Cạnh tranh & Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Rượu Hà Nội

Giới thiệu đề tài Trong cơ chế thị trường, kinh doanh luôn gắn liền với cạnh tranh. Đã từ lâu người Anh có phương châm “Business is Business“ - Kinh doanh là kinh doanh : trong kinh doanh không có chỗ dành cho tình cảm, kinh doanh là cạnh tranh gay gắt, không khoan nhượng... Phương châm đó đã từng lột tả hết tính chất quyết liệt của cạnh tranh trên thương trường. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế đều phải tự mình vận động để thích nghi với cơ chế này. Doanh nghiệp nào

doc99 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1184 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cạnh tranh & Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Rượu Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
không thích nghi sẽ phải “gặt hái” sự thất bại, phá sản và theo quy luật đào thải thì nó sẽ bị loại ra khỏi thị trường chính vì thế, chúng ta hoàn toàn dễ hiểu khi một doanh nghiệp hôm nay đang rất hưng thịnh nhưng ngày mai lại phải tuyên bố phá sản. Nhưng điều đáng mừng là trong những năm qua khi nền kinh tế ở nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có nhiều doanh nghiệp đã và đang tự khẳng định khả năng, vị trí của mình, đứng vững trong cơ chế mới và bắt đầu vươn lên. Hòa đồng với xu hướng chung này, Công ty Rượu Hà nội, từ khi chuyển sang cơ chế thị trường đã thu được rất nhiều thắng lợi bằng nhiều biện pháp khác nhau, Công ty đã từng bước tạo lập và dần nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường, sản phẩm của Công ty được người tiêu dùng chấp nhận. nâng cao khả nă Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là Công ty đã có thể tự hài lòng với thắng lợi của mình, vì trong tương lai thắng lợi đó luôn luôn bị de dọa. Các đơn vị sản xuất Rượu cả trong và ngoài nước luôn tìm mọi cách để cạnh tranh với Rượu hà nội và mức độ cạnh tranh ngày càng trở lên gay gắt hơn. Do đó việc ng cạnh tranh của Công ty Rượu Hà nội một tất yếu. Qua thời gian thực tập tìm hiểu và nghiên cứu về thực trạng sản xuất kinh doanh của Công ty. Em chọn đề tài về: "Cạnh tranh và một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Rượu Hà nội ”, với hy vọng có đóng góp phần nào vào sự phát triển của Công ty trong thời gian tới. Bản chuyên đề gồm 3 chương : Chương I. - Lý luận chung về doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Chương II. - Thực trạng khả năng cạnh tranh của công ty Rượu Hà nội trong giai đoạn hiện nay Chương III. - Một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Rượu Hà nội. CHương i Lý luân chung về doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của doanh nghiêp I. doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 1. Doanh nghiệp và các vấn đề kinh tế cơ bản của doanh nghiệp. 1.1. Doanh nghiệp. 1.1.1 . Doanh nghiệp là gì ? Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế hoạt động trong cơ chế thị trường có tên riêng, có tài sản, có sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. 1.1.2.Phân loại doanh nghiệp. -Theo ngành kinh tế kĩ thuật: Ta có doanh nghiệp công nghiệp, xây dựng, doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, doanh nghiệp thương nghiệp, doanh nghiệp vận tải, kinh doanh du lịch, kinh doanh tiền tệ... -Theo cấp quản lý: Ta có doanh nghiệp do trung ương quản lý và doanh nghiệp do địa phương quản lý. -Theo hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất: Ta có nhiều hình thức tổ chức kinh doanh : doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp công tư hợp doanh, doanh nghiệp tập thể ( hợp tác xã ), doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, trong những năm gần đây chúng ta đã phát triển các công ty và tập đoàn sản xuất... Trong đó doanh nghiệp nhà nước có vị trí nòng cốt trong hệ thống doanh nghiệp. -Theo qui mô sản xuất kinh doanh:Ta có doanh nghiệp qui mô lớn, qui mô vừa và qui mô nhỏ, trong đó qui mô vừa và nhỏ có kỹ thuật hiện đại với nhiều ưu điểm trong điều kiện đổi mới kinh tế của Việt Nam hiện nay. -Theo trình độ kỹ thuật: Ta có doanh nghiệp sử dụng lao động thủ công, doanh nghiệp nửa cơ khí, cơ khí hoá tự động hoá. 1.1.3. Các hình thức pháp lý của doanh nghiệp Việt nam. Các doanh nghiệp có quyền bình đẳng trước pháp luật của nhà nước trong sản xuất kinh doanh, hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhiệm vụ, quyền hạn và quyền lợi của các doanh nghiệp gắn chặt với nhau. - Các doanh nghiệp nhà nước: Là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Hiện nay, doanh nghiệp nhà nước tồn tại trong nền kinh tế quốc dân với các hình thức cụ thể là các tổng công ty, công ty và các doanh nghiệp độc lập. - Hợp tác xã: là tổ chức kinh tế tự chủ do người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh tập thể và của từng xã viên, nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động kinh doanh. - Công ty cổ phần: Là doanh nghiệp mà trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần do tối thiểu hai cổ đông nắm giữ, được phép phát hành chứng khoán và có tư cách pháp nhân, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi vốn góp của mình. - Công ty trách nhiệm hữu hạn: + Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên: là doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu, không được quyền phát hành cổ phiếu, có tư cách pháp nhân, chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ khác về tài sản của công ty trong phạm vi vốn điều lệ của công ty. + Đối với công ty trách nhiệm có trên một thành viên: Là doanh nghiệp do hai thành viên trở lên đến tối đa là năm mươi thành viên thành lập, không có quyền phát hành cổ phiếu, có tư cách pháp nhân. Các thành viên chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp của mình. - Doanh nghiệp tư nhân: Là doanh nghiệp do cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. - Công ty hợp danh: Là doanh nghiệp mà trong đó có ít nhất hai thành viên hợp danh và có thể có thành viên góp vốn, không được quyền phát hành chứng khoán. Thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. - Công ty liên doanh: Là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác (một bên là Việt nam và một hoặc nhiều bên là nước ngoài) thành lập tại Việt nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký kết giữa chính phủ nước CHXHCN Việt nam và chính phủ nước ngoài, hoặc là doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. 1.2. Những vấn đề kinh tế cơ bản của doanh nghiệp. Thực tế phát triển kinh tế ở các nước trên thế giới và Việt Nam đã cho chúng ta thấy rằng : Muốn phát triển một doanh nghiệp đều phải giải quyết được ba vấn đề kinh tế cơ bản : Quyết định sản xuất cái gì, quyết định sản xuất như thế nào và quyết định sản xuất cho ai. 1.2.1. Quyết định sản xuất cái gì. Quyết định sản xuất cái gì đòi hỏi phải làm rõ nên sản xuất hàng hoá, dịch vụ gì với số lượng bao nhiêu, bao giờ thì sản xuất. Nhu cầu của thị trường về hàng hoá và dịch vụ rất phong phú, đa dạng và ngày một tăng về cả số lượng và chất lượng. Nhưng trên thực tế nhu cầu có khả năng thanh toán lại thấp hơn, cho nên muốn thoả mãn nhu cầu lớn trong khi khả năng thanh toán lại có hạn, xã hội và con người phải lựa chọn từng loại nhu cầu có lợi nhất cho xã hội, cho người tiêu dùng. Tổng số các nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội, của người tiêu dùng cho ta biết được nhu cầu có khả năng thanh toán của thị trường. Nhu cầu này là căn cứ, là xuất phát điểm để định hướng cho các chính phủ và các nhà kinh doanh quyết định việc sản xuất và cung ứng của mình. Trên cơ sở nhu cầu của thị trường, các chính phủ và các nhà kinh doanh tính toán khả năng sản xuất của nền kinh tế, của doanh nghiệp và các chi phí sản xuất tương ứng để lựa chọn và quyết định sản xuất và cung ứng cái mà thị trường cần để có thể đạt lợi nhuận tối đa. Việc lựa chọn để quyết định sản xuất cái gì chính là quyết định sản xuất những loại hàng hoá, dịch vụ nào, số lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào, khi nào cần sản xuất và cung ứng. Cung, cầu cạnh tranh trên thị trường tác động qua lại với nhau để có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định giá cả thị trường và số lượng hàng hóa cần cung cấp trên thị trường. Giá cả thị trường là thông tin có ý nghĩa quyết định đối với việc lựa chọn sản xuất và cung ứng những hàng hoá nào có lợi nhất cho cả cung và cầu trên thị trường. Giá cả trên thị trường là bàn tay vô hình điều chỉnh quan hệ cung cầu và giúp chúng ta lựa chọn và quyết định sản xuất. 1.2.2. Quyết định sản xuất như thế nào. Quyết định sản xuất như thế nào nghĩa là do ai và những tài nguyên nào với hình thức công nghệ nào, phương pháp sản xuất nào. Sau khi đã lựa chọn cần sản xuất cái gì, các chính phủ, các nhà kinh doanh phải xem xét và lựa chọn việc sản xuất những hàng hoá và dịch vụ đó như thế nào để sản xuất nhanh và nhiều hàng hoá theo nhu cầu thị trường với chi phí ít nhất, cạnh tranh thắng lợi trên thị trường để có lợi nhuận cao nhất. Động cơ lợi nhuận đã khuyến khích các doanh nghiệp tìm kiếm, lựa chọn các đầu vào tốt nhất với chi phí thấp nhất, lựa chọn các phương pháp sản xuất có hiệu quả nhất. Phương pháp đó kết hợp tất cả các yếu tố đầu vào để sản xuất ra đầu ra nhanh nhất, sản xuất đựơc nhiều nhất và chất lượng cao nhất với chi phí thấp nhất. Nói một cách cụ thể là phải lựa chọn và quyết định là giao cho ai, sản xuất hàng hoá dịch vụ này bằng nguyên vật liệu gì, thiết bị dụng cụ nào, công nghệ sản xuất ra sao để đạt tới lợi nhuận cao nhất, thu nhập quốc dân lớn nhất. Để đứng vững và cạnh tranh thắng lợi trên trị trường, các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới kỹ thuật và công nghệ, nâng cao trình độ công nhân và lao động quản lý nhằm tăng hàm lượng chất xám trong hàng hoá và dịch vụ. Chất lượng hàng hoá và dịch vụ là vấn đề có ý nghĩa quyết định sống còn trong cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường, chất lượng cao đảm bảo chữ tín của doanh nghiệp với bạn hàng, chiếm lĩnh được thị trường và cạnh tranh thắng lợi. 1.2.3. Quyết định sản xuất cho ai. Quyết định sản xuất cho ai đòi hỏi phải xác định rõ ai sẽ được hưởng và được lợi từ những hàng hoá và dịch vụ của đất nước. Thị trường quyết định giá cả của các yếu tố sản xuất, do đó thị trường cũng quyết định thu nhập của các đầu ra - thu nhập về hàng hoá dịch vụ. Thu nhập của xã hội, của tập thể hay của cá nhân phụ thuộc vào quyền sở hữu và giá trị của các yếu tố sản xuất, phụ thuộc vào lượng hàng hoá và giá cả của các loại hàng hoá dịch vụ. Vấn đề mấu chốt ở đây cần giải quyết là những hàng hoá và dịch vụ sản xuất phân phối cho ai để vừa có thể kích thích mạnh mẽ sự phát triển kinh tế có hiệu quả cao, vừa đảm bảo sự công bằng xã hội. Nói một cách cụ thể là sản phẩm quốc dân thu nhập thuần tuý của doanh nghiệp sẽ được phân phối cho xã hội, cho tập thể và cho cá nhân như thế nào để tạo động lực kích thích cho sự phát triển kinh tế xã hội và đáp ứng được các nhu cầu công cộng và các nhu cầu xã hội khác. Về nguyên tắc thì cần đảm bảo cho mọi người lao động được hưởng và được lợi từ những hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp đã tiêu thụ căn cứ vào những cống hiến của họ (cả lao động sống và lao động vật hoá ) đối với quá trình sản xuất ra những hàng hoá dịch vụ ấy, đồng thời chú ý thoả đáng đến những vấn đề xã hội đối với con người. Theo ngôn ngữ kinh tế học thì ba vấn đề kinh tế cơ bản nói ở trên đều cần được giải quyết trong mọi xã hội, dù là một nhà nước xã hội chủ nghĩa, một nhà nước công nghiệp tư bản, một công xã, một bộ tộc, một địa phương, một nghành, một doanh nghiệp hay thậm chí cả đối với một đàn ong mật. Mỗi một đơn vị tổ chức như vậy phải quyết định tốt nhất : sản xuất những đầu ra nào, số lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào ?. Sản xuất những đầu ra ấy bằng những đầu vào nào, kỹ thuật gì, công nghệ ra sao để có chi phi thấp nhất? cần sản xuất và phân phối các đầu ra đó cho ai là tối ưu nhất ? Quá trình phát triển kinh tế của mỗi doanh nghiệp chính là quá trình lựa chọn để quyết định tối ưu ba vấn đề cơ bản nói trên. Nhưng việc lựa chọn để quyết định tối ưu ba vấn đề ấy lại phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội, khả năng và điều kiện, phụ thuộc vào việc lựa chọn hệ thống kinh tế để phát triển, phụ thuộc vào vai trò, trình độ và sự can thiệp của các chính phủ, phụ thuộc vào chế độ chính trị - xã hội của mỗi nước. 1.3. Môi trường bên ngoài của doanh nghiệp. Về cơ bản mục tiêu của doanh nghiệp là lợi nhuận, muốn vậy, doanh nghiệp phải giải quyết được mối quan hệ giữa mình với thị trường (môi trường bên ngoài ), tức là giải quyết mối quan hệ cung - cầu và giá cả của mình. Cụ thể hơn, trong mối quan hệ này doanh nghiệp cần giải quyết sao cho: - Giảm được các chi phí đến mức thấp nhất. - Thu được lợi nhuận lớn nhất. Thực hiện được điều đó có nghĩa là doanh nghiệp sẽ ngày càng sinh lợi nhiều hơn và đó chính là mục tiêu cơ bản nhất của một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. 2. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Cạnh tranh là gì? Cạnh tranh là việc đánh giá xem xét một doanh nghiệp có sức mạnh thị trường hay khả năng thay đổi giá cả thị trường của một loại hàng hoá, dịch vụ hay không. - Cạnh tranh hoàn hảo là trường hợp cạnh tranh xảy ra khi không một nhà sản xuất nào có thể tác động vào giá cả thị trường.Giá cả của hàng hoá là do quy luật cung- cầu trên thị trường quyết định. - Cạnh tranh không hoàn hảo: là trường hợp cạnh tranh xảy ra khi giá cả của hàng hoá không còn được quyết định bởi quy luật cung- cầu trên thị trường. Khi đó có một hoặc một vài nhà sản xuất có sức mạnh thị trường tức là có thể thay đổi giá cả sản phẩm của họ. Người ta đã chứng minh được rằng trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo, mục tiêu của các doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận, thị trường sẽ phân bổ tối ưu các nguồn lực khan hiếm vốn có theo nghĩa rằng không thể có cách phân bổ khác có lợi hơn cho ai trong xã hội mà không làm hại đến người khác. 2.1 Vai trò của cạnh tranh. Có thể nói, áp lực cạnh tranh của thị trường là đông lực cho sự phát triển. Cạnh tranh sẽ dẫn đến các doanh nghiệp muốn tồn tại sẽ phải tìm cách giảm chi phí, cải tiến công nghệ, chất lượng, mẫu mã của sản phẩm để từ đó giảm giá bán nhằm tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ và từ đó tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Nhà sản xuất có thể dễ dàng tham gia vào thị trường cạnh tranh để kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, một đặc trưng cơ bản nữa của cạnh tranh là lợi nhuận giảm dần, song điều đó lại có nghĩa là các nguồn tài nguyên được phân phối lại để sản xuất cơ cấu sản lượng mong muốn. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được thể hiện ở nhiều mặt : - Chi phi sản xuất kinh doanh, khả năng hạ thấp chi phí sán xuất kinh doanh. - Chất lượng sản phẩm hàng hoá, khả năng tăng chất lượng sản phẩm hàng hoá. - Cơ cấu sản phẩm hàng hoá, khả năng chuyển đổi cơ cấu sản phẩm hàng hoá. - Thông tin, khả năng xử lý thông tin của doanh nghiệp. -Thông tin về sản phẩm, để từ đó tăng mức hấp dẫn của sản phẩm đối với người tiêu dùng... Do đưa đến những ý tưởng mới, công nghệ mới, sản phẩm mới, hình thức tổ chức, dịch vụ và tiếp thị mới, nên cạnh tranh đảm bảo tính năng động của nền kinh tế nói chung và của doanh nghiệp nói riêng. 2.2 Sự cần thiết khách quan của việc nâng cao khả năng cạnh tranh 2.2.1 Sự cần thiết khách quan của việc nâng cao khả năng cạnh tranh Hiện nay, ở nước ta các doanh nghiệp đều rất quan tâm đến khả năng cạnh tranh. Thực chất, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là lợi thế về tất cả các mặt : giá cả, giá trị sử dụng, uy tín, công nghệ, tiềm lực tài chính... so với các đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn đến mức tốt nhất các đòi hỏi của thị trường. Như vậy, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là thay đổi mối tương quan về thế và lực của doanh nghiệp trên thị trường về mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh. Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là một tất yếu khách quan. Mà cạnh tranh về kinh tế khác hẳn so với cạnh tranh để đạt giải thưởng nào đó. Nó là một cuộc chạy đua không đơn cuộc, không phải một lần thôi mà là một quá trình liên tục. Đó là một cuộc "Maratông kinh tế" không có đích cuối cùng. Ai cảm nhận thấy đích, người đó trở thành nhịp cầu cho các đối thủ vươn lên phía trước. Chạy đua kinh tế phải luôn luôn ở phía trước để tránh những trận đòn của người chạy phía sau. Hơn nữa, chạy đua về mặt kinh tế không phải chỉ để thắng một trận tuyến mà là để thắng trên hai trận tuyến. Một trận tuyến diễn ra giữa hai phe của hệ thống thị trường, còn trận tuyến kia diễn ra giữa hai phe của cùng một phía. Nói cách khác, đây là cạnh tranh giữa người mua với người bán và cạnh tranh giữa người bán với nhau. Mỗi doanh nghiệp không thể lẩn tránh cạnh tranh, vì như vậy là cầm chắc sự phá sản, phải chấp nhận cạnh tranh, đón trước cạnh tranh và sẵn sàng, linh hoạt sử dụng công cụ cạnh tranh để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nói tóm lại, việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là một tất yếu khách quan. 2.3 Các nhân tố ảnh hưởng: 2.3.1 Các nhân tố khách quan: - Nhân tố kinh tế : các nhân tố này dù ở cấp độ nào cũng có vai trò quan trọng và quyết định hàng đầu như: trạng thái phát triển của nền kinh tế, tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất ngân hàng, các chính sách kinh tế của nhà nước… - Nhân tố chính trị – pháp luật: đây là nền tảng quyết định các yếu tố của môi trường kinh doanh, không có môi trường kinh doanh thoát li quan điểm chính trị và nền tảng pháp luật. Hệ thống pháp luật, các chính sách, chế độ đồng bộ, hoàn thiện tạo khung pháp lý và giới hạn cho việc bảo đảm quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh. - Nhân tố về công nghệ – kỹ thuật: Các ảnh hưởng của nhân tố công nghệ- kỹ thuật cho thấy các cơ hội và mối đe doạ cần phải được xem xét trong việc soạn thảo và thực thi chiến lược. Tiến bộ kỹ thuật và công nghệ có ảnh hưởng một cách trực tiếp và quyết định đến hai yếu tố tạo nên khả năng cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ trên thị trường đó là chất lượng và giá bán của các sản phẩm đó, nó có tác động đến thị trường, các nhà cung cấp, khách hàng, quá trình sản xuất và vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường. - Nhân tố về văn hoá - xã hội: Các nhân tố này ảnh hưởng một cách chậm chạp, song cũng rất sâu sắc đến môi trường kinh doanh. Sự xung đột về văn hóa- xã hội trong quá trình mở cửa và hội nhập càng thể hiện rõ hơn, do vậy một doanh nghiệp muốn thành công phải nhận thức rõ được tầm quan trọng của yếu tố này. 2.3.2 Nhân tố chủ quan: - Khách hàng: là thị trường của doanh nghiệp, số lượng, kết cấu khách hàng, quy mô, nhu cầu động cơ mua hàng, thị hiếu, yêu cầu của khách hàng… là các yếu tố cần phải tính đến trong hoạch định kinh doanh. - Số lượng các doanh nghiệp trong ngành và các doanh nghiệp tiềm ẩn: Trước hết, số lượng các doanh nghiệp và quy mô sản xuất – kinh doanh của chúng ảnh hưởng đến khả năng cung ứng hàng hoá và dịch vụ của ngành và mức độ gay gắt của cuộc cạnh tranh nội bộ ngành. Thứ đến, sự hợp tác chống lại sự thâm nhập của các doanh nghiệp mới vào ngành và sự hợp tác chống lại sự cạnh tranh của hàng hoá nhập khẩu. - Số lượng và sức ép của các nhà cung cấp: Các yếu tố đầu vào phục vụ cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn đến môi trường cạnh tranh nội bộ ngành. Số lượng đông đảo các nhà cung cấp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau là thể hiện sự phát triển của thị trường các yếu tố đầu vào. Sức ép của các sản phẩm thay thế: trong nền kinh tế thị trường, sản phẩm thay thế ra đời là một đòi hỏi tất yếu nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường ngày càng biến động nhanh theo hướng đa dạng hơn, phong phú hơn và ngày càng cao cấp hơn. Đòi hỏi về sản phẩm thay thế hoặc sức ép của các sản phẩm thay thế có thể tạo thuận lợi cho nhóm doanh nghiệp này và gây khó khăn thậm chí là gây tổn thất cho các doanh nghiệp khác. 2.4 Một số chỉ tiêu thể hiện khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Để đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có thể dựa vào 1 số chỉ tiêu sau: 2.4.1 Thị phần: Là một chỉ tiêu hay được sử dụng để đánh giá. Khi xem xét người ta thường xem xét các loại thị phần sau: - Thị phần của Công ty so với toàn bộ thị trường: Đó chính là tỷ lệ % giữa các doanh số của Công ty so với doanh số của toàn ngành. - Thị phần của Công ty so với phân khúc mà nó phục vụ: Đó là tỷ lệ % giữa doanh số của Công ty so với doanh số của toàn phân khúc. - Thị phần tương đối: Đó là tỷ lệ so sánh về doanh số của Công ty với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất. Nó cho biết vị thế của sản phẩm trong cạnh tranh trên thị trường như thế nào ? Thông qua sự biến động của các chỉ tiêu này mà doanh nghiệp biết mình đang đứng ở vị trí nào, và cần phải vạch ra chiến lược hành động như thế nào. Tuy nhiên phương pháp này khó đảm bảo tính chính xác. 2.4.2. Doanh thu / doanh thu của các đối thủ mạnh nhất. Nếu sử dụng chỉ tiêu này người ta có thể chọn từ 2 đến 5 doanh nghiệp mạnh nhất tùy theo lĩnh vực cạnh tranh khác nhau mà chọn khác nhau. - Chỉ tiêu này có ưu điểm: Đơn giản, dễ tính. - Nhược điểm: Chưa chính xác, khó lựa chọn các doanh nghiệp mạnh nhất vì trong mỗi lĩnh vực có doanh nghiệp đứng đầu khác nhau. 2.4.3. Tỷ suất lợi nhuận : Một trong các chỉ tiêu thể hiện tiềm năng cạnh tranh của doanh nghiệp là: Tỷ suất Lợi nhuận / Doanh thu. 2.4.4 Một số chỉ tiêu khác : - Tốc độ tăng trưởng của sản phẩm cạnh tranh. - Tỷ lệ chi phí lớn nhất / Tổng doanh thu. II. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. 1. Cạnh tranh và các chính sách cạnh tranh ở nước ta hiện nay. Cũng như bất kỳ nền kinh tế nào chấp nhận thị trường như là một cơ chế đảm bảo hiệu quả cho các hoạt động kinh tế, các doanh nghiệp cần được có các chính sách cạnh tranh nhất là theo nghĩa rộng. Trước hết môi trường cạnh tranh kinh tế chung của Việt Nam đã trở nên xấu hơn trong hai ba năm lại đây. Nền kinh tế Việt Nam đã bộc lộ những biểu hiện đáng lo ngại trong việc thiết lập và duy trì các nhân tố tạo tăng trưởng bền vững, liên quan đến đầu tư và tiết kiệm trong nước, cán cân thanh toán, tính hiệu quả của khu vực doanh nghiệp nhà nước, hệ thống tài chính ngân hàng, chế độ thương mại, tỷ giá và chế độ quản lý hối đoái, minh bạch chính sách và hệ thống thông tin kinh tế. Điểm yếu của ta thể hiện ở các nhân tố: chế độ chính sách, vai trò chính phủ, tài chính ngân hàng, kết cấu hạ tầng, công nghệ, quản trị, lao động và thể chế. ở đây tính không hiệu quả của đầu tư nhà nước, khu vực doanh nghiệp nhà nước là những vấn đề nghiêm trọng. Cấu trúc thị trường Việt Nam có những nét đặc trưng nổi bật và dễ nhận thấy nhất là sự độc quyền và chi phối thị trường của các doanh nghiệp nhà nước trong rất nhiều ngành công nghiệp và dịch vụ. Hiện trạng chủ đạo thị trường của khu vực doanh nghiệp nhà nước lại được tăng cường thêm bằng sự ra đời của một loạt tổng công ty, các liên doanh với nước ngoài vốn chủ yếu chỉ làm ăn với doanh nghiệp nhà nuớc. Trong môi trường pháp lý, thể chế và với cấu trúc thị trường như vậy, thì điều dễ hiểu là các thị trường còn bị chia cắt, phạm vi những hoạt động ngầm phi chính thức còn ở qui mô lớn, mức độ độc quyền trên thị trường và các hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh ( như theo hướng đàm phán cấu kết, phân biệt đối xử, lạm dụng vị thế để phân chia thị trường, khống chế giá, quảng cáo, tiếp thị dối trá, sản xuất hàng giả, vi phạm bản quyền... ) được khuyến khích; hiệu quả của cơ chế lan toả của các chính sách, nhất là chính sách kinh tế vĩ mô, qua thị trường rất hạn chế. Một khi các kích thích chính sách có thiên hướng gây ra méo mó thị trường, thì sẽ là hợp lý cho các doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực theo tín hiệu chính sách và tìm cách thu được siêu lợi nhuận nhờ những méo mó đó. Kết quả diễn ra là sự sôi động của các hoạt động chạy chọt lợi ích vây quanh khu vực kinh tế nhà nước của tất cả các loại hình doanh nghiệp. 