Báo cáo tổng kết đề tài - Giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên trường đại học nội vụ Hà Nội

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƢỜI HỌC GIÁO DỤC TƢ TƢỞNG KHOAN DUNG, ĐOÀN KẾT CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI Mã số đề tài: ĐTSV.2020.09 Chủ nhiệm đề tài : Phan Lạc Hoàng Anh Lớp : 1605CTHA Cán bộ hƣớng dẫn : ThS. Nguyễn Thị Tƣơi Hà Nội, 2020 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƢỜI HỌC GIÁO DỤC TƢ TƢỞNG K

pdf72 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 04/01/2022 | Lượt xem: 359 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Báo cáo tổng kết đề tài - Giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên trường đại học nội vụ Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOAN DUNG, ĐOÀN KẾT CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI Mã số đề tài: ĐTSV.2020.09 Chủ nhiệm đề tài : Phan Lạc Hoàng Anh - 1605CTHA Thành viên tham gia : Vũ Thị Trúc Mai - 1605CTHA Lại Thùy Dƣơng - 1805CTHA Cán bộ hƣớng dẫn : ThS. Nguyễn Thị Tƣơi Hà Nội, 2020 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài...................................................... 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 2 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 3 5. Giả thuyết nghiên cứu .................................................................................... 3 6. Đóng góp của đề tài ....................................................................................... 3 7. Kết cấu của đề tài ........................................................................................... 4 CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC TƢ TƢỞNG KHOAN DUNG, ĐOÀN KẾT CHO SINH VIÊN Ở CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC HIỆN NAY ....................................................... 5 1.1. Tư tưởng khoan dung, đoàn kết – giá trị tốt đẹp của dân tộc Việt Nam 5 1.1.1. Khái niệm giáo dục,khoan dung, đoàn kết ............................................. 5 1.1.2. Khái quát tư tưởng khoan dung, đoàn kết trong lịch sử tư tưởng Việt Nam ..................................................................................................................... 9 1.2. Sự cần thiết của việc giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên các trường Đại học trong bối cảnh hiện nay........................................... 19 1.2.1. Đáp ứng yêu cầu về chất lượng nguồn lao động toàn diện của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ............................................. 19 1.2.2. Thực hiện xây dựng con người mới theo quan điểm của Đảng .......... 22 1.2.3. Chống lại những biểu hiện tiêu cực của bộ phận SV trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ............................ 24 1.2.4. Giữ gìn, phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế ...................................................................................................... 25 CHƢƠNG 2. GIÁO DỤC TƢ TƢỞNG KHOAN DUNG, ĐOÀN KẾT CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP .............................................................................. 28 2.1. Đặc điểm sinh viên và các yếu tố ảnh hưởng tới việc giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội ............ 28 2.1.1. Đặc điểm sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội ............................ 28 2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội ................................................. 30 2.2. Thực trạng giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội .................................................................................... 44 2.2.1. Kết quả một số hoạt động giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội ........................................................ 44 2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế của hoạt động giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội ..................................................................................................................... 49 2.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội ........................................... 52 2.3.1. Về phía nhà trường ................................................................................ 52 2.3.2. Về phía gia đình ..................................................................................... 62 2.3.3. Về phía bản thân sinh viên .................................................................... 63 Tiểu kết chương 2............................................................................................. 66 KẾT LUẬN .................................................................................................... 67 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 68 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016), Đảng ta khẳng định phương hướng, nhiệm vụ tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc:“tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết dân tộc‖. Thật vậy, khoan dung, đoàn kết là truyền thống quý báu, là nét đẹp văn hóa như sợi chỉ đỏ xuyên suốt dòng chảy lịch tử tư tưởng Việt Nam hàng ngàn năm qua. Nhờ có truyền thống khoan dung, đoàn kết, dân tộc ta đã giành thắng lợi lớn trong các cuộc đấu tranh vệ quốc vĩ đại. Sau khi giành độc lập, nhớ có tinh thần khoan dung, đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, đất nước ta đã thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, đưa nước ta ngày càng giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Góp vào thành công lớn lao ấy, có một phần không nhỏ công lao của các thế hệ thanh niên, mà trong đó sinh viên là thế hệ trẻ tiêu biểu cho sức mạnh của đất nước hôm nay và mai sau. Việc giáo dục về tư tưởng đạo đức truyền thống của dân tộc nói chung, giáo dục tinh thần khoan dung, đoàn kết nói riêng góp phần bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, lối sống cho sinh viên là vô cùng cần thiết. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, trước những tác động của kinh tế thị trường, một bộ phận sinh viên có lối sống thiếu khoan dung trong giải quyết mâu thuẫn, chưa biết lắng nghe, thấu hiểu và tôn trọng những điểm khác biệt của người khác, tư tưởng, văn hóa khác biệt. Đây là vấn đề có tính chất thời sự trong bối cảnh hiện nay, trong khi các công trình nghiên cứu về đề tài này gần như chưa có. Vì những lí do trên, nhóm tác giả quyết định chọn đề tài: “Giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội‖ nhằm nghiên cứu, luận giải, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản liên 1 quan đến nội dung đề tài. Phân tích thực trạng từ đó đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài - Mục đích nghiên cứu: Thông qua việc nghiên cứu, luận giải, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về ảnh hưởng của tư tưởng khoan dung, đoàn kết tới đạo đức lối sống sinh viên Việt Nam giai đoạn hiện nay, đề tài chỉ ra một số nguyên nhân và giải pháp góp phần phát huy ảnh hưởng tích cực của tư tưởng khoan dung, đoàn kết tới đạo đức lối sống của sinh viên Việt Nam giai đoạn hiện nay. Nhằm đẩy mạnh giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho SV nói chung và SV Trường ĐHNVHN nói riêng. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để có thể đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi phải giải quyết được các vấn đề sau: Thứ nhất, tập trung tìm hiểu một số vấn đề lý luận cơ bản về tư tưởng khoan dung, đoàn kết; giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên trường Đại học Nội Vụ Hà Nội. Thứ hai, nghiên cứu một số ảnh hưởng của tư tưởng khoan dung, đoàn kết tới sinh viên Nội Vụ giai đoạn hiện nay. Thứ ba, chỉ ra một số nguyên nhân của những ảnh hưởng tiêu cực, giải pháp phát huy ảnh hưởng tích cực của tư tưởng khoan dung, đoàn kết tới sinh viên Nội Vụ giai đoạn hiện nay. Thứ tư, đề ra một số phương hướng, giải pháp để nhằm nâng cao hiêu quả việc giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên Đại học Nội Vụ Hà Nội 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Lý thuyết về khoan dung, đoàn kết và việc vận dụng, phát huy tư tưởng khoan dung, đoàn kết đối với sinh viên nói chung và 2 sinh viên trường Đại học Nội vụ nói riêng. - Phạm vi nghiên cứu: + Lịch sử tư tưởng khoan dung, đoàn kết; + Khảo sát thực tiễn vận dụng, giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết, cho sinh viên Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội cơ sở Hà Nội. + Từ năm 2016 đến nay. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: + Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. + Quan điểm về khoan dung, đoàn kết trong lịch sử tư tưởng Việt Nam; + Quan điểm về khoan dung, đoàn kết của Đảng ta. + Những kết quả nghiên cứu lý luận trong và ngoài nước liên quan đến chủ đề nghiên cứu. - Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài, nhóm nghiên cứu chủ yếu vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, logic –lịch sử, so sánh đối chiếu, phương pháp liên ngành; chính trị học so sánh... 5. Giả thuyết nghiên cứu Ảnh hưởng của tư tưởng khoan dung, đoàn kết tới đạo đức lối sống sinh viên ngày càng rõ nét. Nhưng hiện nay, nhận thức của bộ phận sinh viên về vấn đề này chưa thật sự rõ nét. 6. Đóng góp của đề tài Đề tài “Giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội‖ là công trình nghiên cứu chuyên sâu và đưa ra một số điểm mới sau: - Hệ thống hóa lý thuyết về khoan dung, đoàn kết trong lịch sử và xác định giá trị lý luận, thực tiễn của tư tưởng khoan dung, đoàn kết trong thực 3 tiễn xã hội hiện nay; - Phân tích thực trạng của việc giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên trường Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội giai đoạn hiện nay. - Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả của việc giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên trường Đại học Nội Vụ Hà Nội giai đoạn hiện nay. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung đề tài được kết cấu gồm 2 chương, 5 tiết. 4 CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC TƢ TƢỞNG KHOAN DUNG, ĐOÀN KẾT CHO SINH VIÊN Ở CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC HIỆN NAY 1.1. Tƣ tƣởng khoan dung, đoàn kết – giá trị tốt đẹp của dân tộc Việt Nam 1.1.1. Khái niệm giáo dục,khoan dung, đoàn kết - Khái niệm giáo dục Theo cuốn Tài liệu bài giảng Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục, 2007 của Ts. Nguyễn Văn Tuấn, Giáo dục vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Giáo dục là một quá trình đào tạo con người một cách có mục đích, nhằm chuẩn bị cho họ tham gia vào đời sông xã hội, lao động sản xuất, bằng cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hộiinh nghiệm lịch sử xã hội của loài người. Giáo dục được hiểu dưới hai góc độ: (1) Giáo dục được xem như là tập hợp các tác động sư phạm đến người học với tư cách là một đối tượng đơn nhất; (2) Giáo dục được như là một hoạt động xã hội, dạng tái sản xuất ra lực lượng lao động mới. Ở đây, đối tượng là thế hệ trẽ, là tập hợp các đối tượng đơn nhất. Giáo dục là đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ lao động; Khi nói đến giáo dục theo nghĩa rộng, là ta thường liên tưởng ngay đến cụm từ "giáo dục theo nghĩa hẹp và đào tạo". Giáo dục theo nghĩa hẹp, là một quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của một người (hay một nhóm người) - gọi là giáo viên - nhằm tác động vào hệ thống nhận thức của người đó, để làm phát triển trí thông minh, phát triển khả năng nhận thức phù hợp với thế giới khách quan, và làm phát triển nhận thức của người đó lên; qua đó tạo ra một con người mới, có những phẩm chất phù hợp với yêu cầu được đặt ra. Giáo dục theo nghĩa hẹp là nuôi dưỡng, làm cho phát triển hoặc triệt tiêu, giảm cái có sẵn. Ví dụ như trí thông minh căn bản là cái có sẵn, tính 5 thiện là cái có sẵn,... Giáo dục làm tăng trưởng trí thông minh căn bản, và tính thiện lên. Ðào tạo là một quá trình truyền thụ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm một cách có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của một người (hay một nhóm người) - gọi là giáo viên - vào người đó, nhằm tạo ra một số sự nhận thức, một số kỹ năng hoạt động phù hợp với yêu cầu của công việc, và phát triển chúng nó lên bằng cách rèn luyện. Công việc này có thể là hoạt động trí não, hay hoạt động chân tay. Đào tạo là tạo ra cái mới hoàn toàn, chứ không phải là cái có sẵn. Ví dụ chữ viết, những kiến thức về toán học, các kỹ năng về tay nghề, các thế võ,... Ban đầu chúng hoàn toàn chưa có nơi một con người. Chỉ sau khi được huấn luyện, đào tạo thì chúng mới có ở nơi ta.Ví dụ: học sinh được dạy học môn toán, để có kỹ năng tính toán. Một nhà khoa học được đào tạo, để có các kỹ năng nghiên cứu khoa học. Một vị Tu sĩ được dạy cách ngồi thiền, để có thể ngồi thiền tu tập sau này. Một người công nhân, được đào tạo tay nghề, để có thể làm việc sau này... Tuy rằng, không phải là đào tạo, nhưng muốn giáo dục thành công thì cần phải thông qua công tác đào tạo. Vì vậy chúng có mối liên hệ rất mật thiết với nhau. Cho nên khái niệm giáo dục trong bộ môn này được hiểu bao gồm cả giáo dục và đào tạo. - Khái niệm khoan dung Khoan dung là phạm trù xuất hiện từ lâu và như sợi chỉ đỏ xuyên suốt dòng chảy lịch sử tư tưởng Việt Nam các thời kỳ. Quan niệm về khoan dung cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Theo Hán Việt từ điển giản yếu, học giả Đào Duy Anh: bao dung là người có đại độ, tức là độ lượng, rộng lượng; khoan dung là rộng lòng bao dung. Trong Từ điển tiếng Việt, tác Hoàng Phê cho rằng, bao dung thuộc loại tính từ với nghĩa là có độ lượng, rộng lượng với mọi người; còn động từ khoan dung lại có nghĩa là rộng lượng tha thứ cho người có lỗi lầm. 6 Trong dự thảo Tuyên bố về sự khoan dung của Liên hợp quốc (tổ chức ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, ngày 16—1993), UNESCO đã nêu ra nội hàm khái niệm và hành động cho sự khoan dung như sau: ―Người ta cần những niềm tin của mình. Nhưng ngày nay đòi hỏi một hình thức đoàn kết mới, một cuộc sống gắn bó mật thiết hơn bao giờ hết để đảm bảo rằng, những niềm tin của chúng ta không được dẫn đến những mô hình hành vi loại trừ các niềm tin khác. Điều chủ yếu là phải thừa nhận rằng trong khi tất cả mọi người đều bình đẳng về phẩm cách thì họ lại khác nhau về tài năng, về niềm tin và tín ngưỡng và những sự khác nhau đó là toàn bộ nền văn minh nói chung miễn là mọi công dân được bảo đảm có những cơ hội để đối thoại và tham gia vào đời sống cộng đồng cả về chính trị, văn hóa, kinh tế và xã hội ở tất cả các giai cấp‖. Tiếp nối tinh thần ấy, Ủy ban UNESCO Việt Nam cho rằng: ―Khoan dung là một hình thức tự do, tự do về tư tưởng, tự do về pháp lý. Một con người khoan dung là người làm chủ về tư tưởng và hành động của mình. Khoan dung là một thái độ ứng xử tích cực, không hàm ý ban ơn hay hạ mình chiếu cố đối với những người khác. Khoan dung là thừa nhận và chấp nhận sự khác biệt. Đó là học cách nghe, cách thông tin và cách hiểu người khác. Khoan dung là chấp nhận sự đa dạng của các nền văn hóa; là sự cởi mở đối với những tư tưởng triết lý khác mình, là sự ham học hỏi, tìm hiểu những điều bổ ích để làm giàu cho bản thân, không bác bỏ nhưng gì mà mình chưa biết. Khoan dung là tôn trọng quyền tự do của người khác. Khoan dung là sự thừa nhận không có một nền văn hóa, một quốc gia hay một tôn giáo nào độc tôn về tri thức và chân lý‖ Như vậy, khoan dung là một phạm trù dùng để chỉ thái độ, cách ứng xử tôn trọng, xóa bỏ sự kỳ thị đối với các khác biệt; là việc chấp nhận có phê phán những tư tưởng khác mình trên vũ đài công khai và có sức thuyết phục tất cả các bên trên cơ sở hiểu mình, hiểu người để cùng tồn tại trong hòa bình. Khoan dung không phải là sự nhượng bộ, sự hạ mình mà là trách nhiệm của 7 mỗi người để duy trì và bảo đảm quyền con người - Khái niệm đoàn kết Đoàn kết là hiện tượng nhiều người kết hợp với nhau thành cộng đồng thống nhất cùng hoạt động vì một mục đích chính đáng, phù hợp trên cơ sở pháp luật và chuẩn mực đạo đức. Khái niệm đoàn kết có khi còn được hiểu là: đồng tâm hiệp lực, tề tâm nhất trí, liên hợp, kết hợp,... Đoàn kết là một xu thế tất yếu trong sự phát triển của các cộng đồng người. Các cộng đồng người đang hiện diện trên trái đất đều đã trải qua nhiều thử thách trong quá trình phát triển của mình. Sự khắc nghiệt của quy luật cạnh tranh sinh tồn, của hiện tượng cá lớn nuốt cá bé đã chi phối các quan hệ giữa các tộc người, không trừ bất cứ một cộng đồng nào. Cộng đồng nào vượt lên được thì sống, không vượt lên được thì chết. Sống được, ngoài lý do khác ra thì đoàn kết là một yếu tố quan trọng có tính quyết định. Tinh thần đoàn kết là sự gắn kết, sự liên kết bền chặt giữa các cá nhân trong một tập thể để trải qua hoặc hoàn thành những giai đoạn khác nhau của cuộc sống. Nó giúp cho con người cảm thấy bản thân mình không bị lạc lõng, luôn có động lực để phấn đấu tới những điều tốt đẹp hơn. Tinh thần đoàn kết giống như một tấm lá chắn lớn giúp con người vững bước vượt qua những khó khăn, thách thức trong cuộc sống. Tinh thần đoàn kết không chỉ có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong quá khứ mà còn nguyên những giá trị tới hiện tại và tương lai. Tinh thần đoàn kết đã trở thành một truyền thống quý báu của dân tộc ta từ xưa đến nay. Như vậy, khoan dung, đoàn kết (KD, ĐK) là truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta từ bao đời nay. Tinh thần ấy thể hiện qua sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau bằng những hành động cụ thể. Nhất là những khi gặp hoạn nạn, khó khăn; khoan dung, đoàn kết cũng có khi chỉ đơn giản thể hiện ở những việc nhỏ nhặt hằng ngày, như cùng nhau giải một bài toán khó hay cùng nhau làm một bài văn hay, bỏ qua những sai lầm khi người ta biết xin lỗi, sửa chữa. Và dĩ nhiên, kết quả sau khi khoan dung, đoàn kết thường tốt hơn, vì đó là ý kiến 8 của nhiều người, từ đó chính sự khoan dung, đoàn kết là con đường, sức mạnh dẫn đến thành công. Đoàn kết, khoan dung có ở khắp mọi nơi như trong gia đình anh em hoà thuận, thương yêu, chia sẻ khó khăn với nhau, ở trường, các bạn cùng giúp nhau tiến bộ, hợp sức lại để lớp đi lên; nhà trường quyên góp tiền cho đồng bào lũ lụt, giúp bạn nghèo vượt khó 1.1.2. Khái quát tư tưởng khoan dung, đoàn kết trong lịch sử tư tưởng Việt Nam Tư tưởng khoan dung, đoàn kết như dòng chảy vô tận, đóng góp lớn vào kho tàng tri thức của lịch sử tư tưởng Việt Nam xưa và nay. Trong đề tài nghiên cứu này, nhóm tác giả khái quát tư tưởng khoan dung, đoàn kết trong quan niệm truyền thống Việt Nam, quan niệm về khoan dung, đoàn kết của một số danh nhân tiêu biểu như: Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh và quan niệm của Đảng ta về khoan dung, đoàn kết. * Khoan dung và đoàn kết trong quan niệm truyền thống Việt Nam Mặc dù chúng ta không đồng thuận lắm về cách hiểu từ khoan dung, nhưng trong cách hiểu của chúng ta vẫn có gặp gỡ nhất định. Trên nghiên cứu của nhóm tác giả thấy lĩnh vực khoan dung sáng giá nhất của sử Việt Nam trong kỷ nguyên Đại Việt chính là khoan dung tôn giáo. Trong lịch sử du nhập tôn giáo từ phương Đông và Phương Tây vào Việt Nam, sự tiếp nhận của người Việt không bao giờ là cực đoan, nghiệt ngã, hay lạnh lẽo, kỳ thị, mà là sự tiếp nhận rộng lượng, nhân ái, thuận hòa. Có lẽ vì thế, ở Việt Nam hầu như không có chiến tranh tôn giáo. Ngay từ thời Lý - Trần, đã diễn ra sự kiện tôn giáo đặc sắc về tinh thần khoan dung: Tam giáo đồng tôn, giữa Nho - Phật - Đạo. Theo nhóm tác giả, nghĩa bản vị của cụm từ này là đồng tôn, không chắc là đồng nguyên, theo cách gọi thông thường là Tam giáo đồng nguyên. Và đồng tôn, là tôn trọng nhau, không lệ thuộc, không áp đặt, xâm lấn nhau, và cùng tồn tại. Tôn giáo nào trong ba tôn giáo này cũng nhận được sự tôn trọng của người Việt về sự độc lập của chính tôn giáo ấy. Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo, dù vào Việt Nam theo cách nào, 9 cũng đều được Việt hóa, và tôn giáo nào cũng được tôn trọng, trong đời sống xã hội của người Việt qua hàng nghìn năm lịch sử. Đây chính là cơ sở văn hóa của sự khoan dung tôn giáo ở Việt Nam. Ở Việt Nam đã tiếp tục xuất hiện sự khoan dung trong lĩnh vực rất khó khoan dung, đó là lĩnh vực quân sự, chính trị. Đây chính là ứng xử Việt mang nhiều tinh thần rộng lượng, khoan hòa, tha thứ. Ở thế kỷ 13, năm 1289, sau chiến thắng Bạch Đằng, kết thúc 3 cuộc đại thắng quân Nguyên, các vị vua nhà Trần không chỉ nổi bật ở tinh thần Sát Thát của danh tướng Trần Bình Trọng, mà còn cư xử đầy khoan dung với những lầm lỗi lịch sử của khanh tướng nhà Trần. Thượng Hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông dù biết mười mươi (do lấy được tài liệu mật từ cuộc quy hàng của Thoát Hoan) tội phản nghịch của các vị tướng lĩnh, quan lại tôn thất nhà Trần (viết sớ xin hàng Thoát Hoan, dâng đất, vàng bạc cống nạp, nịnh nọt thăng quan tiến chức), nhưng hai vị vua anh minh và nhân ái này đã chọn cách ứng xử: coi như không biết, và tha cho bằng hết các vị tôn thất phản nghịch này, sai đốt sạch các thư từ tài liệu ghi chép về tội phản nghịch lấy được từ Thoát Hoan, để làm yên lòng những kẻ phản nghịch (điều này được sử gia Ngô Sĩ Liên ghi chép và bình luận trong ―Đại Việt Sử ký toàn thư‖). Sau khi đánh tan giặc Minh năm 1427, không những chấp nhận cho Vương Thông ―giảng hòa‖, và thấy rõ tướng giặc ―thực bụng cầu hòa‖ rút tàn quân về nước, Lê Lợi lại còn cấp thuyền, ngựa, lương thực cho cuộc lui quân này, nhằm mục đích ―ta muốn giữ toàn quân để dân yên nghỉ‖. Nên việc tha thứ, khoan dung của người Việt trong lịch sử đã thành một truyền thống, được tiếp nối rất tốt đẹp trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ sau này * Khoan dung và đoàn kết trong tư tưởng Trần Nhân Tông Không chỉ là một vị minh quân, một vị anh hùng trong chiến tranh và nhà kiến tạo trong hòa bình, Trần Nhân Tông còn là sơ tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, là một trong những đại diện xuất sắc nhất của truyền thống tư 10 tưởng Việt Nam mà trong bài viết Cội nguồn ngôn ngữ học của đặc điểm tư duy người Việt chúng tôi đã định danh bằng thuật ngữ ―thực tiễn luận cộng đồng‖. Ở Trần Nhân Tông, truyền thống ấy có thể gọi là ―thực tiễn luận Thiền tông‖, một hệ thống triết lý được Trần Nhân Tông trình bày đặc biệt súc tích trong Cư trần lạc đạo: sống giữa phàm trần mà vui với đạo, thuận theo hoàn cảnh mà làm, tìm giác ngộ ở chính tâm mình. Trần Nhân Tông vừa lên ngôi thì Hốt Tất Liệt đã phái sứ bộ do Sài Thung cầm đầu đến nước ta gây sự. Trước nguy cơ xâm lược của ngoại bang, Trần Nhân Tông đã buộc phải trực tiếp lãnh đạo không phải một mà hai cuộc chiến tranh vệ quốc. Là người am tường giới luật của nhà Phật, cách làm của Trần Nhân Tông thật độc đáo, vô cùng hiếm hoi không chỉ trong lịch sử Việt Nam, mà cả trong lịch sử thế giới: nhà vua tổ chức ―trưng cầu quân ý‖ (Hội nghị Bình Than) và ―trưng cầu dân ý‖ (Hội nghị Diên Hồng). Có thể nói, bằng cách đó, ông giải quyết được một vấn đề mang tính nguyên tắc: cuộc kháng chiến vệ quốc là thuận theo ý của quân dân, theo đó, nhà vua chấp nhận hy sinh mạng sống trăm người để cứu lấy mạng sống muôn người. Tuy nhiên, có một mục đích khác không kém phần quan trọng, đó là củng cố tinh thần, tạo dựng sự đoàn kết toàn dân. Chúng ta có thể khẳng định điều này một cách chắc chắn nếu liên hệ với hàng loạt biện pháp khác như ân xá cho dân chúng, điều động và thăng chức cho các tướng, tha tội cho Trần Khánh Dư nhiều tật xấu và lỗi lầm từng bị cách chức xuống làm nghề bán than cuối cùng lại được vua Nhân Tông ban áo ngự, cho bàn việc binh lại hạ chiếu phục chức và phong làm Phó Đô tướng quân, củng cố quan hệ hữu hảo với Chiêm Thành Chính khối đoàn kết toàn dân là điều kiện quyết định đối với hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Chủ trương đại đoàn kết dân tộc của Trần Nhân Tông cũng thể hiện không kém phần độc đáo trong sự nghiệp kiến thiết đất nước thời bình. Sau khi đánh đuổi ngoại xâm, Trần Nhân Tông không chỉ đưa ra những quyết sách an dân thông thường như giảm tô thuế và tạp dịch, 11 ban thưởng cho người có công, ban hành lệnh đại xá, mà còn có những quyết định vô cùng hiếm gặp ở những nhà lãnh đạo khác. Một trong những quyết định đó là ra lệnh đốt tất cả các giấy tờ liên quan đến những người từng phản bội. Bằng cách xóa bỏ những tội lỗi của một số thần dân trong quá khứ, giúp họ hòa nhập vào một tương lai chung của dân tộc, còn nhiều hành xử bao dung giúp người hòa giải như chuyện giúp Lê Tòng Giáo và Đinh Củng Viên, đã trở thành ―thiên tử của hòa giải‖. Đặt lợi ích quốc gia cao hơn lợi ích cá nhân, gia đình, nên vua quan, tướng lĩnh triều Trần đã vượt qua được những rào cản của tư thù nhỏ hẹp để đạt đến những ứng xử khoan dung đáng trân trọng. Trần Nhân Tông đưa ra một thông điệp vĩ đại của lòng khoan dung. Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước với những chiến công hiển hách, trong đó có những chiến công của Trần Nhân Tông, dạy chúng ta rằng sự phát triển và thịnh vượng của đất nước trong mọi lĩnh vực, như kinh tế, văn hóa, giáo dục, chính trị, xã hội và quốc phòng chỉ có thể có được nếu dựa trên một nền tảng sâu xa, vững chắc, đó là sự đoàn kết của toàn dân tộc. Đoàn kết dân tộc chính là cách mà cha ông ta nhiều lần sử dụng như là kế sâu rễ bền gốc, là nền tảng của sức mạnh quốc gia. * Khoan dung và đoàn kết trong tư tưởng Nguyễn Trãi Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi biểu hiện ở lòng thương người, ở sự khoan dung độ lượng, thậm chí đối với cả kẻ thù. Có thể nói, đây là nét độc đáo riêng có trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Chiến lược ―tâm công‖ Nguyễn Trãi đã thực hiện trong kháng chiến chống Minh chính là sự thể hiện nét độc đáo riêng ấy. ―Tâm công‖ – đánh vào lòng người – sách lược đã được Nguyễn Trãi dày công suy xét, thu tóm cái tinh hoa trong các sách về binh pháp xưa và vận dụng sáng tạo trong thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam đương thời. ―Tâm công‖ tức là dùng lý lẽ tác động vào tinh thần, vào ý thức kẻ địch, nói rõ điều hơn lẽ thiệt, thuyết phục, cảm hoá chúng, từ đó đập tan tinh thần chiến đấu của chúng, làm cho chúng nhụt ý chí xâm lược, rã rời hàng ngũ, tiến tới chấp nhận con đường hoà giải, rút quân 12 về nước. Tất nhiên, chiến lược ―tâm công‖ ấy luôn được nghĩa quân Lam Sơn kết hợp chiến đấu bằng vũ khí, quân sự, ngoại giao; và thực tiễn lịch sử đã chứng tỏ rằng, chiến lược đó là hoàn toàn đúng đắn. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi nổi bật ở quan điểm về cách đối xử với kẻ thù khi chúng đã bại trận, đầu hàng. Nó thể hiện đức ―hiếu sinh‖, sự ―khoan dung‖ của dân tộc Việt Nam nói chung, cũng như tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi nói riêng. Nguyễn Trãi cũng như Lê Lợi, trong chính sách đối với hàng binh, đã chủ trương không giết để hả giận tức thời, mà còn tạo điều kiện cần thiết cho chúng rút về nước một cách an toàn và không mất thể diện. Trong thư gửi Vương Thông, ông viết: ―Cầu đường sửa xong, thuyền xe sắm đủ, hai đường thuỷ lục, tuỳ theo ý muốn, đưa quân ra cõi, yên ổn muôn phần‖. Theo Nguyễn Trãi: ―Trả thù báo oán là thường tình của mọi người; mà không thích giết người là bản tâm của người nhân‖. Để dân yên vui, nước hoà bình, đó là khát vọng cháy bỏng của Nguyễn Trãi. Bởi thế, ông nói: ―Dùng binh cốt lấy bảo toàn cả nước làm trên hết. Để cho bọn Vương Thông trở về nói với vua Minh trả lại đất đai cho ta, đó là điều ta cần không gì hơn thế nữa‖. ―Tuyệt mối chiến tranh‖, ―bảo toàn cả nước là trên hết‖ đã thể hiện lập trường chính trị nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Có thể nói, đó là một tinh thần nhân đạo cao cả, một triết lý nhân sinh sâu sắc. Quan niệm của Nguyễn Trãi, vì thế, là một quan niệm tích cực và đầy tinh thần nhân bản. Tầm chiến lược, nhìn xa trông rộng và khoa học trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở tư tưởng cầu người hiền tài giúp nước, giúp dân. Nguyễn Trãi quan niệm rằng, nhân tố quyết định sự nghiệp xây dựng đất nước thái bình, thịnh trị là nhân dân. Làm thế nào để phát huy hết được những yếu tố tích cực của quần chúng nhân dân? Trong sức mạnh của nhân dân thì yếu tố nào là động lực mạnh mẽ nhất? Nguyễn Trãi đã chỉ ra, đó là yếu tố nhân tài. Không chỉ có ý nghĩa to lớn trong thời đại mình, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, một mặt, tạo nên một dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng 13 Việt Nam; mặt khác, còn có ảnh hưởng sâu rộng đến thực tiễn chính trị của đất nước trong những thời đại sau này. * Khoan dung và đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh Đại đoàn kết dân tộc là một giá trị tinh thần to lớn, một truyền thống cực kì quý báu của dân tộc ta, được hun đúc trong suốt mấy nghàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đoàn kết đã trở thành một động lực to lớn, một triết lý nhân sinh và hành động để dân tộc ta vượt qua bao biến cố, thăng trầm của thiên tai, địch họa, để tồn tại và phát triển bền vững. Trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam và thực tiễn cách mạng thế giới đã sớm hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Với nhãn quan chính trị sắc bén, với tinh thần nhân văn cao cả, suốt cả cuộc đời, Hồ Chí Minh đã không ngừng xây dựng, hoàn thiện một hệ thống quan điểm về đại đoàn kết dân tộc, tích cực truyền bá tư tưởng đoàn kết trong toàn Đảng và các cấp chính quyền, trong các tầng lớp nhân dân, kể cả đồng bào Việt Nam ở xa Tổ quốc. Đối với Người, độc lập dân tộc chỉ có giá trị khi gắn liền với tự do, hạnh phúc, với cơm no áo ấm của người dân lao động, Người nói: ―Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh ... của bản thân và của bố mẹ, người thân của bạn. Và biết đâu, với số tiền bạn kiếm và tích lũy được, bạn sẽ có thể có cơ hội đầu tư để sinh lời hay biết cách lập kế hoạch tài chính ngắn hạn – dài hạn cho riêng mình Đối mặt sớm với tài chính, bạn sẽ trưởng thành hơn mỗi ngày để khi rời khỏi giảng đường bạn có thể nhanh chóng hòa nhập vào môi trường mới. Phần lớn SV khi bước sang năm thứ hai, thậm chí là năm nhất vừa mới vào trường đã tự kiếm cho mình những công 29 việc làm thêm phù hợp với bản thân mình để nâng cao thu nhập của mình, các bạn cũng cân đối thời gian đi làm thêm của mình rất tốt mà không hề ảnh hưởng tới việc học của bản thân, đảm bảo kết quả học tập vẫn tốt. Việc đi làm thêm sớm cũng giúp cho SV nâng cao sự chủ động trong công việc cũng như trong cuộc sống, nâng cao khả năng giao tiếp của các bạn khi mà hầu hết các bạn đi làm thêm đều được tiếp xúc, được giao tiếp với nhiều người khác nhau điều đó góp phần cải thiện khả năng giao tiếp của các bạn và giúp các bạn không bị ―ngại‖ khi phải tiếp xúc với người lạ và ngại giao lưu kết bạn làm quen và tránh sự thụ động trong mọi tình huống. 2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội * Bối cảnh kinh tế, văn hóa, chính trị, khoa khọc công nghệ và đời sống xã hội của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa Từ năm 1986, Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ đổi mới, xoá bỏ chế độ bao cấp và chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Một nền kinh tế mở đang ngày càng đặt dần những bước chân mạnh mẽ vào quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế và đã bộc lộ tính hai mặt (tích cực và tiêu cực), tác động đến các giá trị tinh thần, đặc biệt là giá trị đạo đức của con người trong nền kinh tế chuyển đổi. - Ảnh hưởng tích cực Một trong những tác động tích cực nổi bật nhất của toàn cầu hoá cùng với ý thức đề cao tính cá nhân, là việc soi chiếu các giá trị đạo đức dưới góc độ cá nhân, phẩm chất cá nhân. Tính cá nhân được coi như một trong những thước đo của hành động, đạo đức hay phi đạo đức chỉ phụ thuộc một phần vào di sản tinh thần mà cộng đồng trước để lại, còn chủ yếu phụ thuộc vào mỗi cá nhân tạo thành cộng đồng mới hôm nay. Quan điểm đạo đức xuất phát từ thước đo cá nhân này là một sức mạnh lớn trong quá trình ly khai với những quan điểm đạo đức truyền thống không còn phù hợp trong thời kỳ mới. Tự ý thức cá nhân, ít chịu ảnh hưởng bởi dư luận như trước, đã tạo điều kiện phát 30 huy sức sáng tạo cá nhân làm cho cá nhân chủ động và nhanh chóng tiếp cận với những cái mới trong khoa học, kỹ thuật và công nghệ, chịu khó học hỏi kiến thức phục vụ cho công việc và cuộc sống. Thực ra, việc để lại đằng sau bước đi của chúng ta những di sản quá khứ đã lỗi thời không phải là chuyện đơn giản, vì nó đã ăn sâu vào ý thức cộng đồng qua một thời gian khá dài. Chính xu hướng toàn cầu hoá là chất xúc tác, là đòn bẩy và cũng là yêu cầu của việc rời bỏ triệt để những mảnh quá khứ đã lỗi thời một cách nhẹ nhàng, thanh thản. Làm được điều đó một cách triệt để nhất, rõ ràng nhất, không ai khác ngoài SV- đối tượng trẻ có tri thức, lớn lên trong môi trường mới, có điều kiện rời bỏ quá khứ một cách ít luyến tiếc hơn cả. Đây là đối tượng mà sự liên hệ với truyền thống chưa thật sự sâu đậm nên dễ dàng để những giá trị truyền thống lỗi thời lại đằng sau để tiếp thu cái mới, chấp nhận những giá trị mới trong một môi trường năng động liên tục. Tác động tích cực tiếp theo của toàn cầu hoá đối với đạo đức sinh viên là tạo ra sự đồng nhất tương đối giữa quan niệm đạo đức và quy tắc ứng xử của một cộng đồng (ở đây là sinh viên Việt Nam) với các quan niệm đạo đức và quy tắc ứng xử chung mang tính quốc tế. Như đã phân tích ở trên, với đặc điểm cơ bản là trẻ, có tri thức và dễ tiếp thu cái mới, lại được trang bị ngoại ngữ, tin học, với sự hỗ trợ của các phương tiện thông tin hiện đại và việc mở rộng, đa dạng hóa tiến trình giao lưu quốc tế, sinh viên ngày nay đã hoà kịp vào dòng chảy mới trong qúa trình hội nhập. Điều đó tạo ra sự xích lại gần nhau các giá trị đạo đức trong một tinh thần cảm thông và cởi mở. Có thể thấy những biểu hiện này trong các quan niệm đạo đức có liên quan đến các lĩnh vực đặc trưng của tuổi trẻ, như tình bạn, tình yêu... Các quan niệm đạo đức của sinh viên Việt Nam, bên cạnh cái riêng của mình, đang xuất hiện những cái chung hoà nhập cùng thế giới, mở ra những cơ hội giao lưu, học hỏi. Có thể dự đoán về một xu hướng đạo đức được quốc tế hoá, vừa trên cơ sở thống nhất những quy tắc đạo đức chung của con người, vừa giữ được truyền thống tốt đẹp của dân tộc nói chung, đạo đức sinh viên Việt Nam nói riêng. 