Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế - 1 nhiệm vụ trọng tâm của nước ta hiện nay

Bộ giáo dục và đào tạo Trường đại học kinh tế quốc dân khoa ngân hàng - tài chính đề án kinh tế chính trị Đề tài: chủ động hội nhập kinh tế quốc tế - một nhiệm vụ trọng tâm của nước ta hiện nay. Giáo viên hướng dẫn : mai hữu thực Sinh viên thực hiện : vũ thị hạnh khoa : ngân hàng - tài chính Lớp : ngân hàng 44c Hà Nội –1/ 2004 lời mở đầu. Trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, loài người đang bị cuốn hút vào một quá trình mang tính chất quốc tế bao chùm hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống

doc46 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1364 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế - 1 nhiệm vụ trọng tâm của nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế, chính trị, xã hội của thế giới - đó là một quá trình toàn cầu hoá mà cốt lõi của nó là toàn cầu hoá kinh tế. Các văn kiện của Đảng Nhà nước ta đã từng đề cập xu thế này. Cương lĩnh của Đảng có nói “Nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội đang trong công trình hoá sâu sắc, ảnh hưởng tới nhịp độ phát triển lịch sử và đời sống dân tộc”. Các nước trên thế giới, kể cả nước ta, không thể không tính đến xu thế đó trong khi hoạch định chính sách phát triển và quan hệ quốc tế. Với xu thế ấy do đâu mà có, mang những đặc điểm gì và tác động ra sao tới sự phát triển từng nước và mối quan hệ quốc tế. Đó là những vấn đề lý luận và thực tiễn đáng quan tâm. Việc nguyên cứu, toàn cầu hoá một cách sâu sắc, toàn diện, đặc biệt là những tác động của nó đến đời sống kinh tế – chính trị để có đối sách thích hợp là nhiệm vụ trọng đại của mọi của quốc gia trong những thập kỷ đầu thế kỷ XXI. Việt nam với những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX đã từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường XHCN, có mối quan hệ rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá. Nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới, đó là vấn đề có ý nghĩa sống còn với Đảng và nhân ta trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay. Thế kỷ XX là thế kỷ đấu tranh oanh liệt và chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta. Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc, đưa nước ta sánh vai cùng các nước trên thế giới. Đã có nhiều cuộc hội nghị, hội thảo quốc gia, khu vực và quốc tế về vấn đề toàn cầu hoá và chủ động hội nhập, song đến nay còn nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau…Bài viết này sẽ không bàn luận về những tranh cãi còn tồn đọng đó, mà em chỉ nêu ra những nhận xét, kết luận sau quá trình thu thập và nghiên cứu tài liệu. Là một sinh viên Đại học kinh tế quốc dân em rất quan tâm và muốn tiềm hiểu về nền kinh tế thế giới cũng như của Việt Nam, nhất là vấn đề toàn cầu hoá kinh tế – một vấn đề đang rất nóng trong khu vực và trên thế giới. B. Nội dung. I. Một số vấn đề lý luận về toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. 1. Những nét chung về toàn cầu hoá, khu vực hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Toàn cầu hoá là một danh từ, lần đầu tiên được Webster đưa vào từ điển năm 1961 và nó sử dụng khá phổ biến trong hai thập kỷ gần đây. Nhưng ngược dòng lịch sử thì vào năm 1870, nhà triết học Jeremy Bentham đã sử dụng tính từ “quốc tế”, khái niệm quan hệ quốc tế đã được sử dụng rộng rãi từ thời đó. Toàn cầu hoá hay quốc tế hoá đều là khái niệm diễn tả những mối quan hệ vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Tuy nhiên, cấp độ giữa chúng ta là khác nhau. Toàn cầu hoá mà cốt lõi là Toàn cầu hoá kinh tế là bước phát triển mới và cao của quốc tế hoá kinh tế. Quá trình Toàn cầu hoá đang phát triển cùng tồn tại trên thế giới hiện nay về thực chất quá trình quốc tế hoá đã đạt đến độ nhuần nhuyễn, nó phản ánh một qúa trình phát triển với đặc trưng