2. Những lợi thế và khó khăn của doanh ngiệp. 2-1. Lợi thế của doanh nghiệp. Đối với những nhà đầu tư, bất luận dù là pháp nhân hay thể nhân, một khi đã bỏ vốn kinh doanh ai cũng nhằm đến mục đích hàng đầu là lợi nhuận. Trong luật doanh nghiệp, quyền đuợc yêu cầu cung cấp thông tin về đăng ký kinh doanh của bất cứ doanh nghiệp nào, cũng dịnh hướng cho các nhà đầu tư mới đủ thời gian lựa chọn và quyết định để đồng vốn của mình hạn chế một cách tối đa yếu tố trùng lặp ngành nghề và hạn chế tối đa những đối đầu cạnh tranh. Giá trị tiến bộ này sẽ giúp nhà đầu tư tìm ra càng nhiều lợi nhuận. Luật công ty của các nước ASEAN tạo điều kiện dễ dàng cho các doanh nghiệp trong nước hợp tác liên doanh với bên ngoài phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế mà nước ta đã cam kết trong khuôn khổ các hiệp định đa phương và song phương. Chính sách đối ngoại rộng mở đúng đắn của Việt Nam, tạo điều kiện cho hoạt động của các thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhà nước nối vòng tay lớn để hợp tác làm ăn với tất cả các nước trên cơ sở bình đẳng tưong trợ lẫn nhau cùng có lợi. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ là kết quả của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ đa phương hoá, đa dạng hoá của Đảng và nhà nước ta trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới. Giới đầu tư Mỹ tin rằng họ có sự hậu thuẫn và bảo đảm của chính phủ Mỹ, nên các nguồn tài chính, công nghệ mới, công nghệ kỹ thuật cao sẽ được khuyến khích đưa vào thị trường Việt Nam. Đây là một lợi thế lớn nếu các doanh nghiệp Việt Nam có bản lĩnh, chủ động nhập cuộc, khai thác trình độ kỹ thuật công nghệ hiện đại, nguồn vốn, kinh nghiệm quản lý... Các doanh nghiệp phải chủ động nâng cao sức cạnh tranh, thâm nhập thị trường tìm, hiểu đối tác nhu cầu thị trường, luật pháp... để nhập cuộc. Đó chính là cách để ta chủ động tham gia vào toàn cầu hoá. 2-2. Khó khăn, hạn chế của doanh nghiệp. Thuế luôn là mối quan tâm, bức xúc của doanh nghiệp. Loại trừ một số ý kiến quá bức xúc đề nghị quay lại thuế doanh thu như trước đây, nhiều ý kiến ghi nhận những mặt tiến bộ của luật thuế giá trị gia tăng nhưng cũng đã phân tích những điểm bất hợp lý ngay trong các văn bản liên quan và sự không phù hợp với thực tiễn và mong muốn hoàn thiện hơn. Tuy nhiên vấn đề bức xúc nhất vẫn là có quá nhiều các văn bản hướng dẫn luật thuế giá trị gia tăng khiến cho các văn bản này rơi vào tình trạng chồng chéo, chắp vá khó hiểu đối với các doanh nghiệp. Tuy nhiên, vẫn chưa có sự thống nhất chặt chẽ giữa các chủ thể trong luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Doanh nghiệp kêu hải quan gây khó khăn trong việc xuất nhập khẩu hàng hoá. Doanh nghiệp tư nhân hiện đang nổi lên như một hình thức doanh nghiệp chủ yếu. Sau khi chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá được thực hiện, qua một thời gian phát triển kinh tế tư nhân, đóng góp của các doanh nghiệp nhà nước dường như đã bị lu mờ khi so sánh với thành phần kinh tế này. Nước ta hiện nay số lượng các doanh nghiệp tư nhân tăng rất chậm. Có nhiều lý do giải thích cho sự hạn chế về số lượng cũng như khả năng tăng trưởng của các doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp sản xuất tư nhân nói riêng. Thứ nhất, môi trường đầu tư tại Việt Nam còn nhiều rủi ro và còn thiếu thông tin. Bên cạnh sự bất ổn của thị trường, các giám đốc doanh nghiệp tư nhân khi được hỏi đề bày tỏ sự kỳ vọng rất ít vào chính phủ và có thái độ e ngại. Sự tin cậy của các doanh nghiệp tư nhân vào thái độ của chính phủ thường giảm sút do các chính sách và các tuyên bố trái ngược nhau của chính phủ. Nhiều quy định của chính phủ liên quan đến mọi khía cạnh kinh doanh của doanh nghiệp rất khó tìm, không rõ ràng và có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, lại thường xuyên thay đổi và không được thông báo rõ ràng đang là những cản trở lớn đối với hoạt động của các doanh nghiệp. Như đã nói ở trên, các quy định về thuế và hải quan là những quy định gây nhiều vấn đề nhất. Rất nhiều những rủi ro đang làm cho môi trường đầu tư ở Việt nam trở thành môi trường rủi ro cao, cản trở sự gia nhập cũng như sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân. Thứ hai, sự nghèo nàn nguồn lực kinh doanh đang là trở ngại lớn đối với các doanh nghiệp tư nhân.Hơn nữa, công chúng không mấy thiện chí đối với các doanh nghiệp tư nhân.Một nguồn lực kinh doanh nữa đang bị giới hạn đó là sự kém phát triển dịch vụ của các thể chế hỗ trợ thị trường ( như tòa án, các cơ quan thông tin công cộng, ngân hàng...). Nhìn chung các doanh nghiệp tư nhân chỉ được tiếp nhận các dịch vụ công cộng kém chất lượng, thậm chí còn thiếu nhiều dịch vụ cần thiết và ít có sự lựa chọn so với các doanh nghiệp ở hầu hết các nước khác. Thứ ba, là vấn đề thiếu vốn ở các doanh nghiệp tư nhân. Đối với các doanh nghiệp sản xuất việc gần như không có tín dụng dài hạn của ngân hàng khiến cho đầu tư vào trang thiết bị nhà máy hầu như không thể thực hiện được. Các doanh nghiệp tư nhân thiếu vốn như vậy là do những nguyên nhân cơ bản sau: - Hầu hết người dân Việt Nam không có đủ tích luỹ cần thiết để bắt đầu một doanh nghiệp nhỏ. - Các ngân hàng quốc doanh của Việt Nam hiện không có động cơ đủ mạnh để cho doanh nghiệp tư nhân vay. - Các quy chế của chính phủ hiện không ưu ái đối với việc cho khu vực tư nhân vay làm cho các ngân hàng tốn kém hơn khi cho tư nhân vay. - Các nhà đầu tư nước ngoài ít có khả năng lấy các doanh nghiệp tư nhân làm đối tác, liên doanh thường được tiến hành đối với các doanh nghiệp nhà nước. Do đó hầu hết vốn nước ngoài chỉ chảy vào các doanh nghiệp nhà nước chứ không vào tay các doanh nghiệp tư nhân. Thứ tư, vẫn còn những biểu hiện bất bình đẳng giữa các nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp tư nhân.ở Việt Nam doanh nghiệp nhà nước có nhiều thế mạnh trong kinh doanh hơn các doanh nghiệp tư nhân. Hiện tượng bất bình đẳng diễn ra trong lĩnh vực thông tin. Các thông tin quan trọng thường đi tới các doanh nghiệp nhà nước, ít hoặc không bao giờ đi tới các doanh nghiệp tư nhân. Sự có mặt của các doanh nghiệp nhà nước dường như đã gây tác động thu hẹp '' phần đất tốt '' mà các doanh nghiệp tư nhân có thể tiếp cận. Nhiều sản phẩm có mức lợi nhuận cao thường được giành riêng cho doanh nghiệp nhà nước. Phần lớn các doanh nghiệp tư nhân bị ép vào các loại sản phẩm có mức lợi nhuận thấp, ví dụ: chế biến thực phẩm, quần áo và giầy dép là những nghành dễ gia nhập thị trường và mức lợi nhuận tương đối thấp. 3. Thông tin kinh tế của một số nước: 3.1. Trung Quốc chuẩn bị cho cạnh tranh toàn cầu '' Báo Berlin '' số ra ngày 19-11 đăng bài cho biết, vài ngày sau khi thoả thuận với Mỹ về các điều kiện gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), Trung Quốc đã định hướng phát triển kinh tế trong những năm tới nhằm chuẩn bị cho nền kinh tế nước này có thể đứng vững trước tình huống phải tiếp tục mở cửa thị trường. Một hội nghị kinh tế trung ương do thủ tướng Chu Dung Cơ đích thân chủ trì đã quyết định tăng ngân sách công cộng trong năm 2000 và cải tổ cơ cấu một cách triệt đ._.ể trong khu vực quốc doanh vốn đang ốm yếu. Nếu được kết nạp vào WTO vào đầu năm 2000, Trung Quốc sẽ phải tuân thủ các thông lệ thương mại quốc tế. Do nhiều xí nghiệp trong các ngành công nghiệp - dịch vụ và ngành nông nghiệp hiện chưa đủ sức cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài, các nhà phân tích cho rằng trong thời gian trước mắt sẽ xuất hiện một làn sóng phá sản và tình trạng thất nghiệp gia tăng ở Trung Quốc. Nhưng về lâu dài, Trung Quốc sẽ thu được lợi nhuận đáng kể thông qua việc gia nhập WTO. Trong thông cáo được tuyên bố lúc kết thúc hội nghị thì hội nghị kinh tế trung ương ( Trung Quốc ) nhấn mạnh rằng với việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới, Trung Quốc đang đứng trước những thời cơ mới cũng như những thách thức mới. Trung Quốc phải nhanh chóng sắp xếp lại cấu trúc công nghiệp và phải tự thích nghi với vai trò lớn hơn của các tập đoàn đa quốc gia. Điều cần thiết là phải '' có một chính sách tài chính tích cực, đầu tư nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng và hiện đại hoá công nghệ ''. Hội nghị trên cũng quyết định đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế ở các khu vực lạc hậu và hứa hẹn nâng cao mức sống của nhân dân.Chính phủ Trung Quốc sẽ vẫn tiếp tục hỗ trợ cho các xí nghiệp làm ăn thua lỗ nặng nề sẽ bị đóng cửa. Chính phủ Trung Quốc sẽ vẫn tiếp tục hỗ trợ cho các xí nghiệp tuy không có khả năng cạnh tranh nhưng có ý nghĩa sống còn như các xí nghiệp trong các lĩnh vực viễn thông, sản xuất ô tô. Ngoài ra hội nghị cũng quyết định cổ phần hoá một số xí nghiệp, trong đó có các ngân hàng thương mại.Để kích thích nhu cầu tiêu dùng nội địa, Trung Quốc sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều nông dân có thể chuyển đến sinh sống tại các thành phố. Tuy nhiên, trong tương lai, các lĩnh vực có tính chất chiến lược như công nghiệp quốc phòng, giao thông vận tải vẫn nằm trong taynhà nước. Tại Trung Quốc dư luận tiếp nhận và phản ứng tích cực về việc Trung Quốc gia nhập WTO. 3.2. Campuchia lo ngại về sức cạnh tranh. Ngày 2-12, tại một hội nghị về đầu tư ở thủ đô Phnômpênh, bộ trưởmg tài chính Campuchia cho biết Campuchia nhanh chóng phục hồi từ cuộc khủng hoảng tài chính và chính trị. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP ) trong mười năm tới sẽ tăng gấp đôi. Nền kinh tế Campuchia đã giảm sút mạnh hồi năm 1997 bởi cuộc khủng hoảng tài chính Châu á và cuộc khủng hoảng chính trị trong nước đã cản trở đầu tư nước ngoài vào nước này. Campuchia đang phấn đấu chỉ tiêu tăng trưởng. Việc Campuchia trở thành thành viên của hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN ), sự phục hồi kinh tế khu vực là những yếu tố then chốt trong sự hồi sinh trở lại. Bộ trưởng tài chính Campuchia tỏ ý lo ngại rằng việc Trung Quốc gia nhập WTO có nghĩa là cuộc cạnh tranh khu vực sẽ trở nên gay gắt. Theo ông, ''Việc Trung Quốc trở thành thành viên của WTO có nghĩa là hạn ngạch xuất khẩu không còn là một vấn đề đối với Trung Quốc và chúng ta sẽ phải tăng cường kỹ năng và năng suất của người lao động Campuchia, nếu không chúng ta sẽ không có khả năng cạnh tranh với họ.'' Các ngành xuất khẩu của Campuchia phụ thuộc vào những ưu đãi về buôn bán và lợi thế về nhân công rẻ. Chính phủ Campuchia đanh tìm cách giảm bớt những hàng rào kinh tế cản trở đầu tư nước ngoài vào nước này. Các thủ tục xuất khẩu phức tạp, giá điện cao và tệ quan liêu giấy tờ là những nhân tố mà thủ tướng Hun Sen coi là những nguyên nhân khiến cho các nhà đầu tư chạy sang kinh doanh ở các nơi khác. Theo hội đồng phát triển Campuchia, trong năm 1999, vốn đầu tư của nước ngoài ở Campuchia đã giảm mạnh với các dự án trị giá 434 triệu USD đã được thông qua trong năm nay so với 855 triệu USD của năm ngoái. III. Những biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 1. Bối cảnh kinh tế hiện tại Thực trạng kinh tế hiện nay (chưa nói đến các nhóm lợi ích và vấn đề xung đột lợi ích của bộ máy nhà nước) cũng đang cản trở quá trình kinh tế của Việt Nam. Nếu như mười năm qua, Việt Nam mới chủ yếu dừng ở cải cách kinh tế và mở cửa song phương và đi vào cam kết quốc tế mà việc thực thi trên thực tế còn nhiều hạn chế, thì giờ đây việc thực thi các cam kết quốc tế cùng với cải cách kinh tế trong nước đang ngày càng chịu áp lực mạnh hơn. Nhiều biện pháp chính sách trong 2 - 3 năm lại đây (như tiến độ cải cách, việc tăng cường sử dụng bảo hộ qua hàng rào phi thuế quan, tính tuỳ tiện trong vận dụng một số chính sách thương mại...) bộc lộ rõ mâu thuẫn đối với những nguyên tắc của WTO và làm giảm niềm tin vào khả năng thực hiện đầy đủ cam kết quốc tế của Việt Nam. Đối với Việt Nam hiện nay, cải thiện cơ bản môi trường cạnh tranh kinh tế chung là vấn đề có ý nghĩa hàng đầu đối với chính sách cạnh tranh nhằm mục tiêu duy trì sự tăng trưởng bền vững. Điều này cũng đồng nghĩa với việc thực hiện trương trình cải cách kinh tế mang tính tổng thể và đồng bộ. Đặc biệt đó là những cải cách triệt để đối với những hệ thống ngân hàng, đầu tư nhà nước và khu vực doanh nghiệp nhà nước. Cải cách kinh tế không thể tách rời cải cách khu vực hành chính nhằm hạn chế đáng kể nạn tham nhũng,giảm thiểu tệ quan liêu cũng như các chi phí giao dịch cho các hoạt động kinh doanh. Minh bạch hoá chính sách, nâng cao chất lượng thông tin và khả năng tiếp cận thông tin kinh tế một cách có hệ thống cũng là một điều kiện không thể thiếu cho thị trường vận hành có hiệu quả. Thực hiện tự do hoá thương mại và hội nhập cũng tạo ra những áp lực nhất định thúc đẩy cạnh tranh và các quá trình cải cách khung khổ pháp lý, kinh tế và hành chính. Một số quan hệ trên thị trường có liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh, phản cạnh tranh cũng đã là đối tượng xử lý của nhiều văn bản pháp lý như: Bộ luật hình sự, Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, nghị định về quảng cáo,... Việt Nam cần có luật cạnh tranh để điều chỉnh xử lý các hành vi hạn chế, phản cạnh tranh cũng là một trọng tâm của việc xây dựng. Các khía cạnh liên quan đến điều tiết độc quyền cũng nên được tính đến. Tuy nhiên, việc xem xét theo quan điểm điều tiết có thể rất hạn hẹp vì điều này còn phụ thuộc vào tư duy của nhà nước về vai trò chủ đạo của khu vực doanh nghiệp nhà nước ( kể cả trong hệ thống tài chính, ngân hàng thương mại) và quá trình cơ cấu lại cấu trúc của thị trường thông qua cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và khuyến khích khu vực tư nhân, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển Mặc dù chủ đề cạnh tranh quốc tế còn nhiều phức tạp, Việt Nam cũng cần tính tới chính sách cạnh tranh cho phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế. Việt Nam nên ủng hộ những ý tưởng khuyến khích cạnh tranh và cần đưa một số nội dung về cạnh tranh vào chương trình hành động quốc gia (IAP) trong khung khổ APEC, trên cơ sở các nguyên tắc toàn diện, minh bạch, giải trình được và không phân biệt đối xử. Sức mạnh của nhà nước không phải ở việc nắm giữ trong tay nhiều công ty các loại, mà ở khả năng thực hiện được các mục tiêu kinh tế - xã hội của mình thông qua việc thúc đẩy cạnh tranh, thực hiện thích hợp các chính sách kinh tế vĩ mô và cung cấp dịch vụ công có chất lượng. Mục đích chủ yếu cạnh tranh doanh nghiệp trong cơ chế thị trường là để tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở cạnh tranh quốc gia hay quốc tế. Năng lực cạnh tranh phụ thuộc vào hai nhân tố chủ yếu: - Lợi thế so sánh - Năng suất lao động Lợi thế so sánh là sự khác nhau giữa các quốc gia về điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sản xuất hàng hoá trao đổi quốc tế như vị trí địa lý, đất đai, tài nguyên, về các yếu tố khác của sản xuất như lao động, vốn... Những nhân tố này cũng tác động tới việc hình thành mức chi phí sản xuất mang tính cạnh tranh. Năng suất lao động phản ánh hiệu quả sản xuất xã hội thông qua số lượng và chất lượng sản phẩm làm ra trong một đơn vị thời gian, hoặc thời gian lao động cần thiết để làm ra một đơn vị sản phẩm. Suy cho cùng, năng suất lao động là nhân tố quyết định đối với tính cạnh tranh của quốc gia và doanh nghiệp. Theo số liệu khảo sát của diễn đàn kinh tế thế giới xếp thứ hạng cạnh tranh tổng thể các nền kinh tế thế giới, năm 1999 Việt Nam đứng vị trí 48 trong59 quốc gia được khảo sát tương đương với các nước như Nam Phi, Ai Cập... Với thực trạng nói trên, chúng ta nhận thấy Việt Nam còn nhiều mặt yếu kém trong khả năng cạnh tranh quốc tế. Để thấy rõ hơn khả năng cạnh tranh mà nước ta còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa là thông qua việc phân tích nhân tố lợi thế so sánh - nhân tố lao động. Nhân tố này nếu xét về tính hiệu quả và tính linh hoạt của thị trường lao động thì Việt Nam cũng ở thứ hạng thấp. Tổ chức nghiên cứu rủi ro trên thị trường kinh doanh (BERI) đã có công bố một kết quả khảo sát chất lượng lao động một số nước trên thế giới, trong đó lao động Việt Nam được đánh giá chỉ đạt được 32 điểm trên thang điểm1000, xếp vào nhóm yếu kém, tay nghề nằm dưới mức tiêu chuẩn về kỹ thuật. BERI đánh giá lực lượng lao động căn cứ vào các yếu tố về khung pháp lý, năng suất tương đối, thái độ người lao động và tay nghề lao động. Những nền kinh tế được đánh giá có chất lượng dưới 35 điểm đều có nguy cơ đánh mất khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Nước ta có khoảng 5 triệu lao động được coi là có chuyên môn kỹ thụât, chiếm gần13% tổng số lực lượng lao động hiện có. Đó là một tỉ lệ lao động được đào tạo thấp. Lao động trẻ ở nước ta không còn là nhân tố cạnh tranh lâu dài được nữa, đang mất dần sự hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài. Hàng hoá sản xuất ra sẽ mất khả năng cạnh tranh về chất lượng và giá cả không những trên thị trường thế giới mà ngay cả trên thị trường trong nước. Về mức độ phát triển kinh tế thông qua xem xét chỉ tiêu tổng hợp quan trọng GDP tính theo đầu người cũng phản ánh rất rõ sức cạnh tranh của nước ta trên thị trường quốc tế. Với nhịp độ tăng GDP bình quân theo đầu người hàng năm do ADB tính toán, thời gian để Việt Nam đuổi kịp Inđônêxia phải mất khoảng 18 đến 19 năm, kịp Philippin mất khoảng 21 đến 22 năm, kịp Thái Lan phải mất khoảng 90 đến 91 năm, kịp Malayxia phải mất khoảng 107 đến 108 năm. Khoảng cách giữa ta và Trung Quốc có lẽ ngày càng xa hơn. Đó là điều cần phải được khắc phục. 2. Các biện pháp Trong điều kiện hiện nay, chất lượng hoạt động và chiến lược hoạt động của doanh nghiệp cũng như chất lượng của môi trường kinh doanh đóng vai trò hết sức quan trọng nâng cao năng lực cạnh tranh doanh nghiệp. Các doanh nghiệp là trung tâm cạnh tranh ở Việt Nam. Cạnh tranh doanh nghiệp đòi hỏi bản thân doanh nghiệp phải có chiến lược phát triển dài hạn và hàng hoá phải tạo ra sức cạnh tranh cả về giá cả sản xuất và chất lượng. Thực trạng doanh nghiệp nước ta trong giai đoạn hiện nay chưa quan tâm đến vấn đề chiến lược.Có nguyên nhân từ phía doanh nghiệp chưa thoát khỏi cách thức kinh doanh cũ đã nhiều năm, nay chuyển sang phương thức kinh doanh mới theo cơ chế thị trường chủ động hơn, hiệu quả hơn, nhưng cũng phải chịu rủi ro nhiều hơn. Doanh nghiệp hiện nay phải có khả năng mở rộng kinh doanh của mình cả trong thị trường trong nước và quốc tế. Nguyên nhân khác, cũng còn do khuôn khổ pháp luật chưa thật ổn định hay thay đổi, gây khó khăn cho doanh nghiệp định hướng kinh doanh lâu dài, chạy theo kiểu làm ăn vụ việc, ngắn hạn. Một lý do khác không kém phần quan trọng là nhà nước vẫn có chính sách bảo hộ chưa thật hợp lý đối với một số ngành sản xuất hoặc sản phẩm, tạo nên tâm lý ỷ lại về sự bảo hộ kéo dài của nhà nước làm suy yếu năng lực cạnh tranh. Hiện nay ở nước ta, trong tổng số doanh nghiệp nhà nước thì các tổng công ty nhà nước chiếm tỷ trọng 82% về vốn nhưng doanh thu chỉ đạt 49,8%. Như đã nói ở trên các nguyên nhân làm cho kinh tế của các doanh nghiệp chưa mạnh như: máy móc, thiết bị và công nghệ lạc hậu, khả năng cạnh tranh của nhiều sản phẩm thấp bởi chi phí cao, chất lượng thấp, thiếu vốn sản xuất kinh doanh... Để có tập đoàn kinh tế mạnh theo chủ trương của Đảng và nhà nước thì những tồn tại nêu trên cần được tháo gỡ kịp thời. Rõ ràng, cần thiết phải lựa chọn một số tổng công ty có độ tập trung vốn cao, công nghệ tiên tiến và chiếm giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế để chỉ đạo thực hiện thành công mô hình tập đoàn kinh tế mạnh. Chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì các quy luật cung cầu, quy luật giá trị, cạnh tranh là một vấn đề có tính quy luật. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp, hàng hoá và dịch vụ doanh nghiệp đó là yếu tố quyết định cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Hội nhập vào khu vực và thế giới là từng bước tự do hoá thương mại, giảm dần bảo hộ sản xuất trong nước, thương mại với nước ngoài và thương mại trong nước không còn những khác biệt cơ bản như trước đây. Hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp phải có sức cạnh tranh với hàng hoá, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam. Doanh nghiệp Việt Nam phải có sức cạnh tranh với các doanh nghiệp sản xuất cùng một loại sản phẩm ở thị trường trong nước và quốc tế. Nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản xuất hàng hoá, dịch vụ, trên cơ sở áp dụng những thành tựu của các cuộc cách mạng khoa học công nghệ, đổi mới thiết bị, công nghệ, nâng cao năng suất lao động, nâng cao hệ thống chất lượng của doanh nghiệp là biện pháp cơ bản để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường bao gồm thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Đó cũng là biện pháp cơ bản nhất để đẩy lùi hàng hoá cùng loại của nước ngoài xâm nhập vào thị trường trong nước, chống tệ nhập khẩu hàng hoá của nước ngoài bằng các thủ đoạn bất hợp pháp: trốn thuế, gian lận thương mại... Phù hợp với lý thuyết - lợi thế so sánh - của nhà kinh tế học David Ricardo, ngoài những mặt hàng xuất khẩu truyền thống có khả năng cạnh tranh trên thị trường, doanh nghiệp cần phát hiện những mặt hàng xuất khẩu mới ta có lợi thế trong sản xuất và có khả năng thâm nhập vào thị trường thế giới. Đó là mục đích chính của marketing và xúc tiến xuất khẩu. Doanh nghiệp là đội quân xung kích trên thương trường, phải chịu trách nhiệm chính trong việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ của mình. Do đó doanh nghiệp Việt Nam để hội nhập khu vực và thế giới cần phải: - Đánh giá đúng thực trạng, lợi thế, khả năng cạnh tranh trên thị trường hàng hoá và dịch vụ. - Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là nhân tố cực kỳ quan trọng để tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Mặt khác, cần tăng cường vai trò quản lý nhà nước. Nhà nước cần hỗ trợ doanh nghiệp, kể cả hỗ trợ về tài chính, trong hoạt động marketing, xúc tiến xuất khẩu, tạo môi trường pháp lý thuận lợi, thông qua các điều ước song phương và đa phương, cho doanh nghiệp thâm nhập vào thị trường thế giới và thị trường các quốc gia và bè bạn. Đồng thời, bằng pháp luật, cần hạn chế những hiện tượng tiêu cực của cơ chế thị trường làm tổn hại đến lợi ích quốc gia. Tuy vai trò của nhà nước rất quan trọng nhưng doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước phải tự nâng cao sức cạnh tranh của bản thân và của hàng hoá, dịch vụ không thể chỉ trông chờ vào cơ quan nhà nước như trong thời kỳ trước đây. Đó là chìa khoá, là yếu tố quyết định thành công của doanh nghiệp để hội nhập khu vực và quốc tế. Chương II Thực trạng khả năng cạnh tranh của công ty rượu Hà nội trong giai đoạn hiện nay I. Quá trình hình thành và phát triển của công ty Rượu Nhà máy rượu tiền thân của công ty Rượu Hà nội được hãng Phongten (Pháp) xây dựng năm 1898 cùng với nhà máy Rươụ Nam Định, Hải Dương, Bình Tây (Sài Gòn). Nhu cầu về Rượu của người Việt nam lúc bấy giờ là hầu như không có. Do vậy mục đích chính của hãng là sản xuất và cung cấp Rượu cho quân đội viễn chinh Pháp và đánh thuê ở Việt Nam. Nhà máy Rượu Phong ten lúc này sử dụng nguyên liệu chủ yếu là gạo để sản xuất ra rượu trắng và Rượu khai vị bằng phương pháp Amylo.Nhà máy đã trải qua những biến động gắn liền với những biến động lịch sử của đất nước. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945 nhà máy sản xuất ra các loại Rượu, cồn thô dùng để pha chế các loại rượu trắng và một số loại Rượu màu, Rượu thuốc bắc,.. Những nhãn hiệu Nam Hương Tửu đã trở nên quen thuộc. Cũng trong thời kỳ này bọn “Tây ” đi bắt nấu Rượu rất ráo riết. Do đó tiêu thụ sản xuất của công ty mang tính độc quyền và bắt buộc. Trong những năm kháng chiến chống Pháp nhà máy ngừng sản xuất. Nơi đây trở thành trại canh gác có lính canh gác ngày đêm. Năm 1954 khi hoà bình lập lại, chính phủ đã có chủ trương khôi phục lại nhà máy. Năm 1955 đã có những cán bộ đầu tiên về nhà máy, chỉ đạo việc khôi phục. Nhà máy thuộc sự quản lý của Bộ công nghiệp nhẹ. Năm 1956 nhà máy cho ra đời những sản phẩm đầu tiên. Đây cũng chính là năm nhà máy thực hiện phong trào “Làm theo lời Bác” đã được phát động. Mọi khó khăn lớn lao đã được khắc phục, sự đoàn kết nhất trí trong toàn nhà máy dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thực hiện tốt. Nhà máy trưởng thành và phát triển nhanh chóng. Năm 1958 nhà máy vinh dự được đón Bác Hồ về thăm. Bác chỉ thị cho cán bộ kỹ thuật của nhà máy phải nghiên cứu, tìm tòi nguyên liệu sản xuất khác thay thế cho gạo vì lúc đó miền Bắc đang rất thiếu gạo. Năm 1959 - 1960 được sự giúp đỡ của chuyên gia Trung Quốc, nhà máy đã sản xuất thành công cồn tinh chế, đảm bảo các tiêu chuẩn trong nước và quốc tế và chất lượng. Từ đó nhà máy nghiên cứu và cho ra thị trường các các loại Rượu: Vogka, Rượu màu để đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu như các loại Rượu Lúa mới, Nếp mới, Nếp cẩm, rượu Chanh, rượu Cam, rượu Cà phê, rượu Thanh Mai. Năm 1962 - 1968 nhà máy liên tục xuất khẩu các sản phẩm sang Liên Xô cũ và các nước Đông Âu, trung bình xuất khẩu hàng năm từ 3 á10 triệu lít/năm. Năm 1970 nhà máy được thí điểm cải tiến quản lý xí nghiệp. Trong thời kỳ này nhà máy đã thí điểm công nghệ nấu và lên men liên tục. Song do điều kiện và thiết bị không phù hợp nên phương pháp lên men liên tục không thành công. Năm 1973 lại quay về phương pháp gián đoạn. Trong nững năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt, nhà máy vẫn sản xuất ngày đêm cung cấp cồn cho y tế và quốc phòng. Trong những năm này sản lượng cồn hàng năm đạt 4 - 5 triệu lít, sản lượng rượu mùi đạt 6 - 8 triệu lít. Năm 1975 khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, nước nhà thống nhất nhà máy cử một đoàn cán bộ đi thực tập ở Liên Xô về thiết bị và công nghệ rượu, đoàn trở về có phương án đề xuất nhập thiết bị tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của nhà máy. Được nhà nước duyệt, nhà máy đã nhập đồng bộ hệ thống tinh luyện cồn hiện đại của hãng Bodecia Pháp với công suất 10 tấn hơi/giờ/cái và 4 máy dãn nhãn. Năm 1979 thiết bị được đưa về nhà máy. Năm 1985 được lắp đặt và năm 1986 được đưa vào sản xuất. Năm 1982, nhà máy Rượu Hà nội cùng với nhà máy bia Hà Nội, nhà máy thuỷ tinh Hải Phòng và phòng nghiên cứu rượu bia được sát nhập thành Xí nghiệp liên hiệp Rượu - Bia - Nước giải khát I. Năm 1989 theo quy định của Bộ nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm, nhà máy Rượu được tách thành một số đơn vị hạch toán độc lập tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Cũng trong thời gian này, thị trường xuất khẩu chủ yếu của nhà máy bị ảnh hưởng mạnh do ảnh hưởng về tình hình tài chính, chính trị, xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu; các hiệp định về xuất khẩu Rượu bị huỷ bỏ, chỉ còn khả năng xuất khẩu theo chương trình trả nợ giữa nhà nước Việt nam và các nhà nước thuộc Liên Xô trước đây. Nhà máy chủ yếu sản xuất để phục vụ cho nhu cầu trong nước. Năm 1991, nhà máy phải thực hiện luật thuế tiêu thụ đặc biệt áp dụng cho sản phẩm rượu bia. Điều này làm cho giá sản phẩm tăng từ 1,5 đến 2 lần khiến cho việc tiêu thụ gặp rất nhiều khó khăn, việc sản xuất bị gián đoạn, công nhân phải nghỉ chờ việc. Năm 1992, nhà máy thực hiện một số biện pháp để khắc phục tình trạng khó khăn như giảm độ rượu để giảm mức thuế, đầu tư 1,2 tỷ đồng để lắp đặt dây chuyền sản xuất phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng hàng ngày, tăng cường nghiên cứu và phát triển các sản phẩm mới. Năm 1993, một mặt do nhà nước điều chỉnh lại thuế tiêu thụ đặc biệt tránh đánh thuế trùng nên giá sản phẩm có giảm xuống, được thị trường chấp nhận. Mặt khác trên đà phát triển năm 1992 với sự ra đời của nhiều sản phẩm mới nên tình hình sản xuất kinh doanh của nhà máy có phần ổn định hơn. Năm 1994 nhà máy Rượu chính thức được đổi tên thành công ty Rượu Hà Nội theo quyết định của Bộ Công nghiệp nhẹ về việc thành lập, giải thể và sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Năm 1996 Tổng công ty Rượu - Bia - Nước giải khát được thành lập trong đó công ty Rượu trực thuộc Tổng công Rượu - Bia - Nước giải khát Việt nam. Công ty Rượu Hà Nội - tên giao dịch HALICO là một tổ chức sản xuất kinh doanh hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế độc lập, có đủ tư cách pháp nhân, có tài khoản tại ngân hàng Việt nam. Công ty có trụ sở đặt tại 94 Lò Đúc - Hai Bà Trưng - Hà Nội. Năm 1997, công ty ngừng sản xuất bia và nước giải khát. Năm 1998 công ty kỷ niệm 100 năm thành lập và phát triển. Năm 1999 do thay đổi luật thuế và áp dụng luật thuế gia trị gia tăng, mức thuế tiêu thụ đặc biệt giảm nên sản xuất nhiều hơn, việc tiêu thụ có nhiều thuận lợi nên công ty phát triển rõ rệt so với các năm trước. Cho đến nay,sau hơn 100 năm thành lập và phát triển. Từ một nhà máy mà phần lớn dây chuyền sản xuất là thủ công, được sự quan tâm của Đảng và nhà nước hầu như mọi công đoạn sản xuất đã được cơ giới hoá, nhà máy thay đổi hoàn toàn, lớn lên từng giờ từng phút, đội ngũ công nhân phát triển. Sự thay đổi da thịt của nhà máy chính là ở đội ngũ công nhân phát triển thể lớn lên trong phong trào thi đua, trưởng thành về tay nghề. II. Những đặc điểm kinh tế kĩ thuật ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của công ty Rượu Hà Nội Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của công ty chính là các nhân tố tạo điều kiện hoặc gây khó khăn cho công ty trong trong việc đáp ứng nhu cầu thị trường và sự cạnh tranh với các đối thủ khác. Để đánh giá dược chính xác khả năng cạnh tranh của công ty, ta đánh giá qua các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng đó. 1. Các nhân tố khách quan Các nhân tố khách quan tác động đến khả năng cạnh tranh của công ty chính là môi trường kinh doanh của công ty 1.1.Môi trường bên ngoài. 1.1.1.Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta tăng trưởng với tốc độ cao làm cho thu nhập của tầng lớp dân cư tăng lên dẫn đến khả năng thanh toán của họ cũng tăng và do đó sức mua cũng lớn hơn. Đây chính là cơ hội cho công ty Rượu Hà Nội. Khi thị trường tiêu thụ tăng, công ty có điều kiện đẩy mạnh sản xuất, mở rộng danh mục sản phẩm, tăng doanh thu và tăng khả năng cạnh tranh. Bảng 1: Sản lượng tiêu thụ và doanh thu của công ty Rượu trong giai đoạn 1997-2001: Chỉ tiêu Đơnvị tính 1997 1998 1999 2000 2001 1.Sản lượng -Rượu mùi toàn bộ -Cồn toàn bộ 2.Doanh thu 1000 lít 1000 lít triệu đồng 2838,9 164,6 38179,8 3919 253,1 54342 3997,7 228,1 56246 4124,6 208,3 59080 4463 231,5 60530 Nhìn vào bảng ta thấy mức tiêu thụ Rượu của dân cư ngày càng tăng. Ngoài ra, do cồn chủ yếu dùng để pha chế rượu các loại sau đó dùng cho quốc phòng, y dược dân dụng,... bởi vậy khi công nghiệp phát triển thì cồn cũng phát triển để đáp ứng cho nền kinh tế. Rõ ràng, tăng trưởng kinh tế cao và ổn định đã làm cho công ty tăng được khả năng cạnh tranh và cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ít căng thẳng hơn. 1.1.2 Nhóm nhân tố về chính trị, pháp luật: Sự ổn định về chính trị cùng với việc ban hành luật pháp, chính sách trong nước tạo ra khuôn khổ pháp lý hướng bước đi của xã hội. Việc xoá bỏ chế độ bao cấp, xác lập quyền tự chủ là một yếu tố hết sức quan trọng thúc đẩy sự tự lực của công ty. Đường lối kinh tế mở cho phép công ty có điều kiện tiếp xúc với nước ngoài, tìm kiếm thị trường công nghệ kỹ thuật mới, thu thập thông tin mua bán trao đổi, học tập kinh nghiệm để áp dụng vào thực tiễn của công ty. Trong thời gian qua công ty có nhiều mối quan hệ mua bán nguyên vật liệu từ nhiều nước, nhờ có đường lối kinh tế mở đã giúp công ty tránh bị ép giá, đảm bảo chất lượng sản phẩm. Song có một khó khăn rất lớn mà công ty phải đối mặt là do biến động chính trị từ đầu những năm 1990 thị trường xuất khẩu chủ yếu là Đông Âu của công ty bị mất, hiện tại vẫn chưa lấy lại được. 1.1.3 Các nhân tố về khoa học công nghệ: Nhờ áp dụng tiến bộ của công nghệ thông tin mà công việc thu thập, xử lý thông tin nhanh hơn, chính xác hơn. Công ty đã nắm bắt nhu cầu từ phía thị trường cũng như mọi biến động của môi trường kinh doanh từ đó vạch ra được những kế hoạch, những quyết định đúng đắn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt khác, do áp dụng tiến bộ của khoa học công nghệ mà chất lượng sản phẩm của công ty được nâng cao, giá thành sản phẩm giảm từ đó công ty sẽ có điều kiện hơn để nâng cao khả năng cạnh tranh 1.1.4 Nhóm nhân tố về văn hoá xã hội Các yếu tố về văn hoá cũng ảnh hưởng đến việc tiêu dùng Rượu. Các yếu tố văn hoá đó là phong tục tập quán, là thói quen tiêu dùng, là văn hoá ẩm thực của các vùng địa lý khác nhau, của mỗi người khác nhau. Chúng tác động sâu xa đến quá trình tiêu dùng rượu trên thị trường. Các yếu tố xã hội là các chuẩn mực đạo đức, quan niệm xã hội,... Nó uốn nắn con người đi theo những chuẩn mực mà xã hội đặt ra, theo những xu hướng phong trào tích cực, bài trừ những tệ nạn tiêu cực,... Như vậy cá nhân sống trong tập thể sẽ có ý thức được việc lạm dụng Rượu sẽ ảnh hưởng như thế nào đến bản thân và xã hội. Văn hoá ẩm thực cũng ảnh hưởng tới việc phân bố các loại rượu, ví dụ ở nước ta chúng ta có thể phân biệt được sở thích và thói quen tiêu dùng rượu khác biệt giữa 2 miền Nam và Bắc ở miền Bắc, do ảnh hưởng của phong cách á Đông, với thú tao nhã, mang giàu tính nghệ thuật, nghệ sỹ. Do vậy thói quen tiêu dùng của họ cũng theo trường phái này. Rượu cũng uống phải êm, nhẹ, say từ từ, sảng khoái mới phù hợp mà rượu còn phải phù hợp với cảnh, với người thì mới có hiệu quả. ở miền Nam, lối sống của họ cũng có đặc trưng riêng biệt. Người miền Nam có cách sống thực dụng hơn, đơn giản hơn, mang đặc điểm của phong cách phương Tây. Do đó, họ rất thích các loại rượu mạnh, sốc và lạ. Vì thế sản phẩm rượu của công ty lại bán được ở thị trường miền Nam do phù hợp với thị hiếu và nhu cầu của họ. Bảng 2: Mức tiêu thụ của công ty Rượu Hà Nội trên hai khu vực thị trường năm 2001: Khu vực Chỉ tiêu Miền Bắc Miền Nam Sản lượng của công ty Rượu (1000 lít) 1253,2 2744,5 Doanh thu (triệu đồng) 17,87 42.38 Miền Bắc và miền Nam là hai thị trường lớn nhất của công ty Rượu Hà Nội đặc biệt thị trường phía Nam trong những năm qua đã chiếm tới 65,8 % tổng doanh thu của công ty. Sở dĩ sản phẩm của công ty được ưa chuộng ở thị trường này là do phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. 