khái niệm: Thuế xuất nhập khẩu là loại thuế gián thu, thu vào các hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới quốc gia, các loại hàng hoá mua bán, trao đổi giữa thị trường trong nước và khu chế xuất. 1.2.1.2 Phân loại : - Theo phương pháp tính thuế: + Thuế quan đặc định: mức thuế của loại này được quy định bằng số tiền tuyệt đối cho mỗi đơn vị hàng hoá( số lượng, trọng lượng, kiện). Loại thuế này đảm bảo cho số thu của NSNN ổn định không chịu ảnh hưởng của sự biến động của giá cả. + Thuế trị giá ( thuế quan theo đơn giá hàng): là thuế đánh vào giá trị hàng hoá và được tính trên tỷ lệ phần trăm của giá trị hàng hoá đó goi là thuế suất. * Thuế suất thuế nhập khẩu: Để áp dụng trong những trường hợp khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước, tạo thuận lợi trong đàm phán về thuế, phù hợp với các quy định quốc tế mà nước ta cam kết, Luật thuế xuất nhập khẩu hiện nay thuế suất thuế nhập khẩu phân thành ba loại thuế suất đó là thuế suất đối với hàng nhập khẩu đó là thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt, thuế suất thông thường. + Thuế suất ưu đãi : áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam. + Thuế suất ưu đãi đặc biệt: được áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với Việt Nam. + Thuế suất thông thường : áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ không thực hiện đối xử tối huệ quốc và không thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với Việt Nam. Thuế suất thông thường được quy định không quá 70% so với thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng do Chính phủ quy định. Với tinh thần như vậy thì thuế suất thông thường cao hơn thuế xuất ưu đãi và thuế suất ưu đãi cao hơn thuế xuất ưu đãi đặc biệt: Thuế suất thông thường > Thuế suất ưu đãi> Thuế suất ưu đãi đặc biệt * Thuế suất thuế xuất khẩu: dược thể hiện theo biểu thuế hiện hành. + Thuế quan hỗn hợp: là sự kết hợp giữa thuế đặc định và thuế suất theo giá trị Việc phân loại trên nhằm giúp cho cơ quan thuế và nhà nước có những phương pháp tính thuế một cách chính xác và phù hợp đối với từng loại thuế để từ đó có thể đánh giá tốt được mức huy động vào ngân sách nhà nước của từng loại thuế. - Phân theo mục đích đánh thuế + Thuế quan tài chính :là thuế quan nhằm vào mục tiêu tăng thu ngân sách quốc gia + Thuế quan bảo hộ: là thuế quan nhằm bảo hộ các ngành sản xuất trong nước, làm giảm sức cạnh tranh của hàng nhập khẩu. + Thuế quan nhằm hạn chế xuất khẩu : là thuế quan nhằm hạn chế xuất khẩu các mặt hàng sử dụng các nguồn tài nguyên khan hiếm đang bị cạn kiệt hay cac mặt hàng mà tính chất quan trọng của nó đối với an toàn lương thực hay an ninh quốc gia được đặt lên trước hết. Việc phân loại này giúp cho việc xác định đúng mục đích khi đưa ra các chính sách thuế quan đồng bộ và hợp lý trong việc vừa tăng thu ngân sách vừa có thể bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ, các lĩnh vực sản xuất then chốt, và hạn chế xuất khẩu một số mặt hàng mà nhà nước không khuyến khích. 1.2.2. Vai trò của thuế xuất nhập khẩu đến sự phát triển kinh tế xã hội và thu ngân sách Khi đánh thuế nhập khẩu, người sản xuất hàng trong nước được lợi vì nó làm tăng giá của hàng nhập khẩu từ mức giá thế giới lên bằng với giá thế giới cộng với thuế nhập khẩu. Đồ thị này chỉ ra tác động của thuế nhập khẩu: Khi thực hiện thương mại tự do cân bằng thị trường như sau: người tiêu dùng muốn mua một số lượng Qd hàng hoá ở mức giá thế giới trong khi những nhà sản xuất trong nước chỉ sản xuất một số lượng Qs ở mức giá thế giới. Bằng cách nhập khẩu phần thiếu hụt (chênh lệch giữa Qd và Qs) ở mức giá thế giới, người tiêu dùng có thể thoả mãn toàn bộ nhu cầu ở mức giá này. Khi có thuế nhập khẩu cân bằng thị trường như sau: giá hàng hoá trong nước bị tăng lên đến mức bằng giá thế giới công với thuế nhập khẩu kích thích những nhà sản xuất trong nước sản suất thêm, đẩy sản lượng sản xuất trong nước từ Qs lên Qs'. Tuy nhiên do giá tăng nên cầu của người tiêu dùng bị kéo từ Qd xuống Qd'. Rõ ràng việc giá bị đẩy lên cao đã làm cho người tiêu dùng phải trả thêm một khoản tiền bằng diện tích của hình chữ nhật CEGH để mua số lượng hàng Qd'. Khoản trả thêm này một phần (bằng diện tích hình BCEF) được chuyển cho chính phủ dưới dạng thuế nhập khẩu thu được, một phần (bằng diện tích hình AFGH) được chuyển thành lợi nhuận của nhà sản xuất trong nước do vậy hai phần này không làm thiệt hại lợi ích tổng thể của quốc gia. Tuy nhiên phần diện tích hình ABF đã bị mất trắng, đây chính là tổn thất của xã hội để chi phí cho sự yếu kém của những nhà sản xuất trong nước. Diện tích hình ECD lại là một tổn thất nữa khi độ thoả dụng của người tiêu dùng bị giảm sút: thay vì có thể tiêu thụ Qd hàng hoá, do có thuế nhập khẩu họ chỉ có thể tiêu dùng Qd' mà thôi. Tóm lại, thuế nhập khẩu dẫn đến cả thu nhập chuyển giao từ người tiêu dùng sang chính phủ và nhà sản xuất trong nước đồng thời gây tổn thất lợi ích ròng của toàn xã hội. Do những tác động ấy, nó khuyến khích sản xuất phi hiệu quả trong nước, làm cho người tiêu dùng giảm sút độ thoả dụng do phải tiêu dùng ít đi nhưng nó tạo ra nguồn thu cho chính phủ. Qua mô hình phân tích trên ta có thấy được vai trò của thuế xuất nhập khẩu là hết sức quan trọng bao gồm: * Thuế xuất nhập khẩu là một nguồn thu khá quan trọng của ngân sách: Như trên đã nêu thì thuế xuất nhập khẩu là bộ phận cấu thành của thu ngân sách nên chúng cũng đóng góp một phần đáng kể cho ngân sách nhà nước. Đặc biệt Việt Nam là một nước đang phát triển, nhu cầu tiêu dùng trong nước ngày càng tăng, khả năng sản xuất nội địa chưa đáp ứng, mặt khác khả năng tài chính của chính phủ lại eo hẹp , nên nguồn thu nhập từ thuế xuất nhập khẩu là rất quan trọng . Để thực hiện đựoc vai trò này các nước thường mở rộng hoạt động ngoại thương, cho phép tự do không khống chế việc xuất nhập khẩu hàng hoá sao cho động viên được tối đa nguồn tài chính từ hoạt động ngoại thương mang lại tập trung vào NSNN. * Thuế xuất nhập khẩu là công cụ bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước phát triển Tuỳ theo đặc điểm kinh tế của mỗi quốc gia mà công cụ này được xem xét ở các mức độ khác nhau. Ở các nước có nền kinh tế phát triển cao, khả năng cạnh tranh của hàng hoá nội địa lớn, thì mục tiêu này trong việc sử dụng thuế quan thường ít được coi trọng. Ở các nước có nền kinh tế kém phát triển, lại thực hiện mô hình kinh tế hướng nội, độc lập, tự chủ trong kinh tế làm trọng, thì hết sức coi trọng mục tiêu bảo hộ nền sản xuất trong nước.Tuy nhiên khi nhấn mạnh mục tiêu này thì thường mâu thuẫn với mục tiêu ngân khố mà các nước phát triển vấp phải. Chính mâu thuẫn với mục tiêu ngân khố mà các nước * Thuế quan điều tiết hoạt động ngoại thương Vai trò này được coi trọng ở tất cả các nước thông qua việc sử dụng thuế quan. Thông qua việc sử dụng công cụ thuế quan các chính phủ có thể quản lý mặt hàng xuất nhập khẩu, và điều tiết cán cân thương mại. 1.3. Lộ trình cắt giảm thuế xuất nhập khẩu theo cam kết gia nhập WTO 1.3.1. Những nguyên tắc cơ bản của WTO Các Hiệp định của WTO rất nhiều và phức tạp, tuy nhiên xuyên suốt các hiệp định này là những nguyên tắc và chúng được coi là nền tảng của hệ thống thương mại đa phương. - Không phân biệt đối xử: Mỗi thành viên sẽ dành cho sản phẩm của một thành vien khác đối xử không kém ưu đãi hơn đói xử mà thành viên đó danhd cho sản phẩm của một nước thứ 3 (Đãi ngộ tối huệ quốc- MFN). Tuy nhiên, vẫn có một số ngoại lệ trong nguyên tắc này. Chẳng hạn, các nước có thể thiết lập một hiệp định thương mại tự do áp dụng đối với những hàng hoá giao dịch trong nhóm quốc gia, phân biệt với hàng hoá từ bên ngoài nhóm. - Thương mại ngày càng được tự do hơn thông qua đàm phán: Các hàng rào cản trở thương mại dần dần được loại bỏ, cho phép các nhà sản xuất hoạch định chiến lược kinh doanh dài hạn có thời gian điều chỉnh, nâng cao sức cạnh tranh hoặc chuyển đổi cơ cấu. Mức độ cắt giảm các hàng rào bảo hộ được thoả thuận thông qua các cuộc đàm phán song phương và đa phương. Đến nay đã có 8 vòng đàm phán đáng kể khi GATT được hình thành vào năm 1947. - Dễ dự đoán: Đôi khi cam kết không tăng một cách tuỳ tiện các hàng rào thương mại ( thuế quan và phi thuế quan khác) đem lại sự an tâm rất lớn cho các nhà đầu tư, Với sự ổn định và dễ dự đoán, thì việc đầu tư sẽ được khuyến khích , việc làm sẽ được tạo ra nhiều hơn và khách hàng sẽ được hưởng lợi từ sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Hệ thống thương mại đa phương là một nỗ lực lớn của các chính phủ để tạo ra một môi trường thương mại ổn định và có thể dự đoán. -Tạo môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng: WTO đôi khi được miêu tả như là một hệ thống “ thương mại tự do”, tuy nhiên điều đó không hoàn toàn chính xác. Hệ thống này vẫn cho phép có sự tồn tại của thuế quan và trong một số trường hợp nhất định, vẫn cho phéơ có các biện pháp bảo hộ, Như vật nói một cách chính xác hơn thì WTO đem lại một sự cạnh tranh lành mạnh và công bằng hơn. WTO cũng có thể hạn chế tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp hay dành các đặc quyền cho một số doanh nghiệp nhất định. - Dành cho các thành viên đang phát triển một số ưu đãi: Các ưu dãi này được thể hiện thông qua việc cho phép các thành viên đang phát triển một số quyền và không phải thực hiện một số quyền và một số nghĩa vụ hay thời giam quá độ dài hơn để điều chỉnh chính sách. Qua các vòng đàm phán, lợi ích của các quốc gai đặc biệt là các