là không có ranh giới quốc gia và khu vực trong mối quan hệ kinh tế, xã hội ngày càng phát triển. Hiện nay, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về toàn cầu hoá, đã có hàng trăm khái niệm về Toàn cầu hoá khác nhau được các học giả trong ngoài nước đề cập. Một số học giả coi đó là một khái niệm chính trị; một số khác cố gắng làm sáng tỏ khái niệm Toàn cầu hoá trong phạm vi phát triển kinh tế; lại có người chú trọng phân tích tác động tích cực hay tiêu cực của Toàn cầu hoá. Nhưng dù đánh giá, nhận định ở góc độ nào, cuối cùng đa số đều đi đến một khái niệm hàm chứa đầy đủ những đặc trưng cuả quá trình Toàn cầu hoá – là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới, làm nổi bật hàng loạt biến cố quan hệ lẫn nhau mà từ đó chúng ta phát sinh một loạt điều kiện mới. Toàn cầu hoá khiến cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, làm sâu sắc hơn sự chuyên môn hoá và phân công lao động quốc tế, kích thích gia tăng sản xuất không chỉ ở cấp độ quốc gia, mà còn mở rộng ra trên toàn thế giới. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, xu thế Toàn cầu hoá kinh tế đã hình thành và phát triển qua một chặng đường khá dài. Tính đến nay, thế giới đã 3 lần “toàn cầu hoá” và lần này là thứ tư. Lần thứ nhất diễn ra và thế kỷ XV, sau khi côlômbô phát hiện ra châu Mỹ. Từ đó làm cho người châu Âu đổ đi các nơi “ khai hoá văn minh” theo lối chủ nghĩa thực dân. Lần chinh phục thế giới này làm cho giá trị châu Âu thay đổi và được truyền bá khắp nơi. Kết quả của toàn cầu hoá lần thứ nhất tạo ra cơ hội tích luỹ tư bản lớn và làm cho nước Anh trở thành bá chủ thế giới. Lần thứ hai vào giữa thế kỷ thứ XIX và được đánh dấu bằng thời kỳ người châu Âu chinh phục người châu á làm cho Nhật Bản tiến hành cuộc “ Duy tân” hưng thịnh đất nước. Lần thứ ba, diễn ra vào thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ hai với trật tự thế giới mới của các nước thắng trận làm cho nhiều nước châu á, châu Phi, châu Mỹ, châu Mỹ – La Tinh giành được độc lập và hoà nhập với cộng đồng thế giới. Lần thứ tư, là thời kỳ hiện nay với đặc trưng là xu thế Toàn cầu hoá được thúc đẩy với những nhân tố như: cuộc bùng nổ thông tin thế giới, làn sóng dân chủ của Bồ Đào Nha và năm 1974, sự xụp đổ của Liên Xô và Đông Âu vào thập thể kỷ 90. Toàn cầu hoá lần này nặng về phương diện kinh tế và chính trị. Về kinh tế, Toàn cầu hoá lấy Toàn cầu hoá về thị trường làm mục tiêu, lấy Toàn cầu hoá thông tin làm động lực, bởi vậy nó mang ý nghĩa sâu rộng hơn nhiều so với lần trước. Cũng vì vậy nó đụng chạm đến nhiều nước, lôi cuốn đông đảo các nước nhập cuộc. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ những thập kỷ cuối của thế kỷ XX thúc đẩy không ngừng sự phát triển của lực lượng sản xuất, phân công lao động và hợp tác quốc tế. Trong xu thế ấy, nền kinh tế của quốc gia trên thế giới có quan hệ ngày càng mật thiết với nhau,tuỳ thuộc lẫn nhau. Nói cách khác, quá trình Toàn cầu hoá đã và đang diễn ra rông khắp và mạnh mẽ trên toàn thế gới. Sự gia tăng mạnh mẽ của Toàn cầu hoá kinh tế đặt ra yêu cầu khách quan đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lược hội nhập phù hợp và nền kinh tế thế giới và khu vực. Trong bối cảnh này không thể phát triển nếu như nền kinh tế không " mở cửa" hội nhập Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế và xu thế khách quan của lịch sử phát triển nhân loại. Tính khách quan ấy bắt nguồn từ. Một là, quá trình phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất đã dẫn tới phân công lao động và hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng. Kết quả là phá bỏ dần hàng rào cản trở sự phát triển của mỗi quốc gia, sự giao lưu kinh tế dần dần vượt ra khỏi khuôn khổ trật hẹp thị trường địa phương, thị trường từng nước, thị trường từng khu vực. Mác và Ăng ghen cho rằng " Đại công nghiệp tạo ra thị trường thế giới". Sự phát triển