1.2- Môi trường ngành 1.2.1 Nguy cơ nhập cuộc của các công ty mới: Ngành công nghiệp sản xuất Rượu là ngành có chu kỳ sản xuất ngắn, kỹ thuật đơn giản, chi phí đầu tư ít hơn so với ngành kinh doanh khác, chu kỳ đổi mới sản phẩm ngắn. Các loại rượu về thành phần cơ bản giống nhau (gạo, sắn, đường, enzym,..) chỉ khác nhau về hương liệu sản phẩm hay chất phụ gia. Do đó các nhà sản xuất dễ tham gia cũng như rút lui, chuyển hướng kinh doanh hay ngừng sản xuất. Có thể nói cản trở đầu tư vào ngành sản xuất rượu là rất thấp có nghĩa là số lượng các doanh nghiệp tiềm ẩn là đông. Điều này ảnh hưởng lớn tới việc giữ vững và nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Rượu Hà Nôị. 1.2.2 Đối thủ cạnh tranh hiện có: Hiện nay có rất nhiều công ty cùng tham gia sản xuất rượu đó là: Công ty Rượu Đồng Xuân, công ty Rượu vang Thăng Long, công ty Rượu Quảng Ngãi, công ty Rượu Bình Tây,... Ngoài ra rượu ngoại nhập chiếm tỷ lệ khá lớn, ước tính mỗi năm thị trường Việt nam nhập khoảng 10 triệu chai rượu ngoại tương đương với 100 triệu USD tiền nhập rượu (khoảng 10$ / 1 chai) như các loại rượu vang Pháp, rượu vang Italia, rượu vang Tây Ban Nha,... Hơn nữa rượu dân tự nấu cũng là đối thủ tiềm năng của công ty trong việc cạnh tranh giành thị trường bình dân. Như vậy công ty Rượu Hà Nội có quá nhiều đối thủ cạnh tranh, đây là thách thức rất lớn đối với công ty làm sao để giữ vững và mở rộng thị trường. Đó là chưa kể đến các doanh nghiệp tiềm ẩn có thể tham gia vào các ngành trong một tương lai gần. Khi đó cạnh tranh sẽ khốc liệt hơn, gay gắt hơn và công ty sẽ gặp hàng loạt khó khăn mới. 1.2.3 Sức ép của các sản phẩm thay thế Sản phẩm của công ty Rượu Hà Nội phải chịu sức ép khá lớn từ các sản phẩm thay thế nhất là vào mùa hè khi người tiêu dùng thường mua các loaị nước ngọt, bia chứ ít dùng sản phẩm rượu hơn so với mùa lạnh. Đây chính là nguyên nhân giải thích vì sao sản phẩm của công ty Rượu được tiêu thụ ở miềm Bắc thấp hơn so với miền Nam. Bảng 3: Tình hình tiêu thụ theo mùa của Công ty Đơn vị tính: triệu đồng Mùa Tháng Doanh thu tiêu thụ theo mùa Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 %00/99 %01/00 1 7676,2 11972,1 14231,3 164,3 120,6 Mùa lạnh 2 4396,7 9539,8 12713,1 231,1 157,3 3 1478,4 3649,3 3715,8 246,8 101,8 4 1157,2 2515,8 2305,3 217,4 91,6 5 1145,9 2577,4 2325,2 224,9 90,2 Mùa nóng 6 1313,5 2807,3 1713,7 213,7 61,1 7 1910,5 2053,4 2184,8 107,4 106,4 8 1649,1 3532,2 2524,9 214,2 71,5 9 2611,8 3965,5 2531,7 151,8 63,8 10 3084,9 4236,7 3752,2 137,3 88,6 Mùa lạnh 11 4518,1 5596,9 4308,1 123,9 77 12 10233,5 6895,6 8939,9 67,4 129,6 Nhìn vào bảng trên cho thấy khối lượng sản phẩm rượu của công ty Rượu Hà Nội tiêu thụ giảm dần từ tháng 1 đến tháng 6, đặc biệt là trong tháng 6 và tháng 7 khối lượng sản phẩm tiêu thụ ở mức thấp nhất trong năm. 2 Các nhân tố thuộc về phía công ty 2.1. Bộ máy quản lý của công ty: Công ty Rượu Hà Nội trực thuộc Tổng công ty Rượu bia nước giải khát Việt nam, là một trong 8 đơn vị hoạt động hạch toán độc lập. Để thuận lợi cho quá trình sản xuất kinh doanh, bộ máy chỉ huy sản xuất của công ty được xây dựng theo hệ thống trực tuyến chức năng, hoạt động theo cơ chế một thủ trưởng. Giám đốc là người đứng đầu bộ máy quản lý, có quyền hạn và chịu trách nhiệm cao nhất trong công ty về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và làm nghĩa vụ đối với nhà nước theo luật định. Giúp việc cho giám đốc là các phó giám đốc kinh doanh phụ trách về kinh doanh và phó giám đốc kỹ thuật chịu trách nhiệm về mặt kỹ thuật. Phó giám đốc kinh doanh quản lý phòng kế hoạch vật tư và phòng thị trường.._.xuất cồn. Đến nay đây chuyền sản xuất cồn vẫn còn rất hiệu quả. Chính vì vậy có thể sử dụng nguồn vốn tài chính của công ty để đầu tư vào công nghệ sản xuất rượu mùi. Thứ ba: Hiện nay công ty đã ngừng sản xuất bia. Việc sản xuất trở lại là rất khó bởi vì trong lúc này thị trường bia cũng đã có biểu hiện cung vượt quá cầu nhiều. Vì vậy nếu đầu tư vào dây chuyền máy móc để sản xuất trở lại chắc chắn là không thể cạnh tranh được với các đối thủ hiện đang có uy tín và được người tiêu dùng ưa thích. Mặt khác, trước đây công ty sản xuất bia đều bị lỗ. Do đó không nên đầu tư vốn để đổi mới công nghệ sản xuất này. Thứ tư: Đối với dây chuyền sản xuất rượu Vang. Rượu Vang là sản phẩm chiếm tỷ lệ nhỏ trong danh mục cơ cấu sản phẩm của công ty. Hơn nữa hiện nay trên thị trường người tiêu dùng lại đang ưa chuộng và thích dùng rượu Vang Thăng Long. Do đó nếu đầu tư vào dây chuyền sản xuất rượu Vang, công ty sẽ phải cạnh tranh với đối thủ nặng ký đó là công ty rượu nước giải khát Thăng Long. Qua đó việc đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất rượu Vang là chưa thích hợp. Với những lý do phân tích trên ta có thể thấy việc đầu tư, đổi mới công nghệ sản xuất rượu mùi là hợp lý và có hiệu quả. 1.3- Hiệu quả của giải pháp. Hiệu quả khi đổi mới công nghệ là việc chất lượng sản phẩm được nâng cao, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao ưu thế cạnh tranh của công ty đối với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Ngoài ra, đối với công ty Rượu Hà Nội việc đổi mới dây chuyền công nghệ sản xuất rượu mùi còn thể hiện quyết tâm giữ vị trí hàng đầu đối với các sản phẩm truyền thống của mình. Ta có thể dự kiến hiệu quả kinh tế của công ty do áp dụng công nghệ mới qua chỉ tiêu: Mức tăng lợi nhuận: DP = [ (G1-Z1).Q1 – [ (G0-Z0).Q0]. Trong đó: G0,G1: gía bán một sản phẩm trước và sau khi áp dụng công nghệ mới. Z0, Z1: giá thành một đơn vị sản phẩm trước và sau khi áp dụng một công nghệ mới. Q0, Q1: số lượng sản phẩm sản xuất trước và sau khi áp dụng công nghệ mới. DP: mức tăng lợi nhuận. áp dụng vào sản phẩm Nếp mới của công ty cho thấy: Chưa đổi mới công nghệ (2001) Sau khi đổi mới công nghệ G0 Z0 Q0 G1 Z1 Q1 6700 đ/l 4600 đ/l 1.514.000 đ/l 6900 đ/l 4400 đ/l 2.000.000 đ/l DP = (6900 – 4400). 2.000.000 – (6700-4600). 1514.000 = 1.820.600.000 đ. Như vậy mức tăng lợi nhuận đối với sản phẩm Nếp mới dự kiến sẽ là 1,8 tỷ nếu đổi mới dây chuyền sản xuất rượu mùi. Tóm lại, qua việc phân tích ở trên ta có thể tin tưởng vào hiệu quả mang lại của việc đổi mới dây chuyền công nghệ sản xuất rượu mùi. 2. Nâng cao chất lượng đội ngũ lao động. 2.1.Căn cứ khoa học của giải pháp: Con người luôn là yếu tố trung tâm quyết định sự thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp, con người tác động đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm,... hay nói chung là quyết định đến khả năng nâng cao chất lượng đội ngũ lao động. Trong cạnh tranh trình độ kỹ thuật của đội ngũ lao động là một tài sản vô hình quý báu, có thể là thế mạnh vượt trội quyết định sự thắng lợi trong cạnh tranh. Công ty Rượu Hà Nội với bề dày khinh nghiệm lâu năm góp phần hình thành một đội ngũ lao động có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nhưng với chủ trương dần dần thay đổi thiết bị cũ bằng thiết bị công nghệ hiện đại chỉ có kinh nghiệm thôi thì chưa đủ mà buộc phải nâng cao trình độ kỹ thuật để có thể làm chủ vận hành các trang thiết bị mới. 2.2.Nội dung giải pháp: Để nâng cao chất lượng đội ngũ lao động công ty phải thực hiện triệt để, đồng bộ các biện pháp sau: Một là: Không ngừng đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn và tay nghề cho độ ngũ lao động. Đối với cán bộ chủ chốt: việc đào tạo và đào tạo lại là một việc làm cần thiết. Công ty có thể liên hệ với các trung tâm đào tạo về quản lý kinh tế mở các lớp học bồi dưỡng và cập nhật những kiến thức về kinh doanh và những kinh nghiệm thực tế về cách quản lý của doanh nghiệp khác trong và ngoài nước cả về những thất bại và thành công để học tập, tiếp thu những cái mới. Bên cạnh đó cũng có thể tuyển chọn nững cán bộ có năng lực thực sự để gửi đi đào tạo sau này về phục vụ lại cho công ty. Đối với đội ngũ đốc công, tổ trưởng sản xuất cũng sẽ được bồi dưỡng về hình thức quản lý nhằm giúp họ điều hành tốt một tổ, một ca sản xuất, cụ thể: + Gửi đi đào tạo dài hạn một số cán bộ trẻ có năng lực. + Mở các lớp đào tạo ngắn hạn tại công ty. + Tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi rút kinh nghiệm trong lĩnh vực như: Quản lý kỹ thuật, nghiệp vụ,... Đào tạo cán bộ kinh tế kỹ thuật để nâng cao hiệu quả công tác quản lý. Với những cán bộ quản lý được phát triển từ đội ngũ cán bộ kỹ thuật thì nên đào tạo thêm, các kiến thức về kinh tế. Với những cán bộ quản lý kinh doanh mà không phải xuất thân từ kỹ thuật thì nên đào tạo thêm kiến thức về kinh tế. Với những cán bộ quản lý kinh doanh mà không phải xuất thân từ cán bộ kỹ thuật thì nên trang bị thêm các kiến thức về kỹ thuật công nghệ. Những ngành nghề cần đào tạo do công ty yêu cầu, phòng tổ chức hành chính đi liên hệ các cơ sở đào tạo có uy tín để cử cán bộ đi học. Đào tạo công nhân kỹ thuật bậc cao và công nhân lành nghề thông qua các kỳ thi nâng bậc để đánh gía phân loại công nhân có tay nghề khá, trung bình và yếu. Từ đó có phương thức đào tạo thích hợp với từng loại. Số công nhân chưa có việc làm trong các dây chuyền sản xuất công nghệ chưa được đào tạo cơ bản sẽ được bổ túc thêm về lý thuyết cơ bản và học theo chương trình quy định của công ty, người nào đạt yêu cầu được tiếp tục làm việc đúng với vị trí đã học. Hai là: Đổi mới công tác tuyển dụng. Để nâng cao hiệu quả lao động sản xuất kinh doanh thì công tác tuyển dụng lao động phải được thực hiện tốt. Do đội ngũ lao động của công ty hiện nay đang bị già hoá nên ngay từ bây giờ công ty nên tuyển dụng những người có trình độ, năng lực, kinh nghiệm thực tế để thay thế. Cụ thể: + Công ty có thể tổ chức thi tuyển hoặc thông qua sự giới thiệu của các trung tâm đào tạo có uy tín để chọn lọc và lựa chọn những người thực sự hiện nay công ty đang cần. + Việc tuyển chọn có thể thông qua phương pháp trắc nghiệm, phỏng vấn trực tiếp qua đó công ty loại bỏ những người không có trình độ, năng lực cũng như không có đạo đức và phong cách làm việc. + Khi đề bạt hoặc tuyển dụng cán bộ quản lý, công ty cần phải có những tiêu chuẩn như: trình độ phải từ đại học trở lên, có tư cách đạo đức và kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực đó. Ba là: Sử dụng đòn bẩy kích thích lợi ích vật chất và tinh thần đối với người lao động. Hiện nay công ty đã áp dụng hình thức trả lương theo sản phẩm có gắn liền với định mức về hao phí về định mức và chất lượng sản phẩm. Do vậy đã thực sự kích thích người lao động tăng năng suất và nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhưng về vấn đề tiền thưởng: công ty cần xem xét lại hệ số thưởng dựa vào mức độ quan trọng của từng bộ phận có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và chất lượng sản phẩm, cũng như hệ số thưởng cho các cá nhân và các phòng ban có sáng kiến mới làm lợi cho công ty. 2.3- Hiệu quả của giải pháp: Thực hiện được đầy đủ triệt để trên sẽ góp phần xây dựng một đội ngũ lao động có trình độ tốt, đủ khả năng tiếp cận, vận hành các trang thiết bị công nghệ mới góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thực hiện thành công các nhiệm vụ công ty đề ra. Qua đó giúp cho công ty vững bước đi lên, nâng cao sức cạnh tranh của công ty. 3. Tăng cường công tác quản lý chất lượng. 