31 Những quan niệm về tốt, xấu, công bằng, bình đẳng... cũng đang có sự dịch chuyển nhất định. Những dịch chuyển này đã giải phóng về mặt tư tưởng, quan niệm trước những giá trị đạo đức lỗi thời, hướng sinh viên đến sự chuẩn bị cho những hành động có tính hiệu quả sau này khi gia nhập vào thị trường nhân lực. Những quy tắc ứng xử của sinh viên vì thế cũng biến đổi, các nguyên tắc thiết thực, hiệu qủa, phù hợp với yêu cầu mới của thời đại công nghiệp được họ hướng tới. Những rào cản đạo đức nào không còn phù hợp trong việc điều chỉnh hành vi sẽ bị vượt qua, thể hiện khá rõ nét ở sinh viên. - Ảnh hưởng tiêu cực Tác động tiêu cực rõ nét nhất là biểu hiện thực dụng trong quan niệm đạo đức và hành vi ứng xử ở một bộ phận không nhỏ sinh viên hiện nay. Trào lưu dân chủ hoá, làn sóng công nghệ thông tin và việc nâng cao dân trí đã làm ý thức cá nhân được tăng lên, đặc biệt trong những người trẻ có học vấn là sinh viên. Họ ý thức cao về bản thân mình và muốn thể hiện vai trò cá nhân. Tuy nhiên, cái cá nhân nhiều khi lấn át cái cộng đồng, họ coi lợi ích cá nhân quan trọng hơn tất cả. Một SV học khối kinh tế trong một phỏng vấn sâu đã cho rằng, kinh doanh là hoạt động đem lại lợi nhuận cho mình bằng bất cứ giá nào và không cần đếm xỉa đến vấn đề đạo đức. Khi mà đạo đức, nhân phẩm của con người được các bạn coi như một thứ không quan trọng và lối sống thực dụng coi trọng vật chất những thứ xã hoa phù phiếm không quan tâm tới những giá trị cốt lõi bên trong con người. Một biểu hiện khá điển hình của tiêu cực này, đến mức tạo nên một tiêu cực thứ hai, là đang hình thành một thái độ bàng quan đối với những người xung quanh, cho dù các phong trào tình nguyện gần đây được phát động khá rầm rộ trong sinh viên, nhằm giáo dục và tuyên truyền tinh thần vì cộng đồng. Sự hy sinh và quan tâm đến người khác ở họ thấp đi, và nếu có thì thường được đánh giá dưới góc độ kinh tế thực dụng hơn là tình cảm và sự chia sẻ. Hy sinh và quan tâm đến người khác, không gì ngoài vấn đề là việc làm đó sẽ 32 đưa lại lợi ích gì cho chính mình. Tác động tiêu cực tiếp theo là, cùng với sự du nhập lối sống và sản phẩm công nghệ hiện đại từ các nước phát triển, đã dần dần làm không ít SV xa rời các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp vốn vẫn đang phù hợp với thời kỳ hiện đại. Ngoài ra, một số SV hình thành tư tưởng hưởng thụ, ăn chơi, đua đòi, chịu tác động của tệ nạn xã hội, dễ bị dao động về mặt định hướng đạo đức và lối sống trong bối cảnh một nền kinh tế- xã hội mở cửa. Các quan niệm đạo đức trong một bộ phận SV đang bị lệch chuẩn, đặc biệt có quan niệm cho rằng, đạo đức và lợi ích cá nhân là hoàn toàn đồng nhất trong mọi lúc, ở mọi nơi. Cũng như vậy, với sự phát triển của thông tin, sự hỗ trợ của công nghệ cao đang làm giảm giá thành và tăng tốc độ đường truyền, đã làm Internet trở nên phổ biến, nhiều bạn trẻ lên mạng sử dụng tiện ích chat như một thú tiêu khiển hơn là phương tiện liên lạc. Với môi trường giao tiếp ảo này, người ta có thể ảo hoá những thông tin cá nhân (tên, tuổi, giới tính, địa phương cư trú, hình dáng...) và dễ dàng đi đến chỗ cung cấp thông tin giả. Sự dối lừa trên mạng được coi là một trò chơi. Nếu như nó chỉ dừng lại ở đó thì không có gì nghiêm trọng, nhưng cái đáng lưu tâm là ở chỗ, từ trò chơi - một lĩnh vực cụ thể, nó dần ảnh hưởng sang quan niệm về đạo đức nói chung, và ảnh hưởng đến cả các lĩnh vực khác. Gần đây, tác động tiêu cực của môi trường ảo đã hiện thực hoá qua một số vụ xung đột trong các chatter ngoài đời.Sự dối lừa được coi là chuyện bình thường. Khi quan sát, có thể thấy một biểu hiện đáng buồn là nhiều sinh viên không cho rằng việc sao chép tài liệu, ăn cắp ý tưởng trong quá trình làm bài thi, viết tiểu luận và khoá luận là một hành vi phi đạo đức. Nhiều sinh viên đi thuê làm khoá luận, đồ án tốt nghiệp, hoặc đi thi hộ trong kỳ thi tuyển sinh vào đại học và cao đẳng. Hiện tượng mua bằng, bán điểm không còn là chuyện hiếm thấy. Điều đáng lo ngại là nhiều sinh viên bộc lộ thái độ coi đó là chuyện bình thường, không liên quan đến đạo đức. Trong khi đó, ở các nước phát triển, lừa dối là hành vi bị lên án rất mạnh trong môi trường học 33 đường.VSự lạnh lùng trong các mối quan hệ tình cảm - vốn rất được đề cao trong đạo đức của người phương Đông, đang ngày càng lan rộng trong SV. Không thể không đáng suy nghĩ với lời một bài hát như thế này: ―Tình yêu đến em không mong đợi gì, tình yêu đi em không hề hối tiếc‖. Nó như một tuyên ngôn cho lối sống lạnh lùng, vô cảm, thiếu hụt những đam mê và khát vọng vốn là tài sản quý báu của tuổi trẻ. Bên cạnh đó, trong nhiều SV, xuất hiện thái độ đòi hỏi hơn là sự hy sinh, ước muốn hưởng thụ nhiều hơn đóng góp, ít chú ý đến nghĩa vụ và trách nhiệm công dân. * Môi trường trường Đại học - Ảnh hưởng tích cực SV khi theo học tại trường ĐHNV HN sẽ được học trong môi trường giàu tri thức và được thầy cô rất quan tâm trong việc học tập và rèn luyện đạo đức của các bạn. Các thầy cô không chỉ truyền đạt những kiến thức chuyên môn mà còn giáo dục tư tưởng đạo đức cho sinh viên để góp phần hoàn thiện nhân cách và tạo điều kiện cho các bạn có thêm cơ hội việc làm sau khi ra trường. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói : ―Người có tài mà không có đức thì vô dụng, người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó khăn‖. Vì vậy, việc giáo dục và hoàn thiện nhân cách đạo đức cho SV là vấn đề rất được nhà trường quan tâm. Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập quốc tế cơ hội việc làm ngày càng rộng mở hơn với các bạn nhưng những yêu cầu cũng ngày một cao hơn và đặc biệt khi các bạn đã rèn luyện được cho mình đạo đức phẩm chất tốt thì cơ hội việc làm của các bạn sẽ cao hơn. Với đội ngũ giảng viên có trình độ chuyên môn cao và vô cùng tâm huyết với SV đang liên tục truyền đạt giảng dạy cho SV những kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm của mình trong việc giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết tới SV của mình góp phần hoàn thiện nhân cách đạo đức cho SV. Thầy cô cũng là những tấm gương sáng trong việc thực hiện phát huy tinh thần khoan dung, đoàn kết để SV noi gương, học theo và phát triển tinh thần, tư tưởng đó. Thầy cô luôn tạo điều kiện tối đa cho SV trong quá trình học tập, nghiên cứu của mình và đặc biệt 34 đối với các bạn gặp khó khăn trong cuộc sống thì thầy cô cũng rất quan tâm, hỗ trợ các bạn để các bạn có điều kiện học tập đảm bảo nhất. Thời gian vừa qua, Khoa Khoa học Chính trị đã tổ chức chuyến đi tới Hà Giang đến gia đình của bạn Hạng Thìn Long – một SV đặc biệt khó khăn để ủng hộ cho gia đình bạn và tạo điều kiện về kinh tế giúp bạn có đủ khả năng để tiếp tục quá trình học tập của mình. Các thầy cô không chỉ hoàn thành tốt công việc là ―người lái đò‖ mà thầy cô còn như người cha, người mẹ của các bạn khi luôn truyền đạt cho các bạn những kinh nghiệm sống của báu của mình để các bạn sinh viên có thể phát triển tốt nhất. Không hề có sự phân biệt đối xử giữa các sinh viên có điều kiện hay sinh viên khó khăn, có chăng là có một chút ưu ái hơn đối với các bạn gặp khó khăn trong cuộc sống. Điều đó cũng góp phần giúp các bạn sinh viên thấu hiểu hơn về tinh thần khoan dung, đoàn kết và tiếp tục phát huy tinh thần đó. Không chỉ thầy cô mà bản thân các bạn SV trong trường cũng đang học tập, rèn luyện và phát huy rất tốt tư tưởng, tinh thần khoan dung, đoàn kết mà cha ông ta đã để lại suốt bao đời nay. Các bạn sinh viên là đội ngũ tri thức mới thế hệ 4.0 có kiến thức, kĩ năng và mang cho mình tinh thần của tuổi trẻ, vì vậy các bạn đang thực hiện rất tốt những tư tưởng về khoan dung, đoàn kết mà thầy cô đã và đang truyền đạt lại cho các bạn nhằm đạt được những hiệu quả cao hơn trong quá trình học tập của các bạn và công tác giảng dạy của thầy cô. Cha ông ta từ xưa đã có câu ―một cây làm chẳng lên non, ba cây chụm lại lên hòn núi cao‖ – tiếp tục kế thừa và phát huy tinh thần đó, sinh viên trường ĐHNV HN luôn mang cho mình sự bình đẳng, tình thần đoàn kết trong học tập cũng như trong đời sống. Bản thân các bạn cũng đến từ nhiều địa phương, nhiều vùng miền khác nhau trên cả nước nên hầu hết đều là những bạn SV xa nhà đi học, không có người thân gia đình bên cạnh, vì vậy các bạn rất hiểu và thông cảm cho nhau. SV trường ĐHNV HN luôn luôn đoàn kết, giúp đỡ nhau trong mọi hoàn cảnh, không hề có sự phân biệt đối xử giữa các bạn dù cho mỗi người đến từ một khu vực khác nhau, mang cho 35 mình một nền văn hóa khác nhau, có những mục tiêu, định hướng khác nhau, nhưng các bạn vẫn biệt gạt đi những nét riêng của mình để hòa chung cùng với mọi người nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong quá trình học tập và rèn luyện của cá nhân các bạn tại trường. - Ảnh hưởng tiêu cực Bên cạnh những mặt tích cực, SV trường ĐHNV HN cũng bị ảnh hưởng một số mặt hạn chế của môi trường đại học trong quá trình thực hiện tư tưởng khoan dung, đoàn kết của mình. Đôi khi sự truyền đại bài giảng của thầy cô còn chưa hấp dẫn, mang tính lý thuyết nhiều, thiếu tính thực tiễn nên nhiều bạn cảm thấy nhàm chán, không hứng thú đối với việc học dẫn đến kết quả học tập của một số SV chưa được cao và tinh thần học tập cũng đi xuống dần theo thời gian. Khi kết quả học tập đi xuống cũng ảnh hưởng rất nhiều tới tinh thần của SV, khiến các bạn chán học và coi việc học như một gánh nặng và áp lực điều đó làm ảnh hưởng tới quá trình tiếp thu, tiếp nhận kiến thức và khi không thể tiếp thu được những kiến thức mà thầy cô truyền đạt trên lớp các bạn sẽ bỏ bê và coi đó như một vấn đề không quan trọng. Nguy hiểm hơn, một số bạn khi không thể thấm nhuần được những lý thuyết mà thầy cô truyền đạt thì các bạn lại áp dụng một phương pháp cũ mà khi học từ tiểu học các bạn vẫn thường hay làm và coi đó là một cách để hiểu kiến thức đó là ―học vẹt‖ – một phương pháp học vô cùng phổ biến của rất nhiều học sinh,sinh viên Việt Nam ,để đối phó với các kỳ thi và để rồi khi xong kỳ thi đó thì kiến thức còn đọng lại trong não bộ của các bạn còn lại bao nhiêu? Đó là một vấn đề mà không chỉ SV mà cả những thầy cô cũng cần phải quan tâm và thay đổi những phương thức của mình để phù hợp với thời đại