BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH 
Bùi Thị Thanh Nhung 
CẢM HỨNG TRIẾT LUẬN VỀ CON NGƯỜI 
TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM 
GIAI ĐOẠN 1986- 2000 
Chuyên ngành: Lý luận văn học 
Mã số : 60 22 32 
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC 
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 
TS. HOÀNG THỊ VĂN 
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
LỜI CẢM ƠN 
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, tập thể Thầy cô khoa Ngữ văn trường Đại 
học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, phòng Khoa học- Công nghệ sau đại học 
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 113 trang
113 trang | 
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3448 | Lượt tải: 1 
              
            Tóm tắt tài liệu Cảm hứng triết luận về con người trong truyện ngắn Việt nam giai đoạn 1986 - 2000, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã tận tình 
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. 
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới TS.Hoàng Thị Văn, người thầy đã vất vả hướng dẫn tôi 
hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. 
Tôi cũng xin cảm ơn những người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã , khích lệ, động viên 
tôi giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập. 
Xin trân trọng cảm ơn! 
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2010 
Người thực hiện 
Bùi Thị Thanh Nhung 
PHẦN MỞ ĐẦU 
1. Lí do chọn đề tài 
Từ sau thời điểm năm 1986, khi Đại hội Đảng lần thứ VI, đất nước ta chính thức bước 
vào thời kì đổi mới. Trên tất cả các lĩnh vực hoạt động và đời sống xã hội đều có những 
chuyển biến lớn. Trong sáng tác văn học, văn xuôi thời đổi mới giai đoạn 1986-2000 nói 
chung, truyện ngắn nói riêng, nổi lên vấn đề quan niệm nghệ thuật về con người với cảm 
hứng triết luận đã thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều nhà phê bình, lý luận văn học. 
Thực ra, từ bao đời nay con người với đời sống muôn màu muôn vẻ của nó là đối 
tượng trung tâm của văn học, tính cách, tâm hồn, tất cả những gì thuộc về con người làm nên 
ý nghĩa cuộc sống của con người là đối tượng mà nhà văn tìm đến trước hết. Khám phá bản 
chất người là một trong những thành tựu của văn học nhân loại. Có thể nói, sự sáng tạo của 
nhà văn, tầm khái quát sâu rộng của tác phẩm nghệ thuật làm phong phú đời sống tinh thần 
của dân tộc và nhân loại xuất phát từ việc giải quyết vấn đề con người. Nhưng cùng với sự 
thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học, đặc biệt trong truyện ngắn giai 
đoạn 1986-2000 thì cảm hứng triết luận về con người ngày càng trở nên đậm đặc. Trên các 
tờ báo, tạp chí chuyên ngành có nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến hiện tượng văn học này. 
Đây là một bước phát triển mới, một sự khởi sắc toàn diện của văn xuôi. Tuy nhiên các bài 
viết mới chỉ giới thiệu hay phê bình một tác giả, một tác phẩm, một khía cạnh cụ thể của vấn 
đề. Việc làm sáng tỏ sự chuyển biến trong cảm hứng sáng tác, tìm về cảm hứng triết luận về 
con người mang tính chỉnh thể có ý nghĩa cả về lí luận cũng như về thực tiễn. 
 Đến với đề tài này, sở dĩ chúng tôi chọn mốc thời gian 1986-2000 là vì, không chỉ nó 
có liên quan đến những tác phẩm đoạt giải của Hội nhà văn, được công bố rộng rãi, được 
công chúng đón nhận, mà giai đoạn 1986-2000 là giai đoạn có ý nghĩa quan trọng, giai đoạn 
của một sự chuyển biến lớn, kết thúc một thế kỷ và mở đầu thế kỷ tiếp tục sự đổi mới của 
một nền văn học; đó còn là giai đoạn những nhà văn trăn trở hướng đi riêng lại gặp chung 
trong cái mạch cảm hứng. 
Đến với đề tài này, chúng tôi mong muốn có một cái nhìn mang tính toàn diện hơn về 
hiện tượng này của văn học đương đại. Tham vọng không phải là đưa ra một sự tổng kết trọn 
vẹn hoặc đưa ra những lời phán quyết cuối cùng cho những gì còn chưa kết thúc, mà chỉ là, 
qua sự trình bày và lý giải một cách tương đối có hệ thống của mình, mong có thể góp thêm 
tiếng nói khẳng định thêm sự đổi mới của văn học giai đoạn này so với giai đoạn trước. 
Chúng tôi cũng hi vọng đây sẽ là một đóng góp có ý nghĩa trong việc nghiên cứu và 
giảng dạy văn học. 
2. Lịch sử vấn đề 
Trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam từ trong chiến tranh bước sang đời sống hòa bình 
đầy phức tạp và thử thách, con người bình thường, con người đời thường được các nhà văn 
miêu tả sâu sắc. Tính triết luận về con người trong văn xuôi vốn được kế thừa từ Nam Cao, 
Thạch Lam qua Nguyễn Khải và bây giờ đến hầu hết ở những cây bút trẻ. Nó thu hút sự 
quan tâm của những nhà nghiên cứu, phê bình văn học đương thời. Nói như nhà nghiên cứu 
văn học Vũ Tuấn Anh, đào sâu vào thế giới tâm hồn, tâm linh của con người, văn học hiện 
nay như đã tìm thấy sợi dây nối với truyền thống miêu tả tâm lí của những bậc thầy như Nam 
Cao, Thạch Lam, Nguyễn Tuân,... 
 Có thể nêu những ý kiến, những nhận định tập trung vào những ý hướng sau: 
 a. Các nhà nghiên cứu, lí luận văn học khẳng định con người với tất cả mọi phương 
diện của nó là đối tượng muôn đời của văn học, là nguồn cảm hứng vô tận cho sáng tác của 
nhà văn. Và các nhà văn đứng ở góc độ con người để nhận thức, lí giải, bàn luận về con 
người- đối tượng trung tâm của văn học- trong cái nhìn đa diện, nhiều chiều. 
Mỗi con người là một cuộc đời riêng, một thế giới riêng vốn rất phong phú, phức tạp. 
Và trong mối quan hệ cũng hết sức phong phú, phức tạp của nó với toàn xã hội, con người 
trở thành mối quan tâm hàng đầu của sáng tác. Với Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của 
cuộc sống con người, Đảng chủ trương phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con 
người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động. Văn học, đặc biệt là văn học đã bước vào 
giai đoạn thực sự trưởng thành, không chỉ bày tỏ tình yêu, sự phẫn nộ hay lòng thương xót 
con người mà còn là một lĩnh vực quan sát và khám phá con người. Tính tự do, dân chủ và 
mục đích chân chính đó đã tạo thành dòng chảy ồ ạt vào đại dương nhân bản, nghiêng hẳn về 
phía con người. 
Trần Đình Sử khẳng định: Chỉ từ sau năm 1986,với công cuộc đổi mới toàn diện của 
đất nước, con người trong văn học mới thực sự trải qua một bước ngoặt mới. Chất sử thi 
nhạt dần và quan niệm thế sự, đời tư, triết lí, văn hóa về con người nổi lên, trở thành nét chủ 
đạo, làm thay đổi cả diiện mạo văn học” [ A.I.40, tr. 282]. 
Nguyễn Văn Hạnh có khẳng định trách nhiệm của người cầm bút: Ý thức rõ hơn chức 
năng và sức mạnh riêng của văn học, trách nhiệm của người cầm bút, đặc biệt trong bước 
ngoặt lớn của đất nước, các nhà văn càng thấy phải hiểu sâu hơn con người, con người với 
số phận chẳng ai giống ai, với những biểu hiện sống, những nhu cầu tinh thần và vật chất đa 
dạng và luôn thay đổi. [A. II. 30. tr. 219- 220] 
 Nhận định của Huỳnh Như Phương vừa nhấn lại đặc điểm của văn học hôm nay vừa 
tiếp tục khơi thông hướng đi nhân bản của nó: ý hướng đi vào nội tâm để khám phá chiều 
sâu tâm linh nhằm nhận diện hình ảnh con người đích thực là ý hướng có triển vọng của một 
nền văn học dân chủ [A.II.67, tr.16]. 
Trong “Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 
1986-2000”, Nguyễn Văn Kha khẳng định: Giữa cuộc sống rộng lớn, giữa các sự kiện, biến 
động lịch sử đầy rối rắm và phức tạp, chính đời sống con người, tư tưởng, tình cảm và thân 
phận của nó là đối tượng trung tâm của văn học [A.I.21, tr.11]. 
Trong bài Đổi mới văn học vì sự phát triển, nhà nghiên cứu văn học Vũ Tuấn Anh có 
nêu nhận định: Với Đổi mới văn học, bằng sự lật trở của tư duy nghệ thuật, mối quan hệ văn 
học- hiện thực đã có một sự thay đổi về chất. Có thể nói, toàn bộ hiện thực đã tràn vào văn 
học trong nhịp độ gấp gáp, đến mức xô bồ (…) ở cả phần sáng lẫn phần tối, cả ở lịch sử lẫn 
thời khắc hiện tại, cả số phận lịch sử lẫn số phận cá nhân... [A.II.3, tr.17]. 
Tác giả bài viết nói trên khẳng định một cách mạnh mẽ và trực tiếp tính phức tạp ở 
phía chiều sâu trong tâm hồn con người, khẳng định một sự tìm tòi nhận thức mới về con 
người, đây là cái nhìn nhận chung của nhiều người: Đối tượng nghiên cứu và khám phá của 
văn học không chỉ là xã hội mà còn là con người với tất cả sự phức tạp và bí ẩn của nó; 
Cũng cần nói đến một phương diện khác, như một yếu tố thực sự mới mẻ mười năm qua: cố 
gắng khám phá cái thế giới bí ẩn, khuất lấp, đầy bất trắc và bất thường bên trong mỗi con 
người, bên trong bản- thể Người [A.II.3, tr.15]. 
 Nhìn lại Những thành tựu của truyện ngắn sau năm 1975, Bích Thu cũng thừa nhận 
có một sự nhận thức mới về con người trong truyện ngắn: Hướng tới hiện thực về con người, 
thông qua từng số phận cá nhân, các nhà văn đã xới lên những vấn đề nhức nhối, bức xúc 
của con người trong hiện thực đương đại. Con người trong truyện ngắn hôm nay không còn 
là “những đời người rất nhạt” vì “không có những bất ngờ, may rủi” mà là những con 
người “đầy những vết dập xóa trên thân thể, trong tâm hồn”[A.II.80, tr. 35]. 
 Nhận định của Bích Thu như một nét nhấn cần thiết trong những nhận định cách 
nhìn mới về con người trong văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng: Trong thực tiễn sáng 
tác từ sau 1975 đến nay, cảm hứng sự thật về hiện thực và con người trở thành cảm hứng 
bao trùm đối với các nhà văn. Văn xuôi thế sự, đời tư không chỉ bộc lộ những nếm trải, suy 
tư, nghiền ngẫm mà còn phơi bày, phanh phui các sự vật, hiện tượng để đi đến tận cùng cốt 
lõi của nó.[A.II.80, tr.25] 
 Trong một bài viết ngắn Cái hài và bi kịch người trí thức trong truyện ngắn “Vũ 
điệu của cái bô”, tác giả Nguyễn Thị Thúy Hằng cũng nêu nhận định tương tự: Quan tâm 
hơn đến con người, văn học sau 1975 bổ sung những mảng hiện thực nghiệt ngã, khuất tối 
qua các số phận nhỏ bé của nhiều loại người trong xã hội. Ở những số phận đó có cả cái hài 
lẫn cái bi, cái đẹp đẽ lẫn cái tầm thường. Đấy là bằng chứng về một tư duy hiện thực mới, 
một quan niệm nghệ thuật mới về con người, một quan hệ “tiếp xúc thân mật suồng sã” của 
nhà văn với đối tượng phản ánh [A.II.31, tr. 79]. 
 Đánh giá về sáng tác Ma Văn Kháng, Nguyễn Thị Huệ có một ánh nhìn đầy chất nhân 
văn về con người trong cuộc đời thường: Từ trong bản chất vốn có, con người là phong phú 
và phức tạp (…) nên không thể dùng cái nhìn phân đôi con người một cách đơn giản, cứng 
nhắc; phân biệt một cách rạch ròi: tốt- xấu, tích cực, tiêu cực mà cần phải đi sâu nghiên 
cứu, mổ xẻ phân tích những nỗi niềm thực, những uẩn khúc và bi kịch riêng của đời họ, 
không thể dè bỉu, giễu cợt trước những vấp ngã, lầm lạc của con người mà cần phải có cái 
nhìn bao dung, độ lượng, thể tất trước những lầm lạc đó. [A.II.34, tr. 53]. 
 Trần Cương nêu một cái nhìn khái quát, so sánh sự khác biệt rõ nét của hai giai đoạn 
văn học: Nếu các nhà văn trước 86 đứng ở phương diện xã hội và phong trào để nhìn con 
người thì các nhà văn sau 86 đã đứng ở góc độ con người để nhìn con người, xã hội và các 
vấn đề chung. Do đó, dường như lần đầu tiên xuất hiện hai chủ đề thuộc về con người mà 
trước kia chưa có. Đó là chủ đề về số phận con người và hạnh phúc cá nhân.[A.II.11, 
tr.34,35] 
Có thể nói thể tài thế sự, đời tư đang dần chiếm vị trí chủ đạo trong văn xuôi, đáp ứng 
được nhu cầu phân tích, lý giải, suy tư về con người, xã hội và mọi trạng huống của nhân 
tình thế thái. Văn xuôi đương đại có sự chuyển đổi mạnh mẽ từ miêu tả hiện thực sang biểu 
hiện hiện thực. Từ tái hiện hiện thực theo chiều rộng, chiều dài hướng tới sự tái hiện cuộc 
sống theo chiều sâu, sự khái quát, triết luận về xã hội, nhân sinh, phát hiện ra bản chất của 
cuộc sống xã hội và con người.[A.II.37, tr.28]. 
 Để từ đó có thể khẳng định văn học hiện nay cũng đang hòa vào con đường chung 
của văn học nhân loại ở phương diện khám phá những bí ẩn của con người.[A.II.3, tr18,19] 
b. Nhận thức, lí giải, bàn luận về con người nhằm mục đích cuối cùng là để hiểu con 
người hơn, làm cho con người mỗi ngày sống tốt hơn. 
Đánh giá về những việc, những con người sao được trọn vẹn là một điều quan trọng. 