3.1- Căn cứ khoa học của giải pháp: Chất lượng sản phẩm là yếu tố cơ bản tạo nên khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Nâng cao chất lượng sản phẩm cũng chính là nâng cao khả năng cạnh tranh. Để nâng cao chất lượng sản phẩm công ty có thể thực hiện bằng 2 cách: - Nâng cao chất lượng dựa trên cơ sở vật chất hiện có. - Nâng cao chất lượng bằng việc mua sắm máy móc thiết bị. Nhưng hiện tại không phải một lúc doanh nghiệp có thể đổi mới được toàn bộ hệ thống máy móc thiết bị của mình. Bởi như thế vốn đòi hỏi sẽ rất lớn mà công ty không thể huy động được. Do đó nhiệm vụ chính vẫn là nâng cao chất lượng sản phẩm dựa trên cơ sở hiện có. 3.2- Nội dung của giải pháp: Việc nâng cao chất lượng dựa trên cơ sở sản xuất hiện có là một vấn đề hết sức quan trọng trong tình hình hiện tại của công ty. Đó là việc tăng cường và thực hiện nghiêm ngặt quy trình công nghệ, đảm bảo nguyên liệu đầu vào, kiểm tra thường xuyên chất lượng sản phẩm,... Do công nghệ máy móc và thiết bị sản xuất Rượu của công ty là lạc hậu, tuy được đầu tư đổi mới nhưng không đồng thời một lúc, do đó công ty phải phòng ngừa mọi trục trặc ở các khâu và phát triển sớm để có biện pháp ứng phó. Có biện pháp xử lý nghiêm ngặt đối với những vi phạm trong mọi quá trình sản xuất ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Với nguyên vật liệu đầu vào: Chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào chất lượng của nguyên vật liệu. Vì vậy để đảm bảo chất lượng sản phẩm thì chất lượng nguyên vật liệu cũng phải cũng phải đảm bảo. Công tác cung ứng nguyên vật liệu không những phải đảm bảo chất lượng chất lượng cao mà còn phải đảm bảo đúng tiến độ và sự đồng bộ. Nguyên vật liệu sản xuất là công ty phải mua ngoài nên công tác dự trữ nguyên vật liệu cho sản xuất là một công việc cần thiết. Tuy nhiên, các nguyên vật liệu này đều rất dễ hư hỏng do ẩm mốc, lên men làm giảm phẩm cấp chất lượng. Do đó công ty cần tính toán chu kỳ mua sắm sao cho trong thời gian dự trữ nguyên vật liệu không bị hư hỏng. Với những nguyên vật liệu phải mua từ nước ngoài như enzym, nút nhôm, chai thì nên dự trữ trong khoảng thời gian dài. Bên cạnh đó công ty cần quan tâm đến hệ thống kho tàng, chống ẩm, chống mối mọt,... để đảm bảo nguyên vật liệu không làm giảm chất lượng. Yếu tố đồng bộ bao gồm đồng bộ về chủng loại lẫn chất lượng. Thiếu một loại nguyên vật liệu nào thì chất lượng của sản phẩm cũng bị ảnh hưởng và nếu chỉ cần chất lượng của một loại nguyên vật liệu kém thì kéo theo chất lượng sản phẩm cũng kém. Chính vì vậy công ty nên quản lý chất lượng chặt chẽ ngay từ khâu cung ứng nguyên vật liệu. Đối với công tác kiểm tra các chỉ tiêu chất lượng. Phải giao quyền cho cán bộ và kỹ thuật viên kiểm tra. Từng kỹ thuật viên theo dõi quản lý ở các khâu, phải có kế hoạch phân tích xem xét những thông số kỹ thuật có liên quan ở khâu mình quản lý, có như vậy mới dự kiến trước được sự cố, dự kiến trước được chất lượng của bán thành phẩm và sản phẩm để có biện pháp xử lý đúng đắn, kịp thời, khắc phục tình trạng xử lý bị động như hiện nay. Cũng xuất phát từ nhu cầu của thị trường hoặc ngay từ ý tưởng của người nghiên cứu chế thử, công tác nghiên cứu chế thử không chỉ quan tâm đến chất lượng bên trong của sản phẩm mà còn phải quan tâm đến hình dáng bên ngoài, kích cỡ, mầu sắc và mẫu mã nhãn hiệu. 3.3- Hiệu quả của giải pháp: Quản lý chặt chẽ chất lượng sản phẩm tức là phấn đấu “làm đúng ngay từ đầu” có ý nghĩa hết sức to lớn không chỉ ngày càng ổn định và nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn tránh được những hao phí do sản phẩm hỏng, tiết kiệm thời gian lao động nhờ đó tăng năng suất và giảm được giá thành sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh cho công ty. 4. Hạ giá thành sản phẩm. 4.1- Căn cứ khoa học của giải pháp: Giá cả là một trong những công cụ cạnh tranh đắc lực của mọi doanh nghiệp. Ngày nay, doanh nghiệp nào cũng tạo điều kiện thực hiện các công việc cần thiết để hạ giá thành sản phẩm. Nhất là đối với thị trường mà người tiêu dùng chủ yếu là thu nhập từ mức trung bình trở xuống thì giá cả luôn là vấn đề cần quan tâm. Họ cũng muốn có những sản phẩm có chất lượng phù hợp và giá cả hợp lý. Công ty Rượu Hà Nội tuy được thành lập từ lâu nhưng việc hình thành và cách tính giá có nhiều điểm chưa hợp lý hoặc biện pháp để giảm giá chưa được thực hiện nhiều. 4.2- Nội dung giải pháp: 4.2.1 Giảm chi phí nguyên vật liệu: Đối với sản phẩm rượu, chi phí về nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn nhất trong giá thành sản phẩm. Chính vì vậy, giảm chi phí nguyên vật liệu có vị trí quan trọng trong công tác hạ giá thành sản phẩm. Tuy vậy khác với nhiều loại sản phẩm, sản xuất rượu không thể giảm chi phí bằng cách giảm các thành phần nguyên vật liệu dưới mức công thức kỹ thuật hoặc giảm chất lượng nguyên vật liệu, hoặc giảm khối lượng nguyên vật liệu đắt tiền... Vì làm như vậy sẽ dẫn đến làm giảm chất lượng sản phẩm. Biện pháp cắt giảm chi phí nguyên vật liệu hữu hiệu nhất là định mức tiêu hao. Xây dựng định mức tiêu hao là một tất yếu đối với doanh nghiệp sản xuất. Tương ứng với mỗi điều kiện sản xuất nhất định sẽ có một hệ thống định mức sử dụng nguyên vật liệu phù hợp. Khi điều kiện sản xuất thây đổi thì định mức cũng phải thay đổi. Trong quá trình sản xuất, những tiêu hao lãng phí nguyên vật liệu thường xảy ra là hao hụt do xay xát, mối mọt, hoặc không thu hồi triệt để. Để khắc phục tình trạng này cần thường xuyên sửa chữa máy móc, nâng cấp kho tàng. Ngoài ra công ty nên áp dụng các biện pháp giáo dục ý thức tiết kiệm nguyên vật liệu cho công nhân, kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện quy trình công nghệ vừa để đảm bảo chất lượng sản phẩm vừa để tiết kiệm tránh lãng phí nguyên vật liệu. Cần giao cụ thể chỉ tiêu tiết kiệm nguyên vật liệu cho từng tổ sản xuất, gắn trách nhiệm với từng quyền lợi của mỗi cá nhân, tổ sản xuất với hiệu quả thực hiện chỉ tiêu đó. 4.2.2 Tổ chức tốt công tác thu mua. Công ty cần tìm nguồn mua nguyên vật liệu để tối ưu hoá hiệu quả hoạt động mua, giảm giá mua và chất lượng vẫn được đảm bảo. công ty cố gắng thu mua tận gốc, hạn chế mua qua trung gian. Đồng thời phải tổ chức tốt công tác thu mua để giảm chi phí thu mua. 4.2.3 Các biện pháp giảm chi phí cố định Chi phí cố định bao gồm chi phí sử dụng máy móc thiết bị ( khấu hao tài sản cố định), chi phí quản lý,... Để giảm các chi phí này cần thực hiện các biện pháp: - Phấn đấu tăng nhanh sản lượng: So với mức tăng sản lượng các chi phí cố định thường tăng ít hơn. Vì vậy nếu tăng sản lượng sẽ làm giảm chi phí cố định tính trên đơn vị sản phẩm có ý nghĩa là lợi nhuận của mỗi sản phẩm sẽ tăng lên. Công ty nên tận dụng lực lượng lao động và công suất máy móc hiện có, hợp lý hoá sản xuất và mở rộng quy mô sản xuất để tăng sản lượng. Đi đôi với việc tăng sản lượng sản xuất, công ty cần làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm. - Sử dụng hiệu quả tài sản cố định: Đối với những tài sản cố định dư thừa không cần dùng vào các dây chuyền sản xuất nên bán hoặc thanh lý. Đặc biệt cần bảo quản tốt tài sản để giảm chi phí sửa chữa. 4.3- Hiệu quả của từng giải pháp: Qua việc hạ giá thành sản phẩm sẽ làm cho giá bán sản phẩm của công ty cũng giảm nhưng mức giảm này sẽ thấp hơn mức giảm giá thành. Do đó sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh thông qua giá cả đối với các đối thủ cạnh tranh. Qua việc giảm giá sẽ thu hút khách hàng dẫn đến sản phẩm được tiêu thụ nhanh hơn và lợi nhuận của doanh nghiệp cũng tăng. 5. Tăng cường hoạt động Marketing nói chung và hoàn thiện hệ thống kênh phân phối sản phẩm nói riêng. 5.1- Căn cứ khoa học của giải pháp: Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển không thể không quan tâm tới hoạt động marketing. Công ty Rượu Hà Nội cũng không phải là ngoại lệ. Thực tế chứng minh rằng những doanh nghiệp thành công trên thị trường hiện nay cũng đồng thời là những doanh nghiệp có sự quan tâm đúng mức tới hoạt động marketing. Mặt khác hiện nay đối với công ty Rượu Hà Nội thì công tác marketing còn rất yếu, phòng thị trường phải kiêm luôn nhưng không có hiệu quả. Do đó tăng cường hoạt động Marketing là biện pháp cần thiết. 5.2- Nội dung giải pháp: 5.2.1 Thành lập phòng marketing. Do công ty Rượu Hà Nội chưa có phòng marketing phụ trách các hoạt động về thị trường do đó mọi hoạt động Marketing của công ty chưa có kế hoạch chi tiết cho từng năm và chưa có chiến lược hạn. Chính vì vậy công ty nên thành lập một phòng Marketing riêng biệt góp phần tăng cường khả năng cạnh tranh cho công ty. Sơ đồ 4 : Mô hình phòng Marketing trong tương lai Trưởng phòng Marketing Bộ phận chức năng Bộ phận tác nghiệp Nghiên cứu Marketing Lập chương trình Marketing Phụ trách sản phẩm mới Phụ trách quảng cáo và kích thích tiêu thụ Phụ trách tiêu thụ sản phẩm Nhiệm vụ cụ thể của các bộ phận là: - Trưởng phòng Marketing có nhiệm vụ nắm bắt chiến lược sản xuất kinh doanh của toàn công ty, mục tiêu cần đạt được từ đó nghiên cứu đề ra các chiến lược Marketing sao cho phù hợp. Đồng thời trưởng phòng Marketing phải luôn luôn chỉ đạo phối hợp các hoạt động của bộ phận chức năng và các bộ phận tác nghiệp để ra các quyết định cuối cùng về các biện pháp Marketing mà công ty sẽ sử dụng. - Bộ phận nghiên cứu Marketing có nhiệm vụ thu thập thị trường về thị trường, về đối thủ cạnh tranh, về khả năng sản xuất kinh doanh cuả công ty từ các nguồn thông tin bên trong và bên ngoài để xử lý, chọn lọc, phân tích các thông tin thu được và tổng hợp báo cáo trình cấp trên. - Bộ phận lập chương trình Marketing có nhiệm vụ tiếp nhận báo cáo, kết quả phân tích từ bộ phận nghiên cứu thị trường. Sau đó làm công tác dự báo, lập các kế hoạch trước mắt và dài hạn cho hoạt động Marketing đề ra các chính sách cho hoạt động Marketing - Mix ( đó là hệ thống chính sách sản phẩm, chính sách giá, chính sách phân phối và chính sách xúc tiến hàng hoá). Ngoài ra bộ phận này còn dự báo thời cơ, mức biến động thị trường, hoạt động của các đối thủ cạnh tranh trong tương lai và đề ra hướng giải quyết. - Bộ phận phụ trách sản phẩm có nhiệm vụ tìm kiếm và hình thành nên các ý tưởng sản phẩm, lựa chọn quyết định thiết kế sản phẩm mới đồng thời kết hợp với phòng nghiên cứu và phát triển, phòng tài vụ tiến hành sản xuất thử, dự báo mức lỗ lãi, doanh thu và sản lượng tiêu thụ, đo lường độ thoả mãn của sản phẩm mới khi tưng ra thị trường. - Bộ phận phụ trách quảng cáo và kích thích tiêu thụ có nhiệm vụ điều hành công tác tiếp thị, tổ chức hội nghị khách hàng, hội trợ triển lãm. Tổ chức các công tác tuyên truyền thực hiện nhiệm vụ đối với khách hàng. - Bộ phận phụ trách tiêu thụ sản phẩm phải có đầy đủ các kiến thức về quản lý và các chính sách phân phối. Tìm kiếm các trung gian và và tạo quan hệ tốt với họ, đồng thời đề xuất các chính sách hỗ trợ và tiêu thụ,... Tóm lại việc thành lập phòng Marketing mang lại hiệu quả đáng kể cho công ty. Giả sử công ty đã đạt được các tiêu chuẩn như về công nghệ hiện đại, quản lý chất lượng tốt, giá thành hạ nhưng nếu như chính sản phẩm đó lại không phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng thì sản phẩm đó vẫn tiêu thụ kém. Vì vậy công ty Rượu Hà Nội cần phải mạnh dạn thành lập phòng Marketing để giải quyết cho công ty tình trạng đi lệch yêu cầu của thị trường. Qua đó nâng cao sức cạnh tranh của công ty đối với các đối thủ của mình. 5.2.2 Xác định cơ cấu sản phẩm hợp lý: Trong thời gian qua, công ty đã nghiên cứu và cố gắng tạo ra nhiều sản phẩm mới song hiệu quả mang lại không được như mong muốn. Do vậy việc xác định cơ cấu sản phẩm hợp lý để từ đó đảm bảo sản xuất ra những sản phẩm được thị trường chấp nhận, đạt