mới. Không những vậy, trong một số trường hợp, một vài thầy cô có thể vô tình hoặc cố tình ứng xử chưa thực sự công bằng đối với một số SV, điều đó dẫn tới việc thực hiện tư tưởng khoan dung, đoàn kết của các bạn SV ngày càng khó khăn hơn. Khi mà người cô, người thầy mà các bạn luôn tin tưởng coi đó là tấm gương sáng giảng dạy mình 36 những kiến thức những tư tưởng về khoan dung, đoàn kết giờ đây lại đang đi trái lại với những gì họ đã dạy và hệ quả là một bộ phận không ít SV mất dần sự hứng thú đối với việc học tập, rèn luyện và phát triển bản thân. Một lý do khác cũng khá phổ biến dẫn tới ảnh hưởng trong quá trình học tập và tiếp thu kiến thức của SV đó là việc các bạn còn chưa quen với một môi trường mới. Các bạn vừa rời khỏi ghế nhà trường – nơi các bạn học tập tích lũy kiến thức theo cách đó là thầy cô dạy như thế nào thì các bạn ghi chép với nhớ, làm hạn chế đi tính sáng tạo trong quá trình học tập và dẫn tới nhiều bạn bị mất tự tin trong việc học và sợ bị sai, bị các bạn phê bình với những ý kiến quan điểm của mình, và khi các bạn bước chân đến môi trường Đại học – một môi trường hoàn toàn mới và đòi hỏi khả năng tự tìm hiểu, tự nghiên cứu kiến thức của SV cao hơn, khi mà các giảng viên chỉ truyền đạt những kiến thức của mình ở trên lớp trong vòng 2 – 3 tiết học và phần lớn khối lượng kiến thức các bạn có được là do quá trình tìm đọc và nghiên cứu kiến thức mới trên nhiều phương tiện khác nhau. Ở môi trường mới, sinh viên phải tự lập, thầy, cô chủ nhiệm ít đôn thúc, nhắc nhở các bạn trong việc học tập mỗi ngày, thì đây là một môi trường lý tưởng để các bạn phát huy độ ―lười‖ của mình và coi đó là một cuộc sống tự do của bản thân mình. Phó giáo sư-Tiến sĩ Đỗ Phú Trần Tình, giảng viên Trường Đại học Kinh tế - Luật Thành phố Hồ Chí Minh, nhìn nhận: ―Nhìn chung đa số sinh viên ngày nay bị ảnh hưởng bởi các hoạt động và thú vui đến từ internet, mạng xã hội, điện thoại thông minh Các em bỏ thời gian vào mạng quá nhiều, trong đó chủ yếu là Facebook. Thức khuya, thiếu ngủ nên hôm sau ngại lên lớp. Có lên cũng thiếu tập trung. Việc học vì thế mà giảm sút, không đạt hiệu quả‖. Thạc sĩ Phan Nguyệt Minh cũng nhìn nhận: ―Sự phát triển của công nghệ khiến sinh viên dường như lười học hơn. Nhiều em rất hay nghỉ học, hoặc chỉ đi học bữa đầu, bữa cuối hoặc bữa nào có thông báo điểm danh mới đi. Không chép bài, không làm bài tập, đồ án để bạn trong nhóm phải gánh hoặc có làm nhưng ―vay mượn‖ đâu đó, học qua loa vội vàng trước ngày thi 37 hoặc bỏ thi... Có em một môn học mà trả nợ tới 7 lần‖. Nhiều giáo viên thừa nhận, trong lớp học, ở trên thầy giảng bài, hướng dẫn cách tiếp cận môn học, tài liệu nhưng ở dưới không ít sinh viên hí hoáy bấm điện thoại, ―lướt‖ Facebook hoặc chơi game, thậm chí còn chụp hình ―tự sướng‖. Điều đó dẫn tới chất lượng của sinh viên đang có chiều hướng đi xuống và đặt ra nhiều thách thức cho chúng ta trong vấn đề này * Môi trường gia đình Khi còn là một đứa trẻ, chúng ta đã được nghe rất nhiều bài hát về ―Mái ấm gia đình‖ nhưng bài hát ưu thích và những câu hát mà được mọi người mãi ghi nhớ: ― Ba là cây nến vàng, mẹ là cây nến xanh, con là cây nến hồng, ba ngọn nến lung linh thắp sáng một gia đình..‖. Những giai điệu nhẹ nhàng, êm ái đưa chúng ta về một thời thơ ấu, nơi đó có nhiều niềm vui hạnh phúc không chỉ riêng mỗi người mà tất cả mọi người sinh ra và lớn lên đều có một tổ ấm nhỏ, được chung sống dưới sự yêu thương, chăm sóc, dạy dỗ của cha mẹ. Và gia đình trở thành điểm tựa vững chắc, thiêng liêng của mọi người đặc biệt là trẻ thơ. Gia đình là gì? Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi sinh sống của mọi thành viên dưới một mái nhà. Ở đó có tình yêu thương, chăm sóc, nâng niu, có tiếng cười của những đứa trẻ hay sự đồng cảm chia sẻ giữa mọi người. Đối với trẻ thơ, gia đình không chỉ là nơi được sống trong hạnh phúc mà đó còn là nơi nuôi dưỡng tâm hồn mỗi đứa trẻ, giúp chúng hoàn thiện bản thân cả về tư duy lẫn nhân cách. Có những người cha, người mẹ đang tận tụy xây đắp tổ ấm của mình bằng cách yêu thương lẫn nhau, luôn giữ được hơi ấm cho gia đình. Họ cùng tạo ra một môi trường tốt để nuôi dạy con theo định hướng tích cực, tốt đẹp nhất. Trong gia đình trẻ em luôn là nôi bắt nguồn những tiếng cười bởi nét hồn nhiên ngây thơ của một tâm hồn non nớt, trong sáng. Bởi vậy chúng luôn được chăm sóc và bảo vệ, giáo dục một cách thích hợp để phù hợp với điều kiện hoàn cảnh, với tính cách và sở trường của chúng. Nếu như mẹ là người luôn dành cho những đứa con của mình lời yêu thương, sự chăm sóc tỉ mỉ, ân 38 cần và dịu dàng thì bố là người thầy mang lại những bài học quý giá từ cuộc sống ngay trong sự nghiêm khắc. Điều đó cho chúng ta hiểu về vai trò của đấng sinh thành. Đó là sự yêu thương luôn ở bên chúng khi chúng cần nhưng cũng không vì thế mà những đứa trẻ trở nên ương bướng khi được chiều chuộng bởi ở đó còn có cha người dạy chúng biết bước đi trong cuộc sống bằng nghị lực, ý chí. Gia đình có vai trò quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên hiện nay. Bởi gia đình là tế bào của xã hội, nơi duy trì nòi giống, bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội và cũng chính là môi trường quan trọng để hình thành và phát triển nhân cách con người. Những năm gần đây, do tác động của cơ chế thị trường, toàn cầu hóa, hội nhập và một số nguyên nhân khác đã ảnh hưởng đến đời sống tâm lý, lối sống của nhiều tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là lứa tuổi học sinh, SV phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong việc lựa chọn lối sống của mình vừa phù hợp với giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, vừa phải theo kịp với sự phát triển của xã hội hiện đại. Mặt trái của sự hội nhập là sự xáo trộn, mất ổn định trong tâm lý, văn hóa của rất nhiều người trong xã hội. Ở lứa tuổi học sinh - SV, các em rất nhạy cảm với cái mới, hay bắt chước những thói hư tật xấu ngoài xã hội, thậm chí xem đó như là một trào lưu nhằm thể hiện ―cái tôi‖ của mình. Những biểu hiện sai lệch này đều gây ra những hậu quả xấu cho cá nhân và xã hội, rất cần được chấn chỉnh, uốn nắn kịp thời. Cùng với sự biến đổi vô cùng to lớn của đời sống xã hội như hiện nay, ngay trong mỗi gia đình cũng diễn ra sự biến đổi một cách nhanh chóng. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống gia đình. Bên cạnh những tác động tích cực, những cơ hội phát triển mới cũng có không ít những nguy cơ và thách thức đang đặt ra cho mỗi gia đình. Với vai trò là ngôi trường đầu tiên của mỗi cá nhân, gia đình có điều kiện, có trách nhiệm và nhiều ưu thế trong việc tham gia vào giáo dục đạo đức, nhân cách cho thế hệ trẻ hôm nay; sự ảnh hưởng của giáo dục gia đình 39 tới việc hình thành nhân cách của SV là rất lớn. Cùng với sự phát triển của xã hội hiện đại, các bậc phụ huynh muốn thực hiện tốt vai trò là nhà giáo dục đặc biệt quan trọng của mình thì bên cạnh nhiệm vụ xây dựng kinh tế gia đình, các bậc phụ huynh cần phải tự mình học hỏi, trau dồi kiến thức mọi mặt, tạo lập môi trường sống lành mạnh cho con em mình. Đồng thời, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa giáo dục gia đình với nhà trường và các đoàn thể xã hội khác, bản thân ông bà, cha mẹ phải là tấm gương sáng về đạo đức cho con cháu noi theo. - Ảnh hưởng tích cực Y học cho rằng: khi vui, khi được yêu thương, âu yếm, khi đạt được điều gì ta mong muốn, cơ thể sẽ tiết ra các hormone: Dopamine, Serotonin, Oxytocin và Endorphins.. Những hormone này giúp cơ thể cảm nhận cuộc sống hạnh phúc, hiệu quả, đầy hứng khởi và lạc quan. Niềm vui, sự lạc quan, hứng khởi có từ đâu? Từ một gia đình luôn vui vẻ, tràn ngập tình yêu thương, đó là điều kiện quan trọng hàng đầu. Con trẻ được chào đón trong sự vui mừng của bố mẹ khi biết cơ thể mình đã bắt đầu cưu mang một sinh linh bé nhỏ. Khi được sinh ra, con lại được chào đón trong sự vui mừng của cả gia đình, người thân là niềm vui được ―gieo mầm‖ khi đứa trẻ xuất hiện. Thời kỳ ấu thơ, trò chơi là thứ giúp trẻ phát triển trí tuệ và mang lại rất nhiều kiến thức, kỹ năng và niềm vui cho trẻ. Nhóm tác giả hoàn toàn đồng ý với Cô Ái Liên: ―Đối với trẻ mọi lúc đều là giờ chơi, mọi nơi đều là chỗ chơi, mọi việc đều là trò chơi, mọi thứ đều là đồ chơi và mọi người đều là bạn chơi‖. Đây là nơi mang lại niềm vui lớn nhất cho trẻ. Từ sách, từ những câu chuyện cha mẹ kể cho con nghe: Ngoài việc thắt chặt mối quan hệ cha mẹ-con cái, tăng khả năng ngôn ngữ, khả năng tư duy, tạo nền tảng học tập tốt Sách hay truyện tranh, các chương trình giải trí lành mạnh mang lại niềm vui cho trẻ qua cách cha mẹ tiếp xúc với trẻ khi kể chuyện hay đọc sách, nội dung câu chuyện, các trò chơi diễn kịch, đóng vai 40 dựa trên các câu chuyện đã đọc mang lại rất nhiều niềm vui cho trẻ. Từ lòng cảm thông, chia sẻ, biết đặt địa vị của mình vào địa vị của người khác để suy xét vấn đề. Ta thử hình dung một đứa trẻ chỉ có một chiếc bánh nhưng vì thương em, biết em rất thích chiếc bánh này, con nhường chiếc bánh ấy cho em thử hỏi lúc này trẻ vui biết bao nhiêu! Trong gia đình, cha mẹ nên dùng những câu nói tích cực với con, những câu nói ở thể xác định, thưởng phạt hợp lý, tránh la mắng, nhắc đi nhắc lại lỗi lầm của con và đặc biệt không bao giờ so sánh con với anh, chị, em hay với ―con nhà người ta‖. Trong các mô hình gia đình, mô hình gia đình trí thức, bố mẹ có trình độ học vấn, có văn hoá, gia đình hoà thuận, đầm ấm và hạnh phúc và đặc biệt gia đình là nơi để các con cảm thấy thật sự an toàn khi sống ở đó sẽ có ảnh hưởng một cách tích cực đến định hướng giá trị nhân cách của các em. Các em sẽ có định hướng giá trị nhân cách đúng đắn theo sự định hướng của bố mẹ và phát triển nhân cách của mình đúng với mong muốn của xã hội. Một số ít học sinh, SV phải sống trong môi trường gia đình khó khăn về kinh tế, bố mẹ thiếu trình độ văn hoá, không có hình thức giáo dục con cái tích cực song vẫn trở thành học sinh ngoan, học giỏi, do sự tự học hỏi, sự nỗ lực và ý chí quyết tâm cao của bản thân. Tuy nhiên, để làm được điều này thì bố mẹ trong gia đình phải có phương pháp giáo dục phù hợp và kích thích tiềm năng phát triển của các em. Những thử thách, hành động, suy nghĩ tiêu cực của cha mẹ luôn ảnh hưởng lên con cái mà đôi khi cuộc sống khó khăn khiến chúng ta thiếu hoặc không thể kiểm soát được. Điều này có thể làm tổn thương tinh thần của con trẻ. Con có thể trở nên thiếu tự tin do ảnh hưởng của sự sợ hãi trong tâm trí tiềm thức của con. Hệ quả là con sẽ bị giới hạn đáng kể và khó thành công trong cuộc sống, vì thiếu niềm tin hoặc nghi ngờ khả năng của mình. Thêm vào đó, một tuổi thơ trong một gia đình không hạnh phúc với bầu không khí cảm xúc không ổn định có thể là lý do các chấn thương tâm lý và xúc cảm khác nhau sẽ làm cho cuộc sống của đứa trẻ khó khăn hơn. 41 Tóm lại, một gia đình luôn tràn đầy tiếng cười hạnh phúc phải là ưu tiên chính trong mọi hoạt động của gia đình, vì nó là nhân tố quan trọng trong sự thành công của cả con cái và cha mẹ. Gia đình là tế bào của xã hội, là nền tảng để hình thành những phẩm chất đạo đức nói chung và nuôi dưỡng tinh thần khoan dung, đoàn kết nói riêng đối với học