quốc gia đang phát triển đã tăng lên rất nhiều. Sau vòng đàm phán Uruguay, các nước giàu WTO đã cam kết sẽ rộng mở hơn nữa đói với hàng hoá xuất khẩu từ những nước kém phát triển và trợ cấp kỹ thuật cho các nước này. Gần đây, những nước phát triển đã bắt đầu cho phép nhập khẩu tự do, không thuế, không hạn ngạch đối với tất cả những sản phẩm từ hầu hết quốc gia kém phát triển trong WTO. 1.3.2. Những yêu cầu cơ bản đặt ra đối với thuế xuất nhập khẩu - Nguyên tắc tiếp cận thị trường đòi hỏi thuế suất thuế nhập khẩu phải được cắt giảm theo những cam kết mở cửa thị trường mà quốc gai thành viên chấp nhận khi đàm phán gia nhập WTO. - Đồng thời, sự cắt giảm này phải tuân thủ nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc (MFN), tức là không có sự phân biệt đối xử với hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu từ các quốc gia thành viên khác nhau. - Một khía cạnh đáng quan tâm nữa , thuế nhập khẩu chỉ được sử dụng như một công cụ để bảo hộ sản xuất trong nước, chứ không thể sử dụng như một công cụ nhằm tăng nguồn thu NSNN. - Ngoài ra WTO cho phép các quốc gia có thể bảo về thị trường nội địa và bảo đảm cạnh tranh lành mạnh bằng cách đưa ra các loại thuế như thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử, thuế bù đắp… 1.3.3. Lộ trình cắt giảm thuế Toàn bộ các cam kết về thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trong WTO được thể hiện với những nét lớn là: *Về thuế nhập khẩu: - Mức cam kết chung: Để gia nhập WTO, Việt Nam phải buộc mức trần cho tất cả các dòng thuế trong biểu thuế nhập khẩu của mình; chỉ dùng nhập khẩu làm công cụ để bảo hộ; và không sử dụng phí, lệ phí và các khoản thu khác mục đích thu ngân sách ( ngoài thuế nhập khẩu). Trên tinh thần đó Việt Nam đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế (10.600 dòng thuế) với tổng cộng 1.246 nhóm hàng. Mức thuế bình quân cuối cùng toàn biểu được giảm đi 23% so với mức bình quân hiện hành ( thuế suất MFN) của biểu thuế, cụ thể từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện dần trung bình trong 5-7 năm. Trong toàn bộ Biểu cam kết,Việt Nam sẽ cắt giảm khoảng 3.800 dòng thuế ( chiếm 35,5% dòng của Biểu); ràng buộc ở mức hiện hành khoảng 3.700 dòng ( chiếm 34,5% số dòng); ràng buộc ở mức trần cao hơn mức hiện hành với khoảng 3.170 dòng thuế chủ yếu là với nhóm hàng xăng dầu, kim loại, hoá chất, một số phương tiện vận tải. Một số mặt hàng có thuế suất cao từ trên 20%, 30% sẽ được cắt giảm ngay khi gia nhập. + Đối với lĩnh vực nông nghiệp, mức cam kết bình quân là 25,2% vào thời điểm gia nhập và mức cắt giảm cuối cùng là 21,0%.So sánh với mức thuế MFN bình quân đối với lĩnh vực nông nghiệp hiện nay là 23,5% thì mức cắt giảm đi là 10%. + Đối với lĩnh vực công nghiệp, mức cam kết bình quân vào thời điểm gia nhập là 16,1%, và mức cắt giảm cuối cùng là 12,6% thực hiện chủ yếu trong vòng 5 năm. So với mức thuế MFN bình quân của hàng công nghiệp hiện nay là 16,6% thì mức cắt giảm đi là 23,9%. +Các mức cắt giảm này có thể so sánh tương ứng với các mức cắt giảm trung bình của các nước đang phát triển và đã phát triển trong vòng đàm phán Urugoay (1994) như sau: trong lĩnh vực nông nghiệp các nước đang và đã phát triển cam kết cắt giảm là 30% và 40%; với hàng công nghiệp tương ứng là 24% và 37%; Trung Quốc trong vòng đàm phán gia nhập của mình cam kết cắt giảm khoảng 45% thuế nhập khẩu ( từ 17,5% xuống 10%)… Biểu 1: Diễn giải mức thuế bình quân cam kết Bình quân chung và theo ngành Thuế suất MFN hiện hành (%) Thuế suất cam kết khi gia nhập WTO (%) Thuế suất cam kết vào cuối lộ trình (%) Mức giảm so với thuế MFN hiện hành (%) Cam kết WTO của Trung Quốc Mức cắt giảm thuế chung tại Vòng Uruguay Nước phát triển Nước đang phát triển Nông sản 23,5 25,2 21,0 10,6 16,7 giảm 40% giảm 30% Hàng công nghiệp 16,6 16,1 12,6 23,9 9,6 giảm 37% giảm 24% Chung màn biểu 17,4 17,2 13,4 23,0 10,1 - Mức cam kết cụ thể: Có khoảng hơn 1/3 số dòng thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ôtô - xe máy... vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định. Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện - điện tử. Ta đạt được mức thuế trần cao hơn mức đang áp dụng đối với nhóm hàng xăng dầu, kim loại, hóa chất là phương tiện vận tải. Ta cũng cam kết cắt giảm thuế theo một số hiệp định tự do theo ngành của WTO giảm thuế xuống 0% hoặc mức thấp. Đây là hiệp định tự nguyện của WTO nhưng các nước mới gia nhập đều phải tham gia một số ngành. Ngành mà ta cam kết tham gia là sản phẩm công nghệ thông tin, dệt may và thiết bị y tế. Ta cũng tham gia một phần với thời gian thực hiện từ 3 – 5 năm đối với ngành thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng. Biểu 2: Tổng hợp cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu trong đàm phán gia nhập WTO đối với một số nhóm hàng quan trọng Cam ._.kết với WTO TT Ngành hàng/Mức thuế suất Thuế suất MFN Thuế suất khi gia nhập Thuế suất cuối cùng Thời gian thực hiện 1 Một số sản phẩm nông nghiệp - Thịt bò 20 20 14 5 năm - Thịt lợn 30 30 15 5 năm - Sữa nguyên liệu 20 20 18 2 năm - Sữa thành phẩm 30 30 25 5 năm - Thịt chế biến 50 40 22 5 năm - Bánh kẹo (thuế suất bình quân) 39,3 34,4 25,3 3-5 năm Bia 80 65 35 5 năm Rượu 65 65 45-50 5-6 năm Thuốc lá điếu 100 150 135 5 năm Xì gà 100 150 100 5 năm Thức ăn gia súc 10 10 7 2 năm 2. Một số sản phẩm công nghiệp - Xăng dầu 0-10 38,7 38,7 - Sắt thép (thuế suất bình quân) 7,5 17,7 13 5-7 năm - Xi măng 40 40 32 2 năm - Phân hoá học (thuế suất bình quân) 0,7 6,5 6,4 2 năm - Giấy (thuế suất bình quân) 22,3 20,7 15,1 5 năm - Tivi 50 40 25 5 năm - Điều hoà 50 40 25 3 năm - Máy giặt 40 38 25 4 năm - Dệt may (thuế suất bình quân) 37,3 13,7 13,7 Ngay khi gia nhập (thực tế đã thực hiện theo hiệp định dệt may với Mỹ và EU - Giày dép 50 40 30 5 năm - Xe ôtô con   + Xe từ 2.500 cc trở lên, chạy xăng 90 90 52 12 năm   + Xe từ 2.500 cc trở lên, loại 2 cầu 90 90 47 10 năm   + Dưới 2.500 cc và các loại khác 90 100 70 7 năm - xe tải   + Loại không quá 5 tấn 100 80 50 10 năm   + Loại thuế suất khác hiện hành 80% 80 100 70 7 năm   + Loại thuế suất khác hiện hành 60% 60 60 50 5 năm - Phụ tùng ôtô 20,9 24,3 20,5 3-5 năm - Xe máy   + Loại từ 800 cc trở lên 100 100 40 8 năm   + Loại khác 100 95 70 7 năm * V ề thuế xuất khẩu : Mặc dù gia nhập WTO, Việt Nam chỉ cam kết cắt giảm thuế xuất khẩu đối với mặt hàng phế liệu kim loại, không cam kết cắt giảm thuế với tất cả các mặt hàng còn lại. Tuy nhiên, nhằm tiếp tục thực hiện chính sách hạn chế xuất khẩu sản phẩm thô, khuyến khích sử dụng nguyên liệu để tái chế, Bộ Tài chính kiến nghị vẫn tiếp tục giữ nguyên khung thuế suất thuế xuất khẩu đối với với hầu hết các nhóm hàng chịu thuế trong Biểu khung thuế xuất khẩu ưu đãi mới, ngoài việc điều chỉnh giảm mức thuế trần và sàn đối với nhóm mặt hàng phế liệu sắt thép từ 30 - 40% xuống 10 - 30%; phế liệu kim loại màu từ 40 - 50% xuống còn 10 - 40% để phù hợp với quy định của WTO. 1.3.3.Ảnh hưởng của lộ trình cắt giảm thuế xuất nhập khẩu đến nguồn thu thuế xuất nhập khẩu - Trong năm đầu tiên việc cắt giảm có thể không ảnh hưởng nhiều tới quy mô nguồn thu thuế xuất nhập khẩu vì +Trong lộ trình tham gia hội nhập, Việt Nam cắt giảm thuế một cách có kế hoạch và được thực hiện dần từng bước. +Trong năm đầu tiên thì các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản ( cụ thể như thịt bò, thịt lợn, sữa nguyên liêu, sữa thành phẩm,rượu ), xi măng. sắt thép, ôtô, xe máy vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định được giữ nguyên thuế suất khi gia nhập. Ngoài ra ta còn được mức thuế trần cao hơn mức đang áp dụng đối với nhóm hàng xăng dầu, kim loại, hóa chất, phương tiện vận tải, vật liệu xây dưng. Do vậy ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách sẽ bù trừ nhau nên thu từ hoạt động xuất nhập khẩu sẽ không bị giảm mà còn tăng lên. + khi cắt giảm thuế xuất nhập khẩu làm cho kim ngạch nhập tăng nên số thu từ thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế GTGT hàng nhập khẩu tăng lên. Nên sẽ bù đắp thiếu hụt của nguồn thu thuế xuất nhập khẩu. - Tuy nhiên trong năm đầu, cơ cấu thu từ khâu xuất nhập khẩu sẽ bắt đầu có sự chuyển dịch theo hướng: giảm tỷ trọng thu thuế xuất nhập khẩu, tăng tỷ trọng thuế TTĐB, thuế GTGT hàng nhập khẩu. - Xét về dài hạn thì nguồn thu từ hoạt động xuất nhập khẩu có thể bị giảm sút do +tất cả các mặt hàng nhập khẩu đều bị cắt giảm thuế rất mạnh nhất là vào thời kỳ cuối của lộ trình. Nên số thu thuế xuất nhập khẩu sẽ bị sụt giảm mạnh + Mặc dù số thu từ thuế TTĐB và thuế GTGT hàng nhập khẩu có thể tiếp tục tăng nhưng vì chung chỉ chiếm phần nhỏ trong cơ cấu nguồn thu từ thuế XNK nên có thể bù đắp được cho sự sụt giảm của thuế XNK. 1.4. Khảo sát kinh nghiệm của nước ngoài về vấn đề tăng trưởng nhanh và bền vững thu ngân sách nhà nước trong quá trình cắt giảm thuế xuất nhập khẩu theo cam kết gia nhập WTO 1.4.1. Một số kinh nghiệm của các nước đang phát triển và có nền chuyển đổi Một quốc gia theo đuổi chính sách kinh tế mở cửa và tham gai vào các hiệp hội hoặc tổ chức thương mại khu vực hay thế giới, dù muốn hay không cũng phải tiến hành cắt giảm thuế xuất nhập khẩu theo những cam kết tham gia. Trong bối cảnh như vậy, cải cách thuế ở các nước chủ yếu hướng tới mục tiêu tăng nguồn thu một cách bền vững và chú trọng tính hiệu quả. Việt Nam có thể học tập ở các giải pháp chính sách sau của các nước đang phát triển và có nền kinh tế đang chuyển đổi. Một là, đề cao vai trò của các