hiệu quả kinh tế cao là điều kiện cần thiết đối với công ty hiện nay. Đối với sản phẩm hiện có, công ty cần tiến hành thanh toán lỗ lãi đối với từng loại, xác định xem loại nào có lợi nhuận, loại nào không. Cuối cùng là quyết định nên tiếp tục sản xuất loại sản phẩm nào, những sản phẩm nào cần phải loại bỏ khỏi danh mục sản phẩm. Những sản phẩm mới dự định đưa ra thị trường cần phải được quyết định dựa trên kết quả của bộ phận nghiên cứu thị trường, tránh tình trạng sản phẩm đưa ra không tiêu thụ được dẫn đến hiện tượng tồn đọng vốn. 5.2.3 Hoàn thiện chính sách phân phối sản phẩm. Trong thời gian tới công ty nên mở rộng một số cửa hàng giới thiệu sản phẩm. Địa điểm thuận lợi cho việc đặt các cửa hàng giới thiệu sản phẩm là nơi đông dân cư và tiện đường qua lại. Vì cửa hàng giới thiệu sản phẩm chính là các điểm quảng cáo khuyếch trương mặt hàng, gợi mở nhu cầu cho người tiêu dùng. Đặc biệt công ty nên mở rộng hệ thống đại lý trong kênh phân phối. Việc tăng thêm đại lý giúp công ty tăng khả năng sản xuất cũng như khả năng tiêu thụ sản phẩm. Công ty nên tiến hành mở rộng theo hướng tăng số đại lý trên các tỉnh, thành phố lớn. Miền Bắc: một số thành phố như Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định và một số tỉnh Hoà Bình, Sơn Tây, Thái Bình, Yên Bái, Lai Châu. Miền Trung: tiếp tục mở rộng ở các tỉnh Thanh Hoá, Hà Tĩnh, Nghệ An. Miền Nam: mở rộng mạng lưới phân phối theo hướng thâm nhập vào một số tỉnh ở phía Nam, đặc biệt là tỉnh đồng bằng sông Cửu Long - là đồng bằng châu thổ lớn nhất nước ta. Bên cạnh việc mở thêm các đại lý ở thị trường mới, công ty cần phải có biện pháp quản lý hệ thống phân phối: - Thường xuyên yêu cầu các đại lý báo cáo tình hình về tiêu thụ trong kỳ, số lượng sản phẩm tồn kho. - Quản lý nghiêm ngặt về giá cả để tránh các đại lý tự do nâng giá cao gây thua thiệt cho người bán lẻ và người tiêu dùng. - Tìm ra các nhu cầu và các trở ngại cho các thành viên trong kênh để có sự trợ giúp thích hợp. 5.2.4 Xây dựng chính sách giao tiếp khuyếch trương: Đối với những sản phẩm mới của công ty hay những sản phẩm truyền thống xâm nhập vào thị trường mới thì vai trò của chính sách này rất lớn. Bởi những sản phẩm đó chưa được nhiều người biết đến. Tuy nhiên việc thực hiện chiến lược quảng cáo như thế nào cho hữu hiệu là một vấn đề lớn. Do rượu là mặt hàng bị cấm quảng cáo trên mọi phương tiện thông tin đại chúng nên hoạt động giao tiếp khuyếch trương của công ty phải hướng vào các biện pháp xúc tiến bán hàng thông qua catalog, tham gia triển lãm hội chợ, quảng cáo trên báo chí. + Catalog: Cung cấp những thông tin cần thiết từ kích cỡ, chủng loại, số lượng, giá cả, hình thức thanh toán,... để thu hút sự quan tâm, chú ý đến thuyết phục hành động mua. + Hội chợ triển lãm : là nơi thiết lập đầu mối quan hệ làm ăn, thu hút khách hàng đến đó để thoả thuận, ký kết các hợp đồng mới, là nơi gây ấn tượng về nhãn hiệu sản phẩm, biểu tượng công ty. + Báo, tạp chí : công ty nên quảng cáo trên các báo có độc giả là những người tiêu dùng bình dân thường được phát hành ngay tại các tỉnh lẻ như báo lao động, báo đại đoàn kết, các báo có mục hướng dẫn người tiêu dùng,... Công ty cũng nên phát động những chương trình khuyến mại vào các dịp lễ tết, khuyến khích người tiêu dùng mua sẽ được tặng quà,... Những chương trình này được thực hiện thông qua hệ thống các đại lý của công ty trong khoảng thời gian nhất định. Các đại lý cần phải có biện pháp sao cho người tiêu dùng có thể biết đến các chương trình khuyến mãi, hình thức khuyến mãi ( tặng quà, giảm giá với người mua số lượng lớn,..). 5.3. Hiệu quả của giải pháp Qua việc phân tích hoạt động Marketing nói chung cũng như việc tổ chức và hoàn thiện kênh phân phối nói riêng. Công ty có thể giữ vững thị trường hiện có, thâm nhập thị trường mới, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm đồng thời nâng cao uy tín của sản phẩm cũng như của công ty trên thị trường. Mục đích của những hoạt động này là làm cho công ty Rượu Hà Nội cũng như các sản phẩm của công ty trở nên quen thuộc hơn đối với người tiêu dùng, từ đó khi có nhu cầu về rượu họ sẽ nghĩ ngay đến sản phẩm của công ty. III.Một số kiến nghị với ngành quản lý cấp trên và nhà nước. 1. Kiến nghị với Tổng công ty Rượu Bia nước giải khát Việt Nam: Mục đích của việc thành lập Tổng công ty rượu bia nước giải khát Việt Nam là để hỗ trợ các doanh nghiệp trong ngành cùng phát triển trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt. Tuy nhiên hiệu quả của bộ máy vẫn còn nhiều hạn chế, vì vậy tổng công ty rượu bia nước giải khát cần phải: + Có kế hoạch phát triển chiến lược cho toàn bộ tổng công ty và các xí nghiệp thành viên. Tránh tình trạng quản lý lỏng lẻo dẫn đến sự phát triển không đồng đều của các thành viên thậm chí các thành viên còn cạnh tranh thiếu lành mạnh với nhau. + Phân định rõ ràng chuyên môn hoá sản xuất của các đơn vị thành viên, liên kết, phối hợp hoạt động của các thành viên một cách đồng bộ, có hiệu quả, tận dụng được lợi thế riêng biệt của công ty. + Có kế hoạch giúp đỡ các đơn vị thành viên, đặc biệt là trợ giúp về vốn sản xuất kinh doanh, về thiết bị máy móc hiện đại, về thị trường đầu ra. 2. Kiến nghị với nhà nước. Khó khăn hiện nay đối với công ty Rượu Hà Nội là đang đứng trước tình trạng cạnh tranh hết sức gay gắt. Sản phẩm nhập ngoại, sản phẩm rượu nấu lậu và một loạt các sản phẩm trốn thuế đang đe doạ sự phát triển của công ty. Do đó nhà nước nên quan tâm giải quyết một số vấn đề sau: Một là: nhà nước chỉ nên đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu nước, bỏ đánh thuế chai vì một chiếc chai 0.65 lít hiện nay giá gốc là 1800 đồng nếu tính cả thuế thành 3420 đồng. Riêng tiền chai người dân đã mua được một lít rượu thực phẩm. Hai là: Nếu giảm thuế tiêu thụ còn 1/3 thì sản lượng của các nhà máy sẽ tăng lên 10 lần, tiền thuế nhà nước thu được sẽ tăng lên 3,3 lần. Giảm thuế cồn trở lại như trước ngày 1/1/1996: hiện nay do TTĐB, giá cồn quá cao người ta phải mua cồn sẵn, sản xuất lậu, giá rẻ về pha thuốc điều này rất nguy hiểm. Trước lúc chưa có thuế tiêu thụ đặc biệt nhà máy rượu bán cho y tế được hơn 170.000 lít/năm tương đương 510.000 lít rượu / năm, nhưng từ năm 1996 đến nay chỉ bán được khoảng 8000 lít. Ba là: Xử lý nghiêm khắc trường hợp nhập lậu. Nhập lậu hàng hoá là một hành động vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Hơn nữa hàng hoá mà họ nhập là các mặt hàng rượu thuộc hàng xa xỉ phẩm, hoàn toàn không phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của nước ta. Vì vậy không những tổ chức kiểm soát nghiêm ngặt tại các cửa khẩu mà còn phải đánh thuế thật cao đối với sản phẩm là rượu nhập từ nước ngoài. Bốn là: Nhà nước nên có chính sách khuyến khích các cơ sở sản xuất rượu đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng. Hạn chế đi đến xoá bỏ các cơ sở sản xuất rượu không đạt tiêu chuẩn chất lượng theo quy định. Hiện nay, ở nước ta sản xuất nhiều loại rượu nhưng so với tiêu chuẩn cồn rượu Việt Nam quy định về tạp chất độc hại cho phép thì có nhiều loại rượu không đạt tiêu chuẩn nhất là rượu dân tự nấu. Vậy đề nghị các cơ quan có chức năng và các cơ sở sản xuất xây dựng lại tiêu chuẩn về các tạp chất cho phép. Nếu cơ sở sản xuất nào không đạt tiêu chuẩn chất lượng thì không cho sản xuất. Đặc biệt tổ chức quản lý và thu thuế đầy đủ với các tư nhân nấu rượu lậu không có giấy phép kinh doanh. Hầu hết hiện nay các điểm nấu rượu trong dân đều không đóng thuế cho nhà nước do vậy hàng của họ được bán với giá rất thấp thu hút phần lớn thị trường trong dân. Đây chính sự bất bình đẳng trong cạnh tranh. Năm là: Sớm ban hành luật cạnh tranh và một số luật khác có liên quan để đảm bảo cạnh tranh được lành mạnh và thúc đẩy sự phát triển chung của toàn nền kinh tế. Hơn nữa nhà nước cần có chính sách bảo hộ những mặt hàng trong nước nhất là những mặt hàng cần bảo hộ, chỉ lấy riêng việc quảng cáo làm ví dụ: trong khi các doanh nghiệp trong nước chỉ được giới hạn chi phí cho quảng cáo là 2% thì các liên doanh nước ngoài sẵn sàng bỏ ra 20 - 25% doanh thu để chi phí cho quảng cáo. Đây chính là khó khăn của rất nhiều doanh nghiệp nước ta mới đi lên. Kết luận Cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh là vấn đề xuyên suốt trong mọi thời kì họat động của các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường. Môi trường kinh doanh càng có nhiều cơ hội thì cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt. Cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay thế : thay thế những doanh nghiệp không biết đón nhận cơ hội kinh doanh bằng các doanh nghiệp biết nắm bắt thời cơ, biết phát huy tối đa sức mạnh của mình. Chính vì vậy cạnh tranh là động lực phát triển của mỗi quốc gia cũng như của từng doanh nghiệp. Công ty Rượu Hà nội đã trải qua những bước thăng trầm trong cạnh tranh, có những lúc tưởng như không vượt qua nổi nhưng bằng nỗ lực của chính mình dần dần lấy lại được sức mạnh, vươn lên trong cạnh tranh. Sản phẩm của công ty tìm lại được chỗ đứng trên thị trường.Hy vọng với hơn 100 năm kinh nghiệm và những nỗ lực sáng tạo của công ty, công ty sẽ sử dụng những giải pháp hữu hiệu nhất để tăng cường khả năng cạnh tranh, giữ vững và mở rộng thị trường tiêu thụ. Trong điều kiện thời gian và trình độ có hạn, chuyên đề này chỉ mới tiếp cận được phần nào về tình hình sản xuất kinh doanh của công ty Rượu Hà Nội. Tôi hy vọng những giải pháp và kiến nghị đưa ra sẽ góp phần nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của công ty trong thời gian tới. Xin chân thành cảm ơn thầy giáo,Thạc sĩ Đinh Thiện Đức cùng các Cô, Chú trong công ty rượu Hà nội đã giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề này Tài liệu tham khảo. Quản trị kinh doanh tổng hợp (GS.TS Nguyễn Thành Độ và TS Nguyễn Ngọc Huyền - Đồng chủ biên), NXB Thống Kê 2001 Những vấn đề cơ bản của quản trị kinh doanh (Đỗ Hoàng Toàn-NXB Kỹ thuật 1994) Chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp (Chủ biên: GS.TS Nguyễn Thành Độ và TS Nguyễn Ngọc Huyền) NXB Giáo Dục 1999. Vũ khí cạnh tranh thương trường (Trần Hoàng Kim, Lê Thu – NXB thống kê 1999) Tiếp thị và quản trị họat động thương mại (Trần Sĩ Hải –NXB TP Hồ chí minh 1998) Kinh tế và tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp (Chủ biên : PGS.TS Phạm Hữu Huy , NXB Giáo dục 1998) Giáo trình kinh tế quản lý( Chủ biên :GS.TS Ngô Đình Giao) NXB Thống Kê 2000. Quản trị chiến lược và chính sách kinh doanh ( Nguyễn Tấn Phước -NXB Đồng Nai 1999). Danh sách các bảng biểu sử dụng: Bảng1: Sản lượng tiêu thụ và doanh thu của công ty Rượu Hà Nội trong giai đoạn 1997-2001. Bảng 2: Mức tiêu thụ của Công ty Rượu Hà Nội trên 2 khu vực thị trường năm 2001. Bảng 3: Tình hình tiêu thụ theo mùa của công ty. Bảng 4: Cơ cấu lao động của công ty tính đến 31/12/2001. Bảng 5: Cơ cấu vốn của công ty năm 2001. Bảng 6 : Danh mục nguyên vật liệu và nguồn cung ứng những năm gần đây. Bảng 7: Sản lượng sản xuất và tiêu thụ rượu các loại trong toàn quốc. Bảng 8: Bảng so sánh tạp chất có hại của rượu dân tự nấu với tiêu chuẩn Việt Nam và một số nước khác. Bảng 9: Bảng tóm tắt đối thủ cạnh tranh của công ty Rượu Hà Nội. Bảng 10: Tỷ trọng chiếm lĩnh thị trường của công ty Rượu Hà Nội. Bảng 11: Quy mô sản xuất kinh doanh của một số cơ sở sản xuất rượu chủ yếu. Bảng 12: Cơ cấu sản phẩm chính của công ty từ năm 1999-2001. Bảng 13: Giá bán một số sản phẩm so sánh. Bảng 14: Số lượng đại lý của công ty từ năm 1998-2001. Bảng 15: Doanh thu bán hàng theo khu vực địa lý. Bảng 16: Các chỉ tiêu kế hoạch đến năm 2005. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0057.doc
Tài liệu liên quan