sinh, SV. - Ảnh hưởng tiêu cực Trong bối cảnh xã hội phát triển và hội nhập, gia đình Việt Nam đang có những biến đổi mạnh mẽ về cấu trúc, hình thái, quy mô và các mối quan hệ trong gia đình. Những giá trị, chuẩn mực truyền thống đã và đang bị tác động, thay đổi, xen lẫn với những chuẩn mực, hành vi của xã hội mới. Mối quan tâm, chăm sóc của một bộ phận cha mẹ dành cho con cái dường như bị suy giảm. Nền tảng đạo đức xã hội, nhân cách của một số trẻ em đang có nguy cơ bị lung lay, bởi chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân và thiếu vắng sự chăm sóc, bảo vệ của gia đình. Ðiều đáng lo ngại hiện nay là, vì những lý do khác nhau, một bộ phận gia đình trong ứng xử với nhau đã thiếu sự khoan dung, đoàn kết, nên không thật sự trở thành "tổ ấm" cho mỗi con người. Nếu cấu trúc gia đình lỏng lẻo, liên kết giữa các thành viên gia đình yếu, các thành viên gia đình không được đối xử bình đẳng, cha mẹ thiếu gương mẫu và không có thời gian hoặc không quan tâm chăm sóc, giáo dục trẻ em, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, xung đột, bạo lực gia đình gia tăng... thì gia đình khó có thể làm tốt chức năng giáo dục, các thành viên trong gia đình khó hòa thuận, hạnh phúc và đặc biệt con cái khó có thể sống trong tình yêu thương, ấm no và hình thành nhân cách tốt. Có thể nêu hai vấn đề bất cập chủ yếu trong đời sống gia đình có liên quan mật thiết với giáo dục đối với các thành viên gia đình như sau: Mâu thuẫn, xung đột gia đình mà đỉnh điểm là bạo lực gia đình nghiêm trọng, trong đó nổi bật nhất là bạo lực của người chồng đối với người vợ và bạo lực của cha mẹ đối với con cái. Những trẻ em sinh ra và lớn lên trong các 42 gia đình thường xuyên phải chứng kiến hành vi bạo lực của cha đối với mẹ, những cảnh mắng chửi nhau giữa các thành viên gia đình, những lần bị đòn roi từ cha mẹ, cũng có xu hướng áp dụng các hành vi bạo lực đối với người khác trong tương lai. Gắn với các mâu thuẫn, xung đột và bạo lực gia đình là vấn đề ly hôn. Nhất là các vụ ly hôn có con nhỏ, nếu bố mẹ xử sự sau ly hôn không khéo léo và thiếu tế nhị thì các cháu cũng là người chịu rủi ro nhiều hơn trong cuộc sống, cá biệt cũng dễ bị rơi vào những hành vi lệch lạc trong tương lai. Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, chúng ta đang chứng kiến một hiện tượng khá bất ổn ở không ít gia đình, đó là việc thiếu vắng sự chăm sóc, giáo dục của các bậc cha mẹ đối với con cái, dù họ vẫn sống cùng nhà với các con, cả đối với những người đang vật lộn mưu sinh cũng như các gia đình khá giả hơn. Vẫn còn một tỷ lệ không nhỏ người cha và người mẹ không dành thời gian để chăm sóc con cái. Sự thiếu quan tâm của cha mẹ đối với con cái có thể dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực cả về mối liên hệ tình cảm cha mẹ - con cái hoặc tăng thêm nguy cơ đối với các hành vi lệch chuẩn trong cuộc sống. Không ít trẻ em trong các gia đình không được cha mẹ quan tâm đã bỏ học, đi lang thang bụi đời, để cuối cùng rơi vào vòng xoáy của các tệ nạn xã hội như cờ bạc, nghiện hút, cướp giật, mại dâm, trộm cắp,... gần đây nhất nhiều cháu gái nhỏ bị xâm hại rất thương tâm. Có nhiều nguyên nhân cụ thể của tình hình nêu trên nhưng điều quan trọng nhất là chúng ta chưa nhận thức đầy đủ vai trò của gia đình với tư cách là một thiết chế xã hội đặc thù có mối quan hệ chặt chẽ với các thiết chế khác trong hệ thống xã hội tổng thể, sự vững mạnh hay bất cập của gia đình sẽ có tác động lớn đối với việc quản lý xã hội nói chung. Cũng từ nguyên nhân đó, giáo dục gia đình chưa được coi trọng. Bản thân một số người làm cha làm mẹ chưa thật sự gương mẫu với các con, đôi khi còn là hình ản...ủ nghĩa và hội nhập quốc tế‖, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Giáo dục và Đào tạo tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên thông qua các hoạt động giáo dục, đào tạo và trải nghiệm. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; khuyến khích cán bộ, nhà giáo, học sinh, sinh viên xây dựng các bài giảng, video clip, hình ảnh, bài viết về giáo dục đạo đức, lối sống phù hợp với từng cấp học, trình độ đào tạo; hướng dẫn học sinh thực hiện 5 Điều Bác Hồ dạy phù hợp với lứa tuổi.Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức nghề nghiệp, lối sống văn hóa cho học sinh, sinh viên gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; xây dựng và nhân rộng mô hình tốt, điển hình tiêu biểu trong giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên.Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật về xây dựng trường học an toàn, lành mạnh, thân thiện; các đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt về giáo dục đạo đức, lối sống; xây dựng văn hóa trường học; tổng kết Đề án ―Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho thanh niên, thiếu niên và nhi đồng giai đoạn 2015 - 2020‖ và đề xuất chương trình, kế hoạch cho giai đoạn tiếp theo; tổ chức thực hiện có nền nếp hoạt động chào cờ, hát Quốc ca; thể dục giữa giờ; lao động, vệ sinh trường, lớp; tổ chức tốt các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, tình nguyện vì cộng đồng; nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động tư vấn học đường; từng bước tiến tới chuyên nghiệp hóa hoạt động trợ giúp, tư vấn tâm lý học đường tại các cơ sở giáo dục. Đồng thời tiếp tục rà soát đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy môn học giáo dục đạo đức, các môn học chính khóa và các hoạt 53 động giáo dục khác có liên quan; các cơ sở đào tạo giáo viên chú trọng đổi mới nội dung, chương trình đào tạo giáo viên về đạo đức nhà giáo; tăng cường vai trò, trách nhiệm của Hiệu trưởng, giáo viên chủ nhiệm, cố vấn học tập, giáo viên tư vấn tâm lý, cán bộ Đoàn, Hội, Đội, giáo viên các bộ môn; phát huy vai trò và trách nhiệm nêu gương của cán bộ quản lý, nhà giáo về đạo đức, lối sống, không dạy thêm, học thêm trái quy định; đổi mới phương pháp đánh giá đạo đức, khen thưởng, kỷ luật đối với học sinh, sinh viên. Triển khai các giải pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội trong hoạt động giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên; tổ chức kiểm tra, giám sát, đánh giá công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, SV; chỉ đạo xử lý kịp thời, nghiêm minh các trường hợp vi phạm đạo đức, lối sống. * Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tuyên dương khen thưởng đối với những sinh viên có những hành vi ứng xử tốt đối với xã hội. Những thay đổi của giáo dục và nhà trường trong bối cảnh mới đã đặt ra những yêu cầu mới đối với người thầy, đòi hỏi người thầy phải có những vai trò mới trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4-11-2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về ―Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế‖ nhấn mạnh: ―Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân‖. Để đạt được những mục tiêu mà Nghị quyết đề ra, cần phải có sự nỗ lực, quyết tâm của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, trong đó người thầy đóng một vai trò quan trọng, quyết định sự phát triển của nền giáo dục nước nhà. ―Người thầy phải là tấm gương suốt đời ― Ngày nay, việc ―học suốt đời‖ đã trở thành thực tế, các tiến bộ công nghệ cho phép mọi người có điều kiện để học cái mà mình yêu thích nhất ở 54 bất kỳ lứa tuổi nào.Trong nghề dạy học, chất lượng học tập của học sinh và chất lượng hoạt động sư phạm của thầy có tương quan tỉ lệ thuận với nhau, để đảm bảo chất lượng học tập của học sinh cần quy định về trình độ năng lực của thầy. Vì thế, chuyên nghiệp hóa nghề dạy học là cam kết của ngành đối với xã hội về chất lượng của lực lượng lao động nghề, đó cũng là cách để khẳng định giá trị của nghề sư phạm trong xã hội. Để đáp ứng được yêu cầu đó, người thầy phải trải qua một quá trình học tập và thực hành tay nghề một cách tích cực và kỹ lưỡng, từ đào tạo ban đầu đến bồi dưỡng liên tục trong thực tiễn hành nghề. Tuy nhiên, dù được đào tạo đến trình độ nào người thầy vẫn luôn đứng trước yêu cầu phải tiếp tục học tập và học tập không ngừng nhất là trong kỷ nguyên công nghệ thông tin, tri thức nhân loại gia tăng một cách nhanh chóng. Trong nghề dạy học, việc học tập của thầy còn mang ý nghĩa như một năng lực nghề bởi chức năng giáo dục ngày nay được nhấn mạnh đến việc dạy cho học sinh cách học. Kinh nghiệm cách học của người thầy là nền tảng để thấu hiểu những khó khăn, những cản trở học tập của học sinh cũng như những ẩn chứa đằng sau các hành vi, biểu hiện học tập bên ngoài của học sinh và đó cũng là những bài học quý để thầy biết cách hướng dẫn học sinh học. Chính vì thế, thầy còn được yêu cầu trở thành chuyên gia về học tập suốt đời với ý nghĩa đó. ―Người thầy phải là nhà giáo dục chuyên nghiệp‖ Người thầy là người có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ giáo dục trong các thiết chế giáo dục của xã hội và được trả công cho công việc của mình. Điều này để nhấn mạnh đến trách nhiệm đạo đức, pháp lý của người thầy trong việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục. Hơn nữa, người thầy là thành viên của cộng đồng nghề, tức là đảm trách một lĩnh vực hoạt động căn bản trong đời sống để duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội. Vì thế, trách nhiệm với công việc, với nghề là một yêu cầu đạo đức. Ở đây, đạo đức nghề nghiệp bao gồm cả hai khía cạnh: đạo đức với cá nhân, với các đối tượng mà mình phục vụ; và đạo đức với xã hội đã giao phó nhiệm vụ cho mình. Hai khía cạnh này 55 có liên quan mật thiết với nhau, tuy nhiên có sự khác nhau nhất định. Đạo đức với người học thể hiện ở sự tin tưởng, sự quan tâm, yêu thương và đặt kỳ vọng cao hơn đối với người học trong quá trình giáo dục họ. Đạo đức với xã hội thể hiện ở ý thức trách nhiệm, quyết tâm, nỗ lực hoàn thành sứ mệnh, nhiệm vụ được giao, đóng góp vào sự tiến bộ, văn minh của xã hội và sự phát triển của cộng đồng nghề nói riêng.Vai trò của nhà giáo dục chuyên nghiệp là thực hiện sứ mệnh cải tạo xã hội và phát triển toàn diện học sinh bằng năng lực tư duy và năng lực hành động trên những luận cứ khoa học và nhân văn. Người thầy trước hết phải là nhà giáo dục với hai nhiệm vụ cốt lõi là giáo dục và dạy học, hay giáo dưỡng. Điều này nhấn mạnh trách nhiệm trang bị cho học sinh kiến thức, hiểu biết thế giới khách quan, cách học để học sinh không ngừng phát triển nhận thức, trí tuệ, có thế giới quan khoa học và đồng thời, có trách nhiệm tạo ra những cơ hội hoạt động và giao lưu trong lớp học, trường học và trong cộng đồng để xây dựng sức khỏe thể chất và tinh thần, những xúc cảm và kỹ năng cần thiết, cơ bản cho nhân sinh quan của học sinh. Vì thế, việc hỗ trợ cho học tập và phát triển của học sinh được xem là điều kiện sống còn cho sự thành công của người thầy. ―Người thầy phải là nhà nghiên cứu thực hành‖ Trong thực tiễn của nhà trường, lớp học luôn tồn tại những yếu tố có ảnh hưởng không mong đợi đến việc dạy và việc học. Để duy trì và phát triển nhà trường với tư cách là một thể chế xã hội, nâng cao chất lượng hoạt động là một mục tiêu chiến lược. Vì thế, nghiên cứu và giải quyết những vấn đề nảy sinh, cải tạo những yếu tố cản trở là nhiệm vụ thường xuyên của người