của khoa học công nghệ mạnh mẽ làm cho nó ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Các ngành kinh tế truyền thống dần dần nhường bước cho các ngành đại diện cho tiến bộ khoa học kỹ thuật. Sự tăng trưởng của nền kinh tế từ chỗ chủ yếu chịu và nguyên vật liệu và lao động đang chuyển sang dựa chủ yếu vào tri thức. Đặc biệt sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ trong thế kỷ XX, nhất là những thập niên cuối, sự bùng nổ thông tin, sự ra đời của cách mạng của Internet đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình toàn cầu hoá ngày càng sâu, rộng. Từ đó thúc đẩy nhu cầu " mở rộng" giao lưu hội nhập. Hai là, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường triển đã mở ra điều kiện cho sự gia tăng xu thế quốc tế hoá, thế hiện trên hai khía cạnh sau: Kinh tế thị trường đã mở ra điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, làm cho quy mô sản xuất không bó hẹp trong phạm vi của từng quốc gia mà mang tầm quốc tế, gắn các quốc gia vào sự ràng buộc của sản xuất và tiêu thụ. Kinh tế thị trường phát triển của các quốc gia đưa lại có thể thống nhất cho xử lý mỗi quan hệ kinh tế, đó là cơ chế thị trường - cơ chế phân bổ các nguồn lực dựa vào các quy luật kinh tế khách quan của kinh tế thị trường. Điều này có ý nghĩa cho việc thúc đẩy mở rộng đầu tư, giao dịch thương mại và tiếp nhận nguồn lao động,...hay nói cách khác là sự giao thoa, xâm nhập lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng gia tăng. Ba là , sự nẩy sinh và gia tăng của các vẫn đề toàn cầu như : môi trường sinh thái, phạm tội, ma tuý, HIV/AIDS, di dân, vượt biển,...đòi hỏi phải có sự hợp tác của tất cả quốc gia trên thế giới mới giải quyết được. Hơn nữa sự ra đời và vai trò ngày càng tăng của các tổ chức kinh tế thế giới như: quỹ tiền tệ quốc tế ( IMF) ngân hàng thế giới (WB ), tổ chức thương mại thế giới (WTO),..dã trở thành nhân tố thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Như vậy, với phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất trên cơ sở của những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, quá trình Toàn cầu hoá kinh tế tất yếu sẽ diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh, quy mô ngày càng sâu với hình thức ngày càng phong phú. Đi đôi với xu hướng Toàn cầu hoá, gần đây chúng ta được chứng kiến sự phát triẻn rất mạnh mẽ của xu thế khu vực hoá. Điều đó thể hiện trên ba tầng nấc: ở tầm " đại khu vực", mở rộng liên minh Châu Âu ( EU) mở ra triển vọng biến toàn bộ Châu Âu thành một thực thể. ở Châu á - Thái Bình Dương, hội nghị hợp tác kinh tế Châu á- Thái Bình Dương họp ở Bôgô ( Inđônêsia) quyết định hình thành khu vực mậu dịch tự do. ở Châu Mỹ, hội nghị cấp cao họp ở Maiami ( Mỹ) cũng quyết định hình thành khu vực mậu dịch tự do toàn Châu Mỹ (FTAA) . Đồng thời các tổ chức khác như tổ chức thương mại thế giới ( WTO) quỹ tiền tệ quốc tế ( IMF)...ở tầm " tiểu khu vực", các khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ ( NAFTA), khu vực mậu dịch tự do ASIAN ( AFTA), khu vực mậu dịch tự do Nam Mỹ ( MERCOSUR) ... ra đời. Đồng thời cũng xuất hiện nhiều tổ chức hợp tác khu vực như: Hiệp hội hợp tác khu vực Nam á ( SAARC), tổ chức hợp tác kinh tế của Tây á ( ECO), diễn đàm Nam Thái Bình Dương (SPF) ... ở tầm liên quốc gia gần đây xuất hiện nhiều tam - tứ giác phát triển, nhất là ở Đông Nam á. Tam giác phát triển phía Nam bao gồm Xingapo, bang Gioho của MaLaiSia và đảo Ba Tam của Inđônêsia: tam giác phát triển phía Bắc bao gồm các tỉnh phía Nam Thái Lan, các bang phía Bắc MaLaisia và tỉnh Xumatơra của Inđônêsia; tam giác phát triển phía Đông bao gồm đảo Minđanao của Philippin, Xulavêxi của Inđônêsia, miền đông MaLaisia; tứ giác vàng; Thái Lan, Mianma, Lào, Vân Nam ( Trung Quốc ); ở Đông - Bắc á có tam giác sông Chunen bao gồm các khu vực biên giới của cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, Trung