Mỗi một con người sống hết trọn đời mình không dễ mấy ai không gặp những khúc quanh, 
những ngã rẽ, nhất là ngã rẽ của tâm hồn, trước một hành vi lựa chọn, một sự nhìn nhận 
đúng, sai. Mà cũng không phải lúc nào ta cũng có thể sẻ chia và tìm gặp được một điểm tựa 
để sẻ chia một cách trực tiếp. Văn học, nhất là những thời điểm như vậy, là vô cùng cần thiết 
để thực hiện chức năng của nó. Bởi các nhà văn lớn của mọi thời đều tìm đến con người, tiếp 
cận và giải mã cuộc đời và con người, dẫu có theo những cách khác nhau thì cái mục đích cuối 
cùng vẫn là dễ hiểu nó hơn.[A.II.46, tr. 29] 
Phạm Xuân Nguyên khơi gợi cách nhìn nhận, cách đánh giá con người của hôm nay: 
truyện ngắn hôm nay tiếp tục xới lật các mảng hiện thực của cuộc sống ở cả hai chiều của 
quá khứ và hiện tại để mong góp một tiếng nói định vị cho người đọc một thái độ nhìn nhận, 
đánh giá những việc, những người của bây giờ, của nơi đây. [A.II.61, tr.27] 
Nhà nghiên cứu văn học Hoàng Ngọc Hiến, một cách giản dị, tự nhiên, đi thẳng vào 
vấn đề thuộc bản chất của văn học : Con người không phải lúc nào cũng làm chủ được bản 
thân mình. Vả chăng hiểu được bản thân mình không phải là dễ. Văn học có tác dụng to lớn 
giúp cho con người hiểu được chính mình. [A.II.32, tr.21] 
Về điểm này, Nguyễn Văn Kha trong Đổi mới quan niệm về con người trong truyện 
ngắn Việt Nam 1975- 2000, phân tích khá đầy đủ: Chính tình yêu con người, lòng trắc ẩn, sự 
cảm thông với những niềm vui, nỗi khổ của con người đã dẫn dắt tâm tưởng của nhà văn đến 
với từng cuộc đời, từng số phận, để phát hiện, khám phá thế giới huyền diệu của con người, 
nhìn thấy mặt tốt, mặt xấu, cái cao thượng, cái thấp hèn, cái thật, cái giả,… để có thái độ 
yêu ghét phân minh, chống lại ách áp bức bóc lột, chống lại sự nô dịch con người. Vì thế, 
chủ nghĩa nhân văn trong văn học không chỉ là tình yêu thương con người mà còn nâng cao 
con người lên, hướng con người đến cái chân, cái thiện, cái mỹ. [A.1.21, tr.14]. 
Tô Huy Rứa góp thêm một lời nhắc nhở: Phải ý thức sâu sắc rằng, văn học, nghệ 
thuật của chúng ta không chỉ là nhu cầu thiết yếu của con người mà chính là một trong 
những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát 
triển toàn diện của con người Việt Nam.[A. II.73, tr.29] 
Trên tinh thần đó, Nguyễn Ngọc Thiện khẳng định: Và vì văn hóa, văn nghệ là nền 
tảng tinh thần của xã hội, thể hiện chiến lược về con người, nhằm mục tiêu xây dựng con 
người, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người nên tính nhân văn của nó trong sự hướng 
tới Chân, Thiện, Mỹ được đề cao.[A. II.78, tr. 21] 
Trong Các nhà văn trả lời phỏng vấn về chiến tranh, về đề tài chiến tranh trong văn 
học, Xuân Thiều bộc bạch: Trong các truyện ngắn của mình, tôi thường mong muốn được 
phát hiện những điều chưa biết của con người Việt Nam ta trong chiến tranh. Những điều 
thuộc về thế giới bên trong, thuộc về phẩm chất, về cách nhìn, cách đánh giá con người thế 
nào là hợp lẽ con người nhất. Để con người tốt hơn, yêu nhau hơn và điều quan trọng là giữ 
gìn cho được cuộc sống đáng sống này, chống mọi sự đe dọa của chiến tranh.[A.II.35, 
tr.133, 134] 
Và nhận xét của Mai Hương: Sau những cảm hứng chà xát dữ dội với những mặt tiêu 
cực của cuộc sống, nhiều tác phẩm văn xuôi đã tìm khơi lại cảm hứng về những vẻ đẹp bình 
dị… những chuyển động thầm kín và ấm áp trong ngõ ngách của tâm hồn con người. 
[A.II.37, tr.28] 
Lã Nguyên lạc quan: Giữa hai bờ chân, thiện, hướng tới cái đẹp, văn học đang dào 
dạt đổ về đại dương nhân bản mênh mông.[A.II.56] 
Bên cạnh đó, văn học khẳng định vị trí tối thượng của con người trong mọi cái thuộc 
về giá trị có trong cuộc sống. Cá nhân con người vừa là đối tượng nhận thức trung tâm, vừa 
là điểm xuất phát để văn học nhìn ra thế giới. Nó soi ngắm thế giới và định giá lịch sử qua 
lăng kính và mức thước của cá nhân con người. Nguyễn Minh Châu cho khuynh hướng lấy 
đời tư con người làm mảnh đất khám phá những quy luật vĩnh hằng của các giá trị nhân 
bản. Nguyễn Huy Thiệp tiêu biểu cho khuynh hướng lấy cá nhân con người làm đơn vị cân 
đo trạng thái nhân thế. [A.II.56, tr. 7] 
Như vậy, có thể nói, cảm hứng triết luận về con người trong văn học Việt Nam thời 
đổi mới, cụ thể truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1986-2000, nhìn chung được nhiều nhà 
nghiên cứu, phê bình đề cập hoặc chú ý nhấn mạnh nhưng chưa được đi sâu, tập trung 
nghiên cứu thành một công trình hoàn chỉnh, có hệ thống. 
Tiếp nhận từ những nhận định đó, luận văn đi sâu nghiên cứu về Cảm hứng triết luận 
về con người trong truyện ngắn Việt Nam từ năm 1986-2000 qua những truyện ngắn tiêu 
biểu, tìm nhận những ý kiến, bàn luận, nhận thức, lý giải về con người của các nhà văn trên 
nhiều bình diện bề ngoài lẫn chiều sâu trong tâm hồn, trong tổng thể mối quan hệ của nó. 
3. Phạm vi nghiên cứu 
Nghiên cứu Cảm hứng triết luận về con người trong truyện ngắn giai đoạn 1986- 
2000, luận văn tập trung khảo sát 49 truyện ngắn đáng chú ý- những truyện ngắn mang đậm 
chất triết luận về con người, giúp nhận diện về con người trong dạng thái đa diện nhiều chiều 
của hôm nay. Có thể kể những truyện ngắn trong giai đoạn văn học 1986- 2000 của những 
tác giả tiêu biểu như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Quang Thiều, Phạm 
Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Dạ Ngân, … và một số truyện ngắn đoạt giải trong các đợt 
thi truyện ngắn trên Tuần báo văn nghệ, Văn nghệ Quân đội. 
4. Phương pháp nghiên cứu 
Trong luận văn chúng tôi vận dụng một số phương pháp sau: 
Phương pháp lịch sử- xã hội: 
Sự chuyển biến của văn học gắn với quá trình vận động đổi mới đang diễn ra đều khắp 
trên xã hội. Dưới sự tác động của hoàn cảnh xã hội; trên quan điểm lịch sử cụ thể, luận văn 
xem xét sự vận động và chuyển biến của văn học theo xu hướng tất yếu của nó, để từ đó cố 
gắng tiếp cận một cách đầy đủ nhất những quan điểm của tác giả về đời sống, xã hội, đặc 
biệt là về con người thể hiện trong tác phẩm. 
Phương pháp hệ thống được chú ý vận dụng trong việc khảo sát tác phẩm, hệ thống 
những yếu tố làm nổi bật vấn đề của luận văn theo từng luận điểm, giúp có được cái nhìn 
xuyên suốt. 
Phương pháp phân tích- tổng hợp được chúng tôi sử dụng rộng rãi trong luận văn. 
Đi từ việc khảo sát tác phẩm, phân tích những yếu tố nổi bật trong việc thể hiện cảm hứng 
nghệ thuật (như khám phá tâm lí nhân vật, lí giải hành động của nhân vật,…) rút ra những 
nhận xét có tính chất tổng hợp, khái quát, làm nổi rõ cảm hứng. 
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu 
5.1. Ý nghĩa khoa học 
Như đã nói, cảm hứng triết luận về con người trong truyện ngắn thời đổi mới 1986- 
2000 là một trong những cảm hứng chủ đạo của văn học thời kì đổi mới nhưng chưa được đi 
sâu nghiên cứu một cách tập trung. Luận văn sẽ đi vào khảo sát vấn đề này một cách hệ 
thống, cụ thể, góp phần làm sáng tỏ hơn trong việc nghiên cứu vấn đề này. 
5.2. Ý nghĩa thực tiễn 
- Nhận thức lại con người trong văn học thời kì đổi mới, như là một cách nhìn cuộc 
sống trong những mối quan hệ bộn bề, phức tạp. Góp thêm tiếng nói, hướng về phía chiều 
sâu trong tâm hồn con người, để mà nhận diện con người của hôm nay. 
- Trong công tác giảng dạy ở nhà trường, luận văn hi vọng sẽ gợi ý được những hướng 
tiếp cận mới trong việc phân tích và giảng dạy tác phẩm văn học ở bậc phổ thông, bổ sung 
một góc nhìn mới về con người. 
6. Kết cấu của luận văn 
Luận văn gồm ba chương và hai phần ( phần mở đầu và kết luận). 
Phần mở đầu: Nêu những vấn đề bao quát chung: Lý do chọn đề tài, lịch sử vấn đề, 
đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn 
của đề tài nghiên cứu, kết cấu của luận văn. 
Chương 1: Những tiền đề nảy sinh cảm hứng triết luận về con người trong truyện 
ngắn Việt Nam giai đoạn 1986-2000 
1.1 Cảm hứng nghệ thuật 
 1.1.1. Khái niệm cảm hứng. 
 1.1.2. Các dạng cảm hứng và cảm hứng chủ đạo 
 1.1.3. Cảm hứng triết luận về con người trong văn học Việt Nam giai đoạn 1986-
2000 
1.2 Những tiền đề cho sự nảy sinh cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn Việt Nam 
giai đoạn 1986-2000. 
 1.2.1. Sự quan tâm tới yếu tố con người trong đời sống chính trị, xã hội Việt Nam 
sau 1975 
 1.2.2. Sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam 
Chương 2: Cảm hứng triết luận với sự nhận diện con người trong truyện ngắn 
Việt Nam giai đoạn 1986-2000. 
2.1. Con người với đời sống xã hội. 
 2.1.1. Con người trong cuộc sống đời thường . 
 2.1.2. Con người với chuẩn mực đạo đức văn hóa. 
2.2. Con người với thiên nhiên 
 2.2.1. Thiên nhiên tác động đến đời sống con người 
 2.2.2. Thiên nhiên làm phong phú nội tâm và khơi gợi khát vọng hướng thiện 
 2.2.3. Con người phải gìn giữ và sống hoà hợp với thiên nhiên 
2.3. Con người hướng vào đời sống bên trong 
 2.3.1. Dấu vết chiến tranh với niềm đau day dứt 
 2.3.2. Hạnh phúc và những khắc khoải kiếm tìm 
 2.3.3. Sự hữu hạn của mỗi người trước thời gian đời người 
Chương 3: Giọng điệu nghệ thuật của cảm hứng triết luận về con người trong 
truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1986-2000. 
3.1. Giọng trăn trở, day dứt. 
3.2. Giọng thương xót, ngậm ngùi. 
3.3. Giọng suy tư, triết lí . 
Kết luận 
Thư mục tham khảo 
Chương 1: 
NHỮNG TIỀN ĐỀ NẢY SINH CẢM HỨNG TRIẾT LUẬN 
VỀ CON NGƯỜI TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM 
GIAI ĐOẠN 1986- 2000 
Cảm hứng triết luận là một trong những dạng cảm hứng nghệ thuật trong văn học. Sự 
nảy sinh cảm hứng triết luận về con người trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1986-2000 
như là một yếu tố tất yếu bởi sự chuyển đổi cảm hứng nghệ thuật về con người. 
1.1. Cảm hứng nghệ thuật 
1.1.1. Khái niệm cảm hứng 
Bất cứ một tác phẩm nào đạt đến tính nghệ thuật đều không thể thoát ly cảm hứng mà 
phải gắn liền với cảm hứng, nếu không nói là nó được khơi nguồn từ cảm hứng. Đối với tác 
phẩm văn học, cảm hứng là một trong những yếu tố quan trọng trong việc hình thành tác 
phẩm, tạo ra sức mạnh của tác phẩm, đạt đến hiệu ứng thẩm mĩ. Vì cảm hứng không chỉ có 
giá trị khơi nguồn mà xuyên suốt toàn tác phẩm, trở thành cảm hứng chủ đạo, chi phối nhiều 
yếu tố có trong tác phẩm. Mọi tư tưởng, tình cảm, quan niệm nghệ thuật của nhà văn về một 
đối tượng nào đấy đều dậy lên từ cảm hứng. Cảm hứng càng mãnh liệt, nồng cháy, tác phẩm 
càng đạt đến đỉnh cao của sức hút, tất nhiên phải gắn với những giá trị khác, như giá trị tư 
tưởng, giá trị nghệ thuật. 
Có thể coi cảm hứng là một thuật ngữ trong nghệ thuật, trong tác phẩm nghệ thuật 
ngôn từ. Nó đã được dùng ngay từ thời cổ đại Hy Lạp để chỉ “trạng thái phấn hứng cao độ 
của nhà văn do việc chiếm lĩnh được bản chất cao độ của cuộc sống mà họ miêu tả” [A.I.38, 
tr.141]. 
Nhưng cái “trạng thái phấn hứng cao độ” đó chỉ có thể là cảm hứng trong tác phẩm 
văn học nghệ thuật khi sự lí giải, đánh giá đối tượng đạt đến một chiều sâu nhất định. 
Trong cuốn Dẫn luận nghiên cứu văn học, G.N.Pôxpêlôp viết: Sự lí giải, đánh giá 
sâu sắc và chân thật- lịch sử đối với các tính cách được miêu tả vốn nảy sinh từ ý nghĩa dân 
tộc khách quan của các tính cách ấy là cảm hứng tư tưởng sáng tạo của nhà văn và của tác 
phẩm của nhà văn [A.38, tr141]. Như vậy, một sự lí giải, đánh giá hời hợt, khiên cưỡng hoặc 
không chân thật đối tượng được miêu tả đều không thể gọi là cảm hứng nghệ thuật. Một sự 
nhìn nhận, đánh giá, lí giải sai sự thật hay phản sự thật thì càng không thể là cảm hứng nghệ 
thuật. Chỉ khi nhà văn phải thật sự xúc động, thật sự ấn tượng cái đối tượng được miêu tả 
kia, tạo thành một dòng chảy cảm xúc đầy ứ, không thể giữ lại, thôi thúc nhà văn phải nói ra, 
viết ra, vì đó còn là nhu cầu chia sẻ và được chia sẻ. Đến khi đó, cái được gọi là cảm hứng 
mới thật sự chân thành, thật sự xúc động, và thật sự neo lại ở người đọc một giá trị đầy ý 
nghĩa như mong đợi. Những trang sách viết về anh Trỗi (Sống như Anh- Trần Đình Vân), 
chị Sứ (Hòn đất- Anh Đức), anh hùng Núp (Đất nước đứng lên- Nguyên Ngọc),…có sức 
cuốn hút vì nó được viết lên từ cảm hứng chứa đầy cảm xúc chân thành, nồng nhiệt của nhà 
văn. Những vần thơ dạt dào cảm xúc sẽ cháy mãi trong lòng người đọc dù qua bao tháng, 
bao năm. Cũng như những ai đọc Người đi tìm hình của nước của Chế Lan Viên đều lắng 
lại một nỗi niềm dân tộc: 
Đất nước đẹp vô cùng nhưng Bác phải ra đi 
Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác 
Khi bờ bãi dần lui, làng xóm khuất 
Bốn phía bờ bên không bóng một hàng tre 
Đêm xa nước đầu tiên ai nỡ ngủ 
Sóng vỗ dưới con tàu đâu phải sóng quê hương 
Trời từ nay chẳng xanh thành xứ sở 
Xa nước rồi càng hiểu nước đau thương 
 Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương trong Lí luận văn học, vấn đề và suy nghĩ, 
nêu khái niệm cảm hứng: “Cảm hứng là sự thiết tha và nhiệt tình nồng cháy gợi nên bởi một 
tư tưởng nào đó”. Lẽ tất nhiên, tư tưởng đó phải là tư tưởng lành mạnh, tiến bộ, cao đẹp. Và 
“Cảm hứng biến sự nhận thức của trí tuệ về một tư tưởng nào đó trở thành lòng say mê đối 
với tư tưởng đó, trở thành năng lượng và thành khát vọng nồng nhiệt” [A.I.13, tr. 208-209). 