làm giáo dục. Điều này nhấn mạnh rằng người thầy mới chính là người nghiên cứu và giải quyết những vấn đề của thực tiễn giáo dục ở nhà trường. Đó là lý do chính để đòi hỏi người thầy phải suy nghĩ và hành xử như một nhà nghiên cứu, giải quyết vấn đề của thực tiễn lớp học, thực tiễn nhà trường. Trong mỗi nhà trường, mục tiêu nâng cao chất lượng luôn thúc đẩy người thầy tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy và học và cải tạo những yếu tố 56 có ảnh hưởng tiêu cực đến việc dạy và việc học. Những kết quả nghiên cứu lý thuyết được áp dụng, thử nghiệm vào thực tiễn nhà trường, lớp học cũng sẽ trở nên phổ biến trong các môi trường khuyến khích văn hóa chất lượng. Khi người thầy nghiên cứu, cải tạo thực tiễn giáo dục của nhà trường bằng những tác động sư phạm, do vậy đã trở thành nhà nghiên cứu thực hành, ứng dụng. ―Người thầy phải là nhà cách tân xã hội‖ Nói như nhà triết học chuyên nghiên cứu về tâm lý học thực hành và chuyên về sư phạn Dewey ―giáo dục là phương pháp cơ bản của tiến bộ và cải cách xã hội‖. Giáo dục bản thân nó là để làm thay đổi, làm mới người học và qua đó làm mới xã hội theo hướng tăng trưởng, tích cực. Người thầy với chức năng giáo dục của mình sử dụng tri thức và kỹ năng sư phạm để làm cho học sinh được giáo hóa, thay đổi và trưởng thành, như là kết quả của quá trình học tập của người học. Công tác đó người thầy không làm đơn độc mà luôn có sự cộng tác, phối hợp và hỗ trợ của các thành phần khác trong xã hội, trước hết là của người học, cha mẹ các em và các đồng nghiệp. Sứ mệnh đó còn nhận được sự bảo trợ của xã hội và của chính quyền. Cùng chung mục tiêu giáo dục thế hệ trẻ, những đề xuất sư phạm dễ dàng nhận được sự ủng hộ, phối hợp của những thành viên khác trong xã hội.Do đó, vai trò và năng lực sư phạm của thầy còn ở chỗ có khả năng lôi kéo những thành viên khác của xã hội, trước hết là của cha mẹ và các tổ chức xã hội có chức năng giáo dục vào việc tạo ra các môi trường mang tính giáo dục cho người học. Môi trường gia đình, cộng đồng, xã hội trở nên mang tính ―giáo dục‖ hơn vì mục tiêu giáo dục và phát triển của nhà trường cho trẻ em. Thực chất đó là biểu hiện của sự thay đổi ở những người tham gia cộng tác cùng nhà trường trong việc giáo dục trẻ em. Họ tin tưởng và tự nguyện ―đầu tư‖ cho con em mình, cho tương lai của cộng đồng, của đất nước, của nhân loại. * Tổ chức các phong trào, thi đua nhằm nâng cao tính gắn kết cộng đồng Các hoạt động tạo môi trường giúp sinh viên rèn luyện đạo đức, tác 57 phong. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng được các cấp bộ triển khai dưới nhiều hình thức hiện đại, dễ tiếp cận, nội dung cụ thể, gần gũi. Trung Ương Hội Sinh viên Việt Nam ban hành Đề án ―Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho sinh viên, giai đoạn 2015 - 2018‖. Trong nhiệm kỳ qua, 100% Hội Sinh viên cấp trường, cấp tỉnh đã tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Đoàn, Hội Sinh viên; tổ chức rộng rãi các hoạt động góp ý văn kiện Đại hội Đảng các cấp, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, tuyên truyền bầu cử Quốc hội khóa XIV và Hội đồng nhân dân các cấp giai đoạn 2016 - 2021, góp ý văn kiện Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XI. Phương thức triển khai các hoạt động tìm hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã có nhiều đổi mới; hình thành nhiều mô hình, giải pháp hiệu quả, góp phần nâng cao nhận thức, bản lĩnh của sinh viên. Hoạt động giáo dục truyền thống được chú trọng triển khai, đa dạng về nội dung và hình thức. Nổi bật là các hoạt động giáo dục truyền thống cách mạng, bản sắc văn hóa dân tộc, truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo. Các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn, các sự kiện quan trọng của Đảng, của dân tộc và của tổ chức Đoàn, Hội được các cấp bộ Hội quan tâm tuyên truyền, triển khai. Một số hoạt động cấp Trung ương như chuỗi chương trình ―Tuổi trẻ Việt Nam - câu chuyện hòa bình‖, cuộc thi video clip hát Quốc ca ―Tự hào Tổ quốc Việt Nam‖ thu hút sự quan tâm, tham gia của đông đảo sinh viên, có sức lan tỏa trong xã hội. Các hoạt động tuyên truyền, hướng về biển đảo được các cấp bộ Hội tập trung triển khai, thu hút sự quan tâm đông đảo hội viên, sinh viên, góp phần bồi đắp tình yêu, ý thức bảo vệ chủ quyền và trách nhiệm tham gia phát triển kinh tế biển, đảo của sinh viên. Chương trình ―Sinh viên với biển đảo Tổ quốc‖, công trình cột cờ Tổ quốc tại các đảo tiền tiêu, đảo thanh niên nhận được sự đánh giá cao của sinh viên, nhà trường và xã hội. Các hoạt động định hướng giá trị, đạo đức, lối sống, nâng cao ý thức công dân, chấp hành pháp luật cho hội viên, sinh viên được tổ chức thường 58 xuyên, rộng khắp. Các chương trình văn hóa, văn nghệ, hội thi nét đẹp sinh viên, được duy trì, đổi mới hình thức tổ chức, thu hút đông sinh viên tham gia. Cuộc thi viết và sáng tác ca khúc ―Sinh viên Việt Nam những câu chuyện đẹp‖ do Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam phối hợp với Báo Sinh viên Việt Nam tổ chức đã tuyên truyền, giới thiệu đến sinh viên và xã hội những hành động đẹp, những tấm gương tiêu biểu trong lối sống, học tập, rèn luyện của sinh viên Việt Nam. Cuộc vận động ―Mỗi ngày một tin tốt, mỗi tuần một câu chuyện đẹp‖ đạt những kết quả bước đầu, góp phần định hướng sử dụng mạng xã hội tích cực cho sinh viên. Hoạt động phát huy và rèn luyện thói quen tốt trong sinh viên được triển khai và đạt hiệu quả thiết thực. Các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật được duy trì thực hiện. Công tác nắm bắt tình hình tư tưởng sinh viên được các cơ sở Hội quan tâm triển khai, bước đầu ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng ngày càng hiệu quả các diễn đàn, mạng xã hội, trang thông tin điện tử để kịp thời nắm bắt và định hướng tình hình sinh viên. Việc đổi mới phương thức triển khai đã góp phần kiểm soát, xử lý các luồng thông tin độc hại; phản bác các nội dung tuyên truyền kích động, đi ngược lại với chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước; kịp thời ghi nhận và giải đáp, kiến nghị các vướng mắc, nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của sinh viên. Các hoạt động tạo môi trường cho sinh viên học tập, nghiên cứu khoa học cần được triển khai hiệu quả, phần nào đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của sinh viên, giúp sinh viên thích ứng với phương thức đào tạo mới. Việc phát triển các câu lạc bộ, tổ, đội, nhóm, tập thể SV tự học, nghiên cứu khoa học được các cơ sở Hội xác định là nhiệm vụ trọng tâm, nhằm tập hợp sinh viên, thúc đẩy tinh thần thi đua học tập và nghiên cứu, tạo không gian để sinh viên trao đổi kiến thức, giáo trình, tài liệu học tập. Các cuộc thi Olympic môn học chuyên ngành được phối hợp tổ chức thường xuyên dưới nhiều hình thức đa dạng, quy mô mở rộng, thu hút được sự quan tâm của sinh viên. Tổ chức các hoạt động tạo môi trường để SV tình nguyện vì cuộc sống 59 cộng đồng. Trong nhiệm kỳ vừa qua, sinh viên tiếp tục là lực lượng nòng cốt trong các phong trào thanh niên tình nguyện với nội dung phong phú: xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, vì đàn em thân yêu, các hoạt động chăm sóc, khám chữa bệnh, phát thuốc miễn phí, bảo vệ môi trường, tham gia ứng phó với biến đổi khí hậu, giải quyết hậu quả sau thiên tai. Phương thức tổ chức hoạt động tình nguyện có nhiều đổi mới, đa dạng hơn. Chương trình ―Tiếp sức mùa thi‖ tiếp tục được triển khai hiệu quả, được xã hội đánh giá cao về ý nghĩa cũng như tính thiết thực, góp phần vào việc thực hiện thành công các kỳ tuyển sinh đại học, cao đẳng, thi trung học phổ thông quốc gia hằng năm. Hội Sinh viên các cấp đã chủ động đổi mới phương thức tổ chức đội hình, nội dung hỗ trợ, phù hợp với công tác tổ chức kỳ thi trung học phổ thông quốc gia. Chương trình ―Tiếp sức đến trường‖ được triển khai tốt ở các trường thông qua các học bổng, phần quà hỗ trợ tân sinh viên, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Hội sinh viên cấp trường cũng chủ động thành lập các đội hình sinh viên tình nguyện hướng dẫn thủ tục nhập học, tư vấn, tìm kiếm nhà trọ hỗ trợ tân sinh viên. Chiến dịch sinh viên tình nguyện ―Mùa hè xanh‖ trong nhiệm kỳ được các cấp bộ Hội tập trung chỉ đạo và có bước phát triển mạnh mẽ về quy mô, chất lượng. Cách thức tổ chức chiến dịch có nhiều sáng tạo, thiết thực. Địa bàn được mở rộng đến các đảo tiền tiêu của Tổ quốc, tăng cường phát huy các đội hình tình nguyện gắn với chuyên môn, chuyển giao khoa học, kỹ thuật. Nhiều tỉnh, thành duy trì tốt đội hình tình nguyện tại địa bàn và tổ chức đội hình hỗ trợ các địa bàn khó khăn ngoài địa phương. Một số đơn vị xây dựng đề án hỗ trợ, giúp đỡ giải quyết các vấn đề của địa phương trong một khoảng thời gian dài hạn. Chương trình ―Tình nguyện mùa đông‖, ―Xuân tình nguyện‖ với các hoạt động đa dạng, thiết thực, ý nghĩa và phù hợp với nhu cầu của từng địa phương, đối tượng của các chương trình. Chương trình đã góp phần hỗ trợ học sinh, thiếu nhi vùng cao, vùng khó khăn có thêm điều kiện sinh hoạt, học tập; chia sẻ với những người khó khăn, neo đơn trong 60 những ngày giáp tết. Các hoạt động tình nguyện thường xuyên, tại chỗ được các cấp bộ Hội quan tâm tổ chức thực hiện bằng những công việc cụ thể gắn với điều kiện học tập, rèn luyện của sinh viên. Các hoạt động bảo vệ và xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp được thường xuyên tổ chức; trong đó, chú trọng các hoạt động giữ gìn cảnh quan môi trường giảng đường, ký túc xá, khu nhà trọ, địa bàn trường trú đóng thông qua các ―Ngày thứ bảy tình nguyện‖, ―Ngày chủ nhật xanh‖... Hội sinh viên các trường đã chủ động phối hợp thành lập các đội sinh viên tình nguyện xung kích an ninh tham gia tuần tra, tuyên truyền, vận động giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội tại các khu dân cư tập trung đông sinh viên thuê trọ. Các hoạt động tham gia đảm bảo trật tự an toàn giao thông được duy trì và thực hiện hiệu quả như: tuyên truyền về văn hóa giao thông; thành lập các đội sinh viên tình nguyện tham gia điều tiết giao thông tại các giờ cao điểm, các ngã ba, ngã tư trọng điểm, thực hiện mô hình ―Cổng trường an toàn giao thông‖. Hoạt động hiến máu tình nguyện thu hút đông đảo sinh viên tham gia. Mô hình ngày hội hiến máu tình nguyện, các câu lạc bộ tuyên truyền hiến máu tình nguyện, ―ngân hàng máu sống, máu hiếm‖, ―ngân hàng máu di động‖ tiếp tục được duy trì, mang lại hiệu quả thiết thực.Hoạt động tình nguyện quốc tế đã có bước phát triển, ngày càng có nhiều đội hình thanh niên tình nguyện của các nước đến tham gia hoạt động ở Việt Nam và các đội hình tình nguyện của sinh viên Việt Nam tại các địa bàn ngoài nước. Trong 5 năm qua, các cấp bộ Hội đã tiếp nhận hàng trăm thanh niên tình nguyện quốc tế đến từ Canada, Hàn Quốc, Mỹ, Malaysia... tham gia hoạt động tình nguyện tại Việt Nam. Ngoài ra, Hội Sinh viên một số tỉnh, thành tiếp tục duy trì hoạt động tình nguyện tại Lào như: làm đường giao thông nông thôn, sửa chữa nhà, tổ chức khám chữa bệnh, nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ cho thanh thiếu niên 61 2.3.2. Về phía gia đình - Giáo dục, định