Quốc, Nga... Xu thế này phản ánh lợi ích của cá nước mở rộng thị trường, phối hợp nguồn nhân lực, tài lực, kết cấu dạ tầng, tài nguyên để cùng nhau phát triển. xu hướng khu vực hoá đồng thời cũng là một sự " phản ứng " đôí với xu hướng toàn cầu hoá một sự tập hợp để đối phó với sự cạnh tranh đang diễn ra mạnh mẽ. Một số nước,nhất là các nước công nghiệp phát trển muốn thông qua việc hình thành các khu vực mậu dịch tự do để giành thị trường và phát huy ảnh hưởng, xác định vai trò của mình. Khác với trước đây, xu hướng khu vực hoá diễn ra đồng thời với xu hướng toàn cầu hoá, các tổ chức bao gồm các nước có chế độ chính trị - xã hội và trình độ phát triển khác nhau, điều có xu hướng mở chứ không khép kín. Tuy nhiên nếu không khéo xử lý thì hai xu hướng ấy sẽ trở thành đối lập nhau, các tổ chức khu vực sẽ biến thành các mối khép kín. Khu vực hóa tăng khả năng phát triển của các quốc gia song không phải là thang thuốc vạn năng nếu như bản thân mỗi nước không gia tăng nội lực của mình; ngược lại sẽ gánh chịu cạnh tranh, chèn ép mãnh liệt. Như vậy có thẻ thấy xu thế khu vực hoá vừa là sự thể hiện, vừa là sự phản ứng đối với xu thế toàn cầu hoá. Dưới tác động của xu thế toàn cầu hoá, xuất hiện nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Trên thế giới có rất nhiều tài liệu viết về khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế. Nhiều người cho rằng thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư. Giáo sư về kinh tế học quốc tế thuộc Đại học Tổng hợp Giôn Hốp Kin, Oa Sinh Tơn D.C, Giem- Ri- Đen đã định nghĩa " hội nhập tự do thương mại". Cũng có người tiếp cận đến vấn đề tự do hoá tương mại bằng cách đi từ các chính sách tự do thương mại đơn phương trong chính sách kinh tế của mỗi quốc gia đến các hình thức thoả thuận tự do hoá thương mại ở cấp độ khu vựcvà quốc tế. Cách tiếp cận như trên là chưa đủ. Bởi lẽ, ngay về mặt lý luận, các vấn đề kinh tế không chỉ mang các đặc trưng của kinh tế đơn thuần, mà luôn gắn với hệ thống chính trị là nền tảng tư tưởng của nó. Về mặt thực tiễn, ở quốc gia nào cũng vậy, người ta chỉ chấp nhận hội nhập kinh tế quốc tế một khi lợi ích của quốc gia đó được đảm bảo. Các lợi ích này không chỉ đơn thuần là lợi ích kinh tế. Nó luôn được xác định gồm cả lợi ích chính trị của mỗi quốc gia. Kể cả trong hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT) năm 1994, cũng như trong dịp định thực hiện khu vực mậu dịch tự do (AFTA) của khối ASEAN, hay bất kì hiệp định song phương giữa hai quốc gia nào cũng luôn có điều khoản loại trừ các yếu tố gây hại đến an ninh quốc gia môĩ nước. Với cách tiếp cận này, có thể hiểu hội nhập kinh tế quốc tế của ta hiện nay không chỉ là quá trình gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế, mà được thể hiện trong bản thân hệ thống chính sách thương mại, chính sách phát triển kính tế đã và đang được Đảng và nhà nước định hướng. Như vậy, có thể xác định hội nhập kinh tế quốc tế là việc các nước ( có trhể trong một khu vực, ví dụ: ASFAN;có thể là giữa hai nước, ví dụ quan hệ Việt - Mỹ ; cũng có thể giữa một nước với một nhóm các nước, ví dụ quan hệ việt Nam - FD; hoặc có thể là toàn thế giới ví dụ WTO ) đi tìm một số điều kiện nào đó mà họ có thể thống nhất được với nhau, kể cả giành cho nhau những ưu đãi, tạo ra những điều kiện công bằng, có đi có lại trong quan hệ hợp tác với nhau... nhằm khai thác các khả năng của nhau, phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của mình. Rõ ràng mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế sẽ phải là phục vụ cho nhu nhu cầu phát triển của mỗi nước. Hội nhập kinh tế quốc tế mà không làm cho nền kinh tế phảt triển được theo đúng định hướng của mình, thì cần đối chiếu trở lạị với mục tiêu này. Đây là vấn đề rất cốt yếu. Nó quan hệ đến nhận thức để xây dựng hệ thống các cơ chế, chính sách nhằm bảo về và phát triển cơ sở kinh tế của mỗi quốc gia. Để thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế. Các điều kiện chung được quy định đối với mỗi quốc gia là tự do hoá thương mại mà đầu tư một cách công khai, rõ ràng. Cụ thể, các tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế hay khu vực nói chung đều hoạt động theo bốn nguyên tắc cơ bản sau: Công bằng: Các nước dành cho nhau quy chế ưu đãi cao nhất của mình và chung cho mọi nước( nghĩa là mọi hàng hoá và dịch vụ của các công ty các nước đối tác điều được được hưởng một chính sách ưu đãi chung ): đồng thời không phân biệt giữa các công ty: mọi chế độ chính sách liên quan đến thương mại và đầu tư trong mỗi nước đều phải bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nội địa. Tự do hoá thương mại: mỗi nước được sử dụng công cụ bảo hộ cho nền sản xuất của mình là thuế; các biện pháp phi thuế như giấy phép, cô- ta, hạn ngạch xuất nhập khẩu ... đều không được sử dụng, và các biểu thuế này không đều phải có lộ trình rõ ràng công khai về việc giảm dần đến tự do hoá hoàn toàn ( thuế xuất bằng 0%). Làm ăn thương lượng với nhau phải trên cơ sở có đi có lại ; khi nền kinh tế thị trường của mỗi nước thành viên bị hàng nhập khẩu đe doạ thái quá hoặc bị những biện pháp phân biệt đối xử gây hại, thì nước đó có quyền khước từ một nghĩa vụ nào đó hoặc có thể có những hành động khẩn cấp cần thiết, được các nước thành viên thừa nhận, để bảo vệ quyền lợi của nền kinh tế thị trường trong nước. Nguyên tắc thứ 4 đó là công khai mọi chính sách thương mại và đầu tư với các điều kiện và nguyên tắc trên, những nước "đi sau " ví dụ như Việt Nam sẽ có nhiều thuận lợi nhất là trong việc học hỏi các kinh nghiệm của các nước "đi ttrước "; song cũng phải chịu rất nhiều khó khăn thách thức, và quan trọng hàng đầu là bảo hộ nền sản xuất trong nước và các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp mới "chân ướt chân ráo" bước vào nền kinh tế thị trường. 2. Đặc điểm của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Trên đây ta đã xét những nét chung toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Vậy những đặc điểm lớn của xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế là gì? Ta sẽ đi xét và phân tích vẫn đề này. Thứ nhất, toàn cầu hoá kinh tế được biểu hiện nổi bật ở sự lưu chuyển xuyên qua quốc gia của dòng tiền vỗn. Hay nói cách khác, toàn cầu hoá về tài chính và dặc trưng nổi bật chi phối các tiến trình tự do hoá về thương mại, dịch vụ và đầu tư đã kết với nhau thành một mạng trên quy mô toàn cầu. Cụ thể là: thứ nhất, quy mô lưu chuyển vốn quốc tế sẽ tiếo tục mở rộng. Ngày nay, 95% nền kinh tế tài chính đã nằm trong một thế giới "ảo", vậy dụng trên các xa lộ thông tin. Thứ hai, tiến trình nhất thể hoá tiền tệ tăng nhanh. Xu hướng hình thành các đồng tiền chung Kiểu đồng EDRO. Sẽ xuất hiện ở nhiều khu vược. Thứ ba, nghiệp vụ ngân hàng sẽ hoạt động theo hướng tổng hợp hoá, mạng hoá, xu hướng sát nhập trong lĩnh vực ngân hàng sẽ trở lên phổ biến và hình thành các tập đoàn ngân hàng đa năng , xuyên quốc gia và điều tiết vốn trên phạm vi toàn cầu. Thứ tư, các thể chế tài chính quốc gia, khu vực thường xuyên bất cập với các thế chế tài chính quôc tế. Nền kinh tế toàn cầu gắn chặt với nhau nhưng đồng thời cũng mang đầy rủi ro, nhất là ở những khâu yếu trong hệ thống tài chính. Thừ hai, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế, quốc tế đã tạo nên nhiều sự liên kết giữa các nền kinh tế quốc tế, đẩy tới mức độ chuyên sâu của phân công lao động quốc tế: từ phân công theo sản phẩm chuyển dần sang phân công theo chi tiết sản phẩm. Các nền kinh tế quốc gia quan hệ chằng chịt, đan xen lẫn nhau tạo đến mức ấn tượng rằng kinh tế thế giới là một mạng "lưới"khổng lồ, rất đa dạng. không thuần nhất trong đó các nền kinh tế quốc gia là những điểm nút vừa bảo vệ chính trị chủ quyền , vừa tác động lẫn nhau vừa chịu ảnh hưởng của "mạng lưới". