Các biện pháp nâng cao hiệu quả Xuất khẩu của Công ty Lâm đặc sản Hà Nội

Mục lục Phần mở đầu nội dung Trang Chương I: Những vấn đề cơ bản của hoạt động xuất khẩu. I. Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân 1. Một số lý thuyết về thương mại kinh tế. 2. Vai trò của xuất khẩu đối với kinh tế quốc dân. 3. Vai trò của xuất khẩu đối với kinh tế quốc dân của Việt Nam. II. Nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng hoá trong kinh doanh xuất nhập khẩu. 1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu, lựa chọn bạn hàng giao dịch. 2. Các bước nghiên cứu thị trườn

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1335 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các biện pháp nâng cao hiệu quả Xuất khẩu của Công ty Lâm đặc sản Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g . 3. Đàm phán ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hóa. III. Hiệu quả hoạt động xuất khẩu-phương pháp đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. A-Hiệu quả kinh tế trong hoạt động thương mại quốc tế. 1. Bản chất của kinh tế trong hoạt động thương mại quốc tế. 2.Các loại hiệu quả kinh tế xuất khẩu 3.Hệ thống chi tiêu, đánh giá hiệu quả kinh tế xuất khẩu. 4.Phương pháp tính hiệu quả kinh tế xuất khẩu B- Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. 1. Thuế quan 2. Hạn ngạch xuất khẩu 3. Trợ giúp xuất khẩu 4. ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái và tỷ xuất ngoại tệ hàng xuất khẩu 5. ảnh hưởng của nền sản xuất cũng như của các doanh nghiệp kinh doanh thương mại trong và ngoài nứơc. Chương II: Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hoá của công ty lâm đặc sản- Hà nội. I. Vài nét về công ty lâm đặc sản Hà nội 1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty lâm đặc sản Hà nội 2. Cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ của từng phòng trong Công ty lâm đặc sản Hà nội 3. Mối quan hệ giữa các phòng ban trong Công ty II. Quá trình hoạt động xuất nhập khẩu của công ty trong những năm qua III. Tình hình thực trạng - kết quả kinh doanh của Công ty lâm đặc sản Hà nội trong những năm gần đây 1. Các giai đoạn phát triển của Công ty 2 Kết quả kinh doanh của Công ty lâm đặc sản Hà nội trong những năm gần đây 3. Thực trạng kết quả doanh thu cụ thể từ hoạt đọng xuất nhập khẩu trong những năm gần đây 4 Những ưu nhược điểm trong hoạt động xuất khẩu của Công ty Chương III: Các biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá và phương pháp phát triển xuất nhập khẩu của Công ty lâm đặc sản Hà nội I. Biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu II. Phương hướng phát triển hoạt động xuất khẩu của Công ty lâm đặc sản Hà nội III. Các kiến nghị đối với nhà nước. Kết luận. Lời mở đầu Trong quá trình mở cửa nền kinh tế ra thị trường thế giới để thúc đẩy nền kinh tế quốc tế phát triển nhanh cần thúc đẩy xuất khẩu. Nhận thức rõ được điều đó Đảng và nhà nước ta đã có những hướng đi mới trong đường lối chính sách của mình từ từ một nênf kinh tế đóng cửa luôn đem theo tư tưởng tự cung tự cấp nay đã chuyển dần sang nền kinh tế thị trường tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng giao lưu kinh tế quốc tế mở cửa đón nhận vốn đầu tư nước ngoài mở rộng liên doanh liên kết làm ăn kinh tế với tất cả các nước khác nhau. Hơn nữa, do những chính sách đỏi mới của Nhà nước Việt Nam, từ năm 1990 hạot động xuất khẩu Việt Nam có những bước chuyển biến rất cơ bản về thị trường cũng như về cơ cấu mặt hàng, kim ngạch xuất khẩu. Nhiều cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu đã được đầu tư trang thiết bị hiện đại, nhiều mặt hàng có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên những điều kiện không thuận lợi cho các nhà xuất khẩu Việt Nam vẫn tồn tại như tình trạng thiếu vốn để đầu tư vào sản xuất, sự nghèo nàn về hệ thống hỗ trợ làm cho các nhà sản xuất khó cạnh tranh, hệ thống thông tin chưa đáp ứng được đày đủ làm cho các nhà sản xuất không hiểu biết về thực tiễn và nhu cầu của thị trường thế giới, hơn nữa các nhà các nhà xuất khẩu Việt Nam lại thiếu mối quan hệ buôn bán với thị trường quan trọng. Vì vậy vấn đề đặt ra là phải cạnh tranh hoàn thiện các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu sao cho có thể mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu , Trong khi các biện pháp của ta hiện nay chưa đồng bộ và nhất quán, còn thiếu hoặc máy móc phiến diện. Cho nên trong phạm vi kiến thức của mình, em chỉ xin phép phát triển đề tài :’’các biện pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu của Công ty Lâm Đặc Sản Hà Nội “. Trên cơ sở sử dụnh các lý luận về kinh doanh xuất nhập khẩu, thông qua phân tích tình hình kinh doanh của công ty trong 3 năm hoạt động để rút ra những mặt mạnh, những mặt còn tồn tạỉ công ty để từ đó nêu lên yêu cầuvà nội dung hoàn thiện thêm các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu của Công ty trong những năm tới. Trong quá trình tìm hiểu và hoàn thành đề tài em được sự chỉ dạy chi tiết của thầy giáo - PTS Nguyễn Thừa Lộc, cùng sự giúp đỡ nhiệt tình của các bác, cô, chú thuộc Công ty Lâm Đặc Sản Hà Nội. Em xin chân thành cảm ơn và rất mong nhận được ý kiến nhận xét để từ đó em có thể hoàn thiện tốt ý thức chuyên môn của mình. Chương I Những vấn đề cơ bản của hoạt động xuất khẩu trong cơ chế thị trường. I.Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân. 1.Một số lý thuyết về thương mại quốc tế 1.1 Chủ nghĩa trọng thương: Lý thuyết thương mại của chủ nghĩa trọng thường xuất hiện và phát triển ở châu Âu từ giữa thế kỷ15,16 thịnh hành suốt thế kỷ 17 và tồn tại đến giữa thế kỷ 18.Tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa trọng thương cho rằng chỉ có vàng và bạc là thể hiện sự giầu có của mỗi quốc gia và mỗi nước muốn đoạt được sự thịnh vượng phải tăng khối lượng kim khí quý thông qua việc xuất khẩu hàng hoá. Họ cho rằng chính phủ phải là người trực tiếp tham gia vào việc trao đổi hàng hoá giữa các nước để đạt được sự gia tăng của cải mỗi nước. Từ đó đi tới chính sách là phải tăng cường xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Những người trọng thương cho rằng thương mại quốc tế chỉ có lợi cho một bên và gây thiệt hại cho một bên kia nói cách khác là quốc gia nào xuất khẩu được nhiều thì có lợi, còn quốc gia nào nhập khẩu nhiều thì thiệt hại. Đến giai đoạn cuối trường phái trọng thương có đièu chỉnh quan niệm của họ và cho rằng có thể tăng cường mở rộng nhập khẩu nếu như qua đó thúc đẩy việc xuất khẩu nhiều hơn nữa, tức là nếu cán cân thương mại vẫn nghiêng ngày càng nhiều về phía xuất khẩu. Lý luận của trường phái trọng thương là một bước tiến đáng kể trong tư tưởng về kinh tế học vì nó đánh giá được tầm quan trọng của xuất khẩu và nhấn mạnh vai trò của chính phủ trong thúc đẩy xuất khẩu. Những tư tưởng này đã góp phần quan trọng vào việc mở rộng hoạt động thương mại quốc tế. Nhìn chung quan điểm của trường phái trọng thương ít tính lý luận và thường chỉ mới được nêu ra dưới hình thức những lời khuyên thực tiễn về chính sách kinh tế, nặng tính kinh nghiệm vì dựa trên cơ sở những quan sát đối với các hoạt động buôn bán của nước Anh và Hà Lan vào thời gian bấy giờ. 1.2. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith: Năm 1776 trong tác phẩm “sự giầu có của các dân tộc” Adam Smith đã rũ bỏ quan niệm coi vàng đồng nghĩa với của cải. Ông xuất phát từ một chân lý đơn giản là trong thương mại quốc tế các bên tham gia đều có lợi. Bởi vì hiển nhiên là nếu chỉ quốc gia này có lợi còn quốc gia khác bị thiệt hại thì quan hệ thương mại giữa họ với nhau sẽ không tồn tại. Từ đó ông đưa ra lý thuyết cho rằng thương mại giữa hai nước với nhau phải dựa trên cơ sở lợi thế tuyệt đối của từng nước. Giả sử thế giới có 2 quốc gia và mỗi quốc gia chỉ sản xuất 2 loại hàng hoá giống nhau. Nước thứ nhất có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất hàng A và nước thứ hai có lợi thế tuyệt đối về mặt hàng B. Trong điều kiện đó nếu mỗi nước chuyên sản xuất mặt hàng của mình có lợi thế tuyyẹt đối hơn và sau đó đem trao đổi với nhau, thì hai nước đều đạt được lợi ích. Bằng cách đó mà các nguồn tài nguyên được sử dụng một cách hiệu quả và khối lượng sản xuất cả hai mặt hàng A và B đều tăng lên. Mức độ gia tăng của hai mặt hàng này sẽ là thước đo mức độ lợi ích đạt được của sự chuyên môn hoá sản xuất của hai chuyên môn hoá sản xuất giữa hai nước thông qua trao đổi thương mại với nhau. Sự phân tích trước tiên đưa tới khái niệm về lợi thế tuyệt đối. Đó là lợi ích có thể đạt được của một nền kinh tế quốc gia nào đó, thông qua sự phân công lao động quốc tế nếu quốc gia đó biết tập trung vào việc sản xuất và xuất khẩu những hàng háo mà chi phí xã hội để sản xuất ra chúng thấp hơn mức chi phí trung bình quốc tế, đồng thời biết tiến hành nhập khẩu những hàng hoá mà việc sản xuất trong nước so với quốc tế có tình trạng ngược lại( tức là chi phí xã hộidể sản xuất ra chúng ở trong nước cao hơn mức chi phí trung bình quốc tế). Như vậy điều then chốt trong lập luận về lợi thế tuyệt đối là sự so sánh chi phí sản xuất của từng mặt hàng giữa các quốc qia với mức trung bình quốc tế. 1.3 Lý thuyết lợi thế tương đối của David Ricardo: David Ricardo khi đánh giá ý nghĩa của lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Ađam Smith đã cho rằng , trên thực tế lợi thế tuyệt đối của mỗi quốc gia không có nhiều. Hơn nũa thực tế cho rằng phần lớn các quốc gia tiến hành thương mại với nhau không chỉ ở những mạt hàng có lợi thế tuyệt đối mà còn đối vơi cả những mật hàng dựa trênlợi thế tương đối _ một khái niệm mang tính bao quát nhiều hơn. Nội dung của lý thuyết lợi thế tương đối được David Ricardo diễn đạt qua ví dụ về sự trao đổi khăn mặt và rượu vang giữa Anh và Bồ Đào Nha. Cả hai nước này đều có thể tìm ra lợi thế tương đối qua sự phân công lao động quốc tế ngay cả khi lợi ích kinh tế của hai mặt hàng ở nước này thấp hơn hẳn nước kia. Có thể xem xét các số liệu sau đay phản ánh tình hình trước và sau khi có sự phân cônglao động quoóc tế giữa hai nước Anh và Bồ Đào Nha qua việc sản xuất hai loại mặt hàng là khăn mặt và rượu vang. Bảng số liệu về sản xuất khăn mặt và rượu vang ở nước Anh và Bồ Đào Nha(giả định) Khối lượng sản xuất của nước Anh Giá trị quốc gia (đơn vị tính USD) Giá trị quốc tê(đơn vị tính USD) Khối lượng sản xuất của Bồ Đào Nha giá trị quốc gia (tính theo đơn vị USD) a.100 đơn vị khăn mặt b.100 đơn vị rượu vang 100 120 95 95 a.100 đơn vị khăn mặt b.100 đơn vị rượu vang 90 80 Cộng 220 190 170 Theo số liệu ở bảng trên ta thấy rằng nước Bồ Đào Nha đối với cả hai mặt hàng này đều có lợi thế tuyệt đối. Ngược lại ở nước Anh hoàn toàn không có lợi thế tuyệt đối đó. Song nếu so sánh giữa hai mặt hàng ở từng quốc gia thì Bồ Đào Nha lại có lợi thế hơn về sản xuất mặt hàng rượu vang(80/95 nhỏ hơn 90/95); còn ở nước Anh lại có lợi thế về sản xuất khăn mặt (100/95 nhỏ hơn 1120/95). Qua phân tích có thể rút ra nhận xét: néu nước Anh tập trung vào việc sản xuất khăn mặt , còn nước Bồ Đào Nha tập trung vào sản xuất rượu vâng thì cả hai nước sẽ tiết kiệm được chi phí trong việc hình thành giá trị hàng hoá. Cốt lõi của qui luật lợi thế tương đối chính là ở sự khéo léo lựa chọn giữa các ưu thế của mình và các ưu thế của nước khác nhằm đạt được hiệu quả tối đa. chính thông qua trao đổi thương mại quốc tế khi mà có thể lựa chọn kiểu kết hợp này, khai thác lợi thế tuyệt đối và cả lợi thế tương đối của mỗi nước. 1.4.Học thuyết của Heclescher-Ohlin về lợi thế so sánh Các học thuyết trên đây cho thấy biểu hiện của lợi thế so sánh là sự khác nhau về chi phí lao động hay sự khác nhau về năng suất lao độnggiữa các quốc gia , hoặc ở sự khác nhau về chi phí cơ hội đối với một hàng hoá nào đó giữa các nước. Tuy nhiên những cách lý giải đó chưa cho thấy nguyên nhân tạo ra sự khác nhau đó ngoại trừ khả năng khác nhau về điều kiện khí hậu hay đất đai . Lý thuyết của Heclescher-Ohlin tiến xa hơn bằng việc mở rộng mô hình thương mại với sự phân tích sự sinh lợi cửa các yếu tố phong phú trong mỗi quốc gia. Lý thuyết Heclescher-Ohlin dựa trên hàng loạt giả định. + Trong thế giới mà các ông nghiên cứu chỉ có hai quốc gia với 2 loại hàng hóa (A và B) và chỉ có 2 yếu tố sản xuất là Lao động và Tư bản. + Cả hai quốc gia đều sử sụng nhưng công nghệ sản xuất có trình độ giống nhau và thị hiếu của các dân tộc là như nhau. + Hàng hóa A là hàng hóa được giả định chứa đựng nhiều lao động hơn, còn hàng hóa B là hàng hóa được giả định chứa nhiều tư bản hơn. + Tỷ lệ giữa đầu vào và đầu ra của hai loại hàng hóa trong cả hai quốc gia là một hằng số, lợi suất không đổi theo quy mô. Cả hai quốc gia đều tiến hành chuyên môn hóa ở mức độ không hoàn toàn. + Cạnh tranh hoàn hảo diễn ra trong thị trường hàng hóa và thị trường các yếu tố sản xuất trong cả hai quốc gia. + Các yếu tố sản xuất có thể chuyển động tự do trong khuôn khổ một quốc gia nhưng lại bị cản trở trong phạm vi quốc tế. + Chi phí vận tải coi như bằng 0, thuế quan bằng 0 và không có các trở ngại khác trong thương mại quốc tế. Những giả định nêu trên đặt việc sản xuất hai loại hàng hóa giữa hai quốc gia trong sự cân bằng giữa các yếu tố để từ đó phát hiện ra sự mất cân bằng trên thực tế giữa các yếu tố đó đã tác động như thée nào đến việc hình thành lợi thế so sánh ở từng mặt hàng. Như vậy, hàng hóa B là hàng hóa chứa đựng hoặc sử dụng nhiều tư bản nếu tỷ số tư bản/lao động (K/L) được sử dụng trong việc sản xuất hàng hóa B lớn hơn trong việc sản xuất hàng hóa A trong cả hai quốc gia. Và quốc gia thứ hai là quốc gia có sẵn tư bản nếu tỷ giá tiền thuê tư bản (lãi suất) so với tiền lương (r/w) ở quốc gia này thấp hơn với quốc gia thứ nhất. Do quốc gia thứ hai là quốc gia có nhiều tư bản và hàng hóa B là hàng hóa chứa đựng nhiều tư bản nên quốc gia thứ hai có thể sản xuất tương đối nhiều hơn hơn hàng hóa B so với quốc gia thứ nhất. Mặt khác do quốc gia thứ nhất có nhiều lao động và hàng hóa A là hàng hóa sử dụng nhiều lao động nên quốc gia này có thể sản xuất nhiều hàng hóa A hơn so với quốc gia thứ hai. Lý thuyết Heclescher-Ohlin giải thích mô hình lợi thế tương đối dựa vào các yếu tố sản xuất. Nếu một quốc gia dồi dào về một yếu tố sản xuất nào đó thì quốc gia ấy có lợi thế tương đối về mặt hàng sử dụng nhiều yếu tố đó trong sản xuất. Nói cụ thể hơn là quốc gia ấy sẽ xuất khẩu những hàng hóa mà việc sản xuất ra chúng đòi hỏi nhiều yếu tố sản xuất rẻ và nhập khẩu những hàng hóa mà việc sản xuất ra chúng đòi hỏi nhiều yếu tố sản xuất đắt tiền và khan hiếm đối với họ. 2. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân: Trong điều kiện nền kinh tế thế giới ngày nay, các quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng được phát triển về chiều rộng và chiều sâu. Quan hệ kinh tế quốc tế là tổng thể các quan hệ về vật chất và tài chính, các quan hệ trong lĩnh vực kinh tế cũng như trong lĩnh vực khoa học và công nghệ giữa các quốc gia với nhau cũng như giữa các quốc gia với những tổ chức kinh tế quốc tế. Trên góc độ của một quốc gia, các quan hệ kinh tế quốc tế của quốc gia đó với các quốc gia còn lại khác và với các tổ chức kinh tế quốc tế hợp thành lĩnh vực kinh tế đối ngoại của quốc gia đó. Như vậy, trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ kinh tế đối ngoại có hai khâu cơ bản lặp đi lặp lại, đan chéo nhau tạo điều kiện cho nhau và thúc đẩy lẫn nhau phát triển trong tổng thể thống nhất biện chứng đó là Xuất khẩu và Nhập khẩu. Xuất khẩu của một nước có những chức năng cơ bản sau: * Một là, làm biến đổi cơ cấu giá trị sử dụng của tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo hướng có lợi cho việc đẩy mạnh phát triển sản xuất và nâng cao mức sống của nhân dân trong nước. Chức năng này có tác dụng làm lợi cho nền kinh tế quốc dân về mặt giá trị sử dụng, góp phần làm cho nền kinh tế quốc dân phát triển một cách nhịp nhàng và cân đối và qua đó đạt được tốc độ tăng trưởng cao. * Hai là Xuất khẩu góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế quốc dân nhờ việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ với nước ngoài trên cơ sở sử dụng triệt để những khả năng và lợi thế của phân công lao động quốc tế nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm và cải tiến chất lượng, khai thác các nguồn lực của nền kinh tế trong nước. Ba là sự phát triển của Xuất khẩu có liên quan mật thiết và thúc đẩy sự phát triển của các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như thông tin liên lạc quốc tế, tài chính - tín dụng quốc tế, v.v... Các chức năng nói trên của Xuất khẩu có liên quan chặt chẽ với Nhập khẩu. Trong quá trình thực hiện các chức năng đó chúng ta có thể khẳng định Xuất khẩu là khâu xuất phát, Nhập khẩu là khâu kết thúc. Vai trò quan trọng của Xuất khẩu trong phát triển nền kinh tế quốc dân thể hiện ở nhưng mặt sau: Xuất khẩu là tiến trình tiêu thụ một bộ phận của tổng sản phẩm xã hội ở thị trường nước ngoài để thu ngoại tệ. Nó tạo nên sức mạnh vật chất của nền ngoại thương một nước. Xuất khẩu để Nhập khẩu không có có sức mạnh đó chúng ta không thể đứng vững trên thị trường quốc tế. Xuất khẩu tạo điều kiện để nền kinh tế quốc dân trong nước có thể sản xuất với quy mô lớn hơn và đạt tới quy mô tối ưu trên cơ sở chuyên môn hóa và hợp tác hóa quốc tế, tạo thêm công ăn việc làm, tạo giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu thụ ra nước ngoài. Xuất khẩu thực chất là dựa vào chất lượng và trình độ kỹ thuật của sản phẩm trong nước ra đọ sức với thị trường quốc tế, ở đây mọi sản phẩm đều gặp phải một sự cạnh tranh của các công ty thuộc nhiều nước khác nhau. Thông qua Xuất khẩu có thể khẳng định được mình và học hỏi được kinh nghiệm và trình độ quốc tế đặc biệt là trình độ kỹ thuật và công nghệ của các nước phát triển. Xuất khẩu tạo điều kiên vật chất không những cho hoạt động ngoại thương mà còn cho việc tạo lập các mặt cân đối khác của nền kinh tế quốc dân như cho việc thanh toán trả nợ, cho hoạt động tín dụng... Đồng thời, thông qua Xuất khẩu có thể tạo điều kiện thuật lợi cho việc thực hiện chính sách ngoại giao chủ động và tích cực. Nói tóm lại, Xuất khẩu không phải là hành vi trao đổi hàng hóa và tiền tệ giản đơn, mà nó có ý nghĩa sâu rộng đối với nền kinh tế quốc dân và đối với sự hòa nhập của nó vào thị trường quốc tế. Do Xuất khẩu quan trọng như vậy cho nên các quốc gia rất coi trọng chiến lược Xuất khẩu. 3. Vai trò của hoạt động Xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân và của Việt Nam: a/ Vai trò của Xuất khẩu đối với việc phát triển sản xuất, dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để có thể tiến hành xuất khẩu, điều đầu tiên là phải lựa chọn mặt hàng, tổ chức lại sản xuất, áp dụng công nghệ thích hợp, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, đưa nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao. Cùng với việc thay thế nhập khẩu, hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam đã thúc đẩy việc mở rộng các mặt hàng mới, áp dụng các công nghệ mới, đưa tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp với yêu cầu của thị trường thế giới, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. b/ Vai trò của Xuất khẩu đối với vấn đề giải quyết việc làm, mở rộng sự phân công lao động. Hoạt động Xuất nhập khẩu đã góp phần quan trọng vào việc tạo công ăn việc làm, chẳng hạn như phát triển các sản phẩm có hàm lượng lao động cao như may mặc, dệt kim, thảm len... Ngay việc trực tiếp đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài cũng là một nội dụng của xuất khẩu nói chung và của hoạt động di chuyển quốc tế sức lao động nói riêng. Chính công việc này đã tạo khả năng tăng thêm thu nhập, nâng caotay nghề và bổ túc thêm trình độ chuyên môn cho người lao động. Gần đây việc xây dựng các khu chế xuất và khu công nghiệp tập trung cũng thu hút nhiều lao động cho việc sản xuất ra hànghóa để xuất khẩu, cũng như hàng hóa thay thế nhập khẩu. c/ Vai trò của Xuất khẩu đối với việc nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế. Trong điều kiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung, mức tích lũy thấp, giao lưu với nước ngoài hạn hẹp nên trình độ công nghệ của nền kinh tế nước ta thường là lạc hậu vài ba thế hệ so với các quốc gia có trình độ phát triển cao trên thế giới. Nếu điều đó cứ giữ nguyên trạng thì chúng ta sẽ bị tụt hậu xa cả về tốc độ tăng trưởng lẫn trình độ khoa học và công nghệ. Chính vì vậy, hoạt động Xuất khẩu đã tác động đến việc nâng cao trình độ công nghệ thông qua nhiều con đường khác nhau. Bản thân việc mở rộng Xuất khẩu đòi hỏi phải áp dụng nhanh chóng và đổi mới thường xuyên công nghệ để nâng cao chất lượng hàng hóa. Thông qua Xuất khẩu thu được ngoại tệ mà tạo khả năng cho việc Nhập khẩu các công nghệ thích hợp và công nghệ tiên tiến. Việc mở rộng Xuất khẩu đòi hỏi và cho phép mở rộng đầu tư nước ngoài, thông qua đó mà việc đổi mới công nghệ diễn ra với một tốc độ cao hơn. d/ Vai trò của việc mở rộng Xuất khẩu đối với hoạt động Nhập khẩu: Xuất khẩu và Nhập khẩu là hai mặt của hoạt động ngoại thương của một quốc gia. Giữa chúng có một mối quan hệ chặt chẽ, làm tiền đề cho nhau và thúc đẩy nhau phát triển. Trong thời kỳ chủ nghĩa trọng thương, người ta thường nhấn mạnh vai trò của Xuất khẩu mà xem nhẹ vai trò của Nhập khẩu, thậm chí tách rời mối quan hệ giữa Xuất khẩu và Nhập khẩu. Cho nên trong thời kỳ này, chủ trương thường đẩy mạnh Xuất khẩu và hạn chế Nhập khẩu để sao cho đạt tới thặng dư tối đa giữa Xuất khẩu và Nhập khẩu.. Thời kỳ cuối của chủ nghĩa trọng thương người ta nhận thức rõ hơn một phần mối quan hệ biện chức giữa xuất và nhập khẩu, tức là tăng cường nhập để phục vụ cho việc mở rộng xuất khẩu. Trong điều kiện thế giới ngày nay, trình độ mở cửa của mỗi quốc gia ra thị trường thế giới ngày càng cao, sự tham gia vào phân công lao động quốc tế phát triển về bề rộng và cả bề sâu đòi hỏi phải nhận thức đầy đủ hơn mối quan hệ giữa Xuất khẩu và Nhập khẩu: Xuất khẩu để phục vụ Nhập khẩu, đồi thời mở rộng xuất khẩu để tăng cường nhập khẩu. Trong trường hợp thứ nhất, Xuất khẩu đóng vai trò chủ động nên nếu đã xuất khẩu được nhiều thì việc mở rộng nhập khẩu khá dễ dàng. Tuy nhiên nhìn về lâu dài khả năng mở rộng xuất khẩu sẽ bị hạn chế nếu việc nhập khẩu tách rời với việc xuất khẩu, cụ thể là nếu nhập khẩu chỉ phục vụ tiêu dùng mà không phục vụ sản xuất. Trong trường hợp thứ hai, Nhập khẩu đóng vai trò chủ động nhưng nhìn tổng thể nền kinh tế, việc nhập khẩu đơn thuần cho tiêu dùng của dân cư sẽ dẫn đến khó khăn trong các giai đoạn tiếp theo. Bởi vậy, cơ cấu Nhập khẩu là điều luôn phải được xem xét. II/ Nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng hóa trong kinh doanh xuất nhập khẩu: Xuất khẩu là việc bán hàng của nước ta cho nước ngoài thu lợi nhuận phục vụ cho việc phát triển kinh doanh và nâng cao đời sống, song việc bán hàng ở đây có những nét đặt thù riêng như phải giao dịch với nhiều người nước ngoài có quốc tịch khác nhau, thị trường rộng lớn khó kiểm soát, việc bán hàng qua trung gian chiếm tỷ trọng lớn, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ mạnh, hàng hóa phải vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu của các quốc gia khác nhau, vận chuyển bằng nhiều phương tiện khác nhau, phải tuân thủ tập quán thông lệ quốc tế cũng như của các địa phương. Hoạt động xuất khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ điều tra xuất khẩu thị trường nước ngoài, lựa chọn tìm đối tác, tiến hành giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng giao hàng xuống cảng quy định, làm thủ tục thông qua hàng xuất khẩu, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho người mua, làm thủ tục thanh toán. Mỗi nghiệp vụ này đều phải được nghiên cứu thực hiện đầy đủ kỹ lưỡng và các nghiệp vụ được đặt trong mối quan hệ lẫn nhau. 1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu, lựa chọn bạn hàng giao dịch: Nghiên cứu thị trường trong kinh doanh thương mại quốc tế là một loạt các thủ tục và kỹ thuật được đưa ra để giúp các nhà kinh doanh thương mại quốc tế có đầy đủ thông tin cần thiết, từ đó ra quyết định chính xác. Nghiên cứu thị trường là một quá trình tìm kiếm khách hàng có hệ thống cùng với sự phân tích các thông tin cần thiết. Bởi vậy, nghiên cứu thị trường đóng một vai trò quan trọng để giúp các nhà kinh doanh đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh mà đặc biệt là trong kinh doanh thương mại quốc tế. Thị trường là nơi tập hợp các sự thỏa thuận thông qua đó mà người mua và người bán tiếp xúc với nhau để trao đổi hàng hóa và dịch vụ hoặc có thể hiểu thị trường là tổng thể các quan hệ hàng hóa và tiền tệ. Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất và lưu thông hàng hóa. ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hóa và dịch vụ thì ở đó có thị trường. Thị trường có thể nhìn thấy được hoặc không nhìn thấy được, nó luôn bao gồm người mua, người bán và các mối quan hệ của nó. Để nắm được các yếu tố của thị trường, hiểu rõ về quy luật vận động của thị trường nhằm ứng xử kịp thời, các nhà doanh nghiệp nhất thiết phải tiến hành công tác nghiên cứu thị trường, nghiên cứu và nắm vữn xu hướng biến động của thị trường và giá cả trên thị trường quốc tế. Nó là bước chuẩn bị, bước tiền đề cho hoạt động kinh doanh thương mại đặt biệt là xuất khẩu hàng hóa đạt được hiệu quả cao nhất. Đối với hoạt động xuất khẩu là thu tối đa ngoại tệ và tăng khả năng sản xuất trong nước. Đây cũng là khó khăn bức xúc đối với các công ty xuất khẩu và nhà nước ta hiện nay. 2. Các bước nghiên cứu thị trường: a- Nghiên cứu mặt hàng xuất khẩu: Mục đích của việc nghiên cứu mặt hàng xuất khẩu là để tiến hành xuất đúng chủng loại hàng hóa với đúng thị trường nước ngoài cần để việc kinh doanh xuất khẩu đạt hiệu quả cao tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Việc nghiên cứu mặt hàng xuất khẩu cần căn cứ vào nhu cầu thị trường nước ngoài cần và sản lượng sản xuất trong nước, chất lượng, tính thời vụ, mẫu mã của mặt hàng đó và các điều kiện của khách hàng đối với mặt hàng đó. Để lựa chọn được mặt hàng xuất khẩu, một nhân tố không thể thiếu được đó là tỷ suất ngoại tệ. Trong mặt hàng xuất, tỷ lệ ngoại tệ là tổng số tiền có thể thu được khi chi ra một đơn vị tiền Việt Nam. Nếu tỷ suất ngoại tệ mặt hàng đó (USD/VNĐ) lớn hơn tỷ giá hối đoái trên thị trường trong nước thì việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu là có hiệu quả. Ngoài ra còn khả năng thương lượng để đạt tới một điều kiện mua bán ưu thế hơn. Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng: Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hóa được giao dịch trên phạm vi thị trường nhất định trong một thời gian nhất định, thường là một năm. Nghiên cứu thị trường phải xác định nhu cầu thật của khách hàng, khả năng thanh toán của khách hàng và lượng cung cấp của nhà sản xuất. Nghiên cứu thị trường nhằm hiểu rõ hơn về quy luật vận động của thị trường, được thể hiện qua sự biến động của nhu cầu thị trường và khả năng sản xuất hàng hóa. Từ đó các nhà xuất khẩucó thể giải quyết các vấn đề liên quan đến thị trường. Dung lượng thị trường không ổn định, nó thay đổi theo sự tác động của nhiều nhân tố trong thời gian nhất định. Các nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường được chia như sau: -Tình hình biến động kinh tế ở các nước trên thế giới mà đặt biệt là các nước tư bản chủ nghĩa và tính thời vụ trong sản xúat, lưu thông và phân phối hàng hóa. Sự vận động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là nhân tố quan trọng, nó ảnh hưởng đến tất cả các thị trường mà đặt biệt là thị trường tư liệu sản xuất. Sự ảnh hưởng này có thể trên phạm vi toàn thế giới hoặc khu vực. Phải chú ý phân tích sự biến động trong các nước xuất nhập khẩu những loại hàng hóa chủ yếu. Khi nền kinh tế tư bản chủ nghĩa rơi vào khủng hoảng thì dung lượng thị trường bị co hẹp và ngược lại thì rộng mở. - Dung lượng thị trường thay đổi mang tính chất chu kỳ, đó là tính thời vụ sản xuất. Nhân tố này ảnh hưởng đến dung lượng thị trường hàng hóa trong khâu sản xuất và lưu thông hàng hóa ở phạm vi và mức độ khác nhau. * Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến dung lượng thị trường: Các nhân tố thuộc nhóm này tương đối nhiều, ví dụ một nhân tố sau: + Tiến bộ khoa học kỹ thuật: Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, sản xuất và nhu cầu hàng hóa cũng được mở rộng, có nghĩa là dung lượng thị trường cùng thay đổi. + Các chính sách của nhà nước và khi các tập đoàn lớn thay đổi phương thức hoạt động. + Thị hiếu và tập quán của người tiêu dùng, khả năng sản xuất hàng hóa thay thế. * Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đến dung lượng thị trường như hiện tượng đầu cơ gây ra nhiều đột biến về cung cầu và các yếu tố tự nhiên như thiên tai, các yếu tố về chính trị như đình công. Trên đây là những nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động của dung lượng thị trường. Khi nghiên cứu thị trường, cần phải thấy được những nhân tố nào có ý nghĩa quyết định đến xu hướng vận động của thị trường trong hiện tại và tương lai. điều đó có ý nghĩa quan trọng trong kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa, từ đó nhà kinh doanh đề ra các quyết định tạm thời và nhanh chóng đạt hiệu quả. c- Lựa chọn đối tượng giao dịch: Trong thương mại quốc tế, bạn hàng hay khách hàng là những người có quan hệ giao dịch với ta nhằm thực hiện các quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa hay dịch vụ, các hoạt động hợp tác kinh tế hay khoa học kỹ thuật liênquan đến việc cung cấp hàng hóa. Lựa chọn đối tượng giao dịch bao gồm vấn đề mời và lựa chọn thương nhân để giao dịch. Khi chọn khách hàng để xuất khẩu hay chọn nước để xuất khẩu chúng ta cần phải nghiên cứu tình hình đáp ứng hàng hóa ở trong nước và chất lượng hàng hóa xuất khẩu, chính sách và tập quán của nước nhập khẩu. Chọn thương nhân giao dịch trong điều kiện cho phép. Hiệu quả nhất nên chọn những người nhập khẩu trực tiếp. Việc chọn thương nhâncần xem xét quan điểm kinh doanh của thương nhân đó, lĩnh vực kinh doanh của học, khả năng thanh toán, cơ sở vật chất và uy tín, mối quan hệ trong kinh doanh của họ. d- Nghiên cứu giá cả hàng hóa trong xuất khẩu: Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa đồng thời biểu hiện một các tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh té quốc dân; giá cả luôn gắn liền với thị trường, giá cả là một yếu tố cấu thành thị trường. Trong buôn bán quốc tế, giá cả lại càng phức tạp do việc mua bán diễn ra giữa các khu vực khác nhau, giữa các châu lục khác nhau và giữa các nước, chính sách ở mỗi nước khác nhau. Do đó việc nghiên cứu giá cả bao gồm nghiên cứu mức giá từng mặt hàng, từng thời điểm, từng thị trường, xu hướng biến động và nhân tố ảnh hưởng đến nó. Xu hướng biến động giá cả các loại hàng hóa trên thị trường quốc tế rất phức tạp nhưng sự biến động đó có tính tạm thời. Sự biến động do các nguyên nhân sau: - Nhân tố chu kỳ là sự vận động có tính quy luật của nền kinh tế, là nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến sự biến động của giá cả của tất cả các loại hàng hóa. - Nhân tố lũng đoạn làm xuất hiện nhiều mức giá của cùng một loại hàng hóa trên các thị trường khác nhau thậm chí trên cùng một thị trường. - Nhân tố cạnh tranh làm cho giá cả biến động theo xu hướng khác nhau tùy thuộc đối tượng tham gia cạnh tranh là người mua hay người bán. - Nhân tố cung cầu ảnh hưởng trực tiếp tới giá cả hàng hóa. Ngoài ra còn các nhân tố như lạm phát, các chính sách của nhà nước, tình hình chính trị, xã hội. Khi định giá xuất khẩu cho một loại hàng hóa chúng ta có thể tham khảo giá xuất của loại hàng hóa đó ở thị trường khác, cước phí vận chuyển. Mức giá đó có phù hợp hay không đối với các mặt hàng lâm đặc sản cần phải xem xét tính thời vụ của nó. Một điều cần lưu ý là trong quá trình nghiên cứu thị trường, ._.cần phân tích các thông tin tìm cho minh một thị trường trọng điểm cần ưu tiên sắp xếp thứ tự cho thị trường trọng điểm để đảm bảo lợi nhuận tối đa trong kinh doanh. 3. Đàm phán ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hóa: a- Chào hàng là trả lời đề nghị của nhà xuất khẩu gửi cho khách hàng biểu thị muốn bán hàng hóa hoặc dịch vụ theo những điều kiện nhất định, về giá cả, thời gian giao hàng, phương thức thanh toán đây là là lời đề nghị ký kết hợp đồng giữa hai bên. b- Đàm phán và ký kết hợp đồng: Sau khi nhận được thư hỏi hàng hay nhận được thư trả lời của bên kia. Hai bên tổ chức đàm phán, thương lượng đề nghị để đi đến một thỏa thuận chung về điều kiện mua bán và ký kết hợp đồng. * Đàm phán là việc làm trao đổi với nhau các điều kiện mua bán giữa các nhà kinh doanh để đi đến ký kết hợp đồng. Trong thương mại quốc tế có 3 hình thức đàm phán sau: - Đàm phán thư tín. - Đàm phán qua điện thoại. - Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp. Mỗi một hình thức đàm phán đều có ưu, nhược điểm riêng của nó. Tùy từng hoàn cảnh, trường hợp cụ thể mà lựa chọn hình thức đàm phán cho thích hợp. Nếu quan hệ thường xuyên và là bạn hàng truyền thống của nhau, có độ tin cậy cao thì chọn hình thức đàm phán qua điện thoại tiện hơn. * Các bước đàm phán trong xuất khẩu gồm: - Hỏi giá - Chào hàng - Phát giá - Chấp nhận * Hợp đồng kinh tế ngoại thương là sự thỏa thuận giữa các đương sự có quốc tịch khác nhau, trong đó bên bán gọi là bên xuất khẩu, bên mua gọi là bên nhập khẩu một sản phẩm nhất định gọi là hàng hóa. Bên mua có trách nhiệm trả tiền và nhận hàng. Bên bán có trách nhiệm giao hàng và giao quyền sở hữu hàng hóa đó cho bên mua. Để thực hiện trách nhiệm của mỗi bên, người ta cần có các văn bản, đây là hình thức hợp đồng bằng văn bản bắt buộc đối với các đơn vị xuất nhập khẩu ở nước ta mặt dù đã có đơn đặt hàng, chào hàng. Vì văn bản hợp đồng làm cơ sở pháp lý cho hoạt động trao đổi hàng hóa từ quốc gia này sang quốc gia khác, làm căn cứ giải quyết khi có tranh chấp xảy ra. Bên cạnh đó nó là bằng chứng để bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia ký kết, tạo điều kiện thuận lợi cho thống kê và thực hiện hợp đồng. * Đặc điểm của hợp đồng kinh tế xuất nhập khẩu và hợp đồng kinh tế xuất khẩu nói riêng: - Chủ thể của hợp đồng mua bán ngoại thương là các pháp nhân có quốc tịch khác nhau. - Hàng hóa được chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác. Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng là ngoại tệ hay có nguồn gốc ngoại tế đối với một trong hai bên ký kết hợp đồng trong buôn bán quốc tế có thể có nhiều phương thức ký kết hợp đồng khác nhau. - Hai bên cùng ký vào một hợp đồng (một văn bản). - Người mua xác nhận bằng văn bản là người mua đã đồng ý các điều kiện và điều khoản của một thư chào hàng tự do nếu người mua viết đúng các điều kiện cần thiết và trong thời hạn hiệu lực của thư chào hàng. - Người bán xác nhận (bằng văn bản) đơn đặt hàng của người mua trong thời gian hiệu lực của đơn đặt hàng. - Trao đổi bằng thư xác nhận đạt được những điều thỏa thuận trong đơn đặt hàng trước đây của hai bên (nêu rõ những điều đã thỏa thuận) Hợp đồng chỉ có thể coi như đã ký kết chỉ trong trường hợp các bên đã ký vào hợp đồng, các bên tham gia ký kết hợp đồng phải có đủ năng lực hành vi, năng lực pháp luật và có đủ thẩm quyền. * Nội dung của hợp đồng mua bán ngoại thương bao gồm các điều khoản chính sau: + Tên hàng + Số lượng và cách xác định đặc biệt lưu ý tới từng loại hàng để xác định số lượng cho chuẩn xác (thủy phần, mức hao hụt tự nhiên...) + Quy cách, phẩm chất và cách xác định + Đóng gói bao gì, kỹ mã hiệu phải phù hợp với hàng hóa + Thời gian giao, phương tiện vận chuyển và địa điểm giao hàng + Giá cả, giá trị và điều kiện giao hàng + Phương thức thanh toán và chứng từ thanh toán + Bảo hiểm (nhập FOB và xuất CIF) + Kiểm tra và giám định hàng hóa xuất nhập khẩu + Phạt và bồi thường thiệt hại + Tranh chấp và giải quyết tranh chấp. + Bảo hành khiếu nại + Trường hợp bất khả kháng + Các điều khoản khác c- Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu: Việc tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu bao gồm các bước sau: Bước 1: Xin giấy phép xuất khẩu: Xin giấy phép xuất khẩu là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý để tiến hành các khâu tiếp theo trong quá trình xuất khẩu hàng hóa. Nếu hàng hóa có trong Nghị định thư thì không cần phải xin phép. Hiện nay, việc cấp giấy phép xuất khẩu được quy định như sau: - Bộ Thương mại cấp giấy phép xuất nhập khẩu từng chuyến hàng mậu dịch hay cả lô hàng. - Tổng cục Hải quan cấp giấy phép hàng phi mậu dịch. Hồ sơ xin giấy phép gồm: + Đơn xin phép xuất khẩu + Phiếu hạn ngạch + Bản sao hợp đồng đã ký kết với nước ngoài hay bản sao L/C Mỗi giấy phép chỉ cấp cho một chủ hàng kinh doanh xuất nhập khẩu một hoặc một số mặt hàng với một nước nhất định. Bước 2: Chuẩn bị hàng theo đúng mẫu mã và quy cách phẩm chất, làm thủ tục liên quan đến hàng hóa xuất khẩu. Bước 3: Làm thủ tục thông quan hàng hóa xuất khẩu, thuê tàu chở (hoặc ủy thác thuê tàu) nếu xuất giá CIF. Với điều kiện Việt Nam hiện nay bị hạn chế về tàu và điều kiện thuê tàu nước ngoài nên ta thường xuất khẩu theo giá FOB tại cảng của nước ta. Mọi hàng hóa xuất khẩu hay nhập khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan là công cụ quản lý hành vi mua bán theo pháp luật của nhà nước để ngăn chặn buôn lậu. * Thủ tục thông quan hàng hóa xuất khẩu gồm: Căn cứ vào L/C của khách mua hàng và các điều kiện của L/C thì bộ chứng từ hàng hóa xuất khẩu như sau: 1. INVOI 2. LIST 3. Xuất xứ hàng hóa 4. BILL tàu Nếu hàng hóa là các mặt hàng nông sản cần có giấy kiểm hóa. * Tời khai hải quan: Hàng hóa phải được kê khai chi tiết trong tờ khai hải quan. Hàng hóa phải được xếp một cách trật tự trước khi đóng hàng và trong khi đóng hàng để thuận tiện cho việc kiểm tra hàng hóa. Sau khi kiểm tra giấy tờ hàng hóa hải quan quyết định cho hàng hóa được xuất qua biên giới hay không. Bước 4: Thanh toán tiền hàng xuất khẩu Nghiệp vụ thanh toán và sự vận dụng tổng hợp các điều kiện thanh toán quốc tế. Đây là nghiệp vụ quan trọng và cũng là nghiệp vụ cuối cùng trong việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Trong kinh doanh thương mại quốc tế hiện nay có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau: phương thức nhờ thu, phương thức chuyển tiền, phương thức tín dụng chúng từ... * Phương thức tín dụng chứng từ (thanh toán bằng tín dụng chứng từ L/C). Đây là một sự thỏa thuận trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở L/C) theo yêu cầu của một khách hàng (người nhập khẩu), trả tiền cho người thứ ba hoặc trả cho bất cứ người nào theo lệnh của người thứ ba đó (người hưởng lợi) hoặc sẽ trả, chấp nhận mua hối phiếu do người hưởng lợi phát hành hoặc cho phép một ngân hàng khác trả tiền. Chấp nhạn hay mua hối phiếu khi xuất trình đầy đủ các bộ chứng từ đã quy định và mọi điều kiện đặt ra đều được thực hiện đầy đủ. Các bên tham gia phương thức này gồm: - Người mua tức người yêu cầu mở L/C (người nhập) - Người bán tức người hưởng lợi L/C - Ngân hàng mở L/C đại diện cho người nhập khẩu - Ngân hàng thông báo thường ở nước xuất khẩu. Ngoài ra có thể ở các ngân hàng khác tham gia như ngân hàng xác nhận, ngân hàng trả tiền, ngân hàng chuyển... Sơ đồ 1: Sơ đồ trình tự nghiệp vụ thanh toán bằng hình thức L/C Ngân hàng thông báo Ngân hàng mở L/C Người mua Người bán 1/ Người nhập khẩu làm đơn mở L/C gửi đến ngân hàng của mình, yêu cầu mở L/C cho người xuất khẩu hưởng. 2/ Căn cứ vào đơn mở L/C, ngân hàng đó sẽ lập một L/C trong đó ngân hàng này cam kết trả tiền cho người bán nếu người bán xuất trình bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những điều kiện quy định trong L/C. Bộ chứng từ thanh toán bao gồm: - Hóa đơn thương mại - Giấy chứng nhận xuất xứ - Giấy chứng nhận chất lượng và số lượng - Giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm - Vận đơn đường biển - Giấy kiểm dịch thực vật L/C này được thông báo bằng điện cho người bán và gửi bản chính L/C đến người bán thông qua ngân hàng mở L/C ở nước ngoài. 3/ Khi nhận được thông báo mở L/C, ngân hàng thông báo sẽ thông báo toàn bộ nội dung về việc mở L/C đó và khi có được bản gốc L/C thì chuyển ngay cho người xuất khẩu. 4/ Người xuất khẩu kiểm tra, nhận L/C thanh toán khi giao hàng, nếu không thanh toán thì để nghị sửa đổi bổ sung cho phù hợp với điều kiện trong hợp đồng. 5/ Sau khi giao hàng xong, người xuất khẩu lập bộ chứng từ thanh toán theo yêu cầu của L/C, xuất trình cho ngân hàng thông báo để chuyển cho ngân hàng mở L/C đòi tiền. 6/ Ngân hàng thông báo nhận được chứng từ thanh toán và chuyển ngay cho ngân hàng mở L/C. 7/ Ngân hàng mở L/C kiểm tra chứng từ nếu thấy phù hợp với L/C thì trả tiền cho người bán thông qua ngân hàng thông báo. Ngược lại, nếu thấy mâu thuẫn L/C thì có thể từ chối việc trả tiền và hoàn trả bộ chứng từ thanh toán cho người bán. 8/ Ngân hàng mở L/C chuyển bộ chứng từ thanh toán cho người mua với điều kiện người mua trả tiền ngay hoặc chấp nhận trả tiền (nếu mua chịu) thanh toán ngân hàng mới ký chuyển nhượng vận đơn cho người mua. 9/ Người mua hoàn trả lại tiền cho ngân hàng mở L/C sau khi kiểm tra toàn bộ chứng từ thanh toán nếu thấy phù hợp với L/C và ngược lại có quyền từ chối thanh toán, mọi hậu quả xảy ra với bộ chứng từ đó do ngân hàng chịu trách nhiệm. Thư tín dụng L/C vừa độc lập vừa phụ thuộc vào hợp đồng mua bán, nó phụ thuộc ở chỗ các điều khoản của hợp đồng. L/C là căn cứ duy nhất để nhập khẩu. Người mua làm đơn mở L/C, ngân hàng dựa vào đó để mở L/C cam kết trả tiền cho người bán. Khi đã mở xong L/C lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán vì ngân hàng mở L/C không cần biết đến hợp đồng mua bán mà chỉ căn cứ vào nội dung của L/C và các chứng từ thanh toán phù hợp với nội dung của L/C. Thư tín dụng thanh toán có rất nhiều loại nhưng trên thế giới phổ biến sử dụng loại thư tín dụng không hủy ngang là loại L/C mà ngân hàng khi đã mở phải thực hiện trách nhiệm trả tiền cho người bán trong thời gian hiệu lực của L/C, không được quyền sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ L/C nếu như không có sự đồng ý của các bên có liên quan bằng văn bản. * Phương thức chuyển tiền: Phương thức này trong đó người mua là người nhập khẩu yêu cầu ngân hàng chuyển một số tiền nhất định cho người xuất khẩu (người bán) tại một địa điểm nhất định. Các bên tham gia hình thức này gồm: - Người mua (người trả tiền) hay còn gọi là người nhập khẩu. - Ngân hàng chuyển tiền (Ngân hàng đại diện cho người mua). Phương thức này ít dùng hơn hình thức L/C trong thanh toán ngoại thương vì không đảm bảo chắc chắn cho người bán nhưng lại được dùng trong các trường hợp: đặt tiền hàng, cấp tín dụng cho nhà sản xuất và các bên tham gia mua bán có quan hệ thường xuyên là bạn hàng truyền thống của nhau. Sơ đồ thanh toán bằng phương pháp phát chuyển tiền: Ngân hàng bên bán Ngân hàng bên mua Người mua Người bán 1/ Người bán giao hàng lên tàu và chuyển toàn bộ chứng từ hàng hóa cho người mua. 2/ Người mua đề nghị ngân hàng của mình chuyển tiền thanh toán cho người bán vào tài khoản của người bán hàng tại ngân hàng của người bán. 3/ Ngân hàng đại diện của người mua chuyển tiền cho người bán qua ngân hàng đại diện cho người bán. 4/ Ngân hàng của người bán thông báo cho người bán biết là người mua đã trả tiền. Trong hình thức chủ yếu của các doanh nghiệp dùng hình thức chuyển tiền. Hình thức này nhanh chóng, phí chuyển rẻ (0,1 - 0,3%). 4. Đánh giá kết quả. Hoạt động xuất khẩu là một trong những khâu phức tạp trong thương mại quốc tế, nó được tổ chức thực hiện liên quan đến nhiều nghiệp vụ từ khâu nghiên cứu thị trường và cuối cùng là khâu đâm phán và ký kết hợp đồng. Chính vì vâtỵ để có được kết quả như mong muốn đòi hỏi doanh nghiệp, công ty phải thực hiện đầy đủ các nước như trong nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng hoá trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Việc thực hiện đúng yêu cầu của từng bước đã nêu giúp cho các doanh nghiệp hay Công ty đã tham gia hoạt động xuất nhập khẩu đặc biệt là hoạt động xuất khẩu đảm bảo yêu cầu lựa chọn bạn hàng thị trường xuất khẩu có hiệu quả cao nhất , hơn nữa qua các mức này giúp cho các doanh nghiệp Công ty khi ký kết hợp đồng đỡ thiệt thòi. Hiện nay các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam đặc biệt là hoạt động xuất khẩu hàng hoá từ Việt Nam sang các nước láng giềng thường không đạt hiệu quả vì với giá FOB xuất đi thì lợi nhuận thu về không cao lắm. Do vậy chỉ với việc thực hiện đúng các bước như nội dung hoạt động xuất khẩu đã nêu thì kết quả thu được sau khi tham gia hoạt động xuất khẩu nào đó mới đáp ứng yêu cầu đề ra. III/ Hiệu quả hoạt động xuất khẩu - phương pháp đánh giá và nhân tố ảnh hưởng: A- Hiệu quả kinh tế trong hoạt động thương mại quốc tế: Mọi hoạt động kinh tế đều phải tính đến hiệu quả sao cho chi phí vật chất và lao động là ít nhất, thu lại kết quả cao nhất. Trong nền kinh tế hàng hóa tính hiệu quả kinh doanh bằng giá trị. Hoạt động kinh tế được coi là hiệu quả khi tiền thu về lớn hơn tổng số tiền đã bỏ vào kinh doanh cộng với tỷ lệ trượt giá (thu bù chi phí và có lãi). Kinh doanh thương mại lại càng phải tính đến hiệu quả vì nó là cơ sở quyết định việc mở rộng hay thu hẹp trong lĩnh vực kinh doanh. 1. Bản chất của hiệu quả kinh tế trong hoạt động thương mại quốc tế: Kinh doanh thương mại có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc gia để khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu hàng hóa và sản xuất trong nước, nâng cao hiệu quả xuất khẩu, mở rộng hợp tác kinh tế thương mại với nước ngoài. Đối với nước ta hiện nay, vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu trở thành cấp bách vì đó là một nhân tố quyết định để tham gia phân công lao động quốc tế, thâm nhập thị trường nước ngoài đồng thời làm tăng thu nhập quốc dân tạo thêm phần tích lũy cho tái sản xuất và cải thiện đời sống trong nước. Hiệu quả kinh tế xã hội là tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương hướng của hoạt động ngoại thương. Xét về mặt lý luận nội dung cơ bản của hiệu quả kinh doanh thương mại quốc tế góp phần đắc lực thúc đẩy nhanh năng suất lao động xã hội và tăng thu nhập quốc dân, qua đó tạo thêm nguồn tích lũy cho sản xuất và nâng cao mức sống trong nước. Nhưng trong thực tế, chúng ta chưa thể xác định được một cách chính xác hiệu quả kinh tế trong kinh doanh thương mại quốc tế đối với nền kinh tế nói chung vì tác động của nói thường phải thông qua nhiều khu vực, nhiều công đoạn, nhiều tổ chức thực hiện khác nhau và chịu ảnh hưởng không ít của các yếu tố sản xuất và chi phí chồng chéo. Nhưng yêu cầu của công tác quản lý và hạch toán lại đòi hỏi phải xác định được hiệu quả kinh tế thương mại quốc tế đối với nền kinh tế quốc dân và của từng doanh nghiệp. Điều đó liên quan đến việc xác định hiệu quả và chỉ tiêu hiệu quả kinh tế thương mại quốc tế mà chúng ta đề cập sau đây. 2- Các loại hiệu quả kinh tế xuất khẩu: a/ Hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tế thu được từ hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu, biểu hiện chung của nó là doanh lợi đạt được. Hiệu quả kinh tế xã hội mà xuất khẩu đem lại cho nền kinh tế quốc dân là đóng góp của hoạt động xuất khẩu vào việc phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, tích lũy ngoại tệ, tăng thu cho ngân sách, giải quyết vấn đề việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. b/ Hiệu quả của chi phí bộ phận và chi phí tổng hợp: Hiệu quả kinh tế xuất nhập khẩu được tạo thành từ cơ sở hiệu quả của các phí cấu thành. Vì vậy bản thân doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải xác định những biện pháp đồng bộ để thu được hiệu quả toàn diện trên các yếu tố của quá trình sản xuất. c/ Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh: - Hiệu quả tuyệt đối là lượng hiệu quả được tính toán cho từng phương án cụ thể bằng cách xác định mức lợi ích thu được với lượng chi phí bỏ ra. - Hiệu quả so sánh được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối của các phương án với nhau, nói cách khác nó chính là mức chênh lệch về hiệu quả tuyệt đối của các phương án. 3- Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế xuất khẩu: a/ Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế xuất khẩu: Cùng với sự biểu hiện về mặt số lượng, hiệu quả kinh té của bất kỳ một hoạt động kinh tế nào còn có tính chất lượng. Đó chính là tiêu chuẩn của hiệu quả. Tiêu chuẩn của hiệu quả xuất khẩu là tiết kiệm sức lao động xã hội, tăng năng suất lao động xã hội, nó không chỉ đơn thuần là tiết kiệm chi phí sản xuất, về lao động sống và lao động vật hóa cho sản xuất một đơn vị sản phẩm mà còn bao hàm cả ý nghĩa phát triển sản xuất. b/ Hệ thống chỉ tiêu hiệu quả sản xuất: - Chỉ tiêu lợi nhuận xuất khẩu: Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất. - Chỉ tiêu so sánh giá xuất khẩu với giá quốc tế. Theo tỷ giá hiện hành của ngân hàng nhà nước ở từng thời điểm xuất khẩu của các doanh nghiệp. Các chỉ tiêu trên thể hiện sự tiết kiệm lao động xã hội được thực hiện trực tiếp qua xuất khẩu. Phạm trù giá cả đo lường chi phí lao động mang tính quốc gia và tính quốc tế trong việc sản xuất ra hàng hóa xuất khẩu thể hiện qua các chỉ tiêu đó. 4- Phương pháp tính hiệu quả kinh tế xuất khẩu: a/ Chỉ tiêu lợi nhuận: Lợi nhuận là chỉ tiêu hiệu quả kinh tế có tính tổng hợp phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Tính toán lợi nhuận xuất khẩu có liên quan đến doanh thu và chi phí. - Doanh thu xuất khẩu của một doanh nghiệp là số tiền thu được qua việc xuất khẩu hàng hóa hay dịch vụ trong một thời gian nhất định. - chi phí của hoạt động xuất khẩu là những chi phí phải bỏ ra khi mua hàng hóa xuất khẩu cộng với thuế xuất khẩu của loại hàng hóa đó trong thời gian nhất định đó. - Lợi nhuận của xuất khẩu là doanh thu xuất khẩu trừ đi chi phí xuất khẩu. Những nhân tốt ảnh hưởng đến lợi nhuận xuất khẩu: 1. Nhân tố về về quy mô sản xuất và dịch vụ 2. Nhân tố về tổ chức sản xuất hàng hóa dịch vụ 3. Nhân tố về tổ chức quản lý các hoạt động kinh tế của doanh nghiệp 4. Các chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước. b/ Chỉ tiêu kết quả kinh tế xuất khẩu: - Số lượng thực hiện xuất khẩu so với đơn đặt hàng. - Chủng loại mặt hàng thực hiện so với kế hoạch. - Tiến độ sản xuất hàng so với hợp đồng đã ký. - Doanh số mua hàng so với xuất hàng. - Chi phí kinh doanh. - Lợi nhuận đạt được so với kế hoạch và cùng kỳ năm trước. B- Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu: Xuất khẩu hàng hóa là một trong những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, nó tạo ra một sức bật mạnh mẽ cho một nền kinh tế phù hợp với nó. Tuy nhiên, nó cũng có một số mặt hạn chế riêng: nếu không có bàn tay của Nhà nước điều tiết vĩ mô hoạt động này thì nền kinh tế đất nước đó sẽ bị lệch lạc, đi không đúng hướng, mất cân đối về cung và cầu, gây ra các cú sốc về kinh tế. Do vậy, để khắc phục các hạn chế đó đối với sự phát triển của đất nước và đời sống nhân dân, Nhà nước phải luôn luôn quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu thông qua các công cụ chính sách của mình mà cụ thể đó là chính sách ngoại thương. Đây là một trong các chính sách của Nhà nước nhằm tác động và quản lý hoạt động xuất nhập khẩu. Do mỗi quốc gia có một hoạt động ngoại thương khác nhau nên chính sách ngoại thương giữa các nước là khác nhau. Chính sách ngoại thương của nước ta có nhiệm vụ tạo điều kiện thuận lợi cho cácc tổ chức kinh doanh tham gia sâu vào sự phân công lao động quốc tế, mở mang hoạt động xuất khẩu và bảo vệ được thị trường trong nước nhằm đạt được các mục tiêu và yêu cầu về kinh tế, chính trị, xã hội trong hoạt động kinh tế đối ngoại. Tùy vào tình hình và định hướng phát triển kinh tế ở mỗi nước, trong mỗi giai đoạn mà chính sách ngoại thương được thực hiện ở những mức độ khác nhau. Những chính sách ngoại thương thường được sử dụng để điều tiết quản lý hoạt động xuất nhập khẩu đó là: 1- Thuế quan: Thuế xuất-nhập khẩu được chính phủ ban hành nhằm quản lý hoạt động xuất nhập khẩu theo chiều hướng có lợi nhất cho quốc gia mình và mở rộng kinh tế đối ngoại nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, nhập khẩu góp phần bảo vệ và phát triển sản xuất trong nước. Thuế quan cũng gây ra một khoản chi phí xã hội do sản xuất trong nước tăng lên không hiệu quả và giảm mức tiêu dùng trong nước. Do vậy mà chính phủ khi thực hiện các chính sách thuế cần phải hết sức thận trọng trong việc xác định biểu thuế với từng loại mặt hàng cụ thể để đảm bảo sự hài hòa các mục tiêu do thuế quan tác động đến để đem lại sự thuận lợi trong kinh doanh. 2- Hạn ngạch xuất khẩu: Hạn ngạch xuất khẩu là những quy định của chíh phủ về số lượng và giá trị, địa điểm của một mặt hàng được phép xuất khẩu trong một thời gian nhất định. Cũng như thuế quan chính sách về hạn ngạch nhằm quản lý hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp, chính phủ sử dụng hạn ngạch để bảo vệ sản xuất trong nước, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, thực hiện cán cân thanh toán quốc tế. Hạn ngạch xuất khẩu cũng tác động đến các hoạt động kinh tế nhưng có những điểm khác so với thuế quan. Hạn ngạch nó không đem lại các khoản thu ngân sách cho chính phủ nhưng việc phân bổ hạn ngạch lại rất quan trọng. Do vậy, để hạn ngạch được phân bổ đúng và phù hợp thì đòi hỏi các cơ quan quản lý nó phải nắm được tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa của từng công ty mà phân bổ nó. 3- Trợ cấp xuất khẩu: Trong một số trường hợp thì chính phủ phải thực hiện chính sách trợ cấp xuất khẩu để tăng cường mức độ xuất khẩu hàng hóa của nước minh tạo điều kiện để cho sản phẩm có sức cạnh tranh về các mặt trên thị trường thế giới. Trợ cấp xuất khẩu sẽ làm tăng giá nội địa của hàng xuất khẩu, giảm tiêu dùng trong nước nhưng tăng được sản lượng và mức xuất khẩu. Ngoài các chính sách nêu trên, chính phủ còn có một loạt các chính sách khác như sử dụng hàng rào phi thuế quan, chính sách tỷ giá hối đoái... Chính sách ngoại thương của chính phủ trong các thời kỳ có những sự thay đổi và đó là một trong những rủi ro lớn đối với nhà làm công tác kinh doanh xuất khẩu hàng hóa. Vì vậy khi tham gia vào công tác xuất khẩu là phải nắm được chiến lược phát triển kinh tế của đất nước để biết được xu hướng vận động của nên kinh tế và những can thiệp của nhà nước, trên cơ sở đó tác động vào quá trình sản xuất hàng hóa phù hợp với chính sách ngoại thương. 4- ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái và tỷ xuất ngoại tệ của hàng xuất khẩu: Nhân tố này quyết định việc xác định mặt hàng, bạn hàng, phương án kinh doanh, quan hệ kinh doanh không chỉ của một doanh nghiệp xuất khẩu mà tới tất cả các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung. Sự biến đổi của nhân tố này sẽ dẫn đến những biến đổi lớn trong tỷ trọng giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Chẳng hạn tỷ giá hối đoái của đồng tiền thuận lợi cho việc xuất khẩu thì lại bất lợi cho nhập khẩu và ngược lại. Có thể nói tỷ giá hối đoái được ví như một “chiếc gậy vô hình” điều khiển hoạt động xuất nhập khẩu. Tương tự, tỷ xuất ngoại tệ thay đổi giữa các mặt hàng cũng sẽ chuyển hướng mặt hàng cũng như phương án kinh daonh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. 5- ảnh hưởng của nền sản xuất cũng như của các doanh nghiệp kinh doanh thương mại trong và ngoài nước: Hiện nay, nhà nước chủ trương đa dạng hóa các thành phần kinh tế, tự do buôn bán kinh doanh xuất nhập khẩu trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Một doanh nghiệp ngoại thương quốc doanh sẽ phải đương đầu cạnh tranh với các đơn vị kinh tế khác thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Chính vì thế một cuộc cạnh tranh thực sự đang diễn ra giữa các doanh nghiệp. Sự biến động của nền kinh tế của các nước trên thế giới ảnh hưởng khá đối với nền kinh tế và các doanh nghiệp trong nước. Đây cũng là một động lực kích thích hoặc hạn chế sự phát triển nền kinh tế trong nước. Ngoài ra cần phải nói đến một số yếu tố chủ quan của doanh nghiệp đó là. - Vốn kinh doanh hạn hẹp. - Trình độ cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp. - Khả năng và nghệ thuật kinh doanh của doanh nghiệp. - Tổ chức bộ máy kinh doanh v.v... Chương II Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng của công ty lâm đặc sản hà nội. I. Vài nét về công ty lâm đặc sản hà nội: 1- Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Lâm Đặc Sản - Hà Nội: Công ty Lâm Đặc Sản Hà Nội được thành lập theo quyết định số 73NN-TCCB ngày 23-1-1999 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Tiền thân của Công ty Lâm Đặc Sản Hà Nội gồm: Xí nghiệp Lâm đặc sản Ngọc Khánh và Công ty Vật tư thiết bị Xuất nhập khẩu lâm sản. Sự phát triển của Công ty Lâm Đặc Sản Hà Nội dựa trên sự phát triển của hai bộ phận xát nhập trên. Công ty Lâm Đặc Sản Hà Nội là một đơn vị thành viên của Tổng Công ty Lâm sản Việt Nam, nay là Tổng Công ty Lâm nghiệp Việt Nam. Về phương thức hoạt động tài chính: Công ty Lâm Đặc Sản Hà Nội là đơn vị hạch toán độc lập dựa trên cơ sở lấy doanh thu trừ chi phí đảm bảo có lãi. Phạm vi hoạt động kinh doanh của Công ty Lâm Đặc Sản Hà Nội: - Được phép xuất khẩu tất cẩ các mặt hàng về lâm sản, đặc sản. - Về nhập khẩu: Được phép nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu, vật tư phục vụ cho sản xuất, nguyên vật liệu và máy móc thiết bị. - Ngoài ra, Công ty Lâm Đặc Sản Hà Nội còn làm các dịch vụ như cho thuê kho bãi, các dịch vụ xuất nhập khẩu ủy thác cho các đơn vị khác qua công ty. 2- Cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ của từng phòng trong Công ty Lâm Đặc Sản Hà Nội: Công ty Lâm Đặc Sản Hà Nội mặc dù mới thành lập nhưng quân số của Công ty không phải ít. Văn phòng của Công ty được đặt tại số 6 Ngọc Khánh, Ba Đình, Hà Nội. Ngoài ra, Công ty còn trạm sản xuất kinh doanh dịch vụ Cầu Tiên tại xã Thịnh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội. Trạm sản xuất kinh doanh dịch vụ Cầu Tiên là nơi chế biến, trung chuyển, lưu giữ các mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu. * Bộ máy tổ chức của Công ty Lâm Đặc Sản Hà Nội: - Giám đốc Công ty: Bao quát và nắm bắt mọi tình hình sản xuất kinh doanh trong toàn Công ty. - Phòng Tổ chức Hành chính: Nắm bắt toàn bộ nhân lực trong Công ty, tham mưu cho giám đốc về sắp xếp nhân lực quy hoạch đào tạo, điều hành bổ sung theo yêu cầu kinh doanh và các công tác như: bảo vệ chính trị nội bộ, thanh toán lao động tiền lương và bảo hiểm xã hội, phòng cháy, chữa cháy, lưu giữ hồ sơ, các văn bản quyết định có liên quan đến mọi công việc trong toàn Công ty. - Phòng Kế hoạch Tài vụ: Hạch toán kế toán, đánh