Trần Đình Sử cũng khẳng định, cảm hứng là niềm say mê khẳng định chân lí, lí tưởng, 
phủ định sự giả dối và mọi hiện tượng xấu xa, tiêu cực, là thái độ ngợi ca, đồng tình với 
những nhân vật chính diện, là sự phê phán, tố cáo các thế lực đen tối, các hiện tượng tầm 
thường… 
Cảm hứng trong tác phẩm nghệ thuật phải được bắt nguồn từ lí tưởng xã hội của nhà 
văn, từ trong nhiệt huyết của mỗi nhà văn. Cái nhiệt huyết của một thanh niên mang lí tưởng 
cách mạng “mặt trời chân lí chói qua tim” đã hun đúc nên trong Tố Hữu những vần thơ tràn 
đầy cảm hứng lạc quan trước ngọn gió thời đại, trước sự chuyển mình của đất nước. 
 Trong Lí luận văn học do Phương Lựu chủ biên, có viết: “Nội dung tư tưởng tác 
phẩm văn học không bao giờ chỉ là sự lí giải dửng dưng lạnh lùng, mà gắn liền với cảm xúc 
mãnh liệt” [A.I.26, tr. 268]. “Cảm hứng là một tình cảm mạnh mẽ, mang tư tưởng, là một 
ham muốn tích cực đưa đến hành động”[A.I.26, tr. 268]. Điều quan trọng cần nhận ra cảm 
hứng như một lớp nội dung đặc thù của tác phẩm văn học. “Cảm hứng của tác giả dẫn đến 
sự đánh giá theo quy luật của tình cảm. (…). Niềm tin yêu, say mê và khẳng định tư tưởng, 
chân lí làm cho cảm hứng trong tác phẩm thường mang tính “thiên vị”, “thiên ái” đối với tư 
tưởng của mình, chân lí của mình” [A.I.26, tr. 269]. “Cảm hứng trong tác phẩm phải phục 
tùng quy luật tình cảm là phải khêu gợi, khơi mở, chứ không thẳng đuột một chiều” [A.I.26, 
tr. 270]. Cảm hứng không cho phép nhà văn thể hiện cảm xúc một cách bằng phẳng, nhạt 
nhẽo. Nó là một năng lượng tình cảm được tập trung nén lại, chỉ chờ độc giả là thổi bùng lên. 
Nội dung của cảm hứng tư tưởng bao giờ cũng là một tình cảm xã hội đã được ý thức 
và chỉ những tư tưởng lành mạnh, tích cực, tiến bộ mới dấy lên được những cảm hứng nghệ 
thuật đích thực. 
Như vậy, cảm hứng là tình cảm, cảm xúc mãnh liệt, say đắm, thể hiện tư tưởng, khát 
vọng chân thành, cháy bỏng của nhà văn về đối tượng hướng đến trong tác phẩm. Cảm hứng 
gắn liền với những với lí tưởng cao đẹp của nhà văn về con người, cuộc sống. Nó khơi thông 
miền cảm xúc qua mỗi trái tim người đọc, đọng lại một tình cảm sâu xa, khơi thông nguồn trí 
tuệ, giúp nhận thức đối tượng trên nhiều phương diện, tiếp thêm sức mạnh tinh thần và đưa 
đến hành động đúng đắn, đầy nhiệt huyết. Cảm hứng chủ đạo là cảm hứng bao trùm, xuyên 
suốt một tác phẩm hay toàn bộ sáng tác của một tác giả. 
1.1.2. Các dạng cảm hứng và cảm hứng chủ đạo 
Trong đời sống cũng như trong nghệ thuật, mọi cảm hứng bắt rễ từ tình cảm, cảm xúc 
của con người. Mà cái tình trong con người thì đa dạng, phong phú, phức tạp và sâu sắc biết 
chừng nào. Cảm hứng, vì vậy, cũng phong phú, đa dạng và phức tạp. Và trong những trạng 
thái, hoàn cảnh khác nhau của đối tượng làm nảy sinh những cảm hứng khác nhau. Có thể kể 
như cảm hứng lãng mạn, cảm hứng bi kịch, cảm hứng phê phán, cảm hứng anh hùng, cảm 
hứng triết luận,... 
Những dạng cảm hứng nói trên “đều là sự ý thức về mặt tư tưởng và sự đánh giá về 
mặt cảm xúc, một sự ý thức và đánh giá chân thực và sâu sắc về những gì đang diễn ra và 
tồn tại trong thực tế” (A.I.38, tr.143). Dù vậy, sự phân chia những dạng cảm hứng ở những 
nhà nghiên cứu văn học nghệ thuật cũng không hoàn toàn trùng khít với nhau. Theo 
Pospelov, do những khác biệt cốt yếu của bản thân cuộc sống được nhận thức [A.I.38, tr141-
142] nên cảm hứng cũng có nhiều biến thể khác. Một số dạng thức của cảm hứng như cảm 
hứng anh hùng, cảm hứng bi kịch, cảm hứng kịch tính, cảm hứng thương cảm, cảm hứng 
lãng mạn, cảm hứng châm biếm và cảm hứng hài hước. 
Trong sáng tác nghệ thuật, cảm hứng được biểu hiện nhiều biến thể, nảy sinh từ ý thức 
con người về tư tưởng và cảm xúc, nhất là những người nghệ sĩ sáng tạo nghệ thuật ngôn từ. 
Vì vậy, tác phẩm nghệ thuật ngôn từ có nhiều biến thể cảm hứng. Tuy vậy, vẫn có một biến 
thể ngự trị chủ yếu, xuyên suốt tác phẩm. Đấy là cảm hứng chủ đạo. 
Cảm hứng ở mỗi nhà văn không giống nhau trong cách biểu hiện. Cảm hứng lãng 
mạn trong thơ Tố Hữu thể hiện khuynh hướng hứng thú đặc biệt trong việc thể hiện cái tôi cá 
nhân cá thể được giải phóng về tình cảm, cảm xúc và về trí tưởng tượng. Nó thoát khỏi 
“vòng quanh quẩn”, như cánh chim tung cánh giữa trời xanh, và hướng đến một tương lai 
huy hoàng: 
Rồi một ngày nào tôi thấy tôi 
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi 
Say đồng hương nắng vui ca hát 
Trên chín tầng cao bát ngát trời… 
 (Nhớ đồng) 
Cảm hứng lãng mạn trong thơ Xuân Diệu thiết tha say đắm với tình yêu và mang niềm 
khát khao giao cảm với cuộc đời: 
Ta muốn ôm 
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn 
 (Vội vàng) 
Trong cùng một tác phẩm văn học có thể tồn tại những dạng thức cảm hứng khác 
nhau. Ở Tố Hữu, chất lãng mạn nhiều khi kết hợp với cảm hứng sử thi, phản ánh tinh thần 
lãng mạn của cả dân tộc hăm hở hướng về tương lai với niềm tin tất thắng của sự nghiệp giải 
phóng dân tộc, tạo nên những vần thơ đẹp một cách khỏe khoắn đầy khí thế: 
Chưa bao giờ đẹp thế, sắc trời xanh 
Và sắc đỏ của lá cờ ra trận 
 (Tuổi 25) 
Cảm hứng nảy sinh trong ý thức xã hội. Nó đánh giá về mặt nội dung tư tưởng trong 
tác phẩm của mỗi nhà văn. Cảm hứng lãng mạn trong thơ Tố Hữu được khơi dậy từ chính 
hiện thực- hiện thực ấy qua ánh nhìn của Tố Hữu, được nhân lên nhiều lần với chiều kích cao 
rộng bát ngát của lý tưởng và của tương lai. 
Nhưng vẫn có một cảm hứng chủ đạo xuyên suốt tác phẩm, nó chi phối toàn bộ tác 
phẩm, từ hình tượng, hoàn cảnh, tình huống đến cả giọng điệu, lời văn… Điều này tùy thuộc 
vào nội dung tư tưởng, tình cảm của nhà văn, tùy thuộc vào cá tính sáng tạo nghệ thuật của 
mỗi người cầm bút. Nó còn tùy thuộc vào hoàn cảnh xã hội, thực tại của đời sống mà nhà 
văn đang sống trong đó. 
Theo Hêgel, cảm hứng chủ đạo là trung tâm điểm của nghệ thuật. Đấy chính là biểu 
hiện tâm hồn người nghệ sĩ say sưa thâm nhập vào đối tượng một cách xuyên suốt. Và vì 
vậy, nó gây tác động cảm xúc nhiều khi cũng rất mạnh mẽ đối với người tiếp nhận tác phẩm, 
tạo sự đồng cảm, thăng hoa trong nghệ thuật. 
Có thể thấy, cảm hứng và các dạng thức của._. nó là một trong những yếu tố quan trọng 
trong tác phẩm văn học và xuyên suốt trong lí luận văn học. Nó thể hiện nội dung tư tưởng, 
tình cảm của tác giả về những đối tượng cụ thể được nói đến trong tác phẩm. Và việc nghiên 
cứu cảm hứng chủ đạo giúp ta hiểu được đặc điểm sáng tác của các nhà văn. 
1.1.3. Cảm hứng triết luận về con người trong văn học Việt Nam thời đổi mới, giai đoạn 
1986-2000. 
So với những dạng cảm hứng khác, có thể nói, cảm hứng triết luận hình thành muộn 
hơn. Sự lí giải và miêu tả đời sống con người theo cảm hứng triết luận được phát triển trong 
xã hội thái bình, khi số phận cá nhân con người đặc biệt được quan tâm, khi mà ý thức về 
phận người thật sâu sắc. Những nhà văn ưu tư, mẫn cảm trước đời sống thực tại, đi sâu vào 
thế giới nội tâm con người, khám phá và lí giải đến tận cùng cái gọi là bản thể người, trong 
những mối quan hệ với nó. Ở đó hội tụ đa dạng và phức tạp những trạng thái cảm xúc của 
nhà văn: yêu, ghét, buồn, đau, chê trách, cảm thông, đồng cảm, phẫn uất,… đối với con 
người trong cuộc sống riêng tư lẫn cuộc sống xã hội, trong những mối quan hệ riêng tư lẫn 
quan hệ công dân. Vì vậy, cảm hứng triết luận giàu chất suy tưởng. 
Sự phát triển ý thức cá nhân là dấu hiệu của sự phát triển ý thức con người trong 
những mối quan hệ thuộc về nó. Trong văn học, sự vận động và phát triển của một nền văn 
học được thể hiện ở trình độ chiếm lĩnh, khám phá về con người, trong đó việc thể hiện đời 
sống cá nhân, sự nhận thức, khám phá, lý giải về hành vi, đời sống tình cảm của con người 
có một vị trí vô cùng quan trọng. 
Thông qua văn bản nghệ thuật, cảm hứng triết luận về con người luận bàn một cách 
trực tiếp về con người, cái đối tượng luôn làm nhà văn băn khoăn, trăn trở. Nó trả lời cho câu 
hỏi: Con người cá nhân là gì? Đâu là bản chất người? Và con người cá nhân ấy chịu ảnh 
hưởng bởi bản sắc văn hóa dân tộc như thế nào?... 
Mỗi nhà văn có một cái nhìn, cách đánh giá, tầm nhận thức, sự lý giải về con người 
theo quan điểm xã hội, nhu cầu thẩm mỹ, sự hài hòa có trong cuộc sống con người. Đó cũng 
chính là quan niệm nghệ thuật về con người, thể hiện một cách nhìn, cách cảm từ cụ thể đến 
khái quát, gắn liền với mỗi sự sống con người, với mỗi cuộc đời thực. 
Như vậy, có thể nói, triết luận về con người nhằm tìm hiểu, khám phá, lý giải về con 
người với tất cả những gì thuộc về nó, trong quan hệ nó với xã hội, tự nhiên, với bản thân, ở 
những góc nhìn khác nhau, cách giải quyết khác nhau. Điều đó thể hiện tầm nhìn, chiều sâu 
của sự khám phá, lý giải, trình độ chiếm lĩnh con người của nhà văn, trình độ tư duy nghệ 
thuật của nhà văn. 
Tính triết luận về con người thể hiện thế giới quan của nhà văn về con người qua sự 
nhận thức, cảm nhận về con người một cách khái quát mang tính chủ quan của nhà văn về 
con người, đấy cũng chính là một trong những tiêu chí xác định trình độ tư duy, khả năng 
tiếp nhận hiện thực và sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. 
Triết luận về con người trong văn học, xét cho cùng, không tách rời với quan niệm 
nghệ thuật về con người mà từ quan niệm nghệ thuật về con người, xem xét con người như 
thế nào trong những mối quan hệ của nó, từ đó, lý giải, tìm ra cái gọi là bản- thể người. Nói 
khác đi, triết luận về con người là dạng thức biểu hiện cụ thể, đằm sâu hơn quan niệm nghệ 
thuật về con người. Nó mang tính quyết định nội dung và hình thức của tác phẩm. Vì vậy, nó 
chi phối mạnh mẽ việc xây dựng tác phẩm, để lại những dấu ấn đậm nét cho từng nhà văn, 
từng giai đoạn văn học. 
Coi con người là đối tượng trung tâm của văn học, triết luận về con người có thể xem 
là một biểu hiện nhân đạo hóa của ý thức lý luận, đưa văn học vào đúng quỹ đạo “nhân 
học” như M.Gorki đã phát biểu. Điều này chứng tỏ sự tiến bộ của tư duy lý luận trong 
nghiên cứu văn học. (Nguyễn Văn Kha, Đổi mới quan niệm về con người trong truyện ngắn 
Việt Nam 1975- 2000, tr.17). 