loại thuế nội địa, đặc biệt là thuế tiêu dùng Để bù đắp sự suy giảm nguồn thu từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, những loại thuế tiêu dùng như VAT, thuế TTĐB sẽ trở thành chỗ dựa chủ yếu về nguồn thu cho chính phủ các nước đang phát triển, mặc dù khối các nước này cũng vẫn sẽ dựa vào nguồn thuế thu nhập và thuế tài sản tỏng cơ cấu thu ngân sách nhà nước. Một trong những cải cách thuế rõ ràng mà các nước đang phát triển và có nền kinh tế chuyển đổi thực hiện trong thời gian gần đây là đưa vào sử dụng VAT, đồng thời coi VAT là nguồn thu quan trọng nhất. Các biện pháp mà các nước thường áp dụng để tăng nguồn thu từ VAT và đảm bảo tính hiệu quả của sắc thuế này là: áp dụng VAT đơn thuế suất, có cơ sở đánh thuế rộng thay cho thuế bán hàng đa thuế suất trước đây. Trong thời gian gần đây, đã có nhiều cải cách diễn ra với việc áp dụng cơ chế một mức thuế suất ( ngoài mức thuế suất 0% đối với hàng xuất khẩu) ở các nước này. Lựa chọn mức thuế suất chung hiện hành ( 18% đối với các nước Balitc và 22% là thông lệ cho các nước còn lại) đã đạt các nước này vào nhóm các nước có mức thuế suất cao hơn so với các nước Tây Âu. Đối với thuế TTĐB hầu hết các nước đang phát triển đều đánh thuế TTĐB đối với các sản phẩm có hại cho sức khoẻ và môi trường như thuốc lá, nước uống có cồn và sản phẩm xăng dầu. Nhìn chung, danh mục các mặt hàng chịu thuế TTĐB thường không nhiều và không có độ co giãn về cầu. Ở một số nước, phạm vị áp dụng thuế TTĐB có thể bao gồm một số hàng hoá xa xỉ. Gần đây các nước đã có nhiều cuộc cải cách trong lĩnh vực thuế nhằm đơn giản hoá và giảm bớt số lượng thuế suất thuế TTĐB, áp dụng mức thuế suất thống nhất giữa mặt hàng nhập khẩu với hàng sản xuất trong nước, áp dụng mức thúe suất TTĐB “ như nhau” giữa các nước láng giềng do áp lực buôn lậu hàng hoá xuyên biên giới. Mức thuế suất TTĐB thường có xu hướng tăng lên nhưng vẫn ở dưới mức thuế suất trụng bình của các nước trên thế giới. Các nước thường sử dụng cả mức thuế suất theo tỷ lệ và cả thuế tuyệt đối, nhưng trong thời gian gần đây có sự chuyển hướng từ áp dụng mức thuế suất thuế TTĐB theo tỷ lệ sang áp dụng mức tuyệt đối, chủ yếu nhằm hạn chế các hiện tượng trốn thuế. Bên cạnh việc đề cao vai trò của các loại thuế tiêu dùng, các loại thuế trực thu như thuế thu nhập và thuế tài sản cũng sẽ được chú trọng để bù đắp số thu sụt giảm do cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu theo tiến trình hội nhập kinh tế và toàn cầu hoá. Hai là, cải cách chính sách thuế thu nhập, nâng tỷ trọng nguồn thu từ thuế thu nhập cá nhân. Để nâng tỷ trọng của thuế thu nhập cá nhân, đưa thuế này trở thành nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước, kinh nghiệm cải cách chính sách thuế ở các nước đang phát triển và có nền kinh tế chuyển đổi là mở rộng cơ sở tính thuế, giảm thuế suất biên cao nhất và giảm bớt các khoản được miễn trừ thuế thu nhập cá nhân. Xu hướng phổ biến áp dụng thuế thu nhập cá nhân là áp dụng mức thuế suất tối đa thấp hơn và áp dụng một biểu thuế gồm ít mức thuế suất hơn. Nhìn chung, các nước thường đưa ra mức thuế suất biên thuế thu nhập cá nhân cao hơn so với thuế suất cơ bản thuế thu nhập công ty nhằm tránh hiện tượng trốn thuế. Đồng thời xu hướng ở các nước trong những năm gần đây là áp dụng mức thuế chung đối với thu nhập từ các nguồn và giảm thuế suất cơ bản. Đặc biệt, nhiều quốc gia đã áp dụng mô hình mức thuế suất cố định. Liên Bang Nga đã thông qua hình thưc thuế cố định đánh trên thu nhập cá nhân là 13% kể từ năm 2001. Xlôvakia đã thông qua mức thuế suất cố định cao hơn là 19% cho tất cả các loại thuế- thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập công ty và VAT. Việc đơn giãn hoá mức thuế suất sẽ giúp cho việc quản lý đơn giản hơn và số thu thuế tăng lên do hạn chế được các hiện tượng gian lận. Đồng thời qui định này giúp cho chính sách thuế được các rào cản nhằm tăng đầu tư đối với nền kinh tế. Ngoài ra, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều nước thực hiện nguyên tắc đánh thuế thu nhập theo nguồn phát sinh thu nhập. Khác với đánh thuế theo nguồn cư trú, phương pháp đánh thuế theo nguồn phát sinh thu nhập cho phép các nước đang phát triển đánh thuế vào các khoản lợi nhuận một cách hiệu quả hơn. Nó cho phép các nước đang phát triển có thể dánh thuế với mức khá cao vào các khoản thu nhập từ cổ tức hoặc từ bản quyền ra nươc ngoài, với mục đích để các nước đang phát triển có thể được thụ hưởng một phần giá trị của các khoản đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó các nước đang phát triển cũng có xu hướng áp dụng mức thuế suất thấp đánh vào nhằm khuyến khích sự tích tụ và đầu tư. Đây được xem như yếu tố cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế và khả năng di chuyển vốn lao động có kỹ thuật cao ra nước ngoài đã dẫn đến quan điểm cho rằng việc đánh thuế vốn và mức thuế suất biên cao sẽ là nhân tố gây sự “ chảy máu chất xám” do những nơi có mức thuế suất thấp nước ngoài. Ba là, bớt nhấn mạnh mục tiêu tái phân phối thu nhập, tập trung vào tăng trưởng kinh tế, tăng nguồn thu Một xu hướng khá rõ ràng trong các dự án cải cách thuế gần đây của các nước đang phát triển và có nền kinh tế chuyển đổi là giảm bớt nhận mạnh vào tính luỹ tiến, mục tiêu phân phối lại của hệ thống thuế, mà chủ yếu tập trung vào việc khôi phục lại khía cạnh thúc đẩy tăng trưởng dựa trên một hệ thống thuế có cơ sở đánh thuế rộng và khuyến khích tiết kiệm hoạt động hiệu quả trong một nền kinh tế thị trường mở. Trong bối cảnh các tố chức quốc tế và các nước phát triển liên tục thúc đẩy và mở rộng toàn cầu hoá kinh tế, một hệ thống thuế hiệu quả có thể bị khả năng tận dụng được những mặt lợi và hạn chế những mặt hại của tiến trình này vì nó cung cấp nguồn lực cho nhà nước thực hiện chức năng điều chỉnh kinh tế xã hội. Khi người ta nhận ra sự thất bại của mục tiêu công bằng trong cải cách thuế thì cũng là lúc xuất hiện một trường phái lý thuyết mới cho rằng mục tiêu công bằng thuộc về chức năng phúc lợi xã hội. Vì thế, đã nảy sinh thiên hướng đánh đổi giữa mục tiêu công bằng và mục tiêu hiệu quả trong cải cách thuế, Lý thuyết thuế đã vận dụng mối quan hệ “đánh đổi” giữa hai mục tiêu này, đồng thời áp dụng nguyên lý ưu tiên tăng trưởng kinh tế nên vẫn đặt trọng tâm nhiều hơn vào mục tiêu hiệu quả. Bốn là, bảo hộ nền sản xuất trong nước một cách hợp lý Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đối phó với các biện pháp khắc phục thương mại của nước ngoài và điều tra tiến hành các biện pháp khắc phục thương mại tại thị trường nội địa là hai quá trình song song, cần thiết và quan trọng như nhau để bảo vệ lợi ích quốc gia. Hai quá trình này tương tác, bổ sung kinh nghiệm và nâng cao nhận thức cho cộng đồng doanh nghiệp, các hiệp hội và tất cả các cơ quan chính phủ. Thực tiễn cho thấy bất kỳ nước nào cũng có nhu cầu bảo hộ một số ngành sản xuất trong nước, tuy có khác nhau về mục tiêu và mức độ. Đối với các nước đang phát triển, bảo hộ nhằm duy trì việc làm cho số đông người có kỹ năng tương đối thấp nhưng có sức mạnh chính trị. Các nước đang phát triển bảo hộ nhằm duy trì và phát triển một số ngành sản xuất quan trọng có nhiều tiềm năng trở thành ngành cạnh tranh trong tương lai hoặc tránh cho các doanh nghiệp nhà nước không bị phá sản nhanh.Tuy nhiên không thể kéo dài thời gian bảo hộ. Thông thường thời gian bảo hộ được quyền áp dụng mỗi loại biện pháp bảo hộ được quy định cụ thể trong hiệp định của WTO. 1.4.2. Khảo sát một số kinh nghiệm của Trung Quốc 1.4.2.1. Tóm tắt lộ trình cắt giảm thuế xuất nhập khẩu của Trung Quốc Lộ trình giảm nhượng thuế quan đối với Trunng Quốc (%) Năm Mức Thuế quan chung Thuế quan bình quân sản phẩm công nghiệp Thuế quan bùnh quân sản phẩm nông nghiệp 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 15,6 14,0 12,7 11,5 10,6 10,1 10,1 10,1 10,1 14,7 13,0 11,7 10,6 9,8 9,3 9,3 9,3 9,2 21,3 19,9 18,5 17,4 15,8 15,5 15,5 15,5 15,1 Nguồn: Thạch Quảng Sinh (Cb): Kinh Tế Trung Quốc sau khi gia nhập WTO, Nxb Liên hiệp Công thương Trung Hoa ( BK), 2004 -Miễn giảm thuế quan từ 1.1.2002, Trung quốc phải miễn giảm thuế nhập khẩu cho hơn 5000 mặt hàng. Lộ trình cắt giảm thuế được thể hiện trong các ngành như sau: + Trong lĩnh vực nông nghiệp: Đến năm 2005, mứ thuê quan nông phẩm của Trung Quốc sẽ hạ xuống từ 21% năm 2000 xuống 15,5%, trở thành một trong những nước có thuế quan nông sản thấp nhất thế giới. Trong đó thuế quan thịt bò sẽ giảm từ 45% xuống12%, thịt gia cầm từ 20% xuống 10% , pho mát từ 50% xuống 10%, cam quýt và nho từ 405 xuống 125, rượu nho từ 65% xuống 20%... Ngay sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã thực hiện giảm và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan, tăng hạn ngạch nhập khẩu đối với nhiều loại nông sản quan trọng như lương thực, dầu ăn, đường, bông, cho phép tư nhân và người nước ngoài tham gia nhập khẩu. Trung Quốc cam kết không trợ cấp hàng nông sản xuất khẩu, hỗ trợ thông thường trong toàn bộ nông nghiệp và hỗ trợ sản phẩm đặc biệt ở mức 8,5% tổng giá trị sản lượng nông nghiệp. + Đối với hàng công nghiệp: Trung Quốc cam két giảm mức thuế quan trung bình xuống còn 9, đặc biệt là chấp nhận mức thuế quan 0% đối với nhiều loại hàng viễn thông và tin học, đến năm 2005 sẽ bãi bỏ hết các loại hạn ngạch nhập khẩu, đặc biệt là bỏ ngay hạn ngạch dối với các mặt hàng như máy bay, dụng cụ y tế, rượu bia, phân bón khi gia nhập WTO. Ví dụ trong ngành xe hơi, Trung Quốc cam kết hạn