giá toàn bộ kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty trong kỳ kế hoạch (tháng, quý, năm), lo liệu về tài chính (vốn kinh doanh) phục vụ cho hoạt động kinh doanh của các phòng trong Công ty, điều tiết vốn nhằm mục đích kinh doanh có hiệu quả, theo dõi và giám sát việc thu chi của từng bộ phận, quyết toán với cấp trên và các cơ quan hữu quan như Thuế, Tài chính, Ngân hàng... - Phòng Nghiệp vụ I: Thực hiện nhiệm vụ kinh doanh nhập khẩu thông qua các hợp đồng nhập khẩu do Giám đốc Công ty ký, chịu trách nhiệm trước giám đốc trong từng hợp đồng nhập khẩu. Ngoài ra còn phải khai thác thêm nguồn hàng, khách hàng để nhập khẩu ủy thác, xuất khẩu ủy thác hoặc kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp. - Phòng Nghiệp vụ II: Nhiệm vụ của phòng chủ yếu thực hiện các hợp đồng xuất khẩu các mặt hàng lâm đặc sản có trong hạng mục kinh doanh do Giám đốc Công ty ký và giao cho phòng thực hiện. Ngoài ra, phòng còn khai thác thêm các mặt hàng, khách hàng nhập khẩu, xuất khẩu ủy thác hay trực tiếp và chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của từng hợp đồng trước giám đốc công ty. - Phòng Nghiệp vụ III: Phòng nghiệp vụ này khác với hai phòng nghiệp vụ trên. Phòng này chủ yếu kinh doanh các mặt hàng nội địa song đôi khi cũng kinh doanh các mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu. Các mặt hàng kinh doanh của phòng Nghiệp vụ III đều do phòng tự khai thác. Các hợp đồng kinh doanh với đối tác phải thông qua giám đốc Công ty ký và có phương án kinh doanh cụ thể, chịu trách nhiệm trước giám đốc Công ty về kết quả kinh doanh trong tháng, quý, năm. - Trạm sản xúat kinh doanh dịch vụ Cầu Tiên: Chức năng và nhiệm vụ của trạm là lưu giữ hàng hóa kinh doanh của toàn Công ty. Các phòng Nghiệp vụ muốn xuất hàng hay nhập hàng đều phải thông qua lệnh xuất hàng hay hóa đơn do chính giám đốc Công ty ký. Ngoài ra, trạm sản xuất kinh doanh dịch vụ Cầu Tiên còn thực hiện chức năng kinh doanh kho tàng và kinh doanh xuất nhập khẩu. Hàng tháng, quý, năm, lãnh đạo trạm phải báo cáo bằng văn bản cho giám đốc Công ty và các phòng ban có liên quan. Sơ đồ bộ máy tổ chức của công ty Giám đốc Phòng Nghiệp vụ III Phòng Nghiệp vụ II Phòng Nghiệp vụ I Phòng Tài chính Kế toán Phòng Tổ chức Hành chính Trạm sản xuất KD-DV Cầu Tiên Tổ Bảo vệ Tổ Bảo vệ - Phòng Nghiệp vụ I chủ yếu kinh doanh các mặt hàng nhập khẩu. - Phòng Nghiệp vụ II chủ yếu kinh doanh các mặt hàng xuất khẩu. - Phòng Nghiệp vụ III chủ yếu kinh doanh các mặt hàng nội địa. 3- Mối quan hệ giữa các phòng trong Công ty: Các phòng trong Công ty đều chịu sự điều khiển và chịu trách nhiệm trước Giám đốc Công ty về nhiệm vụ kinh doanh và thực thi các hợp đồng. Đây chính là mối quan hệ dọc giữa các phòng ban với lãnh đạo Công ty. Ngoài mối quan hệ dọc trên còn có mối quan hệ giữa các phòng ban với với nhau, đó chíh là mối quan hệ ngang. Các phòng Nghiệp vụ trong Công ty, Trạm sản xuất kinh doanh dịch vụ Cầu Tien đều có mối quan hệ mật thiết với phòng Tổ chức Hành chính. Nhân viên trong các phòng đều chịu sự phân công hoặc thuyên chuyển khi có lệh điều động của phòng Tổ chức Hành chính, ngoài ra còn có mối quan hệ về văn bản, các thủ tục hành chính trong hợp đồng mà các phòng Nghiệp vụ cùng với Trạm sản xuất kinh doanh dịch vụ Cầu Tiên thực thi. Mối quan hệ giữa các phòng Nghiệp vụ, Trạm sản xuất kinh doanh dịch vụ Cầu Tiên, phòng Tổ chức Hành chính với phòng Tài chính Kế toán. Mối quan hệ đó là việc lo liệu về tài chính, vốn kinh doanh cho việc thực thi các hợp đồng của các phòng ban Nghiệp vụ cũng như của Trạm Cầu Tiên, các mối quan hệ này có sự điều tiết và theo dõi chặt chẽ của giám đốc Công ty. Bên cạnh việc lo liệu tài chính cho các hợp đồng mà các phòng Nghiệp vụ và Trạm thực thi, phòng Tài chính Kế toán còn kiểm tra giám sát việc thực thi các hợp đồng của các phòng Nghiệp vụ cũng như Trạm, báo cáo kết quả kinh doanh của từng hợp đồng, phòng, trạm hàng tháng, quý, năm cho giám đốc Công ty biết. Từ đó, giám đốc Công ty điều chỉnh việc kinh doanh trong từng bộ phận cũng như trong toàn Công ty. II. Quá trình hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty Lâm Đặc Sản Hà Nội trong những năm qua: * Một số đặt ._.u lầm sản thì việc mở rộng thị trường có một tiềm năng lớn. Ngoài các bạn hàng truyền thống như: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Malayxia... thì Công ty cần pảhi xúc tiến hơn nữa trong việc mở rộng thị trường sang các nước khác. Ngoài việc tìm kiếm nghiên cứu thị trường, Công ty cần có nững biện pháp xúc tiến nhanh chóng việc đàm phán, ký kết hợp đồng sao cho có hiệu quả, đỡ tốn thời gian và chi phí. Khi có đối tác mới có có thể tin cậy và quan hệ lâu dài, Công ty cần phải gây được ấn tượng đối với khách hàng, tích cực bày tỏ ưu thế thuận lợi của mình để đặt niềm tin về phía họ. Có như vậy mới có thể thiết lập mối quan hệ giữa hai bên. - Xác định rõ thị trường trọng điểm để có được những chiến lược kinh doanh thích hợp và lâu dài: Hiện nay, thị trường xuất khẩu của Công ty chủ yếu là các nước trong khu vực Châu á như Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan, Singapore... Bên cạnh đó, Công ty cũng đang mở rộng kinh doanh sang một số nước Châu Âu, tuy nhiên trong kinh doanh cũng cần phải chọn đối tác chính và lâu dài, vạch kế hoạch kinh doanh với họ chứ không thể kinh doanh một cách tràn lan, không có trọng điểm. Kể cả đối với các đối tác trong nước với các mặt hàng truyền thống lâu dài cũng cần phải có chiến lược kinh doanh một cách cụ thể để tạo thế mạnh cho Công ty trong những năm tới. - Đa dạng hoa các mặt hàng xuất khẩu: Với cơ chế thị trường hiện nay, trong kinh doanh không một doanh nghiệp nào lại chuyên kinh doanh một mặt hàng cố định. Như vậy rất mạo hiểm, dễ gây nên phá sản, thất nghiệp. Công ty Lâm đặc sản Hà Nội là một doanh nghiệp chuyên kinh doanh xuất khẩu hàng lâm đặc sản, cần tìm xuất nhiều mặt hàng hơn nữa để thu được lợi nhuận cao và trong kinh daonh có hiệu quả cao hơn, thậm chí không những mặt hàng về lâm đặc sản mà cả các mặt hàng khác trong giấy phép xuất khẩu. - Đa dạng hoá các hình thức xuất khẩu: Trong cơ chế mới cùng với việc đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu thì việc đa dạng hoá các hình thức xuất khẩu là nhân tố đóng vai trò không thể thiếu được trong cạnh tranh để đứng vững trên thị trường. Tuy nhiên việc áp dụng các hình thức xuất khẩu sẽ càng đòi hỏi người làm công tác xuất khẩu phải nâng cao trình độ nghiệp vụ, nắm vững quy trình xuất khẩu. Trong khi đẩy mạnh xuất khẩu thì vấn đề tạo lập phường hội vẫn đóng vai trò hàng đầu. Do vậy, hình thức xuất khẩu liên doanh phải được đẩy mạnh không ngừng cả về số lượng và chất lượng hàng hóa, có sự ràng buộc chặt chẽ giữa các bên nhằm khẳng định và tạo uy tín trong quan hệ làm ăn. Bên cạnh đó là việc xuất khẩu ủy thác cũng cần được đẩy mạnh. Đây là vấn đề tạo công ăn việc làm, đỡ rủi ro trong kinh doanh xuất khẩu. 2- Củng cố và mở rộng quan hệ trong doanh động xuất khẩu: - Củng cố và giữ mối quan hệ với bạn hàng cũ: Trong cơ chế cạnh tranh có được bạn hàng, khách hàng trong nước cũng như nước ngoài đã khó, giữ được mối quan hệ với bạn hàng cũ đã tìm hiểu và có uy tín với nhau càng khó hơn. Cái cốt yếu để giành được chiến thắng trên thương trường hiện nay là có sự tin tưởng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các bạn hàng. Khách hàng quen thuộc làm ăn có uy tín là chỗ dựa tin cậy trong hoạt động kinh doanh. Muốn như vậy, phong cách làm ăn của Công ty với bjan hàng và khách hàng cũng phải thể hiện chữ tín, không vì lợi ích trước mắt mà bỏ đi cả mối quan hệ lâu dài, mất nhiều thời gian và công sức mới gây dựng được. Việc tận dụng mối quan hệ cũ để tiếp tục xây dựng là việc dễ dàng so với việc xây dựng quan hệ mới. Tuy nhiên cũng cần đánh giá đúng tương lai và hiện tại của bạn hàng cũng để từ đó tập trung vào các mối quan hệ có hiệu quả hơn trong công tác kinh doanh. Giữ được khác hàng, bạn hàng là giữ được thị trường của mình, mở rộng mối quan hệ với bạn hàng, khách hàng là mở rộng thị trường. - Tìm hiểu, mở rộng quan hệ với bạn hàng mới: Trong sự phát triển đa dạng của kinh daonh không cho phép hoạt động kinh doanh hạn hẹp trong phạm vi một số chủ đề nhất định. Do sự cạh tranh cùng với việc mất đi một số khách hàng, việc tìm và quan hệ với bạn hàng khách hàng mới là tất yếu không thể thiếu được đối với hoạt động xuất khẩu. Người mua hàng là người nước ngoài rất khó tìm hiểu về họ do ở những quốc gia khác nhau. Tuy tìm những bạn hàng khách hàng mới có thể rất khó nhưng không thể vì thế mà thiếu được. Đối với khách hàng trong nước cũng vậy. Đây là một khâu không thể thiếu được trong ngành kinh daonh nói chung và ngành kinh doanh xuất khẩu nói riêng. 3- Tổ chức quản lý hoạt động xuất khẩu: a/ Biện pháp tổ chức và quản lý: Trong cơ chế thị trường, Công ty nên thực hiện chính sách giao việc cho từng bộ phận chuyên môn. Phòng chịu trách nhiệm trước Giám đốc Công ty và các nhân viên chịu trách nhiệm trước phòng. Cần có sự thưởng phạt rõ ràng cho các bộ phận trong Công ty cũng như từng cá nhân trong phòng để các phòng, các nhân viên có động cơ hoạt động và nhận thức rõ. b/ Biện pháp hoàn thiện trình độ và công tác nghiệp vụ xuất khẩu: Đối với công tác xuấ thkẩu cần chặt chẽ hơn trong việc xác định điều khoản hợp đồng và hình thức thanh toán. Hợp đồng là văn bản pháp lý quy định quyền hạn và trách nhiệm nghĩa vụ pháp lý rõ ràng cho mỗi been. Do đó, việc giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng cần chú trọng, bất kỳ một sơ xuất nhỏ trong hợp đồng cũng dẫn đến thiệt hại không lường. Về hợp đồng xuấ khẩu cần làm rõ căn cứ ký hợp đồng dựa trên pháp luật Việt Nam. Tên hàng cần ghi đủ, chính xác, vận chuyển cần ghi rõ chuyển tải hay không chuyển tải, phương thức giao hàng cần nêu rõ chính kiến của mỗi bên, đảm bảo khách quan tổn thất; về hình thức thanh toán cần thanh toán khi hàng đã xuống tàu. 4- Biện pháp tạo vốn và nguồn vốn: Việc kinh doanh xuất khẩu cần phải tạo một khối lượng vốn lớn ban đầu ngoài vốn tự có của Công ty, vốn do nhà nước cấp, Công ty cần phải huy đông vốn thêm để làm sao lượng vốn lưu động đủ lớn để đáp ứng yêu cầu trong kinh doanh. Bên cạnh đó, cần có hình thức đẩy nhanh vòng quay của vốn lưu động tránh sự thiếu vốn hay ứ đọng vốn, thực hiện mua nhanh, xuất khẩu nhanh. 