Như đã nói, cảm hứng triết luận đã có từ trước, nhưng đến văn học thời đổi mới, sau 
năm 1986 đến nay nó mới phát triển rõ rệt, cảm hứng triết luận bộc lộ mạnh mẽ, được nhận 
thức và được ghi nhận. Cũng như những dạng cảm hứng khác nảy sinh đều có cơ sở, cảm 
hứng triết luận nảy sinh do những đặc tính khách quan của đời sống thực tại, của hoàn cảnh 
xã hội. Nó phát triển trên diện rộng của nền văn học dân tộc đương đại. 
Sự nảy nở của cảm hứng triết luận đòi hỏi những điều kiện phức tạp: phải có những 
biến động và rung chuyển cách mạng trong đời sống xã hội. Do đó, cái có ý nghĩa lớn ở đây 
là đại hội Đảng từ sau năm 1986, mở ra một bầu không khí dân chủ, làm tích cực cảm xúc và 
ý thức đi tìm tận nguồn cơn những cái thuộc về số phận con người, liên quan đến con người 
trong những mối quan hệ đa dạng và phức tạp của nó. 
Cảm hứng triết luận xuất phát từ chiều sâu trí tuệ, lí trí, từ sự ý thức một cách thấu 
suốt phận người. Chất triết luận cũng có sự khác biệt trong các tác phẩm của những nhà văn 
khác nhau và có ảnh hưởng từ lập trường tư tưởng của họ. Chất triết luận xuất phát từ sự suy 
tư triết lí, khái quát hóa về cuộc đời, về phận người. Nó được gây nên bởi ý thức của nhà văn 
về những vấn đề thuộc về con người, không phân biệt giai tầng trong xã hội. 
Cảm hứng triết luận có mối quan hệ với những dạng cảm hứng khác nhưng nó cũng có 
tính riêng độc lập, có khả năng luận giải vấn đề một cách biện chứng, sâu sắc. 
Tính triết luận không mang khuynh hướng tư tưởng khẳng định hay phủ định như 
thương cảm, châm biếm (theo cách phân loại các biến thể cảm hứng của Pôxpêlôp) mà chú ý 
lí giải một cách thâm trầm, sâu sắc vấn đề được tác phẩm nêu ra. Ở cảm hứng triết luận, sự lí 
giải đôi khi để ngỏ cho người đọc. Chính khoảng trống giữa ấy tạo được bất ngờ, lí thú và 
những âm vang. 
Các nhà văn thường thể hiện tính triết luận ở nội tâm nhân vật, không chú trọng ngoại 
hình hoặc qua ngoại hình toát lên tính cách, số phận nhân vật. Các nhà triết luận có xu hướng 
nhìn con người với hai mặt của nó: tốt- xấu, thiện- ác, cao thượng- sự thấp hèn, … Và chính 
cái nhìn con người nhiều mặt đó của các nhà văn đã giúp cho cái ý hướng hoàn thiện con 
người vốn là điểm đến của văn học. 
1.2. Những tiền đề cho sự nảy sinh cảm hứng triết luận trong truyện ngắn Việt Nam 
giai đoạn 1986- 2000 
1.2.1. Sự quan tâm tới yếu tố con người trong đời sống chính trị, xã hội Việt Nam sau năm 
1975 
Đất nước vừa lặng im tiếng súng, hòa lẫn trong không khí hân hoan của niềm vui 
chiến thắng là không khí náo nức xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn quốc. Trong báo cáo 
chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn 
quốc lần thứ IV (1976) có khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có 
con người xã hội chủ nghĩa”. Về nội dung xây dựng con người mới, Đảng quan niệm: “Xây 
dựng con người mới Việt Nam là xây dựng con người phát triển toàn diện, có cuộc sống tập 
thể và cá nhân hài hòa, phong phú”. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Đảng tiếp tục 
khẳng định: “Mỗi người được phát triển đầy đủ nhân cách, tài năng và năng khiếu của 
mình, trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân, gia đình và xã hội.” 
Sau những khó khăn, Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đề ra công cuộc đổi mới toàn 
diện đất nước. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu 
toàn quốc nhấn mạnh: “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của đời sống con người”. 
“Phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi 
hoạt động”. Quan điểm, đường lối nhất quán của Đảng đã tạo ra bầu không khí dân chủ, 
khơi gợi khả năng tìm tòi, sáng tạo của người nghệ sĩ, đáp ứng thị hiếu của công chúng thời 
đại mới, thúc đẩy nền văn học nước nhà phát triển. Chủ trương đổi mới đã tạo phấn khởi cho 
văn nghệ sĩ nước ta, khơi dậy nhiều tiềm năng sáng tạo. Chưa bao giờ, chỉ trong một thời 
gian ngắn, ta lại thấy xuất hiện nhiều tác phẩm được dư luận rộng rãi chú ý như vậy [A.I.13 
tr.221]. 
Thông thường trong những bước ngoặt lịch sử quan trọng, ý thức xã hội có sự thay 
đổi. Con người sống trong xã hội đó phải thẩm định lại những thang bậc giá trị. Văn học, 
một hình thái ý thức xã hội vận động và biến đổi gắn liền với những biến đổi của xã hội, của 
đời sống con người. Sự thay đổi đó yêu cầu nhà văn phải đáp ứng một cách nhanh nhạy. 
Hiện thực cuộc sống đòi hỏi một sự biến đổi văn học, cần thiết đặt văn học vào vị trí phù hợp 
với nó. Một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa những phạm trù tư tưởng thẩm mĩ khác nhau là 
nhằm chỉ ra những hạn chế và lời giải đáp cho những vấn đề mới đang đặt ra cho toàn xã hội 
và cho từng con người là động lực bên trong tạo ra bước ngoặt cho văn học. Và chính sự 
phát triển của văn học hôm nay đã là một lời giải đáp nói trên, khi mà những niềm tin đẹp đẽ 
dường như là tuyệt đối đã được xem xét lại. Nó có mặt mạnh nhưng không thể là ổn định, 
nếu không nói là nó có nhiều ảo tưởng và duy ý chí. Nếu ba mươi năm trước, con người 
trong văn học là đối tượng để ngợi ca hay phê phán. Giờ đây, con người còn là đối tượng để 
nghiên cứu, phân tích nhiều mặt, trong các bình diện tồn tại khách quan của nó. 
Nói như Nguyễn Khải, chiến tranh có cái réo rắt khắc nghiệt của nó. Hòa bình lại có 
những đợt sóng ngầm, gió xoáy bên trong. Cái say sưa miêu tả khí thế chiến đấu của dân tộc, 
dựng lại những hình tượng anh hùng bất khuất, xả thân vì nhân dân, vì quê hương trong văn 
học không phải không còn phù hợp nữa, bởi những chìm khuất trong chiến tranh vẫn còn kể 
mãi đến muôn đời. Nhưng, như đã nói, những phức tạp, thử thách nhiều chiều của thực tại 
cuộc sống và con người trong cách nhìn, cách đánh giá cùng cách giải quyết, hướng đi,… là 
tâm thế đợi chờ của người đọc hôm nay, cũng là nỗi trăn trở, day dứt của nhà văn. 
1.2.2. Sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học 
Trong đời sống của người Việt Nam nói riêng và nhân loại nói chung, văn học có một 
vai trò rất quan trọng. Đối với người Việt Nam, văn chương không mang tính chất là một 
phương tiện, một mưu cầu cái đẹp thuần túy hình thức mà phải chuyển tải được những tư 
tưởng, tình cảm, ước nguyện…của đời sống con người (…) “một bộ phận trọng yếu của cách 
mạng tư tưởng và văn hóa, là bộ phận đặc biệt nhạy cảm của văn hóa, thể hiện khát vọng 
của con người về chân, thiện, mĩ, có tác dụng bồi dưỡng tình cảm, tâm hồn, nhân cách, bản 
lĩnh của các thế hệ công dân, xây dựng môi trường đạo đức trong xã hội…” (Nghị quyết của 
Bộ chính trị về văn học, nghệ thuật và văn hóa, Văn nghệ số 51,52, tháng 12/1987). Văn 
học, vì thế, ngày càng đi sâu sát với con người, với từng phận người, tạo mối liên hệ khắng 
khít giữa người sáng tác và người tiếp nhận trong tình cảm lẫn nhận thức. 
Văn học Việt Nam mấy chục năm qua là một bức tranh vô cùng phức tạp. Trong 
những năm chiến tranh, văn học thực sự trở thành vũ khí tinh thần của những người đang 
chiến đấu. Nhà văn cảm thấy mình có trách nhiệm phục vụ tinh thần- tình cảm chung của 
nhân dân. Cái riêng bị khuất lấp. Văn học phục vụ chính trị. Văn học phần nào đã tự thu hẹp 
chức năng của mình. Các tác phẩm của văn nghệ cách mạng hướng trước hết vào việc ghi 
chép những thành tích, những chiến công, những hành động tốt đẹp của con người trong lao 
động, chiến đấu, vào việc phản ánh cuộc sống mới, con người mới. Cảm hứng lạc quan, anh 
hùng phải là cảm hứng cơ bản của tác phẩm. Gắn liền với cảm hứng ấy là yêu cầu về tính 
Đảng, tính Nhân dân. Và lẽ tất nhiên, nhà văn phải cố gắng đảm bảo cho tác phẩm của mình 
phải có một tư tưởng chính trị- xã hội nào đó và toàn bộ bức tranh hình tượng tác phẩm phải 
tập trung thể hiện tư tưởng này càng sinh động càng tốt (tư tưởng thật rõ ràng). Tính giáo 
dục trong tác phẩm, vì vậy, cũng trở nên rõ ràng. Không đa nghĩa, trừu tượng (đó cũng là 
một trong những hạn chế của văn học Việt Nam giai đoạn này: tính đơn giản, minh họa khá 
phổ biến) 
Một hiện thực đồ sộ, phức tạp, sâu thẳm, chênh vênh của ba mươi năm trước, phải đến 
bây giờ, trong cửa ngõ rộng mở của dân chủ và cái bức thiết của sự đòi hỏi chính đáng, nó 
mới được xới ra, phanh phui, tìm kiếm, khẳng định hay phủ định, phân tích, đánh giá,… 
trong tư duy mới của văn học, trong sự tiến bộ của tự do. Cần nói thêm, tự do ở đây là khám 
phá và sáng tạo tích cực, không tách rời với trình độ, năng lực của nhà văn. 
Văn học Việt Nam thời đổi mới có mầm mống, những thử nghiệm, những bài học từ 
nhiều năm trước, trong suốt quá trình vận động của văn học cách mạng Việt Nam và nó được 
đánh dấu từ công cuộc đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi vào năm 1986. “Cùng với 
những biến đổi của cuộc sống, khẩu hiệu đổi mới đã thổi một luồng gió đầy sinh khí vào đời 
sống xã hội Việt Nam, kích thích những cải cách kinh tế và khơi dậy những suy nghĩ mới, 
những tìm tòi, sáng tạo trong giới trí thức, văn nghệ sĩ. Là một bộ phận nhạy cảm nhất của 
xã hội, văn học nghệ thuật hưởng ứng hết sức mạnh mẽ đường lối đổi mới trong sáng tác, 
trong tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch, nhà lí luận phê bình. Dần dần đến 
lượt mình, văn học cũng tự biến đổi trong công cuộc đổi mới, có thêm những tác giả, tác 
phẩm mới, có những đặc điểm về phong cách và nội dung khác với thời kì trước, cho phép 
nói về một giai đoạn mới trong văn học” [A.I.53, tr. 135) 
Như đã nói, nền tảng của sự đổi mới trong văn học thời kì này bắt nguồn từ sự tự ý 
thức của văn học, tức là văn học giác ngộ về vai trò của nó trong xã hội, ý nghĩa của nó đối 
với con người. Nghị quyết 05 của Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam (1987) đã mở ra một 
cách nhìn mới về vị trí và chức năng của văn nghệ. 
Có thể thấy diện mạo mới của văn học với tất cả thể lọai của văn học. cái đòi hỏi phải 
thay đổi đó với tất cả các cây bút, dù nhiều hay ít tuổi, dù quen hay lạ. Không phải là chọn 
mặt gửi vàng, chỉ cần người cầm bút đụng chạm đến những vấn đề nóng bỏng nhất, đặt ra 
cho người đọc những vấn đề bức xúc nhất của đời sống chính họ, thì tác phẩm đó được đón 
nhận như người trong cuộc, đồng hành cùng người đọc hôm nay. “Văn học hôm nay có một 
khát vọng tư tưởng thẩm mĩ khác trước. Những năm tháng vừa qua đã làm cho chúng ta vỡ 
lẽ ra rằng, nếu như sự vẫy gọi thật lòng, hồn nhiên của văn học đã làm cho con người vươn 
tới cái cần có đã thực sự thấm vào cuộc sống thì tại sao cái mà con người mới đẹp đẽ và cao 
thượng ấy lại xuất hiện chậm chạp đến thế, khó khăn, vất vả đến thế” [A.I.5, tr. 154]. Phải 
tìm cho mình một sức mạnh mới tác động vào cuộc sống, vì thế, văn học cần phát hiện, phân 
tích, mổ xẻ những vấn đề cụ thể, nóng bỏng, những số phận cá nhân riêng biệt đang tồn tại 
trong đời sốngvới tất cả tính phức tạp của nó. Những dấu hiệu biến đổi sâu sắc ấy có thể kể 
Nguyễn Minh Châu với Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành; Nguyễn Huy 
Thiệp với Con gái thủy thần, Những bài học nông thôn, Những ngọn gió Hua tát; Y Ban 
với Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, … 
Rõ ràng văn học từ những năm 80 trở lại đây đang sát gần hơn với cuộc sống đầy phức 
tạp, phong phú ngày hôm nay, muốn làm người đồng hành với con người hôm nay, cùng họ 
và giúp họ nhận thức một cách tỉnh táo hiện thực nhất những vấn đề của chính mình. Nhà 
văn mang khát vọng can thiệp vào thực tế, đối thoại cùng người đọc về những vấn đề mà họ 
lo lắng, quan tâm. Vì vậy, nhà văn phải phát hiện, phân tích và đánh giá những vấn đề đang 
biến động để tìm ra sự thật lịch sử. Cho dù đó là được hay mất, vinh quang hay cay đắng, rõ 
ràng hay khuất tất, cũng đều là nỗi trăn trở, gắn liền với từng phận người trong xã hội. 
Đã qua rồi một dòng sông đang êm ả, bình thản chảy, văn học hôm nay một dòng sông 
chảy xiết, như một thác cuồn réo, tung lên những đợt sóng và ngoặt rẽ theo một hướng mới. 