ngạch nhập khẩu năm 2002 là 7,934 tỷ USD, sau đó mỗi năm tăng 15%, từ ngày 1/1/2004 xoá bỏ hạn ngạch và giấy phép nhập khẩu cac loại xe hơi( trừ xe con), từ ngày 1/1/2005 xoá bỏ hạn ngạch và giẩy phép nhập khẩu xe con. Năm 2002, thuế quan cho xe con dưới 3000 phân khối và trên 3000 phân khối từ 70% và 80% xuôốn còn 43,8% và 50,7% năm 2003, giảm xuống còn 38,2% và 43% năm 2004, giảm xuống còn 34,2% và 37,65; năm 2005, giảm xuống , đều là 30% năm 2006, thuế quan xe hơi dưới 3000 phân khối giảm xuống còn 25%. Trung Quốc còn phải từng bước nới lỏng quyền phê duyệt của chính quyền địa phương về mức vốn của các dự án liên doanh sản xuất xe hơi: sau 1 năm gia nhập WTO, được phép phê duyệt mức 60 triệu USD, sau 2 năm nâng lên 90 triệu USD, sau 4 năm nâng lên 150 triệu USD. Về chế tạo động cơ xe hơi, đã đồng ý xoá bỏ hạn chế tỷ lệ cổ phần nước ngoài trong doanh nghiệp góp vốn liên doanh không quá 50%. Đáng chú ý nữa là hàng dệt may. Gia nhập WTO là “đại hỷ” đối với ngành này nhờ thị trường mở rộng, môi trường xuất khẩu ổn định, được hưởng ưu đãi nhờ chính sách tối huệ quốc và đối xử quốc gia… Song ngành này cũng phải chịu nghĩa vụ giảm mạnh thuế quan. Từ ngày 1.1.2002 mức thuế quan chung giảm xống còn 12% hàng dệt may giaả xuống còn 17,8%; các con số tương ứng năm 2003 là 11,5% và 15,2%. Năm 2004, thuế quan ngành dệt may giảm xuống còn 12,8%; năm 2005 chỉ còn 11,4%. Ngành dệt may Trung Quốc sẽ bị cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc. Ngoài ra Trung Quốc còn phải cam kết với một số nước, đặc biệt là ở châu ÂU, đảm bảo xuất khẩu sản “ phẩm xanh” về dệt may, tưc là sản phẩm không có hại cho sức khoẻ con người, động vật và thực vật cũng như sự cân bằng sinh thái. 1.4.2.2. Một số chính sách lớn của Trung Quốc nhằm tăng trưởng nhanh và bền vững thu ngân sách nhà nước trong quá trình cắt giảm thuế xuất nhập khẩu (1) Nâng cao nhận thức về việc gia nhập WTO cho chính phủ và người dân (2) Chính sách phát triển ngành: *Ngành nông nghiệp: Theo các nhà lãnh đạo của Trung Quốc, khi cắt giảm thuế xuất nhập khẩu thì nông nghiệp là ngành bị tác động theo hướng tiêu cực mạnh nhất, sớm nhất, nhanh nhất. Nên ngay từ khi mới gia nhập WTO, Trung Quốc đã đưa ra những chính sách điều chỉnh nông nghiệp phù hợp với những cam kết WTO. Sự điều chỉnh thể hiện theo các hướng: - Điều chỉnh chính sách thương mại hàng nông sản Trung Quốc đã áp dụng linh hoạt một số biện pháp như: về thuế quan, vận dụng tổng hợp 5 loại phương thức thu thuế mà WTO cho phép là : thuế theo lượng, thuế theo giá, thuế phức hợp, thuế theo mùa vụ và thuế hạn ngạch. Đối với một số sản phẩm thuế quan cao thì giảm dần từng thời kỳ hoặc thay đổi cả phương pháp thu thuế. Bên cạnh đó, điều chỉnh chính sách nhập khẩu nông sản, ngăn chặn sự thâm nhập quá mức của nông sản nước ngoài đối với thị trường trong nước bằng cách: + Sử dụng có hiệu quả cơ chế giải quyết tranh chấp trong các thoả thuận về nông nghiệp, luật chống trợ cấp, luật chống bán phá giá. Điều này làm Trung Quốc vừa có thể nhập khẩu được một số nông sản với giá thấp, tiết kiệm ngoại tê, lại vừa ngăn chặn nông sản nước ngoài được trợ cấp tràn vào thị trường gây ảnh hưởng tới sản xuất trong nước, duy trì nhập khẩu lương thực ở mức 10%. + Tuân thủ quy định vòng đàm phán Uruguay đối với môi trường và kiểm dịch động thực vật, tăng cường công tác kiểm dịch thực vật xuất nhập khẩu, cải tiến phương pháp kiểm dịch, nâng cao trình độ kiểm dịch để bảo hộ thị trường trong nước, bảo đảm môi trường trong nước. + Xây dựng cơ chế phòng chống rủi ro trong mậu dịch hàng nông sản, lương thực. - Điều chỉnh chính sách nông nghiệp trong nước Chính sách nông nghiệp của Trung Quốc được điều chỉnh trên cơ sở phân bố hợp lý các yếu tố sản xuất, thúc đẩy các khu vực có điều kiện phát huy các yếu tố sản xuất như ruộng đất, sức lao động và tài nguyên thiên nhiên. Cụ thê như sau: + Nhanh chóng chuyển từ phát triển nông nghiệp phi truyền thống , nửa bảo hộ sang đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu nông sản, phát triển có trọng điểm những ngành sản xuất nông nghiệp có lợi thế so sánh, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế như ngành chăn nuôi, trồng rau sạch, trồng cây ăn quả đặc sản, chế biến thực phẩm. + Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng hàng nông sản. Trong bối cảnh đã gia nhập WTO, Trung Quốc buộc phải đưa chất lượng hàng nông sản nhanh chóng đạt tiêu chuẩn quốc tế. Vấn đề chất lượng trong cạnh tranh quốc tế nói cho cùng là vấn đề tiêu chuẩn hoá. Chỉ có tiến hành sản xuất, quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế thì sản phẩm mới có sức cạnh tranh quốc tế được. + Tằng cường quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh hàng nông sản. Bộ nông nghiệp Trung Quốc từ năm 2001 đã khởi động Kế hoạch Hành động Thực phẩm an toàn , quản lý toàn bộ quá trình “ từ trồng trọt đến khi lên bàn ăn” đối với nông sản phẩm làm thức ăn. Sau đó Bộ Nông nghiệp đã ban hành tiêu chuẩn sản phẩm an toàn, bước đầu ban hành tiêu chuẩn cho 73 loại nông sản, liên quan đến các lĩnh vực như trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản. + Chú trọng xây dựng chiến lược thương hiệu quảng bá nông sản nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nông sản Trung Quốc trên thị trường quốc tế. Sau khi gia nhập WTO, vấn đề bảo hộ nông nghiệp của Trung Quốc sẽ phụ thuộc vào việc xúc tiến chiến lược thương hiệu sản phẩm. * Ngành công nghiệp: Công nghiệp Trung Quốc qua hơn 50 năm phát triển, đặc biệt là từ khi thực hiện chiến lược cải cách mở cửa đã mở rộng cả về số lượng, quy mô, chất lượng, hiệu quả và kỹ thuật. Hệ thống sản xuất công nghiệp của Trung Quốc tương đối hoàn thiện với một loạt cấc doanh nghiệp được trang bị kỹ thuật mới, có khả năng sản xuất nhiều sản phẩm đứng hàng đầu thế giới, việc cải cách doanh nghiệp quốc hữu theo hướng thị trường hoá tiến triển tương đối nhanh chóng. Song doanh nghiệp công nghiệp của Trung Quốc còn một số tồn tại như số doanh nghiệp hiện đại có sức cạnh tranh quốc tế ít, trang bị kỹ thuật thấp, nguyên vật liệu, sản phẩm gia cồn sơ cấp chiếm số nhiều, cơ chế quản lý kinh doanh, kết cấu tổ chức và hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp đều chưa thích hợp với sản xuất công nghệ hiện đại. Sau khi gia nhập WTO vì phải tuân thủ những cam kế về giảm nhượng thuế quan nên công nghiệp Trung Quốc phải chịu những tác động lớn. Điều này ảnh hưởng lớn đến thu ngân sách từ ngành công nghiệp. Trung Quốc đã đưa ra các chính sách sau: - Tích cực điều chỉnh và nâng cấp cơ cấu ngành. Một trong những nguyên nhân quan trọng hạn chế sức cạnh tranh của công nghiệp Trung Quốc là cơ cấu không hợp lý. Hiện nay lợi thế so sánh của các ngành tập trung lao động tương đối lớn, nhưng nếu chỉ điều chỉnh và nâng cấp các ngành đó thì giá trị gia tăng sẽ khó mà nâng cao, không có mấy hiệu quả trong cạnh tranh quốc tế. Do đó người ta chủ trương việc điều chỉnh và nâng cấp ngành nghề công nghiệp Trung Quốc theo hướng sau: + Với các ngành tập trung lao động, tăng nhanh đổi mới thiết bị công nghệ, nâng cao chất lượng và đẳng cấp sản phẩm, nâng cao giá trị gia tăng + Đẩy mạnh phát triển các ngành tập trung ký thuật và các ngành kỹ thuật cao, mới, giảm tỷ trọng công nghiệp chế biến thông thường, đào thải các ngành kỹ thuật lạc hậu, không có lợi thế về tài nguyên, gây ôi nhiễm + Với các ngành tập trung vốn và kỹ thuật nhưng không có lợi thế so sánh, sức cạnh tranh yếu, cần chủ động nhập khẩu kỹ thuật, hợp tác nước ngoài, “đổi thị trường lấy vốn”. - Sắp xếp lại tài sản doanh nghiệp, tổ chức lại ngành nghề. Đối với việc sắp xếp lại tài sản của các doanh nghiệp nhà nước, Trung Quốc chủ trương thông qua con đường liên hợp với nhiều loại hình kinh doanh hỗn hợp, phá vỡ sự đặc quyền của các ngành và sự bao vây về khu vực đối với tài sản tồn đọng, thực hiện sắp xếp lại tài sản xuyên khu vực, xuyên bộ ngành, xuyên ngành nghề, xuyên chế độ sở hữu. - Tích cực thu hút vốn đầu tư nước ngoài hình thành các công ty xuyên quốc gia, dẫn dắt các ngành trọng điểm, khuyến khích công ty xuyên quốc gia tăng cường vốn. - Tăng cường bảo vệ công nghiệp trong nươc bằng cách xây dựng cơ chế cảnh báo. Cơ chế đó giúp đưa ra những thông tin để điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp và các biện pháp bảo hộ, đi trước một bước trong công tác bảo hộ ngành nghề - Đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực 1.4.3. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam (1) Nâng cao nhận thức về cơ hội thánh thức, sự hiểu biết về WTO cho các đối tượng liên quan, hết sức coi trọng công tác tư tưởng nhằm thống nhất quan điểm và nhận thức về việc gia nhập WTO -(2) Để gia nhập WTO thì chính phủ cần phải nhập trước: Những chế ước và quy phạm của WTO chủ yếu nhằm vào hành vi kinh tế đối ngoại của chính phủ các nước thành viên. Đối với những nước vẫn tồn tại nền kinh tế hành chính xét duyệt, kinh tế độc quyền, kinh tế thị trường chưa hoàn thiện như Trung Quốc và Việt Nam thì phải hết sức chú ý việc chuyển đổi hành vi hành chính của chính phủ. Nếu không sau khi gia nhập WTO, những hành vi kinh tế mậu dịch đối ngoại của chính phut dễ trở thành đối tượng khiếu kiện của những thành viên khác, nhất là các nước phát triển, từ đó dễ rơi vào thế bị động phải đối phó. Mục đích cốt lõi của việc cải cách mở cửa ở Trung Quốc chính là thực hiện những chuyển đổi về chức năng của chính phủ, xây dựng một thể chế quản lý kinh tế phù hợp hơn, thích hợp hơn với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường XHCN. Mục đích chuyển đổi chức năng của chính phủ là chuyển hướng từ quản lý sang phục vụ, nâng cao hiệu suất hành chính, tăng tính minh bạch trong chính sách. Từ đó mới tạo ra được môi trường đầu tư hấp dẫn, khuyến khích đầu tư nước ngoài, mở rộng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đây là yếu tố nhằm tăng thu ngân sách bền vững trong dài hạn. (3) Cần huy động tối đa nguồn lực nhằm tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế nhằm tăng trưởng bền vững thu ngân sách * Chính sách phát triển ngành theo hướng ưu tiên những ngành có lợi thế xuất khẩu: - Đối với nông nghiệp: + Cần đánh giá đúng mức độ tác động của việc cắt giảm thuế quan đối với lĩnh vực sản xuất và tránh gây hoang mang cho nông dân. Nông nghiệp là một lĩnh vực quan trọng và nhạy cảm đối với Việt Nam nên việc mở cửa thị trường và thực hiện cam kết cắt giảm thuế hàm chứa nhiều rủi ro như mất cân đối thu nhập, nguy cơ ôi nhiễm môi trường, mất an ninh lương thực ... Do đó, cần có những đánh giá đúng mức tác động của việc gia nhập WTO đối với sản xuất nông nghiệp. Đồng thời cũng cần tăng cường hỗ trợ thông tin theo hướng cung cấp cập nhật, chính xác thông tin về thị trường nông sản cho nông dân. + Chính sách phát triển nông nghiệp nên hướng vào sản xuất những nông sản Việt Nam có lợi thế so sánh. Gia nhập WTO đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ phải tham gia vào cuộc cạnh tranh mà thực chất là cuộc cạnh tranh giữa nông nghiệp nhỏ và nông nghiệp lớn. Nông nghiệp truyền thống với nông nghiệp hiện đại, nông nghiệp tập trung nhiều lao động với nông nghiệp có hàng lượng vốn và kỹ thuật cao. Đứng trước thực tế khi không còn bảo hộ sản xuất cho một nông sản nào, cách tồn tại và phát triển là phải phát huy lợi thế so sánh hoặc ngay từ bây giờ chúng ta phải tạo ra lợi thế so sánh để tồn tại và phát triển. + Coi trọng hơn nữa tới hỗ trợ cho việc phát triển công nghiệp chế biến. Phát triển công nghiệp chế biến tạo ra giá trị gia tăng cao, và tạo đầu ra ổn định hơn cho ngành trồng trọt và chăn nuôi. Hơn nữa việc chế biến nông sản đáp ứng được các nhu cầu tiêu dùng đang thay đổi của thế giới sẽ giúp ta giành được thị phần cho hàng hoá của mình trên thị trường quốc tế. + Hệ thống chính sách và quản lý liên quan tới nông nghiệp cũng cần có những thay đổi kịp thời, định hướng cho nông nghiệp chuyển đổi cơ cấu sản xuất nhằm tăng tính cạnh tranh trên mặt hàng Khi cắt giảm thuế xuất nhập khẩu thì việc phát triển các ngành có lợi thế so sảnh sẽ đóng vai trò quyết định sự phát triển nông nghiệp trong tương lai. Chính phủ cần phải quan tâm hơn việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp, và có sự cân đối lợi ích giữa các ngành, các khu vực để đảm bảo cho nông dân tiếp cận với đầu vào quan trọng như thuỷ lợi, điện, phân bón với chất lượng cao và giá thấp. + Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng hàng nông sản , tăng cường quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh hàng nông sản. Do thị trường của ta lúc này là cả thế giới vì vậy vấn đề chất lượng nông phải đặt lên hàng đầu. +Sử dụng có hiệu quả cơ chế giải quyết tranh chấp trong các thoả thuận về nông nghiệp, luật chống bán phá để ngăn chặn nông sản nước ngoài được trợ cấp tràn vào thị trường gây ảnh hưởng tới sản xuất trong nước. + Thành lập và củng cố các Hiệp hội ngành hàng là nông nghiệp Nông nghiệp có đặc biệt là sản xuất được bởi nhiều nhà sản xuất có quy mô nhỏ lẻ khác nhau. Trong khi đó thị trường lại đòi hỏi cung cấp với số lượng lớn.Mẫu thuẫn này chính là một trong những nguyên nhân làm giảm đáng kể hiệu quả sản xuất nông nghiệp và khả năng cạnh tranh phát triển sản xuất và bảo vệ thương hiệu cho sản phẩm là hết sức cần thiết. - Đối với công nghiệp : + Tiếp tục điều chỉnh và nâng cấp cơ cấu ngành Đối với các ngành tập trung nhiều lao động cần phải đổi mới thiết bị công nghệ , nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao giá trị gia tăng Đẩy mạnh phát triển các ngành có hàm lượng công nghệ cao, giảm tỷ trọng công nghiệp chế biến thông thường, đào thải các ngành kỹ thuật lạc hậu, không có lợi thế về tài nguyên, gây ôi nhiễm + Tích cực điều chỉnh chính sách thu hút vồn đầu tư và công nghệ nước ngoài vào các ngành trọng điểm , chú trọng công nghệ cao, chuẩn hoá chỉ tiêu / thông số kỹ thuật để đạt tiêu chuẩn quốc tế + Tăng cường bảo vệ công nghiệp trong nước bằng cách cung cấp thông tin và căn cứ để điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp … + Đào tạo nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp và thúc đẩy quá trình nghiên cứu và phát triển đáp ứng cho quá trình chuyển giao công nghệ. *Chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển: Khi cắt giảm thuế quan dẫn đến luồng hàng nhập khẩu tràn vào nội địa một cách ồ ạt. Vì vậy phải có chính sách nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước để có thể đứng vững trên thị trường nội địa và mở rộng ra thị trường thế giới. Từ đó Nhà nước mới có thể tăng thu từ các khu vực kinh tế trong nước nhằm thúc đẩy thu nội địa nhằm tăng trưởng ngân sách một cách bền vững. + Đổi mới cải cách doanh nghiệp nhà nước: Việt Nam cũng như Trung Quốc thì khu vực kinh tế nhà nước vẫn đóng vai trò quyết định đối với nền kinh tế, đóng góp vào tỷ lệ thu NSNN khá lớn. Trong khi đó thì các doanh nghiệp nhà nước thường vẫn còn có lối “ sinh hoạt” cũ kém thích ứng với môi trường mới nên khó có thể cạnh tranh nổi với các doanh nghiệp nước ngoài. Vì vậy để tănng thu từ khu vực này cũng cần phải làm mới chúng: Cơ cấu sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước theo hướng giảm và tién tới xoá bỏ độc quyền truyền thốnh và độc quyền tự nhiên đối với một số ngành truyền thông. Cải cách hệ thống quyền sỏ hữu tài sản và quản lý công ty, trọng tâm chính là đa dạng hoá hình thức sở hữu doanh nghiệp bằng cách đẩy nhanh cổ phần hoá, nhất là các doanh nghiệp lớn… + Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Trung Quốc cũng như Việt Nam thì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đa số là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa, làm ăn còn manh mún. Vì vậy khi gia nhập WTO thì dưới tác động của quá trình cẳt giảm thuế thì các doanh nghiệp rất dễ bị “ khai tử” vì các mặt hàng kém chất lương và giá thành lại cao không thể cạnh tranh nổi với sự ồ ạt của các mặt hàng nhập khẩu và cũng dễ bị tổn thương khi tham gia vào thị trường thế giới. Vì vậy cũng cần có chính sách nhằm bảo vệ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển như: đưa ra đạo luật vền quyền sở hữu trí tuệ, hỗ trợ đăng ký thương hiệu, tạo điều kiện giải quyết vấn đề liên quan đến các vụ kiện chống bán phá giá,phát triển kết cấu hạ tầng,… + Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài : cần khuyến khích phát triển. CHƯƠNG 2 PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA CẮT GIẢM THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU THEO CAM KẾT GIA NHẬP WTO ĐẾN THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 2.1. Thực trạng thu ngân sách nhà nước sau một năm gia nhập WTO._.ất bình quân) 37,3 13,7 13,7 63,3 0 Ngay khi gia nhập (thực tế đã thực hiện theo hiệp định dệt may với Mỹ và EU - Giày dép 50 40 30 40 25 5 năm - Xe ôtô con   + Xe từ 2.500 cc trở lên, chạy xăng 90 90 52 42 42 12 năm   + Xe từ 2.500 cc trở lên, loại 2 cầu 90 90 47 47,8 47,8 10 năm   + Dưới 2.500 cc và các loại khác 90 100 70 22,2 30 7 năm - xe tải   + Loại không quá 5 tấn 100 80 50 50 37,5 10 năm   + Loại thuế suất khác hiện hành 80% 80 100 70 12,5 30 7 năm   + Loại thuế suất khác hiện hành 60% 60 60 50 16,7 16,7 5 năm - Phụ tùng ôtô 20,9 24,3 20,5 40 3,8 3-5 năm - Xe máy   + Loại từ 800 cc trở lên 100 100 40 60 60 8 năm   + Loại khác 100 95 70 30 26,3 7 năm Nguồn : Văn kiện gia nhập WTO của Việt Nam năm 2007 - Nhìn vào biểu trên ta nhận thấy vào cuối lộ trình đa số các mặt hàng đều phải cắt giảm rất mạnh ngay cả những mặt hàng mà khi mới gia nhập cam kết giữ nguyên hoặc thậm chí cao cao hơn so với thuế suất MFN 2006. Một số mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ô tô- xe máy … đều phải cắt giảm. Ví như một số mặt hàng nông sản chủ lực khi mới gia nhập giữ nguyên nhưng cuối lộ trình đều được cắt giảm đáng kể như thịt bò cuối lộ trình là 14% giảm 30% so với MFN 2006 và thuế suất khi mới gia nhập, thịt lợn cũng tương tư giảm 50% so với MFN 2006. Hay một số mặt hàng công nghiệp chủ lực như xi măng có thuế suất cuối lộ trình là 32% giảm 20% so với MFN 2006 và trước khi gia nhập, ô tô và xe máy cũng giảm tương tự một cách đáng kể ( như trong bảng). Do vậy việc cắt giảm thuế nhập khẩu ở cuối lộ trình sẽ làm giảm sút rất nhiều đến nguồn thu thuế xuất nhập khẩu. Mặt khác nguồn thu thuế xuất nhập khẩu hiện nay đanh chiếm tỷ trọng lớn so với các nước đang phát triển trong tổng thu ngân sách ( khoảng 13%). Bên cạnh đó dưới tác động gián tiếp của cắt giảm thuế, tính ổn định và bền vững của thu ngân sách sẽ bị ảnh hưởng. + Trước hết đối với người sản xuất các mặt hàng hiện đang được bảo hộ, trợ cấp, hoặc cung cấp nguyên liệu thô cho các ngành công nghiệp được bảo hộ và các ngành thay thế nhập khẩu. Nhiều doanh nghiệp sẽ phải cạnh tranh khốc liệt với hàng nhập khẩu chất lượng cao hơn nhưng giá thành lại hạ hơn. Mía đường là thí dụ điển hình về tác động xấu của việc cắt giảm thuế đến người nông dân trồng mía và cơ sở chế biến là cac lò thủ công và các nhà máy