5- Biện pháp tổ chức cán bộ trong Công ty: Chuyển hướng tổ chức bộ máy tinh giảm gọn nhẹ, giảm bớt những phòng, ban, cá nhân khôngn kinh doanh hoặc kinh doanh kém hiệu quả. Một yếu tố kinh doanh trong cơ chế thị trường hiện nay là bộ máy quản lý phải gọn nhẹ, thu gọn về số lượng, cần những cán bộ có năng lực thực sự, gắn bó với công việc kinh doanh được giao, những cán bộ có đủ đạo đức, tác phong tránh phiền hà gây khó khăn cho khách hàng. Tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ nghiệp vụ làm công tác xuất khẩu, tạo điều kiện tối đa cho cán bộ trong công ty để họ yên tâm công tác. 6- Biện pháp giảm chi phí lưu thông và phân bổ chi phí quản lý: Trong công tác xuất khẩu hàng hóa nói chung, phí vận chuyển thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí. Bên cạnh đó là chi phí giao dịch. Do vậy, để giảm chi phí này nên chọn các bạn hàng mua với số lượng lớn hoặc chọn các mặt hàng xuấ tkhẩu có giá trị lớn. Hơn nữa Công ty cần đến một định mức nhất định cho các lô hàng xuất khẩu. 7- Những vấn đề có liên quan đến quản lý nhà nước với hàng xuất nhập khẩu: Nà nước khuyến khích hơn nữa việc xuất khẩu các mặt hàng trong nước sản xuất chế biến dưới dạng sản phẩm tinh. Đánh thuế cao đối với các mặt hàng xuất dưới dạng thô hay bán thành phẩm, tạo điều kiện hơn nữa đối với các đơn vị sản xuất các mặt hàng xuất khẩu dưới dạng thành phẩm. Về thủ tục hành chính, nhà nước nên có các văn bản đồng bộ, hướng dẫn cụ thể các thủ tục nhập khẩu. Nên giảm bớt các đơn vị được phép xuất nhập khẩu để tập trung nguồn hàng, khách hàng vào các đơn vị có uy tín để nâng cao uy tín trên trường quốc tế. Bên cạnh việc hạn chế, cấm khai thác tài nguyên thiên nhiên, Nhà nước ta nên có các chính sách cụ thể và khuyến khích các đơn vị nhập nguyên vật liệu thay thế việc khai thác tài nguyên để sản xuất trong nước. Nhà nước cần ký các văn bản, các Nghị định về thương mại với nhiều nước hơn nữa, đặc biệt là với các nước phát triển mạnh trên thế giới, tạo điều kiện cho hàng hóa xuất khẩu vào các thị trường đó dưới dạh chính ngạch chứ không phải là tiểu ngạch để tránh sự mất giá hàng hóa xuất khẩu của ta trên thị trường quốc tế. Nhà nước cũng cần giảm thuế xuất khẩu hoặc ký kết văn bản với các nước trên thế giới về bảo hộ thương mại tránh đánh thuế hai lần nhằm mục đích đưa hàng hóa xuất khẩu của ta vào thâm nhập thị trường các nứoc có nền kinh tế phát triển cao. Xử phạt nghiêm minh đối với các đơn vị , cá nhân trong hoạt đông xuất khẩu, nhập khẩu có hành vi trốn thuế hoặc những đơn vị, cá nhân có hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường. Đối với các mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu cần có một biểu thuế chi tiết hơn nữa. II/ Phương hướng phảt triển hoạt động xuất khẩu của Công ty Lâm đặc sản Hà Nội Từ kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty, qua phân tích từ các chỉ tiêu ta thấy lợi nhuận đạt được từ hoạt động kinh doanh trong toàn Công ty còn thấp, thậm chí còn bị lỗ ngoài mong muốn. Để tồn tại và phát triển lâu dài trong những năm tới, Công ty cần có phương hướng trong hoạt động kinh doanh của mình. Qua các cuộc họp của toàn Công ty, lãnh đạo Công ty đã nhấn mạnh răng: Không sợ thiếu khách hàng, thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế, mặt hàng kinh doanh; trong những năm tới cần hoàn thiện hơn nữa bộ máy quản lý nhằm giảm các khoản chi phí kinh doanh của từng hợp đồng và của từng phòng nghiệp vụ. Bên cạnh đó, là việc mở rộng thị trường trong nước cũng như trên quốc tế, tích cực hơn nữa trong việc chào hàng, thu mua và chế biến hàng để xuất khẩu mang lại lợi nhuậ, nâng cao uy tín với khách hàng. Chính vì vậy mà Công ty và phòng nghiệp vụ đã cử trực tiếp cán bộ nghiệp vụ xuống cơ sở tìm hiểu khách hàng trong nước cũng như là mặt hàng kinh doanh. Tổ chức thu mua tận cơ sở, dầu tư trực tiếp xuống cơ sở sản xuất và sau đó thu mua lại sản phẩm để xuất đi nước ngoài. Trong các cuộc họp lãnh đạo Công ty cũng chú trọng việc kinh doanh xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như hạt ý dĩ, hoa hồi, trùng hơơng... tạo thế mạnh cho hoạt động xuất khẩu. Ngoài ra, Công ty còn chú trọng đến mặt hàng nhập khẩu và các mặt hàng kinh doanh nội địa, các hoạt đông dịch vụ như cho thuê kho bãi. Hàng năm các mặt hàng kinh doanh nội địa, mặt hàng nhập khẩu, và các hoạt động dịch vụ cho thuê kho bãi cũng đem lại cho Công ty một khoản lợi nhuận lớn. Mỗi năm Công ty dành một khoản vốn để nhập khẩu và kinh doanh dịch vụ lên đến hai chục tỷ đồng. Ngoài ra, hằng năm Công ty còn đầu tư một khoản hàng trăm triệu đồng vào kiến thiết và xây dựng cơ bản, tu bổ lại kho tàng bến bãi để đáp ứng được các nhu cầu của khác hàng. Như ta đã nói ở trên, để có phương hướng kinh doanh lâu dài Công ty cũng đã có những biện pháp hoàn thiện và đẩy mạnh xuất khẩu cũng như nhập khẩu và Công ty cũng đã có chiến lược đầu tư vào các khâu sản xuất và chế biến xuống tận người sản xuất để tạo nguồn hàng lâu dài, phục vụ cho hoạt đông kinh doanh của Công ty trong những năm tới. Bên cạnh đó là việc mở rộng các đối tác, liên doanh với đối tác sản xúat hàng may mặc phục vụ xuất khẩu cũng như khách hàng trong những năm tới. Mặc dù trong điều kiện hiện tại, Công ty gặp không ít những khó khăn như đã nói trên song lãnh đạo Công ty cùng cán bộ công nhân viên trong toàn Công ty đồng tâm hợp lực để tìm ra các phương hướng nhằm bảo tồn Công ty và tạo cho Công ty một hướng đi đúng. Từ việc sắp xếp lại tổ chức trong toàn công ty, từng bộ phận trong công ty, nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ nghiệp vụ , đào tạo thêm các cán bộ kế cận đẻ có phương hướng phát triển tổ chức quản lý lâu dài trong những năm tới. Trong công tác quản lý, lãnh đạo công ty đã ra quyết định khoán cho từng bộ phận, lỗ phải chịu, lãi được thưởng và các bộ phận khoán đến từng cán bộ nghiệp vụ chịu trách nhiệm từ khâu đầu đến khâu cuối, từ khâu tìm hiểu thị trường, khách hàng, mặt hàng và mở rộng thị trường đến chào hàng và giao hàng. Trong các khâu này đều có định mức cho từng công việc cụ thể để giảm bớt chi phí trong kinh doanh. Về vốn kinh doanh: Công ty huy động mọi nguồn vốn hiện có trong công ty để phục vụ công việc kinh doanh, từ vốn hiện có đến đi vay của ngân hàng và ngay cả việc huy động vốn trong cán bộ công nhân viên trả lãi theo lãi suất của ngân hàng. Nghiêm khắc kiểm điểm những cán bộ công nhân viên gây khó dễ cho khách hàng, tạo uy tín cho công ty ngày càng lớn, có niềm tin đối với khách hàng trong và ngoài nước. Cải tạo và mua sắm mới thêm trang thiết bị phục vụ cho kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ công nhân viên trong công việc. Hàng tháng, hàng quý giám đốc công ty triệu tập cán bộ trưởng phó phòng các bộ phận dê báo cáo kết quả và từng bộ phận phải có phương hướng kinh doanh trong tháng, quý rút kinh nghiệm khắc phục hoặc kiểm điểm nghiêm khẵc những tồn đọng của từng bộ phận. Ngay từ đầu năm 1999 giám đốc công ty đã lên kế hoạch sản xuất kinh doanh cho toàn công ty là: Năm 1999 công ty được tổng công ty giao kế hoạch. Tổng doanh thu thực hiện 48 tỷ Kim ngạch xuất nhập khẩu 5 triệu $ Lãi 1999 200 triệu đồng Trong đó khoán riêng phí doanh thu cho từng bộ phận như sau. -Phòng nghiệp vụ 1: Nộp phí năm 1999 là 150 triệu đồng -Phòng nghiệp vụ 2: Nộp phí năm 1999 là 150 triệu đồng -Phòng nghiệp vụ 3: Nộp phí năm 1999 là 150 triệu đồng -Trạm kinh doanh và nghiệp vụ cầu tiên nộp phí năm 1999 là 600 triệu đồng -Xí nghiệp đặc sản Hà Đông tự động cân đối không phải nộp phí -Phòng nghiệp vụ 1,2,3 tự phải trả tiền điện thoại và Fax do phòng mình sử dụng Trạm kinh doanh phục vụ cầu tiên chịu chi phí điện nước, sửa chữa nhỏ, tiếp khách và các khoản khác. Công ty chịu phí: Thuê đất, khấu hao, sửa chữa lớn. Nhìn chung từ phương hướng hoạt động kinh doanh của công ty và kế hoạch kinh doanh của giám đóc công ty đề ra, cán bộ nhân viên trong toàn công ty đều phấn khởi hăng say trong công việc của mình bởi vì quyền lợi của công ty chính là quyền lợi của mỗi công nhân viên, sự tồn tại của công ty chính là tồn tại của chính họ. Trong công việc nếu làm vượt thì được thưởng, nếu không đạt thì bị rút đi một khoản thu nhập thậm chí không làm họ cũng không có lương vì mức khoán đó sẽ bị trừ vào lương của chính họ. Đó cũng biện phấp để thúc đẩy sự phát triển trong toàn công ty lâm đặc sản Hà nội. III. Các kiến nghị với nhà nước: Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Xuất khẩu có tầm quan trọng chiến lược. Xuất khẩu tạo ra nguồng ngoại tệ, đổi mới công nghệ, Nâng cao năng xuất và chất lượng sản phẩm góp phần đắc lực trong việc ổn định tiền tệ thăng bằng cán cân thanh toán quốc tế. Thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên để hoạt động xuất khẩu một cách lành mạnh thì cần phải có sự quản lý của nhà nước. Thực tế trong những năm đổi mới kinh tế vừa qua đã chứng minh được nhà nước đóng vai trò tích cực như thế nào trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên sự quản lý vĩ vô của nhà nước vẫn còn nhiều quản lý như: Các luụat thuế chưa đồng bộ, thiếu thực tế, còn chồng chéo, các chính sách lại thay đổi rất lớn trong một thời gian ngắn gây ra nhiều phức tạp và khó khăn đói với các doanh nghiệp trong nước nói chung và và các doanh nghiệp làm đặc sảnnói riêng. Cho nên để Công ty làm đặc sản Hà nội hoạt động có hiệu quả hơn thì nhà nước cần xem xét một số vấn đề sau: 1. Các chính sách thúc đẩy sản xuất: 1.1 Nhà nước cần tăng cường đổi mới kỹ thuật, công nghệ sản xuất và cơ cấu mặt hàng nâng cao hiệu quả xuất khẩu,đầu tư nguồn hàng xuất khẩu. Việc nâng cao phát triển đổi mới kỹ thuật, công nghệ phục vụ cho sản xuất là một vấn đề cần thiết đối với nước ta. Trên cơ sở khẩn trương mở rộng các ngành khai thác và sản xuất các sản phẩm làm đặc sản nhằm mục đích phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Nhà nước có thể tập trung vào một số biện pháp chủ yếu sau. -Trang bị lại hoặc xây dựng mới các xí nghiệp vừa và nhỏ bằng những thiết bị công nghệ hiện đại hơn nhằm mục đích nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. - Trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá dất nước nhà nước cần có chính sách hỗ trợ Công ty để công ty có thể tổ chức biên chế ra thành phẩm vừa đáp ứng tiêu dùng nội địa vừa tạo ra giá trị cao để xuất khẩu, tiến tới ngày càng giảm xuất khẩu các mặt hàng làm đặc sản của công ty dưới dạng sơ chế. -Việc lựa chọ cơ cấu hàng hoá xuất khẩu hợp lý, có hiệu quả và việc xác định đúng mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong từng thời kỳ là một trong nhưngx nội dung quan trọng của chính sách n\mặt hàng xuất khẩu, nó chính là nhân tố quyết định quy mô nhịp độ xuất khẩu hàng hóa. Vì vậy, trong thời gian tới nhà nước cần sớm có chính sách về mặt hàng xuất khẩu để giúp cho công ty làm đặc sản tiếp tục tạo ra những mặt hangf xuất khẩu mũi nhọn, trên cơ sở đó giảm xuất nhiên liệu thô, tăng cường xuất thành sản phẩm và nguyên liệu đã qua chế biến và phải phù hợp với xu thế của thị trường quốc tế, sản xuất và xuất khẩu các thị trường cần chứ không phải ta có. 1.2 Nhà nước tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng: Trên cơ sở quy hoạch cây trồng ở các vùng sản xuất tập trung hàng hoá nông lâm chất lượng cao phục vụ dùng trong nước và xuất khẩu. Nhà nước nên tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng, kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội theo sự bố trí sắp xếp thứ tự ưu tiên như sau: Thứ nhất: - Ưu tiên phát triển xây dựng các khu công nghiệp chế biến theo chiêù rộng và chiều sâu. -Do đặc điểm các mặt hàng lâm sản của công ty được thu mua nên nhà nước cần ưu tiên trên đầu tư phát triển công nghiệp chế biến gắn với các vùng nguyên liệu lớn. Thứ hai: Tiếp tục đầu tư phát triển thuỷ lợi, đặc biệt cần đầu tư nâng cấp các công trình thuỷ lợi hiện có và ưu tiên vốn cho việc hoàn thành các công trình dở dang sớm được vào sản xuất có hiệu quả. Thứ ba:Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc kinh doanh thu mua chế biến và lưu thông hàng lâm đặc sản nói chung nhà nước càn chú trọng vào việc nâng cấp hệ thống giao thông vận tải bao gồm có đường thuỷ, đường bộ, xây dựng kho, nơi cung ứng vật tư và thu mua nông sản. 1.3 Tăng cường tiềm lực xuất khẩu thông qua việc huy động, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trong và ngoài nước. Trong giai đoạn hiện nay để thực hiện việc hiện đại hoá nhanh cơ cấu xuất khẩu, thực hiện biện pháp đầu tư là rất cần thiết và có tính quyết định vì không có đầu tư đúng mức thì khó thể tạo bước nhẩy vọt trong sản xuất hàng xuất khẩu. Trong lúc nguồn vốn của nhà nước và nhân viên còn chưa lớn chỉ cho phép đầu tư ở mức độ thấp thì nguồn vốn nước ngoài sẽ ưu tiên tập trung vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội, các khu chế xuất, các khu công nghệ cao... Cho nên cùng với việc cân nhắc kỹ mục tiêu, quy mô và công nghệ để có thể sử dụng được vốn đầ tư nước ngoài có hiệu quả nhất. Nhà nước cần tăng cường giúp đỡ các Công ty, doanh nghiệp trong đó có Công ty lâm đặc sản Hà nội. Ngoài ra Nhà nước cần có thêm các giải pháp hỗ trợ vốn đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu chẳng hạn như qua ngân hàng Ngoại thương Trung ương giúp đỡ các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu tạo vốn bằng cách thương lương với nước ngoai mở các L/C theo điều kiện ứng trước tiền hàng, áp dụng điều khoản để “L/C with Rea Clause” nước ngoài mở qua Vietcombank và bảo lãnh nguồn tiền ứng trước này cho các doanh nghiệp vay ngoại lệ ngắn hạn để thanh toán “L/C at Sight” để phục vụ kịp thời thu mua hàng xuất khẩu. Thời hạn cho vay có tính đến yêu cầu dữ liệu hàng, chờ giá xuất khẩu có lợi nhất. Tóm lại, có thể nói Nhà nước nên tập trung ngân sách vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao hơn mức đầu tư cho nghiên cứu khoa học. Đối với Công ty lâm đặc sản Hà nội nói riêng và ngành lâm nghiệp nói chung vần chú trọng ưu tiên cho việc chọ lai tạo tuyển chọn giống mới có năng suất chất lượng cao. Cho nên trong giai đoạn hiện nay Nhà nước cần chú trọng vào: -Thứ nhất : Xoá bỏ tình trạng bao cấp các ngân hàng thương mại quốc doanh chủ động hoạt động theo quan hệ cung cầuvốn của thị trường -Thứ hai: Nhà nước nên tạo điều kiện phát huy tínhtự chủ và sáng tạo của các ngân hàng thương mại để huy động nguồn vốn trong và ngoài nước, đặc biệt là vốn nhàn rỗi trong dân để đáp ứng nhu cầu vay vốn của nông dân và các doanh nghiệp sản xuất, thu mua, chế biến và kinh doanh nông lâm sản trong vùng: đặc biệt là để nông dân tạm trữ hoặc các doanh nghiệp thu mua tạm trữ để nông dân đỡ bị thiệt thòi về giá thấp lúc thu hoạnh vầ chủ động xuất khẩu khi giá thị trơừng lên cao , khi xuất khẩu có lợi. - Thứ ba: Nhà nước tiếp tục đổi mới cơ chế, điều chỉnh lãi xuất tiền vay và mức vay, thời hạn vay: ngắn hạn, trung hạn, dài hạnđối với từng loại cây đảm bảo để người sản xuất nông nghiệp không phải bán sản phẩm nông lâm sản non làm thua thiệt cho bà con nông dân. - Thứ tư: Nhà nước phải theo dõi và điều chỉnh tỉ giá hối đoái giữa đồng tiền Việt Nam với ngoại tệ để kịp thừi đưa ra các phương án vừa có lợi cho việc xuất khẩu nói chung xuất khẩu lâm đặc sản nói riêng, ngoài ra qua đó còn đảm bảo an ninh tiền tệ quốc gia. 1.4. Marketing và thị trường xuất khẩu phù hợp với việc hỗ trợ công nghệ, quản lý chất lượng và thông tin quảng cáo. Đối với hoạt động xuất khẩu của nền kinh tế nói chung và của Công ty Lâm đặc sản nói riêng do những hiểu biết kém cỏi và thiếu thông tin về thị trường thế giới cho nên trong thời gian qua hoạt động xuất khẩu của cả nước và của công ty lâm đặc sản có thể nói là không đạt hiệu quả. Chính vì vậy về phía nhà nước cần phải có các biện pháp phát huy tiềm năng của các thànhphần kinh tế gắn lưu thông hàng hoá nội địa và hoạt động xuất khẩu với người sản xuất, từ đó tác động thúc đẩy quá trình thay đổi cơ chế sản xuất, đổi mới công nghệ cũng như tạo điều kiện xuất nhập khẩu cho người sản xuất, giúp cho người sản xuất đáp ứng được yêu cầu xã hội, bằng giá cả và chất lượng, tạo sức cạnh tranh thị trường . Cho nên đẻ hỗ trợ công nghệ, quản lý chất lượng và thông tin cho các thành phần tham gia kinh doanh lâm đặc sản trong đó có Công ty Lâm đặc sản Hà Nội, nhà nước nên nghiên cứu và chú trọng vào các mặt : - Nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin để từ đó có thể thuthập được một số lượng thông tin cần thiết phục vụ cho hoạt động xuất khẩu. Ngoài ra bên cạnh việc thu thập những thông tin cần thiết nhà nước còn cần phải nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, việc chuyển giao công nghệ sẽ giúp cho hoạt động xuất khẩu của công ty sẽ lớn hơn, mau lẹ hơn cả về số lượng lẫn chất lượng. - Thông qua các tổ chức hoặc liên hệ với các cơ quan chuyên môn khác trong nước như như các trường đại học, viện nghiên cứu để có thể tổ chức các khoá đào tạo dài và ngắn hạn để phát triển nguồn nhân lực, chuẩn bị cho các giai đoạn phát triển ngành lâm sản. Chỉ có vậy trong tương lai ngành lâm sản mới có thể tồn tại và phát triển lâu dài. 1.4. Từng bước hoàn thiện chính sách thuế: Đây là một trong biện pháp quan trọng góp phần thúc đẩy nhanh quá trình phát triển nền kinh tế thị trường cũng như hoạt động xuất khẩu của nhà nước. Tuy nhiên cơ cấu biểu thuế của ta vừa quá đơn giản nhưng cũng quá phức tạp. Đơn giản vì danh mục thuế chỉ có một cột với tỷ lệ áp dụng cho một nhóm, không đủ chi tiết để xác địng, gây khó khăn cho việc định mức thuế suất cho hàng hoá không ghi trong bảng mã thuế quan. Phức tạp vì biểu thuế có tới 28 mức thuế từ 0% đến 100% giá CIF. Vì vậy nên cải cách cơ cấuthúê hiện nay theo hướng mức thuế xuất ít hơn nằm trong số lượng nhóm hàng không nhiều như hiện tại. Cho nên đối với ngành lâm nghiệp nói riêng nhà nước cần quan tâm vvà lưu ý một số vấn đề như sau: - Đối với thuế lợi tức: Để tăng cường vốn kinh doanh cho doanh nghiệp, xí nghiệp nhà nước nên có hướng để lại 100% mức thúê lợi tức cho họ kể từ khi nhà máy đi vào hoạt động cho tới 2 hoặc 3 năm sau. - Đối với thuế sử dụng đất nông nghiệp: Để đảm bảo đúng yêu cầu ngoài việc nhà nước đã và đang tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn miền núi, ưu tiên cho việc xây dựng thủy lợi và đường giao thông...nhà nước nên có hướng sửa đổi giảm dần đến mức tôi thiểu mức đóng góp trực tiếp của các hộ nông daan, miễn giảm đối với các hộ nômg dân hiện đang sản xuất trên các mảnh đất xấu,đồi núi trọc, đất mặn, đất phèn... -Để đảm bảo nguồn nguyên liệu cho các cơ sở sản xuất về lâu dài nhà nước nên khuyến khích mọi người đặc biệt là các hộ nông dân sống tại các khu sản xuất chế biến hàng lâm sản và làm đặc sản là phải trồng cây gây rừng. Song trước mắt để tăng cường xuất khẩu các mặt hàng lâm sản nhà nước nên có các chính sách phù hợp giúp đỡ. Công ty và các hộ nông dân tăng lợi lợi nhuận nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu do nhà nước đề ra. 2.Đối với công tác quản lý và đào tạo cán bộ trong lĩnh vực xuất khẩu: ∙Hiện nay chỉ riêng đối với ngành lâm nghiệp đội ngũ cán bộ, đặc biệt là hoạch định chính sách, cán bộ thành thạo ngoại ngữ tinh thông nghiệp vụ và dầy dạn kinh nghiệm là thiếu thốn, đây là một trong những trở ngại lớn đối với sự phát triển của công ty. Cho nên để đạt hiệu quả cao trong sản xuất và kinh doanh nhà nước nên chú ý vấn đề đào tạo và phát triển nguồn lực phù hợp với cơ chế thị trường. ∙Đối với công tác quản lý, trong giai đoạn như hiện nay Nhà nước nên chú trọng một số vấn đề như sau: - Nhà nước cần tăng cường kiểm tra quản lý việc khai thác và sử dụng các mặt hàng lâm sản. Cùng với việc bổ sung các văn bản pháp luật cần thieest, nhà nước cần tăng cường thanh tra, kiểm tra, ngăn chặnviệc khai thác bừa bãi rừng. -Nhà nước nên có các chính sách khuyến khích cấc cán bộ, chiến sĩ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tăng cường cơ sở vật chất cho các trạm cửa rừng, các chốt kiểm soát để từ đó có thể ngăn chặn các hành vi khai thác rừng trái phép. - Để đảm bảo sự cân bằng trong kinh doanh Nhà nước nên quan tâm hơn nữa công tác nguyên liệu, việc quản lý nguyên liệu lâm sản cần được quản lý ngay từ khi mới khai thác để tránh tình trạng khai thác rừng không đúng qui điịnh làm ảnh hưởng đến nguồn nguyên liệu. Công tác này phải làm hết sức chặt chẽ không để gây ra tình trạng khai thác các mặt hàng lâm sản quí hiếm và trốn lậu thuế. 3. Tổ chức xuất khẩu tiêu thụ hàng lâm đặc sản . -Đối với các mặt hàng lâm đặc sản không nằm trong danh mục mặt hàng do Nhà nước quản lý, Nhà nước nên xem xét và đơn hiản hoá các thủ tục không cần thiết. - Nhà nước cần quan tâm đến việc khuyến khích các doanh nghiệp hình thành các tổ chức hiệp hội, hợp tác thống nhất về qui cách, hàng hóa, ký kết hợp đồng dài hạn, đảm bảo thanh toán để giảm bớt rủi ro, tránh hiện tượng ép giá trong buôn bán -Để tránh hiện tượng buôn lậu hàng hóa lâm đặc sản qua biên giới nhà nước nên tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trong đó đặc biệt là hoàn chỉnh các cửa khẩu để chống buôn lậu theo đường mòn. -Nhà nước cần hình thànhquỹ hỗ trợ xuất khẩu đẻ can thiệp ổn định thị trường khuyến khích nông dân sản xuất hàng hóa xuất khẩu. - Do đặc điểm các mặt hàng lâm đặc sản của ta thường xuất khẩu sang các nước thuộc khu vực Châu á cho nên nhà nước cần nghiên cứu các giải pháp để nhanh chóng hội nhập khu vực thương mại tự do trong kinh doanh xuất nhập khẩu lâm đặc sản Như đã cam kết tham gia AFTA, chuẩn bị tham gia WTO và ký kết hiệp định thương mại với Mỹ. Kết luận Trong cơ chế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và Công ty Lâm đặc sản Hà nội nói riêng cần phải tạo cho mình một thế mạnh trên thị trường bắngản phẩm và mặt hàng truyền thống của chính mình, xây dựng cho được một chiến lược kinh doanh lâu dài. 1/ Xây dựng cho được một thị trường rộng lớn và không mừng mở rộng thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế, tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững vàng trên thị trường. Muốn vậy cần tạo uy tín với khách hàng bằng chính phương thức hoạt động và chất lượng sản phẩm của mình. 2/Cần đa dạng hoá sản phẩm, mặt hàng kinh doanh xuất nhập khẩu, xây dựng cho đội ngũ Maketting hiểu biết, nhanh nhậy với thị trường. Từ đó, kinh doanh những mặt hàng mà thị trường cần chứ không kinh doanh cái thị trường có, nắm bắt được nhu cầu thị hiếu khách hàng. 3/ Cần bổ túc thêm nghiệp vụ cũng như chú trọng khâu đào tạo cán bộ nghiệp vụ cho tương lai. 4/Bộ máy tổ chức quản lý phải gọn nhẹ: Xây dựng cho được kế hoạch hoạt động kinh doanh cụ thể cho từng bộ phận, từng cán bộ cụ thể, gắn chặt quyền lợi trách nhiệm của mỗi cán bộ trong từng công việc của chính họ, nội bộ trong doanh nghiệp phải đoàn kết thống nhất trong từng công việc cụ thể. Huy động mọi tiềm năng hiện có trong doanh nghiệp, thu hút mọi nguồn lực về doanh nghiệp, tạo thế mạnh tổng hợp trong toàn doanh nghiệp, xác định một mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài để có hướng đầu tư và phát triển cho tương lai. Cần động viên khuyến khích kịp thời đối với những cán bộ công nhân viên trong toàn công ty có năng lực,xử lý nghiêm khắc đối với những cán bộ công nhân viên có hành vi chống đối gây khó khăn cho khách hàng hay có hành vi làm thất thoát tài sản cũng như nguồn vốn trong công ty. Nhìn vào công ty kết quả hoạt động của công ty lâm đặc sản Hà nội, điều đàu tiên ta nhận thấy Công ty cần làm là tinh giảm tối đa bộ máy quản lý, quản lý chặt chẽ hơn nữa các khoản phí. Qua báo cáo thì các khoản chi phí như chi phí giao tiếp là quá lớn không mang lại lợi nhuận tương đương. Công ty cần mở rộng hơn nữa về thị trường xuất khẩu trong nước cũng như là trên thị trường quốc tế, xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ Maketting đi sâu vào các mặt hàng mà công ty hiện đang kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như kinh doanh nội địa và các dịch vụ khác. Cần cử cán bộ nghiệp vụ theo các lớp bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ để tạo cho Công ty có một đội ngũ nghiệp vụ vững vàng để có thể kinh doanh xuất nhập khâủ ở bất kỳ hình thức nào trong phạm vi luật pháp cho phép nhằm nâng cao thu nhập cho Công ty. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình ” Quản trị doanh nghiệp thương mại” của Trường đại học Kinh tế quốc dân. Chủ biên PGS-PTS Hoàng Minh Đường. PTS Nguyễn Thừa Lộc. 2. Giáo trình “Thương mại quốc tế của trường đại học kinh tế quốc dân” Chủ biên PGS-PTS Nguyễn Duy Bột 3. Giáo trình “Kinh tế Thương mại và dịch vụ” Chủ biên PTS Đặng Đình Đào 4. Giáo trình “Đề cương bài giảng nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu” của trường đại học Ngoại thương Hà nội. Khoa kinh tế Ngoại thương biên soạn. 5. Giáo trình “Một số vấn đề cơ bản về nghiệp vụ ngoại thương” của trường đại học ngoại thương ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0545.doc