“Sự biến động của văn học do những yêu cầu xã hội rất mạnh và sâu và bởi vì nó 
đang tự biến đổi do chính những yêu cầu và đòi hỏi bên trong, vì sự tồn tại và phát triển hợp 
quy luật và có ích của nó. Tuy nhiên sự biến đổi này vẫn đang trên đà của nó, vẫn chưa có 
điểm dừng trong hiện tại. Trong quá trình đó, nó vừa kế thừa những truyền thống tốt đẹp 
nhất của nền văn học dân tộc đã hình thành và phát triển trong những sự kiện lịch sử riêng 
biệt, vừa phủ định những gì lỗi thời, nhất thiết phải vượt qua để làm giàu thêm cho mình 
những đổi mới, đồng thời dũng cảm phủ định ngay những cái mới vừa thể nghiệm mà do 
những dự cảm đặc biệt, nó cảm thấy xa lạ, nhất thời không nên trở thành những phẩm chất 
đích thực của một nền văn học đang tự đổi mới” [A.I.5 tr. 152]. 
Sự biến đổi đó vẫn chưa là một thông số trong tiến trình phát triển văn học, do những 
ý kiến khác nhau, nhiều khi đối lập nhau, của những người đánh giá, thưởng thức của hôm 
nay. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà không có một kết luận, một định hướng nào phù hợp 
với nó. Trong một chừng mực nhất định của nó, có thể nhận ra tính triết luận về con người 
trong truyện ngắn hôm nay. Thực tế đòi hỏi phải có tiếng nói thể hiện nhu cầu phong phú, đa 
dạng, phức tạp về đời sống tinh thần của con người: tâm lý, tình cảm, những nỗi niềm thầm 
kín, khát vọng riêng chung,… Vấn đề con người trong những mối quan hệ với nó, xã hội, 
thiên nhiên, đời sống tinh thần, thế giới tâm linh, vấn đề bản năng, chất người,…tiếp tục 
được khơi sâu, lý giải, tìm hiểu đến tận cùng. Điều này thuộc về giá trị nhân bản, nhân văn 
trong văn học. 
Sự đổi mới trong cách nhìn nhận, cách lí giải về thực thể con người trong văn học trên 
nhiều phương diện, tích cực, tiêu cực, trong cái nhìn ấm áp, bao dung, cả sự nghiêm khắc, 
trừng phạt. 
Cảm hứng lãng mạn, cảm hứng anh hùng ca trong văn học Việt Nam một thời không 
còn là cảm hứng chủ đạo. Con người với những được mất riêng tư, những nỗi niềm chìm 
khuất,… trở thành đối tượng chủ yếu được hướng đến trong ánh nhìn nhân văn của các nhà 
văn. Cảm hứng triết luận về con người trở thành một trong những cảm hứng chủ đạo của văn 
học thời kì này. 
Như vậy, hướng vào số phận người, coi con người là giá trị cao nhất của đời sống đã 
làm nên cảm hứng triết luận,, giàu chất nhân văn, dẫn dắt tâm tưởng con người, giúp nhà văn 
xây dựng được những hình tượng nghệ thuật sinh động, nhận thức và lý giải được những 
biểu hiện muôn màu, muôn vẻ của con người. 
Chương 2: 
CẢM HỨNG TRIẾT LUẬN VỚI SỰ NHẬN DIỆN CON NGƯỜI TRONG TRUYỆN 
NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986-2000 
Đời sống con người muôn màu muôn vẻ, biến đổi và phát triển không ngừng. Con 
người trong những quan hệ văn hóa, chính trị, xã hội, trong quan hệ với thiên nhiên, con 
người với con người,… rất phong phú và phức tạp. Đó chính là đề tài để tác phẩm văn học 
tiếp cận. 
Truyện ngắn giai đoạn 1986-2000, với cảm hứng triết luận về con người, đã lí giải, 
nhận diện con người trong tổng hòa các mối quan hệ của nó trong cái nhìn đa diện, nhiều 
chiều. 
2.1. Con người với đời sống xã hội 
Tư duy truyền thống cho rằng sự phổ quát người là một chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng 
vì nó là sản phẩm muôn thuở ở ngoài không gian, thời gian. Cho nên chân lý không thuộc về 
nó, mà thuộc về “chủ nghĩa nhân đạo cụ thể” lý giải bản chất của con người được qui định 
bởi những quan hệ xã hội, bởi sự thay đổi của những quan hệ ấy. 
2.1.1. Con người trong cuộc sống đời thường 
Trong cuộc mưu sinh, kiếm tìm cái ăn, đáp ứng nhu cầu vật chất, mưu lợi nhằm thỏa 
mãn thói háo danh cầu vị, con người, vì vậy mà trở nên tha hóa, đánh mất đi cái gọi là bản 
chất Người. Truyện ngắn giai đoạn 1986- 2000 dựng nên nhiều kiểu loại nhân vật, nhiều 
cách tha hóa của con người. 
Mỗi ngày qua đi, trong cái thế giới mà người ta gọi là xã hội loài người ấy, có biết bao 
biến đổi, phản trắc bởi những toan tính xô bồ, nhọc nhằn danh lợi. Cái vòng luẩn quẩn nhỏ 
hẹp với cơm- áo- gạo- tiền, những thứ thiết yếu có trong cuộc sống, đã làm cho con người 
nhiều khi thành ngu muội. Như trùm Thịnh, lão Tảo, như những người đánh cá đêm trên một 
khúc sông trong Chảy đi sông ơi của Nguyễn Huy Thiệp. Cũng vì cuộc mưu sinh (mà cũng 
khó đổ lỗi cho cái gì khác) mà con người trở nên lạnh lùng, tàn nhẫn. Rằng, “hễ tối tăm và 
đói kém” là nó, cái sự sống vô cùng vô tận ấy, “tác ầm lên” [B.29, tr 160]. Họ sống một 
cách “ngu muội” và “tối tăm” [B.29, tr 14] trong cuộc tranh giành miếng ăn, tranh giành sự 
sống. Họ giẫm đạp lên nhau, thậm chí họ ngơ đi trước tiếng kêu cứu của một đứa trẻ bị hất 
xuống sông. Bởi “những người đánh cá có lệ không cứu những ai chết đuối.” [B.29, tr. 13]. 
Bởi họ đói. Cái đói rất khốc liệt, như đã khước từ bản tính thiện trong họ, những con người 
chỉ biết lèo lái để kiếm miếng ăn đến suốt đời. Ngay cả cái trò đùa của họ đối với một đứa 
trẻ cũng thật độc ác. Chính trùm Thịnh đã nói với nhân vật tôi, một đứa trẻ có niềm tin kì 
diệu vào sự may mắn nếu hớp được nước bọt của con trâu đen nơi khúc sông của những 
người đánh cá sẽ bơi lội giỏi như tôm như cá vậy, cái điều ngược lại với niềm tin đó: 
“Chuyện con trâu đen chỉ là chuyện đồn nhảm nhí… Mày hãy tin tao, ở bến Cốc này thì 
chuyện giết người ăn cướp có thực, ngoại tình có thực, cờ bạc có thực, còn chuyện trâu đen 
là giả” [B.29, tr.12]. Miếng cơm, manh áo cho sự sống hàng ngày tưởng nhỏ bé, ít ỏi và 
mong manh, nhưng nó có sức mạnh ghê gớm trong cái việc tàn phá tâm hồn con người, tình 
thương và lòng trắc ẩn. Nhất là khi mà con người hàng ngày phải chứng kiến, phải đối diện 
với những sự thật éo le, trần trụi thì những cảm xúc trong họ vẫn cứ như là một cái gì đó thật 
xa xỉ trong cuộc sống nhọc nhằn và tù đọng này. Thực ra cái độc ác đó của con người có thể 
hiểu, như chị Thắm, một nhân vật trong truyện đã nói: “ có ai yêu thương họ đâu. Họ đói và 
ngu muội lắm.” [B.29, tr.14] “con người vô tâm nhiều như bụi bặm trên đường.” [B.29, 
tr.15]. 
Trong nghèo đói, tối tăm là vậy, nhưng ngay cả trong cuộc sống ổn định, con người 
vẫn trượt theo những tính toan nhỏ bé của mình. Bác sĩ Thủy trong “Tướng về hưu” 
(Nguyễn Huy Thiệp) là một mẫu người tiêu biểu cho lối sống hiện sinh, thực dụng đến thành 
thói quen. Từ vị trí của một bác sĩ sản khoa, cô say sưa với mục đích kiếm tiền bằng nhiều 
phương tiện, kể cả việc xay thai nhi nuôi chó lấy lời. Cô công khai lối sống mà mình xác 
định, lí trí và tỉnh táo, coi “ăn là trên hết”. Cái tính toán, lạnh lùng đến chai lì về cảm giác và 
mất luôn cả cảm giác về sự chai lì đó thì thật là rùng rợn, khủng khiếp. 
Những toan tính nhỏ hẹp của con người còn có thể thấy ở hành động của con người 
ích kỉ, độc ác, vô trách nhiệm của người đàn ông ( “Con gấu” - Nguyễn Quang Huy- nhưng 
bản chất đó chỉ bộc lộ khi người đàn bà tội nghiệp kia thực sự thuộc về hắn); còn có thể thấy 
ở cái thói học đòi cuộc sống của giới thượng lưu văn minh, tân tiến của bà Thiều (“Huyền 
thoại phố phường”- Nguyễn Huy Thiệp), nên không thể che giấu được sự giả dối, tầm 
thường trong cách sống, và cả cái ý thức phẩm hạnh thoáng qua trong nỗi khát khao của lòng 
dục vọng. Tất cả đều là hành vi phi đạo đức, phi nhân cách của người đàn bà ham hố một 
cách thái quá đến thành trơ trẽn. 
 Con người sống ích kỉ đến tàn nhẫn thì sẽ thành vô cảm trước nỗi đau của đồng loại, 
thậm chí trước cái chết rất thương tâm của đồng loại. Sự hèn kém trong nhân cách con 
người bị trì xuống bởi sức nặng của tham vọng tiền tài, địa vị. 
Trong cuộc sống, đồng tiền, danh lợi có sức mạnh chi phối tư tưởng, tình cảm, hành 
động của con người, làm giảm hoặc mất đi nhân tính vốn là giá trị cơ bản của con người. Đó 
là Hạnh trong “Huyền thoại phố phường” của Nguyễn Huy Thiệp, là người anh trai Thao 
trong “Miền cỏ hoang” của Trần Thanh Hà, là Toàn trong “Mùa trái cóc ở Miền Nam” của 
Nguyễn Minh Châu, … Xét cho cùng, những con người này đều có một vị thế xã hội nhất 
định. Nhưng thay vì từ cái vị thế xã hội đó họ phấn đấu vươn lên, thì chính tham vọng quyền 
lợi, địa vị, và những toan tính vật chất phù du đã làm thay đổi gần như toàn bộ cái gọi là tính 
người trong con người họ. Họ trở nên lạnh lùng, tàn nhẫn, ích kỉ, độc ác một cách đáng sợ. 
Hạnh là một sinh viên y khoa. Đối với nhiều người, đó là bước khởi đầu tốt đẹp và đầy 
hào hứng cho sự nghiệp của đời mình. Hạnh cũng mơ ước, cũng nghĩ đến một ngày “có thể y 
thành một người xuất chúng” [B.29, tr. 371] . Nhưng y lại ngại khó. “Y sợ những sự thiếu 
thốn. Chao ôi, nếu y có một căn nhà với đủ tiện nghi!” [B.29, tr. 371]. Y chỉ thèm muốn cuộc 
sống của bọn nhà giàu. “Hạnh hiểu giàu có mới là điều kiện để thành đạt. Không có đồng 
tiền, sự nghiệp lập thân chỉ là chuyện hão” [B.29, tr. 372]. Chính cái cách nghĩ đầy thực 
dụng ấy chi phối hoàn toàn hành vi sống của y, dù y là một một trí thức. Cho dù y cũng có 
nghĩ đến sự sáng tạo trong công việc, . Nhưng trước hết, y phải có tiền. Y không phải lo đến 
chuyện sinh hoạt. Và thay vì đạp bằng mọi khó khăn, thử thách để tới bến bờ mơ ước thì y 
“dấu trong lòng một tham vọng lớn và trí tưởng tượng hừng hực bốc lửa” [B.29, tr. 372]. Y 
nghĩ đến sự chiếm đoạt tài sản của người khác. Sự sáng tạo hay cái tài năng xuất chúng chưa 
bao giờ chạm đến ấy, nếu có, cũng là một cách thực dụng nốt. Bởi y chưa bao giờ nghĩ đến 
cái gì thuộc về khoa học và sự cống hiến. Người đọc dễ dàng hiểu được hành vi và những 
thủ đoạn đê hèn của Hạnh. Vì tiền, y có thể làm cái việc tồi tệ đến thảm hại chỉ vì để lấy lòng 
một gia đình thuộc tầng lớp thượng lưu: “Y xắn tay áo rồi đưa tay mò dọc theo cái rãnh đầy 
bùn, lõng bõng nước bẩn, thậm chí còn cả cục phân người” [B.29, tr.375]. Vì tiền, y không 
ngại toan tính, dối lừa, giẫm lên giá trị đạo đức. Cái con người trai tráng mà tham lam, phản 
trắc ấy đã lợi dụng sự khát khao của một người đàn bà đáng tuổi mẹ y, làm tình với bà để 
đoạt tờ vé số mà y tin là trúng độc đắc. Gieo nhân nào thì gặt quả đó. Con người nhiều tham 
vọng đến u mê, không lí trí này đã sa vào sự tha hóa nhân cách, lại tự hủy diệt cuộc 
đời mình. 
Anh trai Thao trong Miền cỏ hoang rất ít lời nhưng đặc biệt coi trọng hình thức địa vị, 
ra sức “bảo bọc” nó nên đã đẩy em trai nhập ngũ thay, để ông ta giữ cho được cái xuất đi 
nước ngoài. Nhưng khi đứa em trai từ chiến trường trở về, tay trắng, muốn gieo trồng trên 
mảnh đất hoang thì ông ta tìm cách thoái thác. Con người ấy rất sợ đụng chạm đến cái ghế 
…. của mình. Cái tính toán, lạnh lùng, ra chiều nguyên tắc của ông ta ẩn trong cái hình hài 
tưởng như là thái độ của sự nghiêm túc. Con người như thế thì thật đáng sợ. 