đường. Chăn nuôi bò sữa hoặc trồng cây nguyên liệu cho ngành giấy cũng có thể bị ảnh hưởng không tốt. Ngoài ra một số mặt hàng như ô tô, xe máy khi mới gia nhập vẫn được bảo hộ thì vào cuối lộ trình sẽ bị cạnh tranh quyết liệt với hàng nhập khẩu. Ngay cả đối với mặt hàng Việt Nam được coi là có sức cạnh tranh tương đối như dệt may, việc huy động vốn để phát triển công nghiệp sản xuất nguyên liệu, phụ liệu cũng rất khó khăn trong khi Việt Nam phải cam kết không áp dung các hình thức hỗ trợ đầu tư theo thoả thuận song phương với Hoa Kỳ. Trước áp lực cạnh tranh này dự báo vào cuối lộ trình số thu nội địa từ các sắc thuế VAT nội địa, thuế TNDN, thuế GTGT nội địa sẽ bị giảm đáng kể. + Áp lực cạnh tranh cũng sẽ gay gắt đối với các mặt hàng xuất khẩu do hạn chế về khả năng cạnh tranh . Một số mặt hàng có thể gia tăng số lượng xuất khẩu khi hạn ngạch được bãi bỏ, thuế nhập khẩu giảm xuống, nhưng nếu không nâng cao dược chất lượng và năng lực tiếp thị thì nguy cơ mất thị phần do các đối tác thương mại khác có năng lực cạnh tranh cao hơn có thể xảy ra.Nhóm hàng chịu áp lực cạnh tranh lớn là dệt may, da giày, điện tử. Hiện nay, đối với những mặt hàng xuất khẩu Việt Nam đang có lợi thế và điều kiện tự nhiên như nông sản, thuỷ sản, khoáng sản, việc tăng xuất khẩu đang bị hạn chế mang tính cơ cấu như năng suất, diện tích canh tác, nuôi trồng, khả năng khai thác đánh bắt. Đối với một số mặt hàng có lợi thế do giá nhân công rẻ như dệt may, da giày, điện tử, Việt Nam chỉ tận dụng được ở khâu tạo ra giá trị nhỏ nhất do chủ yếu là làm gia công, lắp ráp. Như vậy, để tận dụng được cơ hội của việc gia nhập WTO, cần có những biện pháp để nâng cao giá trị gia tăng của hàng xuất khẩu thông qua đầu tư cải tiến kỹ thuật, công nghệ, năng lực quản lý. Điều này cần phải có thời gian để tổ chức lại sản xuất, với thời hạn 5 năm thì chưa hẳn đã làm được. + Khi cắt giảm thuế XNK thì Việt Nam lại phải đối phó thêm nhiều rào cản thương mại mới do các nước đặt ra. Một mặt, các nước nhập khẩu sẽ áp dụng các biện pháp bảo vệ phi hạn ngạch. Tại thị trường Mỹ, đó là Luật về Thuế quan, Hải quan, Hạn ngạch, Luật chống bán phá giá và Thuế đối kháng , Luật Tránh nhiệm sản phẩm, quy định mang tính kỹ thuật. Tại Thị trường EU, đó là những quy định về Thuế nhập khẩu, Chính sách chống bán phá giá, Thuế tiêu thụ, Thuế giá trị gia tăng, giấy phép nhập khẩu. Còn tại Nhật Bản, tuy là thị trường phi hạn ngạch nhưng đây là một thị trường khó tính luôn có những đòi hỏi khắt khe về chất lượng sản phẩm, từ nguyên liệu, phụ liệu dến quy trình xuất khẩu đều phải tuân thủ nghiêm ngặt theo tiêu chuẩn chất lượng JIS và một số điều luật tương tự trên Do vậy chúng ta “ tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa” nên trong 5 năm nữa mặt hàng xuất khẩu của chúng ta sẽ luôn phải đối với những rào cản này. Khó khăn lại đổ lên đầu các DN xuất khẩu. Nhất là khi nếu nước ta trong 5 năm nữa Việt Nam không được nhiều nước công nhận là nền kinh tế thị trường thì việc chống bán phá giá của Việt Nam sẽ bị nhiều nước quy cho. Tuy nhiên với những ảnh hưởng không tích trên thì chúng ta vẫn có thể lạc quan hơn khi có cách nhìn nhận khác hơn một chút thì có thể dự báo cắt giảm thuế vào cuối lộ trình vẫn có ảnh hưởng tích cực. - Khi cắt giảm thuế XNK thì với những năm đầu thu NSNN thường không bị ảnh hưởng nhiều và có tác động tích cực hơn là tiêu cực và góp phần đến tăng trưởng kinh tế. Đây là yếu tố làm tăng thu NSNN bền vững. Thật vậy theo Nghiên cứu của Rô lăng- Hon và công sự dự báo gia nhập WTO sẽ làm cho GDP thực của Việt Nam tăng thêm 0,4 điểm %. Ngân hàng Phát triển châu Á ( ADB) dự báo kinh tế Việt Nam trong những năm sau khi gia nhập WTO sẽ tăng với mức 8-8,5%. - Dự báo trong 5 năm nữa khi cắt giảm thuế XNK vẫn làm kim ngạch xuất nhập khẩu tăng. Dự báo về xuất khẩu, trong mỗi năm trong lộ trình tăng khoảng 20%/ năm, nhập khẩu tăng mỗi năm là trên 30%. Những mặt hàng có thể tăng xuất khâut là da giày, dệt may, nông sản, thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ, điện tử. Những thị trường có thể tăng kim ngạch xuất khẩu là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc. Cùng với những cải cách sâu rộng sau khi gia nhập WTO, sẽ bùng nổ về xuất khẩu hàng chế biến 3-5 năm sau khi gia nhập nhờ môi trường thể chế cải thiện , thu hút mạnh vốn đầu tư trong và ngoài nước vào cơ sở hạ tầng, công nghiệp phụ trợ và các ngành chế biến xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng rất nhanh nhờ các rào cản thương mại từng bước được cắt giảm vì chúng ta cũng sẽ được dối xử tương ứng. Do đó sẽ tăng thu NSNN từ các doanh nghiệp xuất khẩu. Ngoài ra còn có ảnh hưởng lan toả đó là khi xuất khẩu tăng thì thu ngoại tệ tăng nên Việt Nam sẽ tận dụng được cơ hội để đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành sản xuất trong nước. - Cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ giúp Việt nam có được một môi trường pháp lý hoàn chỉnh và minh bạch hơn, có sức hấp dẫn đối với đầu tư trực tiếp nươc ngoài( như mới trong năm đầu gia nhập vốn đầu tư nước ngoài đạt kỷ lục mới cả ở các nguồn, ở cả đăng ký/ cam kết và thực hiện. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp(FDI) đăng ký mới và bổ sung ước đạt trên 20 tỷ USD, tăng trên 33% so với năm trước, thực hiện ước đạt trên 4,5 tỷ USD). Điều này rất có ý nghĩa to lớn đối với những nước đang thiếu vốn , thiếu công nghệ, trình độ quản lý như Việt Nam. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy thu hút FDI là nhân tố mang tính quyết định để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong bối cảnh tự do hoá thương mại hiện nay. Các nước như Trung Quốc, Malaixa, Thái Lan … đạt được sự tăng trưởng kinh tế cao phần lớn phụ thuộc vào yếu tố này. Xuất khẩu của khu vực FDI đại diện cho xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam vì phần lớn xuất khẩu của khu vực này là các mặt hàng chế tác có giá trị tăng cao, Như vậy thu hút FDI phải được xem là hướng chủ đạo để đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam sau khi gia nhập WTO. Điều này sẽ đóng góp ngày càng nhiều vào thu NSNN. Tóm lại ở cuối lộ trình sẽ có những ảnh hưởng tích cực và cả những ảnh hưởng không tích cực tới thu NSNN. Như vậy sẽ có rất nhiều kịch bản đưa ra cho thu NSNN. Do vậy việc lựa chọn kịch bản nào là rất khó khăn . Tuy nhiên để có được một kết quả mong muốn thì từ bây giờ chúng ta phải tạo ra những tiền đề trước mắt. Do vậy chúng ta phải đưa ra được nhũng định hướng, những mục tiêu và giải pháp nhằm đảm bảo thu NSNN trong thời gian tói nhất là vào thời điểm cuối lộ trình. 3.2.2.Quan điểm, phương hướng ,mục tiêu 3.2.2.1. Một số quan điểm chủ đạo Một là, Việt Nam nên coi việc gia nhập WTO là bước cải cách tiếp theo và chưa phải là bước cuối cùng trong tiến trình cải cách kinh tế và là tiền đề quan trọng để thực hiện một cách “thông suốt” và có hiệu quả những cải cách sâu rộng trong nước khác, do vậy, cần thực hiện một cách nghiêm túc các cam kết gia nhập WTO, nhất là thực hiện cắt giảm các rào cản thương mại và trợ cấp Hai là, Trong khuôn khổ các “ dư địa” ( về các công cụ thuế quan và trợ cấp) chưa dùng đến và được WTO cho phép, Việt Nam vẫn bảo hộ một số ngành một cách hợp lý, có hiệu quả, nhất là ngăn chặn sự đổ vỡ hàng loạt của những ngành yếu kém, đồn thời nâng cao năng lực những ngành non trẻ có tiềm năng phát triển trong quãng thời gian chuyển tiếp được phép(5-7 năm) Ba là, Một số ngành chiến lược hiện hữu còn yếu kém vẫn cần được bảo hộ song trong bối cảnh mới, tư duy, cách thức và mức độ bảo hộ các ngành hàng cần được thay đổi bằng các cách thức hiệu quả hơn, linh hoạt hơn và “hợp thời” hơn. Bốn là, Sau khi gia nhập WTO, việc điều chỉnh chính sách thuế và trợ cấp phải mang tính đồng bộ, bổ trợ các chính sách kinh tế vĩ mô khác. 3.2.2.2. Phương hướng điều chỉnh cơ bản Thứ nhất, để dảm bảo tối thiểu hoá tổn thất thu NSNN từ thuế nhập khẩu, xây dựng lộ trình cắt giảm mức thuế quan thực tế hợp lý trên cơ sở tính đến lợi ích tổng thể quốc gia, với độ linh động ( chênh lệch giữa mức thuế quan cam kết và thực tế) cần thiết để bảo hộ một cách hữu hiệu một số ngành hàng có thể bị tổn thương và có tiềm năng phát triển Thứ hai, Thực hiện cắt bỏ các hàng rào thương mại theo hướng tăng các nguồn thu ngân sách nhà nước để bù đắp sự giảm sút có thể trong thu từ xuất nhập khẩu. Thứ ba, Trên cơ sở các quy định của WTO và hiện trạng trong nước, điều chỉnh, chính sách trợ cấp để bảo hộ ngành một cách thích hợp và có hiệu quả giảm thiểu tác động tiêu cực có thể đối với những đối tượng dễ bị tổn thương. Thứ tư, hiệu quả chính sách hỗ trợ xuất khẩu nói chung và công tác xúc tién thương mại, đầu tư nói riêng cũng cần được đánh giá một cách toàn diện, tổng thể trong bối cảnh mới, qua đó có những điều chỉnh cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức này Thứ năm, sau khi gia nhập WTO việc nhận dạng những thất bại thị trường để đối phó và giảm thiểu chúng là rất cần thiết, Hơn thế nữa, Việt Nam cũng cần phòng tránh những “thất bại của chính phủ”,và “ thất bại của hội nhập”, những rủi ro có liên quan tới năng lực thực thi điều hành quản lý nhà nước trong bối cảnh hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. 3.3.2. Mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể đạt ra * Mục tiêu tổng quát: Phải xây dựng đưọc nền Tài chính quốc gia lành mạnh đảm bảo tiềm lựuc đủ mạnh để điều tiết vĩ mô thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, đảm bảo nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững; cơ chế, chính sách tài chính được đổi mới, phù hợp với cơ chế thị trường trong điều kiện hội nhập quốc tế, có khả năng động viên tối đa, nâng cao hiệu quả quản lý, phân phối và sử dụng tiết kiệm có hiệu quả các nguông nội lực và ngoại lực; đẩy mạnh cải cách hành chính trên cơ sở sắp xếp hợp lý tổ chức, bộ máy công khai minh bạch, hiện đại hoá công nghệ quản lý, tăng cường năng lực quản lý tài chính theo quy định của pháp luật * Nhiệm vụ cụ thể đặt ra trong thời gian tới: - Tiếp tục huy động nguồn lực và thực hiện tốt lộ trình cải cách, hiện đại hoá hệ thống thuế. - Thực hiện đồng bộ các giảp pháp đẩy mạnh khai thác nguồn thu, chống thất thu, đẩy mạnh công tác tuyên truyền bổ trợ, tăng cường quản lý kê khai thuế, quản lý nợ thuế. đẩy mạnh kiểm tra thanh tra xử lý các vấn đề vi phạm về thuế - Hiện đại hoá hệ thống thuế 3.3. Các giải pháp để tăng trưởng và bền vững thu ngân sách nhà nước trong quá trình cắt giảm thuế nhập khẩu sau khi gia nhập WTO Một là, huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. (1) Thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát triển; thực hiện rà soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển ngành, vùng nhằm phát huy lợi thế của từng vùng, từng ngành và từng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp và của cả nền kinh tế, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. (2) Đẩy nhanh việc rà soát, bãi bỏ các quy định và thủ tục không cần thiết, gây trở ngại cho các nhà đầu tư. Thúc đẩy các hoạt động xúc tiến đầu tư, huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Tiếp tục phát hành trái phiếu Chính phủ để xây dựng các công trình giao thông, thuỷ lợi quan trọng và thực hiện kiên cố hoá trường lớp học, các bệnh viện y tế tuyến huyện. Tăng cường huy động và giải ngân nguồn vốn ODA.  Huy động các nguồn vốn kể cả nguồn vốn FDI để đầu tư cho các công trình kết cấu hạ tầng quy mô lớn dưới nhiều hình thức như BOT, BT, BO... Khẩn trương chuẩn bị các điều kiện và triển khai kế hoạch đầu tư một số công trình kết cấu hạ tầng quan trọng quy mô lớn của đất nước. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động và phát triển theo cơ chế thị trường. Tiếp tục kiện toàn cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan đăng ký đầu tư đảm bảo thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư. (3) Đối với doanh nghiệp nhà nước, tiếp tục thực hiện phân loại, chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước theo các tiêu chí đã được quy định tại Quyết định số 38/2007/QĐ-TTg ngày 20/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ. Đẩy mạnh việc sắp xếp, cổ phần hoá các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, các ngân hàng thương mại theo kế hoạch. Đồng thời mở rộng các hình thức chuyển đổi sở hữu khác nhằm nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước. Phát triển một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn nhằm góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình mở cửa thị trường để hội nhập kinh tế quốc tế, phù hợp với điều kiện trong nước và các cam kết quốc tế. (4) Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, tiếp tục thực hiện Kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (theo Quyết định số 236/2006/QĐ-TTg ngày 23/10/2006 của Thủ tướng Chính phủ) nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển doanh nghiệp, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Thực hiện các biện pháp hữu hiệu nhằm trợ giúp các doanh nghiệp này được tiếp cận nguồn vốn tín dụng tại các ngân hàng thương mại, cung cấp thông tin về chuyển giao công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đăng ký quyền sở hữu trí tuệ. Hai là, Cải cách cơ cấu thu ngân sách theo hướng đảm bảo tính ổn định và hiệu quả, có khả năng thích ứng với khủng khoáng và biến động lớn trong nền kinh tế của thu NSNN Học tập kinh nghiệm từ các nước đang phát triển và có nền kinh tế chuyển đổi chúng ta có thể rút ra một số giải pháp cụ thể như sau: - Đề cao vai trò của các loại thuế nội địa, đặc biệt là thuế tiêu dùng: + Tăng nguồn thu từ VAT và đảm bảo hiệu quả của sắc thuế này : Nhìn chung hiện nay các nước đang phát triển cũng như Việt Nam thuế gián thu mà đặc biệt là thuế VAT vẫn chiếm một tỷ lệ khá lớn trong thu NSNN. Nên trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian tới chúng ta vẫn phải coi VATlà một nguồn thu quan trọng. Do vây cần phải cải cách cách thu VAT như thê nào cho hiệu quả. Theo kinh nghiệm của các nước đang phát trển cho thấy cần mở rộng diện chịu thuế và áp dụng VAT đơn thuế suất, có cơ sở đánh thuế rộng thay cho thuế bán hàng đa thuế suất trước đây đảm bảo là một trong những sắc thuế quan trọng của hệ thống thuế, thực sự là một công cụ có hiệu lực trong việc huy động tối đa nguồn tài chính cho ngân sách. + Tăng nguồn thu từ thuế TTĐB: Đối với các nước đang phát triển và Việt Nam thì phạm vi áp dụng đối với thuế TTĐB là các hàng hoá xa xỉ phẩm, các hàng hoá có hại cho sức khoẻ và môi trường. Nên danh mục các mặt hàng chịu thuế TTĐB không nhiều và không có độ co giãn về cầu. Do vậy các mặt hàng này nhìn chung không ảnh hưởng đến đại đa số người tiêu dùng. Vì vậy khi tăng nguồn thu từ thuế TTĐB sẽ không ảnh hưởng đến tiêu dùng người dân và có thể tăng thu cho NSNN. Theo kinh nghiệm của các nước thì cần mở rộng các mặt hàng chịu thuế TTĐB, đơn giản hoá và giảm bớt số lượng thuế suất thuế TTĐB, áp dụng mức thuế suất thống nhất giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước, áp dụng mức thuế suất như nhau giữa các nước láng giềng do áp lực buôn lậu hàng hoá xuyên biên giới, chuyển áp dụng mức thuế suất thuế TTĐB theo tỷ lệ sang áp dụng mức thuế tuyệt đối chủ yếu nhằm hạn chế các hiện tượng chốn thuế. Bên cạnh việc đề cao vai trò của các loại thuế tiêu dùng cũng cần chú trọng đến thuế thu nhập và thuế tài sản để bù đắp số thu sụt giảm do cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu theo tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. - Cải cách chính sách thuế thu nhập, nâng tỷ trọng của thuế thu nhập cá nhân Theo kinh nghiệm của các nước và quá trình nghiên cứu từ thực tế của Việt Nam thì để nâng tỷ trọng của thuế thu nhập cá nhân, đưa thuế này thành nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước thì càn có những giải pháp cụ thể sau: + Mở rộng cơ sở tính thuế, giảm thuế suất biên cao nhất và giảm bớt các khoản được miễn trừ thuế thu nhập cá nhân + Áp dụng mức thuế suất tối đa thấp hơn và áp dụng một biểu thuế gồm ít mức thuế hơn. + Mức thuế suất biên thu nhập cá nhân cao hơn so với thuế suất cơ bản để tránh hiện tượng trốn thuế. Việc đơn giản hoá các mức thuế suất sẽ giúp cho việc quản lý đơn giản hơn và số thu thuế tăng lên do hạn chế được các hiện tượng gian lận. Đồng thời quy định này giúp cho chính sách thuế trở nên minh bạch hơn, loại bỏ các rào cản nhằm tăng đầu tư đối với nền kinh tế. + Thực hiện nguyên tắc đánh thuế thu nhập theo nguồn phát sinh thu nhập sẽ cho phép các nước đang phát triển đánh thuế vào các khoản lợi nhuận một cách hiệu quả hơn. Từ đó có thể đánh thuế với mức khá cao vào các khoản thu nhập từ cổ tức hoặc từ bản quyền chuyển ra nước ngoài với mục đích để các nước đang phát triển có thể được thụ hưởng một phần giá trị của các khoản đầu tư hoặc sở hữu trí tuệ của người nước ngoài. + Ở Việt Nam thu nhập của người dân chưa cao vì vậy khi đánh thuế này cũng cần xét đến hoàn cảnh của người nộp thuế để tạo ra sự công bằng và hiệu quả. - Ban hành thêm một số sắc thuế mới như: thuế tài sản, thuế môi trường,thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế sử dụng đất. Từ đó cũng góp phần tăng thu cho NSNN. - Bớt nhấn mạnh mục tiêu tái phân phối thu nhập, tập trung vào tăng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng nguồn thu. Trong giai đoạn hiện nay khi quá trình cắt giảm thuế làm suy giảm nguồn thu NSNN thì mục tiêu đặt ra phải tăng thu NSNN bền vững trong dài hạn. Vì vậy cần bớt nhấn mạnh mục tiêu phân phối thu nhập mà phải tập trung vào tăng trưởng kinh tế. Vì tăng trưởng kinh tế là yếu tố rất quan trọng tạo nên sự bền vững trong dài hạn của thu NSNN Ba là, việc xây dựng hoàn chỉnh chính sách thuế xuất nhập khẩu phải trên nguyên tắc khuyến khích xuất khẩu và bảo hộ có trọng điểm, có thời hạn một số ngành sản xuất trong nước. -Thông qua hệ thống các mức thuế được xác định một cách khoa học, hợp lý và phù hợp với trình độ phát triển sản xuất, hệ thống chính sách thuế sẽ thực hiện vai trò khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ hữu hiệu và đúng hướng cho những ngành có lợi thế cạnh tranh, hay những ngành sản xuất mũi nhọn trong kế hoạch công nghiệp hóa đất nước. Tuy nhiên, các mức độ ưu tiên hay bảo hộ phải xác định một cách cụ thể và phải có lịch trình giảm dần phù hợp với các cam kết WTO và các hiệp định khu vực và quốc tế mà chúng ta cam kết, nhằm tạo áp lực buộc các DN trong nước vươn lên, nâng cao năng lực cạnh tranh gay gắt khi thực hiện mở cửa thị trường, tự do hóa thương mại, dịch vụ. - Đồng thời cần thiết nghiên cứu và ban hành một số loại thuế mới nhằm bảo vệ thị trường nội địa và đảm bảo cạnh tranh lành mạnh như: thuế chống bán phá giá, thuế đối kháng… Bởi vì khi tham gia vào quan hệ thương mại quốc tế, các bên có thê phải đối mặt với nhiều loại khác nhau được áp dụng bởi phía bên kia, chẳng hạn như thuế chống bán phá giá, thuế trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử, thuế bù đắp… Về cơ bản, những loại thuế này đều được điều chỉnh bởi khung khổ quy định của WTO. Tuy nhiên đối với hầu hết các quốc gia thành viên mới đồng thời cũng là các nước đang phát triển hoặc đang trong quá trình chuyển đổi kinh tế, hệ thống pháp luật và chính sách về các loại thuế nêu trên thường chưa hoàn chỉnh. Điều này khiến các nước đang phát triển chịu nhiều thua thiệt trong các vụ tranh chấp thương mại liên quan đến thuế trong quan hệ với các nước phát triển. Vi vậy để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình trong các vụ tranh chấp thương mại, việc bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách vê các loại thuế nêu trên để có thể bảo vệ các doanh nghiệp trong nước trên thị trường quốc tế và ngay trên sân nhà. Bốn là, Trong thời gian tới vẫn tiếp tục đưa ra các biện phápưu tiên, ưu đãi, miễn giảm thuế TNDN nhằm khuyến khích đầu tư, từ đó thúc đẩy tăng thu ngân sách Điều này có vẻ mâu thuẫn với xu hướng chuyển dịch cơ cấu thu ngân sách của chúng ta là tăng thuế trực thu. Nhưng cần phải hiểu giảm thuế là để tăng thu. Thuế TNDN liên quan trực tiếp đến hoạt động đầu tư, nhà đầu tư chỉ quyết định đầu tư chỉ khi Chính phủ đưa ra thuế TNDN phù hợp, vì thực chất thuế là phần chi phí của doanh nghiệp. Chính vì vậy sẽ không ai đầu tư khi phải trả chi phí quá lớn. Nhất là trong khi các doanh nghiệp trong nước đang phải chịu một sức ép cạnh tranh rất lớn với các doanh nghiệp nước ngoài không chỉ ở trên thị trường quốc tế mà ngay cả trên “sân nhà”. Như vậy các biện pháp ưu tiên, ưu đãi, miễn giảm thuế rất có ý nghĩa đối với việc khuyến khích đầu tư, thực hiện điều tiết vĩ mô, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, đặc biệt là trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế. Tuy nhiên, cần xác định thời hạn miễn giảm cụ thể, sau đó hạn chế và chuyển dần sang thực hiện các biện pháp khác để đảm bảo tính trung lập và vai trò phân bổ các nguồn lực của thuế, đảm bảo tính công bằng và đảm bảo các cam kết với WTO. Năm là, tiếp tục theo đuổi chính sách tài khoá thận trọng Việc sửa đổi các quy định trong hệ thống chính sách thuế và trong từng sắc thuế theo quy định của WTO là một đòi hỏi bắt buộc. Tuy nhiên việc sửa đổi này phải được tiến hành một cách thận trọng trong một khoảng thời gian xác định để đảm bảo không gây hụt hẫng nguồn thu ngân sách, đồng thời tạo điều kiện cho các DN có đủ thời gian chuẩn bị thích ứng với những thay đổi trong chính sách cũng như trong cạnh tranh. Việc sửa đổi này có thể cần thực hiện trong một thời kỳ quá độ từ 8 - 10 năm. Mặt khác, việc cải cách chính sách thuế cho công cuộc hội nhập quốc tế của Việt Nam sẽ đòi hỏi một thời hạn dài hơn, thậm chí đến 2020, vì chính sách thuế này đòi hỏi đáp ứng các yêu cầu đặt ra cho một hệ thống chính sách có chức năng điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Sáu là, chủ động trong tiến trình hội nhập WTO, đảm bảo sự nhất quán trong các cam kết với các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế và các cam kết khi gia nhập WTO Cần hoạch định một phương án cam hết tổng thể, trọn gói tất cả các lĩnh vực (cho thương mại, dịch vụ, hàng hoá). Đó là cam kết về tiến trình sữa chữa các điểm chưa phù hợp với WTO trong các chính sách, cam kết mở rộng thị trường ( ràng buộc về thuế quan, cam kết về các vấn đề trợ cấp, cam kết về các loại phí, cam kết về quản lý giá thành trong nước...). Trong đó, cam kết về thuế phải được xác định sau cùng khi đã có đầy đủ những cân nhắc, tính toán và dự kiến cho các cam kết khác, để đảm bảo rằng hàng rào thuế quan là hàng rào bảo hộ cuối cùng được phép cho các doanh nghiệp trong nước, theo đúng quy định của WTO. Các cam kết về thuế cần được tính toán để đảm bảo khi đưa ra đàm phán phải đạt được mục tiêu cuối cùng là sản xuất trong nước có thể đứng vững và phát triển khi thực hiện hội nhập WTO, mở cửa thị trường, tự do hoá thương mại. Bẩy là, thực hiện nhiệm vụ động viên ngân sách nhà nước - Xây dựng dự toán thu NSNN tích cực; thực hiện điều hành quyết liệt, phấn đấu tăng thu, chống thất thu. Các Bộ, ngành, địa phương cần tập trung tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu; qua đó tạo động lực và cơ sở để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng ở mức cao, tăng thu cho NSNN. - Tổ chức thực hiện có hiệu quả Luật Quản lý thuế; có kế hoạch phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương trong việc rà soát, xử lý các khoản nợ đọng thuế, tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm các trường hợp trốn thuế, gian lận thuế. - Thực hiện rà soát lại toàn bộ các khoản thu phí, lệ phí, các khoản đóng góp của người dân theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí và các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của Nhà nước; đình chỉ và bãi bỏ ngay các khoản thu trái quy định; thực hiện sửa đổi các khoản thu cho phù hợp. Từ năm 2008, thực hiện bỏ thu thuỷ lợi phí đối với nông dân. - Đối với các khoản huy động đóng góp của người dân mang tính chất tự nguyện, các địa phương không đặt yêu cầu bắt buộc đóng góp, không giao chỉ tiêu huy động từ cấp trên cho cấp dưới, không gắn việc huy động đóng góp với việc cung cấp các dịch vụ công mà người dân được hưởng. Một số khoản đóng góp chỉ phục vụ cho một nhóm hộ, cộng đồng dân cư thì chuyển sang phương thức nhóm hộ, cộng đồng dân cư tự huy động đóng góp và quản lý sử dụng để thực hiện mục tiêu theo thoả thuận; cơ quan nhà nước không quy định khoản huy động đóng góp này. Tám là, đẩy mạnh cải cách hành chính và nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước; thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí, tiêu cực, tham nhũng; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra: - Triển khai mạnh mẽ chương trình tổng thể cải cách hành chính, hướng tới mục tiêu xây dựng một nền hành chính phục vụ nhân dân, trong sạch, dân chủ, hiệu lực, hiệu quả. - Khẩn trương kiện toàn và đổi mới chức năng, nhiệm vụ và tổ chức, sắp xếp lại bộ máy của Chính phủ, chính quyền địa phương các cấp. Thực hiện chế độ thủ trưởng trong các cơ quan hành chính, phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu và tập thể lãnh đạo các cấp. Đẩy mạnh cải cách các thủ tục hành chính, trước hết là các thủ tục liên quan đến đầu tư, thành lập và hoạt động của doanh nghiệp, các dịch vụ hành chính có liên quan đến đời sống của nhân dân. Triển khai thực hiện tốt cơ chế một dấu - một cửa trong việc xử lý các công việc có liên quan đến doanh nghiệp, nhà đầu tư và nhân dân. - Khẩn trương xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống tham nhũng; triển khai và thực hiện đồng bộ Luật phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện Luật Khiếu nại, tố cáo. Tổ chức hoạt động có hiệu quả của Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng ở Trung ương, cơ quan phòng chống tham nhũng các bộ, ngành và Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng ở địa phương theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phối hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức đoàn thể xã hội và các cơ quan thông tấn, báo chí trong công tác phòng, chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. - Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, điều tra xử lý các vụ việc tiêu cực, tham nhũng. Tập trung chỉ đạo và xử lý kiên quyết, dứt điểm theo đúng quy định của pháp luật. Đẩy mạnh và tăng cường thanh tra bốn lĩnh vực trọng tâm là đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý sử dụng đất đai, quản lý thu chi ngân sách và quản lý tài sản công, gắn với việc thanh tra thực thi chức trách công vụ đối với một số lĩnh vực mà dư luận và nhân dân quan tâm. - Thực hiện chế độ công bố công khai dự toán, quyết toán ngân sách của từng cấp, từng cơ quan, đơn vị; tài chính DNNN; các quỹ tài chính ở địa phương để tăng cường quyền giám sát của các đoàn thể xã hội, người lao động và nhân dân; thực hiện nghiêm việc kiểm toán bắt buộc và công khai tài chính đối với các tổng công ty, công ty nhà nước. Phối kết hợp chặt chẽ để tránh chồng chéo trong thanh tra, kiểm tra, kiểm toán cũng như tránh bỏ sót đối tượng cần kiểm tra.. KẾT LUẬN Thông qua đề tài “ phân tích tác động thuế xuất nhập khẩu tới thu ngân sách Nhà nướcnước thời kỳ hậu WTO và một số kiến nghị giải pháp” em đã nghiên cứu được những vấn đề sau: Chương 1: Đề tài đã đưa ra những nội dung chủ yếu, trọng tâm về thu ngân sách và thuế xuất nhập khẩu, mối quan hệ giữa thuế xuất nhập khẩu và thu ngân sách nhà nước, những vấn đề về cam kết cắt giảm thuế xuất nhập khẩu trong tình hình mới khi gia nhập WTO Chương 2: Đề tài đã khảo sát thực tế tác động của quá trình cắt giảm thuế xuất nhập khẩu tới thu ngân sách nhà nước trong thời kỳ hậu WTO của Việt Nam. Đã đi sâu nghiên cứu những tác động tích cực và tiêu thuế xuất nhập khẩu đến thu ngân sách nhà nước sau khi gia nhập WTO; từ đó rút ra những vấn đề đặt ra cần khắc phục trong thời gian tới. Chương 3: Từ nghiên cứu thực trạng về tác động thuế xuất nhập khẩu đến thu ngân sách nhà nước thời kì hậu WTO của Việt Nam, đề tài đã có những quan điểm, định hướng, giải pháp cụ thể để tăng trưởng nhanh và bền vững thu ngân sách nhà nước dưới tác động của thuế xuất nhập khẩu sau khi gia nhập WTO. Trong đó cũng làm rõ sự cần thiết khách quan, các yêu cầu cơ bản, và một số điều kiện để thực hiện các giải pháp. MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28890.doc
Tài liệu liên quan