hướng tư tưởng khoan dung, đoàn kết Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình là nơi nuôi nấng, ươm mầm nhưng măng non trẻ, những tương lai của đất nước, vì thế, gia đình là nòng cốt trong công tác giáo dục tư tưởng khoan dung đoàn kết cho các bạn sinh viên.Dù bạn là ai, bạn đi tới đâu thì khi về với mái ấm, với gia đình của mình, bạn vẫn là người con, người cháu của ông bà, cha mẹ, trong mắt họ bạn vẫn là những đứa con bé bỏng và họ luôn muốn dành cho bạn những điều tốt nhất, tuyệt vời nhất cho con cái của mình, và chúng ta thường làm, nên làm là vâng lời, nghe lời cha mẹ những gì họ dạy. Ngay từ khi vừa lọt lòng thì cha mẹ, gia đình là người dạy các bạn biết đi, biết nói, đến khi đi học thì cha mẹ là người dạy các bạn biết đọc, biết viết, biết làm toán, biết chơi thể thao Vì thế, gia đình là một nhân tố rất quan trọng trong công tác giáo dục tư tưởng khoan dung đoàn kết cho sinh viên. Có một nghiên cứu của Đại học Havard về cách hình thành ý thức, tính cách của trẻ, trong đó vai trò của người cha cực kỳ quan trọng, khi mà người cha chiếm đến 70% quá trình hình thành tính cách và tư duy của trẻ. Những hành động, lời nói, cử chỉ, tác phong, suy nghĩ của cha được trẻ tiếp thu rất nhanh. Đó là lý do vì sao, chúng ta hay gọi là ―con nhà nòi‖ khi thấy những đứa trẻ có tài năng giống như cha mẹ của chúng.Vậy nên, để giáo dục tư tưởng khoan dung đoàn kết cho sinh viên, các gia đình, đặc biệt các người cha cần phải cố gắng rất nhiều trong quá trình đó.Một đứa trẻ được sinh ra trong một gia đình có bố mẹ tri thức thì trong lời nói, cách ứng xử của đứa trẻ đó cũng toát nên nét văn minh lịch sử, có văn hóa; nếu đứa trẻ sinh ra trong một gia đình có bố mẹ là những doanh nhân, những nhà kinh doanh – thì tác phong, lời nói của chúng sẽ toát lên sự tinh tế, nhạy bén và đặc biệt là rất sắc sảo; nhưng nếu đứa trẻ được sinh ra trong một môi trường kém may mắn, bố mẹ thường xuyên cãi nhau, thậm chí ly thân, bố là một người không tốt về mặt kiến thức lẫn đạo đức – thì hầu hết những đứa trẻ đó sẽ hình thành lên 62 những tính cách, thói quen xấu sau quá trình được nghe, được nhìn, được tiếp xúc chứng kiến những hình ảnh xấu đến từ người cha của chúng và đó đã hình thành lên nhân cách, rất hạn chế trường hợp có thể vượt qua được những khó khăn đó để thoát ra khỏi nghịch cảnh vươn lên trong cuộc sống. Đó là lý do dẫn đến chúng ta hiện nay có một bộ phận thế hệ trẻ, những thanh niên chơi bời, nghiện hút, ăn chơi lêu lổng, không quan tâm tới những chuẩn mực đạo đức, lối sống, phong tục tập quán của mọi người. Những người cha mẹ hãy thực hiện tốt nêu gương, làm gương cho các con của mình để chúng phát triển tốt về nhân cách và đạo đức, hãy giáo dục trẻ đúng cách, phù hợp, để chúng ta có một thế hệ trẻ - là tương lai của đất nước đầy tiềm năng và phát triển, tự tin quyết định bản thân và có thể đưa cái tên Việt Nam ra thế giới. 2.3.3. Về phía bản thân sinh viên Nâng cao khả năng tự nhận thức của SV trong việc xây dựng tinh thần khoan dung, đoàn kết SV là thế hệ trẻ - là những thanh niên, những niềm hi vọng, những tương lai của đất nước và giờ đây những kì vọng, những mong muốn dành cho các bạn sinh viên ngày một lớn hơn thì điều đó là động lực và cũng là những thách thức buộc các bạn phải trưởng thành trên con đường của mình để đạt được những kì vọng mà ông, cha ta đang đặt niềm tin vào các bạn.Trong bối cảnh toàn cầu hóa, xã hội ngày một phát triển và thời đại 4.0 đang diễn ra và sắp tới là 5.0, khi mà giờ đây máy móc đã thay thế con người rất nhiều trong công việc và những quy phạm chung về chuẩn mực đạo đức, lối sống của người Việt Nam cũng đã thay đổi rất nhiều, đáng buồn nhất là những thay đổi đấy lại đang đi theo chiều hướng đi xuống, thay đổi một cách tiêu cực, những gì tích cực, những nét đẹp trong văn hóa, đạo đức, lối sống của nhân dân Việt Nam từ trước đến nay đang dần thay đổi bởi lối sống ―Tây hóa‖ và đi kèm với nó là những tệ nạn, sự đi xuống về mặt đạo đức. Vì vậy, trách nhiệm của các bạn sinh viên ngày nay càng nhiều hơn, càng đòi hỏi các bạn 63 phải cố gắng hơn, nỗ lực hơn nữa để góp phần vào công cuộc xây dựng lối sống, đạo đức tích cực cho nhân dân Việt Nam. Để làm được như vậy thì các bạn sinh viên cần phải có tinh thần trách nhiệm của cá nhân, bản thân các bạn trong công cuộc giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho SV hiện nay. Trách nhiệm của một người là việc người đó phải đảm bảo một kết quả phải xảy ra trong tương lai một cách chính xác và kịp thời (kể cả có ý thức hoặc vô ý thức). Nếu không hoàn thành trách nhiệm là mắc lỗi, và người đó phải gánh chịu hậu quả không tốt xảy ra do lỗi đó của mình. Người chịu trách nhiệm hay là người dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đây là mẫu của những người chủ, những người Lãnh đạo trong tập thể.Ngày nay, nhiều bạn sinh viên tự hào vì khả năng tiếng Anh đạt ―đẳng cấp quốc tế‖, việc tìm kiếm thông tin từ internet và sử dụng những tiện ích của nó chỉ là chuyện ―nhỏ như con thỏ‖. Đồ dùng ―đính kèm‖ trong ba lô của giới trẻ là chiếc smart phone sành điệu, latop thời thượng vừa có mặt trên thị trường Các bạn sinh viên nên dành ra vài giờ mỗi tuần chỉ để ngồi ở một nơi hoàn toàn yên tĩnh hoặc với âm nhạc không lời, êm dịu, nhẹ nhàng - tĩnh tâm và nghĩ thật sâu sắc về điều sau đây: bạn phải làm gì để xứng đáng với những điều cuộc sống ban tặng cho bạn mỗi ngày, làm gì để xứng đáng với việc bạn được sinh ra và chiếm dụng một diện tích cố định trên trái đất này? Cuộc sống này có quá nhiều lựa chọn. Vì vậy, SV rất dễ bị cám dỗ, xao nhãng và phân tâm. Họ dành rất nhiều thời gian để làm những việc không có ích cho tương lai, rời xa mục tiêu và mơ ước đã đặt ra cho cuộc đời chính mình, để rồi mỗi ngày trôi qua đều vô nghĩa, và họ lao đi tìm niềm vui. Vậy "sống có trách nhiệm" là gì? Sống có trách nhiệm là làm tròn nghĩa vụ bổn phận với xã hội, trường lớp, gia đình và bản thân... dám làm, dám chịu trách nhiệm về những hành động của bản thân. Bổn phận là SV, là những tinh hoa tương lai của đất nước. Chúng ta phải có trách nhiệm với bản thân, trách nhiệm với gia đình, những người xung quanh và có trách nhiệm trong quá trình học tập. 64 Trở nên có trách nhiệm với bản thân nghĩa là tập trung vào những mong muốn, nhu cầu của mình đồng thời tìm ra hướng giải quyết cho các vấn đề của bản thân. Điều cấm kị nhất đối với mỗi cá nhân là đứng cách ly, tự tách biệt mình với xã hội. Phải để bản thân tham gia các hoạt động tập thể, trải nghiệm những cái tốt đẹp và mới mẻ để tự rút ra kinh nghiệm sống cho bản thân. Gia đình là nền tảng xây dựng lên nhân cách của mỗi con người, một đứa trẻ sinh ra và lớn lên theo chiều hướng xấu hay tốt một phần là do ảnh hường của gia đình. Vì thế nên đối với gia đình, ta phải xây dựng cho mình một hình mẫu ngoan ngoãn, lễ phép và yêu quý các thành viên khác. "Kính trên nhường dưới" là tiêu chuẩn đặc biệt cần chú trọng trong quan hệ gia đình. Mặt khác, ta cũng cần phải biết chia sẻ và yêu thương. Sẽ không bao giờ thiệt thòi nêu ta cho đi yêu thương của chính mình. Xã hội đang dần phát triển từng ngày, và SV là người trực tiếp giúp nhân loại phát triển. Vậy nên SV phải có trách nhiệm với nơi chúng ta tồn tại. Chỉ cần những hành động nhỏ của bạn như không xả rác, không hút thuốc, uống rượu, giữ gìn vệ sinh chung... cũng là đóng góp cho xã hội. Hiện nay, mỗi đợt hè về chúng ta lại bắt gặp màu áo xanh của thanh niên tình nguyện, những con người đó gánh vác trên vai trách nhiệm của bản thân, đi về vùng sâu vùng xa giúp đỡ người già neo đơn, sửa lại cây cầu, lợp lại mái lá... tất cả những nghĩa cử đó đều thể hiện rõ rệt những cống hiến của họ với xã hội, mong muốn một đất nước tốt đẹp hơn. Vì vậy, trách nhiệm của SV trong công tác giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết là vô cùng lớn khi các bạn vừa là chủ thể tiếp nhận và góp phần là người thực thi trong công tác giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho SV. 65 Tiểu kết chƣơng 2 Chương 2. Giáo dục tư tưởng khoan dungm đoàn kết cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội, đề tài phân tích những đặc điểm SV và các yếu tố ảnh hưởng tới việc giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho SV trường ĐHNV HN; Phân tích thực trạng, nguyên nhân của thực trạng giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên trường ĐHNV HN, từ đó đưa ramột số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho SV trường ĐHNV HN giai đoạn hiện nay. 66 KẾT LUẬN Khoan dung, đoàn kết là khái niệm không mới và cũng không cũ đối với tất cả chúng ta. Nhờ có khoan dung, đoàn kết mà nhân dân Việt Nam hiện nay đang có một cuộc sống hòa bình, ấm no hạnh phúc, việc thực hiện khoan dung, đoàn kết trong lịch sử dân tộc đã đem lại một giá trị to lớn cho dân tộc ta. Trong bối cảnh dịch COVID–19 vừa qua diễn ra trên toàn cầu, thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, với tinh thần không để ai lại phía sau và sự đoàn kết một lòng của toàn Đảng, toàn dân ta trong việc chấp hành các quy định cách ly xã hội nhằm đảm bảo an toàn trong mùa dịch đã đem lại kết quả to lớn là Việt Nam - một trong những nước kiểm soát dịch tốt nhất trên thế giới , đặc biệt là không có ca tử vong nào. Việc giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho SV trường ĐHNV HN những năm qua đạt được nhiều thành tựu, góp phần trang bị cho SV những kiến thức, kỹ năng thái độ tốt nhất làm hành trang cho mỗi SV hòa nhập tốt vào cộng đồng, đóng góp tài năng và trí tuệ cho sự phát triển, xây dựng nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, thấm đượm tinh thần nhân văn cao cả. Nhóm tác giả hi vọng rằng qua kết quả nghiên cứu này, học sinh, SV đã và đang ngồi trên ghế nhà trường hãy dành cho nhau những nghĩa cử cao đẹp đối với mọi người, hãy nhìn thế giới, nhìn con người dưới lăng kính khoan dung, tôn trọng sự đa dạng phong phú, tôn trọng quan điểm, tư tưởng khác biệt. Mong rằng đề tài có thể góp phần truyền tải, lan tỏa những thông điệp, giá trị tốt đẹp, nhân văn về một tư tưởng, truyền thống đã được cha ông ta, lưu truyền và phát huy ngày càng mạnh mẽ cho đến ngày hôm nay. 67 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển giản yếu, (2003), Nxb. Văn hóa thông tin, 2. Nguyễn Thế Doanh, Vai trò của khoan dung tôn giáo và đoàn kết xã hội trong việc kiến tạo nền hòa bình và giữ vững ổn định xã hội, Tạp chí Triết học, số 5, 5- 2008. 3. Đảng cộng sản Việt Nam, (2016) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật. 3. Phạm Văn Đức, Đặng Hữu Toàn, Trần Văn Đoàn, Ulrich Dornberg (đồng chủ biên), (2008 ), Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội, Nxb. Khoa học Xã hội. 4. Thu Hiền (Trang thư điện tử Ban Quản Lý Lăng Chủ Tịch Hồ Chí Minh), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - Giá trị và sự vận dụng trong phát triển giáo dục ở Việt Nam hiện nay 5. Nguyễn Thi Phương Mai, (2016), Vận dụng tư tưởng khoan dung trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia –Sự thật. 68

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbao_cao_tong_ket_de_tai_giao_duc_tu_tuong_khoan_dung_doan_ke.pdf
Tài liệu liên quan