Sự lạm dụng quyền lực bao giờ cũng là điều trái tự nhiên, thậm chí nó bóp chết nhân 
tính. Tiểu đoàn trưởng Toàn (Mùa trái cóc ở miền Nam), con người mà trong từng trận 
chiến chỉ ở phía hậu cứ, ngày giải phóng bỗng chồm lên cơ hội nhận chiến công, nên khi tiếp 
nhận cái tiểu đoàn Anh hùng của chiến dịch Hồ Chí Minh, hắn đã ra oai, cố thể hiện cho 
bằng được cái quyền lực của mình bằng cách bắt những người lính tập đi đều suốt ngày dưới 
trời mưa tầm tã chỉ cốt để ngăn ngừa tâm lý thỏa mãn, lười nhác của họ, những người lính đã 
cầm súng trong những trận chiến quyết liệt nhất tưởng sẽ có giờ phút nghỉ ngơi sau cái ngày 
đất nước được lặng im tiếng súng. Đây mới chính là thời điểm để anh ta thể hiện cái uy 
quyền của mình. Anh ta thực hiện chính sách “năm không” trong toàn tiểu đoàn: “Không đi 
ra ngoài doanh trại. Không tiếp xúc với dân. Không mua bán. Không nói chuyện cười cợt 
với phụ nữ. Không đi vào thành phố Sài Gòn” [B.3, tr. 117]. Anh ta cho rấp cổng doanh trại, 
gài mìn trên hàng rào khiến cho một đồng đội của anh ta, một chiến sĩ quả cảm đang được đề 
nghị phong Anh hùng vì vượt rào ra nghĩa địa viếng bạn vấp mìn mà chết. Trước cái chết của 
một người đồng đội, người mà lẽ ra anh ta phải hàm ơn thì anh ta thản nhiên, tưởng như 
không có gì . Con người ấy không mảy may xúc động khi gặp lại người mẹ khốn khổ sau 
hơn hai mươi năm xa cách thì làm sao khuấy động lên trong anh ta cái tình bè bạn. Sự lạnh 
lẽo, hoang vắng tình người trong con người đang giữ quyền lực thì thật đáng lo âu. Chừng 
nào những kẻ háo danh như Toàn, như Thái còn nắm quyền lực trong bộ máy chính trị của 
Nhà nước thì chừng đó còn thiếu một điểm tựa vững vàng cho nhân dân, cho sự nghiệp cách 
mạng mà nhân dân đã đổ bao máu xương để giành lấy. 
Vậy ra, con người có trong tay quyền lực thì mạnh nhưng quyền lực cũng làm hèn yếu 
con người đi, nếu như con người bị thống trị bởi nó. 
Chiến tranh như một cơn lốc, người ta không đủ thì giờ để nhìn lại mặt trái- phải trong 
đời sống con người. Hòa bình rồi, trắng đen được phơi bày như một thách thức, bắt con 
người phải dừng lại, phải nhìn lại cái gọi là bản chất người một cách đầy xót xa, đau đớn và 
lo lắng. 
Sự suy thoái đạo đức làm cho các quan hệ con người bị rạn nứt, nhân cách bị tướt 
đoạt, tình cảm của con người trở nên chai sạn và người ta đi đến chỗ bế tắc, trống rỗng, tuyệt 
vọng. Song vấn đề nêu ra không phải là những hiện tượng tiêu cực, mà ở chỗ con người 
được nhận thức trong tương quan các chuẩn mực của đời sống, trạng thái các chuẩn mực ứng 
xử giữa người và người. Không phải là vấn đề chung chung của đạo đức, mà đó là nỗi lo 
lắng, trăn trở rất thật và cụ thể trước những hành vi của con người, trước nguy cơ khô chết 
của đời sống tâm hồn bởi sự cám dỗ của quyền lực và vật chất, thờ ơ với số phận của đồng 
loại, của những người chung quanh, và cả những người thân ruột thịt. 
Cũng trong cái vòng đời xoay chuyển với những lợi danh, cơm áo, con người trong 
truyện ngắn hôm nay không chỉ được nhìn nhận một phía đơn lập mà được đặt trong nhiều 
chiều kích khác nhau. 
Ở nhân vật ông Tình, chú Nghĩa (và cả Lực, con chú Nghĩa) trong Bên bờ những 
dòng chảy của Nguyễn Đình Tú đều là những con người được nhìn nhận từ nhiều phương 
diện. Họ là những con người ruột thịt của nhau, nhưng cách sống, suy nghĩ hoàn toàn khác 
nhau. Tất cả bắt đầu từ cái khởi đầu không giống nhau của họ. Ông Tình vất vả từ nhỏ nhưng 
vẫn theo đuổi học vấn, có lí tưởng. Ông sống đời sống của một nhà giáo thanh bạch, như 
người xưa vẫn dùng từ này để ca ngợi cách sống nhàn của các bậc ẩn sĩ. Hoàn cảnh sống lúc 
nhỏ và cái chí theo đuổi con đường công danh của ông có tác động rất lớn trong cách sốn._. 
ngô, buồn cười, sơ lược, thậm chí còn điểu giả nữa. Ác nhất là những giáo điều ấy đúng. Bởi 
nó cần. Nó là sợi xích tròng cổ để giữ hình ảnh tương đối về mỗi chúng ta. Nếu không sẽ là 
hủy diệt…” [B.29, tr 166, 167]. 
Đến như ông Bổng, con người không nhận lấy trách nhiệm về mình trong cuộc sống, 
phút lâm chung của người chị dâu, xúc động mà bật ra những lời mang ý nghĩa nhân sinh: 
“Chị ơi, chị có nhận ra em không?” Mẹ tôi bảo: “Có”. Lại hỏi: “Thế em là ai?” Mẹ tôi bảo: 
“Là người”. Ông Bổng khóc òa lên: “Thế là chị thương em nhất. Cả lành cả họ gọi em là đồ 
chó. Vợ em gọi em là đồ đểu. Thằng Tuân gọi em là đồ khốn nạn. Chỉ có chị gọi em là 
người” [B.29, tr. 30, 31]. 
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp thường hay đặt vào miệng nhân vật những câu triết lí 
nhiều khi rất đau đớn. Ví như cuộc đối thoại ngắn của hai đứa trẻ trong đám tang: “Cái Mi 
hỏi: “Sao chết đi qua đò cũng phải trả tiền? Sao lại cho tiền vào miệng bà?” Cái Vi bảo: 
“Đấy có phải ngậm miệng ăn tiền không bố?” (…) Cái Vi bảo: “Con hiểu đấy. Đời người 
cần không biết bao nhiêu là tiền. Chết cũng cần” [B.29, tr. 33]. 
Cái cách để nhân vật tự nói lên những suy nghĩ của mình về một hiện tượng trong đời 
sống là rất quen thuộc trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Nó xác định một vị thế của 
nhân vật hướng tới người đọc, và thực sự tác động rất ấn tượng tới người đọc bằng những lời 
trực tiếp trong những câu thoại ngắn mà có sức khái quát lớn, mang tính triết lí sâu sắc 
về lẽ đời, về tình người. 
Cuộc sống thường ngày với những vất vả, lo toan, với những tính toán khiến con 
người như thun lại. Nó quen thuộc đến nỗi Chương, nhân vật chính của truyện Con gái thủy 
thần cố gắng lắm cũng không sao thoát khỏi những gương mặt người đó: “Tôi cố nhớ lại 
khuôn mặt Mẹ Cả mà không nhớ được. Cứ nhắm mắt lại là thấy toàn mặt quen, tựa như mặt 
bà Hai Khởi vừa tròn vừa to, mũi trông như vỏ cam sần, hoặc như mặt chị Vĩnh, dài mà tai 
tái như dái trâu, như mặt cô Hỷ, đỏ như tôm luộc, mặt anh Dư, xương hàm bạnh ra như mặt 
ngựa. Chẳng có khuôn mặt nào đáng là mặt người. Mặt nào trông cũng thú vật, đầy nhục 
cảm, không đểu cáng, dối trá thì cũng nhăn nhúm, đau khổ” [B.29, tr. 108]. 
Sắc diện của con người được nhân vật trực tiếp nhận xét, suy ngẫm lên qua hàng loạt 
những tính từ mang lại ấn tượng đậm nét trong người đọc. Giọng triết lí pha lẫn nỗi cay 
đắng, chua xót làm bật lên nỗi khổ về kiếp người, vừa thương người, thương đời và cũng 
không vắng những nỗi buồn. Yếu tố này thường trở đi trở lại trong nhiều truyện ngắn 
Nguyễn Huy Thiệp. 
Như Thương nhớ đồng quê. Những nghĩ suy của Nhâm, người con trai mới bước vào 
tuổi mười bảy, được nhà văn ghi lại một cách trực tiếp, kết đọng trong bài thơ mang nhiều 
tính triết lí: 
“Tôi nghĩ về sự đơn giản của ngôn từ 
Sự bất lực của hình thức biểu đạt 
Mà nỗi nhọc nhằn đầy mặt đất 
Sự vô nghĩa trắng trợn đầy mặt đất 
Những số phận hiu hắt đầy mặt đất” [B.29, tr. 274] 
Để rồi trong dòng mạch của sự triết lí đó, vỡ ra nỗi đau đớn, chua xót: 
“Trăm năm lẫn lộn khóc cười 
Kiếp ếch kiếp người cay hỡi đắng cay…” [B.29, tr. 282] 
Thế giới được nhìn nhận từ sự thật bên trong của con người. Những sự thật bao nhiêu 
lâu nay hoặc bị giấu giếm hoặc bọc trong lớp vỏ đạo đức, văn hóa thì nay được lột trần một 
cách công khai, minh bạch từ phát ngôn của nhân vật. Nhưng dẫu sao cũng “cần phải sống, 
cho dù cuộc sống ngàn lần khốn nạn, đầy rẩy xấu xa cũng như cực nhọc” [B.29, tr 167], bởi 
cuộc sống là vô giá. 
Với cuộc sống đời thường sắc cạnh và cõi cằn, thì khi đến với thiên nhiên, con người 
sẽ cảm thấy nhẹ như không: “Tất cả những trò nhố nhăng đê tiện vấp phải hàng ngày hoàn 
toàn có thể rũ sạch bởi một cú nhảy của con sóc nhỏ trên cành dâu da” [B.29, tr. 90] (Muối 
của rừng). Câu văn dài trong lời nửa trực tiếp thể hiện hứng thú nghiên cứu đời sống, trình 
bày những trải nghiệm cùng thái độ tự tin đem lại giọng triết lí, chiêm nghiệm này. Nhân vật 
ông Diểu, người thợ săn đã có những cảm giác tuyệt vời khi săn ở rừng. Và trong cuộc đọ 
sức với thiên nhiên, với bầy khỉ, ông Diểu lại nhận ra cái điều tưởng giản đơn nhưng cũng 
thật thấm thía: “Với giống cái thì thân thể mình là quan trọng nhất. Điều ấy thật giản dị và 
đẹp. Nhưng điều ấy lại đầy xót xa” [B.29, 91]. “Hóa ra ở đời, trách nhiệm đè lên lưng mỗi 
sinh vật quả thật nặng nề” [B.29, tr. 100]. 
Triết lí trong văn hóa nông dân Việt Nam rất sâu sắc và cũng rất giản dị vì nó được rút 
ra từ cái gốc của một dân tộc. Như lời một bà mẹ già trong Những bài học nông thôn: “Thôi 
con ạ, mẹ mười đốt thì tám đốt quỷ, đốt rưỡi là ma, có nửa đốt là người. Nghe được tí nào 
thì nghe, không có cứ bỏ ngoài tai” [B.29, tr.199]. 
Trở lại với Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, với lời trực tiếp của nhân vật 
mang chức năng trần thuật thể hiện con người với sức mạnh của cá tính như Quỳ, “đối với 
đám đàn ông, chỉ có thể hoặc là cướp đoạt lấy người ta hoặc bị người ta cướp đoạt, hoặc 
thống trị đàn ông, hoặc bị đàn ông thống trị thì mới yên ổn. Chứ khó có thể tìm đến với nhau 
bằng một thứ tình yêu thường tình được”, đã không làm sao có thể kìm nén được nỗi lòng 
không bình yên, luôn khát khao tìm kiếm. Cái trạng thái bất an đó, theo lời bộc bạch mang 
sắc màu chiêm nghiệm của nhân vật, chỉ có thể được khuôn lại trong trách nhiệm với cuộc 
đời: “Và rồi, tôi thầm phỏng đoán, suốt đời cho đến già sẽ là một cuộc săn tìm hư vô, trong 
con người sẽ luôn có ý thức của một phần ma quỷ nhập vào, và có lẽ, rồi cuối cùng chỉ có ý 
thức về trách nhiệm mới đánh chết cái ý thức ma quỷ bất trị đó” [B.5, tr. 87]. 
Đi qua hơn nửa đời người, buồn vui sướng khổ, được mất đã nhiều, Quỳ nhận ra: 
“Hóa ra cuộc sống từ bao đời nay đã là như thế, con người là một sự kết tinh của những 
thăng hoa; hóa ra thời nào cũng có những con người như anh ấy, tập trung trí tuệ và tài 
năng trác tuyệt của nhân dân; và mang trong lòng tất cả khát vọng cháy bỏng của nhân 
dân” [B.5, tr. 112]. Cái cách để cho nhân vật trực tiếp nói lên những cảm nhận mang tính 
triết lí về cuộc sống, khái quát hiện thực cuộc sống, có thể coi đấy là sở trường của nhà văn 
Nguyễn Minh Châu, góp phần thể hiện phong cách của nhà văn, đậm chất suy tư, giàu khả 
năng triết lí. 
Những vấn đề nhân sinh, thế sự như ý nghĩa cuộc đời, sự lựa chọn cách sống, kế mưu 
sinh, vấn đề lương tâm, đạo đức… được nhà văn quan tâm, bàn luận, trao đổi qua giọng điệu 
nghệ thuật này. 
Tất cả đều nhằm làm nổi rõ suy tư, trăn trở của con người, làm nổi rõ phận người. 
Đôi khi giọng triết lí chỉ là một câu thoại ngắn và không cần lời đáp. Như lời bà đồng 
trong Dây neo trần gian của Võ Thị Hảo:“Cô cũng chỉ là trong những con bướm sặc sỡ 
lượn chơi trên cõi đời này” [B.7, tr. 31]. Hay như Người của mỗi người (Dạ Ngân), người 
mẹ lặng lẽ chịu đựng mọi hành vi, lời nói nặng nề của con cái, cũng vì tình thương. Để rồi 
tác giả khái quát lên thành chân lí trong lời văn nửa trực tiếp: “Mọi cái lý trên đời, ngẫm ra, 
cái lý tình thương là mạnh hơn cả, vì nó người ta có thể thế này rồi cũng có thể thế kia” 
[B.19, tr. 357]. 
Ở giọng văn này, phần lớn các nhà văn sử dụng câu văn dài, và đặt trực tiếp vào lời 
của nhân vật, để cho nhân vật tự bộc bạch, tự nói lên những suy tư, những chiêm nghiệm 
nhất định về cuộc đời mà nhân vật trải qua. Bằng cách đó, chân lí cuộc sống cứ dần vỡ ra 
theo những tỏ bày của chính nhân vật, không phải là lời khẳng định đơn thuần của nhà văn. 
*TIỂU KẾT: 
Nhìn chung, truyện ngắn Việt Nam giai đoạn này nói riêng, văn học Việt Nam nói 
chung không chỉ có những chuyển biến trong cảm hứng nghệ thuật mà còn có những chuyển 
biến đáng chú ý về mặt nghệ thuật thể hiện. Trong đó có thể thấy sự kết hợp phong phú, đa 
dạng về giọng điệu: giọng trăn trở, day dứt; giọng thương sót, ngậm ngùi; giọng suy tư, triết 
lí. Giọng điệu góp phần khắc họa chân dung con người thêm toàn diện, sâu sắc, đặc biệt tạo 
ấn tượng xúc động bởi thế giới nội tâm con người, miên man và sâu thẳm. 
Truyện ngắn hôm nay vang vọng dư âm những giọng nói khác nhau của nhân vật, tạo 
nên sự phức điệu trong tác phẩm ngôn từ nghệ thuật. 
KẾT LUẬN 
1. Chiến tranh đã đi qua, cuộc sống bất bình thường trở lại bình thường. Các nhà văn 
có đủ độ lùi nhất định để nhìn nhận con người trong đời sống hòa bình, cả trong chiến tranh 
với cái nhìn trầm tĩnh, toàn diện. Văn học, đặc biệt ở thể loại truyện ngắn có đủ điều kiện 
phát huy cao vai trò của nó. Mỗi truyện là một mảng đời sống khác nhau của thân phận con 
người. Hạnh phúc và khổ đau. Vinh quang và nghiệt ngã. Chiến thắng và mất mát. Khao khát 
và tuyệt vọng… Bởi số phận con người luôn là đề tài miêu tả của các nhà văn. Trong lịch sử 
phát triển văn học nhân loại, số phận con người đã được miêu tả với tất cả những khía cạnh 
tích cực và tiêu cực thấm đậm tinh thần nhân đạo và giá trị nhân văn. 
Ngày hôm nay, trong những biến động và sôi động của cuộc sống đời thường, mỗi 
người, dù là ai, người anh hùng, người trí thức, người dân bình thường, trong mỗi hoàn cảnh 
đều mang những nét tính cách riêng là đối tượng trung tâm để nhà văn khám phá, thể hiện. 
Tựu chung, từ sự thay đổi của hoàn cảnh xã hội làm thay đổi quan niệm nghệ thuật về 
con người, văn học giai đoạn này đã có cách tiếp cận và nhận diện con người ở những góc 
nhìn và cảm hứng khác nhau. 
2. Với cảm hứng triết luận về con người, truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1986- 2000 
xem xét, nhận thức con người ở nhiều bình diện, bề ngoài lẫn chiều sâu trong tâm hồn, trong 
nhiều mâu thuẫn, nhiều mối quan hệ phức tạp của cuộc sống. Mỗi nhà văn khai thác con 
người ở những góc độ khác nhau, con người hiện lên trang viết của các nhà văn với những 
nét tính cách, những hành vi đạo đức, những thái độ sống, những lựa chọn hành động, … 
phong phú, đa dạng, sinh động, mức độ nông sâu khác nhau mà lại hoàn toàn hợp nhất, tạo 
nên cái gọi là bản thể người. Điều này đưa đến cách tiếp cận đa diện, nhiều chiều về con 
người cá nhân trong cuộc sống đời thường hôm nay. 
3. Từ sự nhận thức con người, như đã nói trên, nhà văn có sự lựa chọn phương thức 
thể hiện đa dạng, linh hoạt và phù hợp, giúp nhận diện con người thêm toàn diện, sâu sắc. 
Đặc sắc là giọng điệu nghệ thuật khá đa dạng. Ở mỗi góc nhìn, độ suy tư, lí giải về con 
người mà nhà văn có thể có giọng trăn trở, day dứt, giọng thương xót, ngậm ngùi hay giọng 
suy tư, triết lí về cuộc đời. Những sắc thái giọng điệu đó không tách rời nhau mà cùng trong 
sự tổng hòa biện chứng của giọng điệu nghệ thuật trong cảm hứng triết luận về con người. 
Truyện ngắn Việt Nam 1986- 2000 đằm thắm, tròn đầy một sức sống. Đứng ở ngưỡng 
hiện tại, sau mười năm nhìn lại, một phần tư cuối của thế kỉ XX, tất cả những vấn đề nhà văn 
đề cập góp một tiếng nói khẳng định thành tựu của truyện ngắn 1986- 2000 nói riêng và văn 
học giai đoạn này nói chung, khẳng định một đóng góp lớn của văn học vào kho tàng văn 
hóa dân tộc. 
4. Cảm hứng triết luận về con người trong truyện ngắn Việt Nam hôm nay, thiết nghĩ, 
còn cần thêm nữa sức khái quát sâu, rộng trong tư duy nghệ thuật, ở cả phương diện văn học, 
mỹ học và triết học. Nó không dừng lại ở một giới hạn nào trong nhận thức về con người mà 
qua thời gian, qua mỗi bước đi của lịch sử, ánh nhìn nhân văn của nhà văn về con người mở 
ra thêm chiều kích mới, phức tạp, sâu sắc và vô cùng phong phú, tạp ra sức cuốn hút mạnh 
mẽ đối với người sáng tác và cả người tiếp nhận. 
THƯ MỤC THAM KHẢO 
A. SÁCH, BÁO THAM KHẢO 
I. SÁCH NGHIÊN CỨU, PHÊ BÌNH 
1. Lại Nguyên Ân (2003), Sống với văn học cùng thời, Nxb Thanh niên. 
2. Nguyễn Duy Bắc (2006), Cảm nhận về văn hóa, văn học trong hành trình đổi mới 
(Tiểu luận, phê bình), Nxb Văn hóa dân tộc- Hội văn học nghệ thuật Lạng Sơn. 
3. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học- lý luận và ứng dụng, Nxb giáo dục Hà 
Nội. 
4. Lê Duẩn (1997), Xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, Nxb 
Văn hóa, Hà Nội. 
5. Đinh Xuân Dũng (2003), Hiện thực chiến tranh và sáng tạo văn học, Nxb Quân đội 
nhân dân. 
6. Lê Tiến Dũng (2004), Nhà phê bình và cái roi ngựa (Phê bình,tiểu luận), Nxb Đại học 
Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. 
7. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, Nxb Đại 
học Quốc gia, Hà Nội. 
8. Phan Cự Đệ (Chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục. 
9. Phan Cự Đệ (2005), Văn học Việt Nam thế kỉ XX- những vấn đề lịch sử và lý luận, 
Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
10. Nhiều tác giả (2006), Văn học Việt Nam sau năm 1975- những vấn đề nghiên cứu và 
giảng dạy, Nxb Giáo dục. 
11. Nhiều tác giả (1989), Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp- tác phẩm và dư luận, Nxb Trẻ, 
Tp. Hồ Chí Minh. 
12. Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thị Bình (1995), Quan niệm nghệ thuật về con người trong 
văn xuôi sau Cách mạng tháng Tám, Nxb Hà Nội. 
13. Nguyễn Văn Hạnh, Hùynh Như Phương (1999), Lí luận văn học,- vấn đề và suy nghĩ, 
Nxb Giáo dục. 
14. Hoàng Ngọc Hiến (2006), Văn học… gần và xa, Nxb Giáo dục. 
15. Đỗ Đức Hiểu (2003), Đổi mới phê bình văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
16. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn. 
17. Đào Duy Hiệp (2001), Thơ và truyện và cuộc đời (Phê bình- tiểu luận), Nxb Hội nhà 
văn, Hà Nội. 
18. Đoàn Hương (2004), Văn luận, Nxb Văn học. 
19. Lê Thị Hường (1995), Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam giai đọan 
1975- 1995, Luận án PTS Khoa học Ngữ văn, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, 
Hà Nội. 
20. Mai Hương (2001), Nguyễn Minh Châu toàn tập (tập 1), Nxb Văn học. 
21. Nguyễn Văn Kha (2006), Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện 
ngắn Việt Nam 1975-2000, Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. 
22. Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tập 1) (2000), Lời giới thiệu (của Lã Nguyên), Nxb 
Thanh niên, Hà Nội. 
23. M.B.Khrapchenkô (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, Nxb 
Tác phẩm mới, Hà Nội. 
24. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 
25. Phong Lê (1980), Văn xuôi Việt Nam trên con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa, Nxb 
khoa học xã hội, Hà Nội. 
26. Phương Lựu (Chủ biên) (1997) , Lí luận văn học, Nxb Giáo dục. 
27. Nguyễn Văn Lưu (1999), Mấy vấn đề lí luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi mới - Đổi 
mới văn học, quan niệm và thực tiễn, nxb Sự thật, Hà Nội. 
28. Chu Giang Nguyễn văn Lưu (2004), Luận chiến văn chương, Nxb Văn học. 
29. Lê Thành Nghị (2003), Văn học- sáng tạo và tiếp nhận, nxb Quân đội nhân dân. 
30. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh. 
31. Vương Trí Nhàn (2001) (Tiểu luận, phê bình), Cánh bướm và đóa hướng dương, Nxb 
Văn Nghệ, Tp. Hồ Chí Minh. 
32. Vương Trí Nhàn (2001), Nghiệp văn (Tiểu luận, phê bình), Nxb văn hóa thông tin, Hà 
Nội. 
33. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2003), Tự sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử, 
Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội. 
34. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2008), Kỉ yếu hội thảo khoa học tự sự học (lần 2), 
Hà Nội. 
35. Khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Hà Nội (2001), Hợp tuyển công trình nghiên cứu, 
Nxb Giáo dục. 
36. Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam (1987), Nghị quyết 
05 về văn hóa, nghệ thuật. 
37. Phan Diễm Phương (2000)- Lời giải bày của văn chương (Phê bình, tiểu luận), Nxb 
Khoa học xã hội, Hà Nội. 
38. G.N.Pôpêlôp (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục. 
39. Trần Đình Sử (1993), Thi pháp học (Giáo trình), Nxb Tp. Hồ Chí Minh. 
40. Trần Đình Sử (2001), Văn học và thời gian, Nxb văn học Hà Nội. 
41. Trần Đình Sử (2004), Tinh tuyển văn học Việt Nam (tập 8)- Văn học giai đọan 1945-
2000, Nxb Khoa học xã hội. 
42. Hà Công Tài, Phan Diễm Phương (tuyển chọn và giới thiệu) (2004), Nguyễn Khải, về 
tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục. 
43. Ngô Thảo (2000), Văn học với đời sống- đời sống văn học ( Phê bình, tiểu luận), Nxb 
Văn học, Hà Nội. 
44. Bùi Việt Thắng (2000), Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Đại học 
Quốc gia, Hà Nội. 
45. Bùi Việt Thắng (2006), Truyện ngắn hay về chiến tranh- Ký ức về chiến tranh (thay 
lời giới thiệu), Nxb Văn học. 
46. Xuân Thiều (2005), Tiếng nói cảm xúc (Tiểu luận, phê bình), Nxb Phụ nữ. 
47. Phan Trọng Thưởng (2001), Văn chương tiến trình tác giả -tác phẩm, Nxb Khoa học 
xã hội, Hà Nội. 
48. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Hữu Sơn, Trịnh Bá Đĩnh (Biên soạn và giới thiệu) 
(1999), Tuyển tập bốn mươi năm Tạp chí Văn học (1960-1999) (tâp 3- Văn học hiện 
đại), Nxb Tp. Hồ Chí Minh. 
49. M.Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà 
Nội. 
50. Đinh Quang Tốn (1997), Tản mạn và chính kiến văn chương, Nxb Văn học, Hà Nội. 
51. Đinh Quang Tốn (2006), Điều tâm đắc và điều bàn lại (Phê bình văn chương), Nxb 
Công an Nhân dân. 
52. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương, thẩm mĩ và văn hóa, Nxb Giáo dục. 
53. Hoàng Trinh (1998), Tuyển tập văn học, Nxb Hội nhà văn. 
54. Hoàng Thị Văn (2001), Đặc trưng truyện ngắn Việt Nam từ 1975 đến đầu thập niên 
90 (Luận án tiến sĩ), Trường ĐHSP T.p HCM. 
 II. BÁO- TẠP CHÍ 
1. Vũ Tuấn Anh (1991), Tư duy nghiên cứu văn học hiện đại trước yêu cầu đổi mới, Tạp 
chí văn học (5). 
2. Vũ Tuấn Anh (1994), Những vấn đề của văn học hiện đại qua ba cuộc thảo luận, Tạp 
chí văn học (1). 
3. Vũ Tuấn Anh (1995), Đổi mới văn học vì sự phát triển, Tạp chí văn học (4). 
4. Vũ Tuấn Anh (1996), Quá trình văn học đương đại nhìn từ phương diện thể loại, Tạp 
chí văn học (9). 
5. Lại Nguyên Ân (1986), Văn xuôi gần đây - diện mạo và vấn đề, Văn nghệ Quân đội 
(1). 
6. Lại Nguyên Ân (1987), Sáng tác truyện ngắn gần đây của Nguyễn Minh Châu, Tạp 
chí văn học (3). 
7. Lê Huy Bắc (1988), Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại, Văn học (9). 
8. Ngô Ngọc Bội (1987), Đổi mới tư duy là một cuộc cách mạng tự thân, Văn nghệ (5). 
9. Ngô Ngọc Bội (1991), Con chó và vụ ly hôn (Tập truyện của Dạ Ngân, Nxb Hội nhà 
văn, 1990), Văn nghệ (42). 
10. Phạm Khánh Cao (1990), Chiến lược con người và yêu cầu sáng tác, Văn nghệ (52). 
11. Trần Cương (1995), Văn xuôi viết về nông thôn từ nửa sau những năm 80, Tạp chí văn 
học (4). 
12. Hoàng Diệu (1988), Mấy ghi nhận từ đời sống văn học năm 1987, Văn nghệ Quân đội 
(4). 
13. Đinh Xuân Dũng (1990), Đổi mới văn xuôi chiến tranh, Văn nghệ (51). 
14. Đỗ Đức Dục (1990), Văn học và chiến lược con người, Tạp chí văn học (6). 
15. Triều Dương (1989), Đánh giá đúng thực trạng văn học, bình tĩnh tiếp tục cọng cuộc 
đổi mới, Văn nghệ (41). 
16. Trần Thanh Đạm (1989), Bàn thêm về vấn đề con người trong văn học, Văn nghệ (35). 
17. Nguyễn Đăng (1998), Thời gian của người, triết lí và ánh sáng, Tạp chí văn học (2). 
18. Trần Bạch Đằng (1988), Văn học Việt Nam và vấn đề con người trong chiến tranh, 
Văn nghệ Quân đội (7). 
19. Phan Cự Đệ (1986), Mấy vấn đề lí luận của văn xuôi hiện nay, Tạp chí văn học (5). 
20. Phan Cự Đệ (1989), Cần định hướng cho công cuộc đổi mới trong tư duy văn học, Tạp 
chí văn học (2). 
21. Trung Trung Đỉnh (1993), Phạm hoa và tập truyện ngắn “Mỗi thời của họ”, Văn nghệ 
(25). 
22. Trần Độ (1988), Văn nghệ cần tiếp tục đổi mới, Văn nghệ (46). 
23. Trần Độ (1993), Cảm nhận về một nền văn nghệ mới đang ra đời, Văn nghệ (2). 
24. Hà Minh Đức (2002), Những thành tựu của văn học Việt Nam trong thời kì đổi mới, 
Văn học (7). 
25. Huyền Giang (1995), Có những quan niệm về con người cá nhân ở phương Đông 
không? Tạp chí văn học (6). 
26. Trần Thanh Hà (2008), Một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại qua cái nhìn 
phân tâm học, Văn học nước ngoài (3). 
27. Đặng Thị Hạnh (1990), Đứa trẻ và thành phố (Đọc “Thiên sứ” của Phạm Thị Hoài), 
Tạp chí văn học (4). 
28. Nguyễn Văn Hạnh (1987), Văn học trên con đường đổi mới, Văn học (4). 
29. Nguyễn Văn Hạnh (1987), Đổi mới tư duy, khẳng định sự thật trong văn học nghệ 
thuật, Văn học (2). 
30. Nguyễn Văn Hạnh (1993), Nguyễn Minh Châu những năm 80 và cách nhìn về con 
người, Tạp chí văn học (3). 
31. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2008), Cái hài và bi kịch người trí thức trong truyện ngắn “ 
Vũ điệu của cái bô”, (4) 
32. Hoàng Ngọc Hiến (1998), Văn học và tác dụng chiều sâu trong việc xây dựng nhân 
cách văn hóa con người, Tạp chí văn học (6). 
33. Nguyễn Hòa (1989), Suy nghĩ về vấn đề con người trong văn học viết về chiến tranh, 
Văn nghệ (51). 
34. Nguyễn Thị Huệ (1998), Tư duy mới về nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn Kháng 
những năm 80, Tạp chí văn học (2). 
35. Các nhà văn trả lời phỏng vấn về chiến tranh, về đề tài chiến tranh trong văn học 
(1987), Văn nghệ Quân đội (3). 
36. Nguyễn Văn Huyên (1990), Mấy vấn đề của sáng tạo nghệ thuật hiện nay, Văn nghệ 
(43). 
37. Mai Hương (1993), Nhìn lại văn xuôi 1992, Văn học (3). 
38. Diệu Hường (2008), Một góc nhỏ văn chương Hồ Anh Thái, Văn nghệ (12). 
39. Lê Thị Hường (1994), Quan niệm con người cô đơn trong truyện ngắn hôm nay, Tạp 
chí văn học (2). 
40. Lê Thị Hường (1995), Các kiểu kết thúc của truyện ngắn hôm nay, Tạp chí văn học 
(4). 
41. Nguyễn Khải (1984), Văn xuôi trước yêu cầu cuộc sống mới, Văn nghệ Quân đội (1). 
42. Đỗ Văn Khang (1990), “Bước qua lời nguyền” và văn học “sám hối”, Văn nghệ (32). 
43. Tương Lai (1985), Sự hình thành con người mới và đối tượng văn học, Tạp chí văn 
học (1). 
44. Cao Kim Lan (2007), Lịch sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và dấu vết của hệ 
hình thi pháp hậu hiện đại, Nghiên cứu văn học (12). 
45. Tôn Phương Lan (1994), Chiến tranh qua những tác phẩm văn xuôi được giải, Tạp chí 
văn học (12). 
46. Tôn Phương Lan (1996), Tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu qua 
quan niệm nghệ thuật về con người, Tạp chí văn học (4). 
47. Phong Lê (1986), Con người mới và nhân vật tích cực- Mục tiêu theo đuổi và nhận 
diện của chúng ta, Tạp chí văn học (1). 
48. Phong Lê (1988), Văn học và đời sống- hôm qua và hôm nay, Tạp chí văn học (1). 
49. Phong Lê (1988), Cái bình thường và cái không bình thường trong đời sống văn học 
chúng ta hôm nay, Văn nghệ Quân đội (3). 
50. Phạm Quang Long (1996), Thái độ Nguyễn Minh Châu đối với con người: niềm tin 
pha lẫn lo âu, Tạp chí văn học (9). 
51. Phương Lựu (2008), Suy nghĩ bước đầu về văn học với tôn giáo, Nhà văn (4). 
52. Ban chấp hành hội nhà văn Việt Nam (1990), Tình hình văn học hiện nay, Văn nghệ 
(30). 
53. Phạm Thị Thanh Nga (2008), Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975, 
Nghiên cứu văn học (5). 
54. Nguyên Ngọc (1991), Văn xuôi sau 1975- Thử thăm dò đôi nét về quy luật phát 
triển, Tạp chí văn học (4). 
55. Lã Nguyên (1989), Văn học Việt Nam trong bước ngoặt chuyển mình, Văn nghệ 
(45). 
56. Lã Nguyên (1989), Nguyễn Minh Châu và những trăn trở đổi mới trong tư duy nghệ 
thuật, Tạp chí văn học (2). 
57. Lã Nguyên (2007), Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt 
Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài, Nghiên cứu văn học 
(12). 
58. Phạm Xuân Nguyên (1988), Bàn về chuyện đổi mới trong văn học, Văn nghệ quân 
đội (7). 
59. Phạm Xuân Nguyên (1992), Văn học hôm nay có gì mới, Văn học (6). 
60. Phạm Xuân Nguyên (1994), Nguyễn Minh Châu trên sự yên tĩnh đời đời, Tạp chí 
văn học (12). 
61. Phạm Xuân Nguyên (1994), Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay, Tạp chí văn học 
(2). 
62. Vương Trí Nhàn (1988), Sự cần thiết của văn học, Văn nghệ (28). 
63. Phùng Quý Nhâm (1998), Tinh thần phân tích tâm linh, một đặc trưng của chủ nghĩa 
hiện thực, Tạp chí văn học (4). 
64. Mai Thị Nhung (2008), Giọng điệu nghệ thuật trong tiểu thuyết thời đổi mới của Ma 
Văn Kháng, Nghiên cứu văn học (10). 
65. Đỗ Hữu Phê (1989), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người, Tạp chí văn học (6). 
66. Huỳnh Như Phương (1986), Đọc “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, Văn 
nghệ (32). 
67. Huỳnh Như Phương (1991), Văn xuôi những năm 80 và vấn đề dân chủ hóa nền văn 
học, Tạp chí văn học (4). 
68. Huỳnh Như Phương (1993), Văn học đang nhìn lại chính mình, Tạp chí văn học (1). 
69. Phạm Thị Phương (1998), Tìm hiểu tính cách nhân vật qua kết cấu truyện ngắn, Tạp 
chí văn học (4). 
70. Phan Thị Diễm Phương (1990), Cảm nghĩ về truyện ngắn Nguyễn Quang Lập, Tạp 
chí văn học (4). 
71. Trương Hồng Quang, Nguyễn Mai Xuân (1989), “Vàng lửa” của Nguyễn Huy 
Thiệp, “Triết học lịch sử” hay “văn xuôi nghệ thuật”, Tạp chí văn học (2). 
72. Tô Huy Rứa (2008), Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật Việt Nam 
trong tình hình mới (Đưa Nghị quyết Đạii hội X của Đảng vào cuộc sống), Tạp chí 
Cộng sản (790). 
73. Nguyễn Hương Tâm (1994), Văn học khái luận- nhìn từ hôm nay, Tạp chí văn học 
(5). 
74. Bùi Việt Thắng (1981), Nghĩ về truyện ngắn của một số cây bút trẻ Quân đội, Văn 
nghệ Quân đội (3). 
75. Bùi Việt Thắng (1991), Văn xuôi gần đây và quan niệm con người, Tạp chí văn học 
(6). 
76. Bùi Việt Thắng (1994), Vấn đề tình huống trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, 
Tạp chí văn học (2). 
77. Nguyễn Ngọc Thiện (1996), Động lực lớn trong thời kì mới của lý luận phê bình, 
nghiên cứu văn học, Tạp chí văn học (9). 
78. Vương Anh Tuấn (1989), Lịch sử trong quan niệm Nguyễn Huy Thiệp, Tạp chí văn 
học (3). 
79. Bích Thu (1995), Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau năm 1975 qua hệ 
thống môtip chủ đề, Văn học (4). 
80. Bích Thu (1996), Những thành tựu của tuyện ngắn sau 1975, Văn học (9). 
81. Phan Trọng Thưởng (1998), Một cái nhìn bổ sung để nhận diện con người mới giai 
đoạn hiện nay, Tạp chí văn học (1). 
82. Lê Ngọc Trà (1990), Vấn đề con người trong văn học hiện nay, Văn học (1). 
83. Lê Ngọc Trà (2002), Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới, Văn học (2). 
84. Ngọc Trai (1987), Sự khám phá về con người Việt Nam qua truyện ngắn, Văn nghệ 
Quân đội (10). 
85. Bùi Thanh Truyền (2008), Song đề truyền thống- hiện đại trong điểm nhìn nghệ 
thuật của truyện giả cổ tích và truyện cũ viết lại thời đổi mới, Tạp chí nghiên cứu văn 
học (2). 
86. Hà Xuân Trường (1991), Có sự đổi mới thật sự trong văn học, Văn nghệ (49). 
87. Nguyễn Xuân Trường (1987), Văn học nghệ thuật trong đổi mới tư duy, Văn nghệ 
(1). 
88. Phùng Văn Tửu (1996), Một phương diện của truyện ngắn, Tạp chí văn học (2). 
89. Phùng Văn Tửu (1997), Từ cuộc đời đến văn chương, Tạp chí văn học (7). 
B. TRUYỆN NGẮN 1986- 2000 
(Những truyện ngắn được khảo sát trong luận văn) 
1. Y Ban (2007), Thư gửi mẹ Âu Cơ- Văn nghệ Quân đội- Tuyển chọn truyện ngắn được 
giải, Nxb Văn học. 
2. Như Bình (2001), Hoa mua trắng- Mười năm truyện ngắn Văn nghệ Quân đội 1991- 
2000, Nxb Văn học. 
3. Nguyễn Minh Châu (1994), Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền Nam- Cỏ lau (tập truyện), 
Nxb Văn học. 
4. Nguyễn Minh Châu (2001), Lũ trẻ ở dãy K, Dấu vết nghề nghiệp, Bến quê, Chiếc 
thuyền ngoài xa- Nguyễn Minh Châu toàn tập (tập 3)(Mai Hương sưu tầm, biên soạn 
và giới thiệu), Nxb Văn học. 
5. Nguyễn Minh Châu (2002), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành- Truyện ngắn 
Minh Châu, tác phẩm và dư luận, Nxb Văn học. 
6. Trần Thanh Hà (2006), Miền cỏ hoang- Giải nhất truyện ngắn (Sương Nguyệt Minh 
biên soạn), Nxb Công an Nhân dân. 
7. Võ Thị Hảo (2001), Dây neo trần gian- Mười năm truyện ngắn Văn nghệ Quân đội 
1991-2000, Nxb Văn học. 
8. Võ Thị Hảo (1995), Giọt buồn Giáng sinh- Truyện ngắn chọn lọc mười bốn tác giả 
nữ, Nxb Hội nhà văn. 
9. Phạm Hoa (2008), Đùa của tạo hóa- Nợ trần gian (tập truyện), Nxb Hội nhà văn. 
10. Phạm Thị Hoài (1995), Năm ngày- Truyện ngắn chọn lọc mười bốn tác giả nữ, Nxb 
Hội nhà văn. 
11. Vũ Hồng (2001), Tiếng chuông trôi trên sông- Mười năm truyện ngắn Văn nghệ Quân 
đội 1991- 2000, Nxb Văn học. 
12. Nguyễn Thị Thu Huệ (1994), Hậu thiên đường- Bến trần gian (Tập truyện ngắn chọn 
lọc cuộc thi tạp chí Văn nghệ quân đội), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 
13. Nguyễn Thị Thu Huệ (1995), Một nửa cuộc đời- Truyện ngắn chọn lọc mười bốn tác 
giả nữ, Nxb Hội nhà văn. 
14. Nguyễn Quang Huy (1994), Con gấu- Bến trần gian (tập truyện), Nxb Quân đội nhân 
dân, Hà Nội. 
15. Trầm Hương (1994), Chỗ dựa- Hồi ức binh nhì, Nhà xuất bản quân đội Nhân dân, Hà 
Nội 
16. Trần Thùy Mai (2000), Trò chơi cấm- Truyện ngắn hay Việt Nam (tập 4), Nxb Hội 
nhà văn. 
17. Lưu Sơn Minh (1994), Tiếng vạc sành- Bến trần gian (Tập truyện), Nxb Quân đội 
nhân dân, Hà Nội. 
18. Sương Nguyệt Minh (2001), Người ở bến sông Châu- Mười năm truyện ngắn Văn 
nghệ Quân đội 1991- 2000, Nxb Văn học, Hà Nội. 
19. Dạ Ngân (1995), Người của mỗi người- Truyện ngắn chọn lọc mười bốn tác giả nữ, 
Nxb Hội nhà văn. 
20. Dạ Ngân (1995), Dù phải sống ít hơn- Truyện ngắn chọn lọc mười bốn tác giả nữ, 
Nxb Hội nhà Văn. 
21. Khánh Nhân (1994), Ngày hội- Hồi ức binh nhì (Tập truyện), Nxb Văn nghệ Quân 
đội. 
22. Hiền Phương (2006), Tiếng rừng- Truyện ngắn hay về chiến tranh, Nxb Văn học. 
23. Hoàng Đình Quang (1994), Những người thọ nạn- Hồi ức binh nhì (Tập truyện), Nxb 
Văn nghệ Quân đội. 
24. Nguyễn Ngọc Tấn (2006), Im lặng- Truyện ngắn hay chiến tranh (Bùi Việt Thắng 
tuyển chọn, giới thiệu), Nxb Văn học. 
25. Hồ Anh Thái (2006), Mảnh vỡ của đàn ông- Truyện ngắn hay về chiến tranh, Nxb 
Văn học. 
26. Nguyễn Đức Thiện (2006), Phía sau gương mặt người- Giải nhất truyện ngắn (Sương 
Nguyệt Minh biên soạn), Nxb Công an Nhân dân. 
27. Nguyễn Quang Thiều (1997), Mùa hoa cải bên sông- Truyện ngắn Nguyễn Quang 
Thiều, Nxb Văn học. 
28. Nguyễn Quang Thiều (1994), Hai người đàn bà xóm Trại- Hồi ức binh nhì (Tập 
truyện), Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội. 
29. Nguyễn Huy Thiệp (2001), Đời thế mà vui, Huyền thoại phố phường, Con gái thủy 
thần, Những người thợ xẻ, Muối của rừng, Thương nhớ đồng quê, Những bài học 
nông thôn, Những ngọn gió Hua Tát, Không có vua, Tướng về hưu, Chảy đi sông ơi- 
Tuyển tập Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Phụ nữ. 
30. Phạm Ngọc Tiến (2007), Chạy trốn- Văn nghệ Quân đội- Tuyển chọn truyện ngắn 
đoạt giải, Nxb Văn học. 
31. Nguyễn Đình Tú (2007), Bên bờ những dòng chảy- Văn nghệ Quân đội- Tuyển chọn 
truyện ngắn đoạt giải, Nxb Văn học. 
32. Nguyễn Thế Tường (1994), Hồi ức của một binh nhì - Hồi ức binh nhì (Tập truyện), 
Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội. 
33. Lương Hiệu Vui (1994 ), Gặp gỡ- Hồi ức binh nhì (Tập truyện), Nhà xuất bản Quân 
đội Nhân dân, Hà Nội. 
._.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 LA5112.pdf LA5112.pdf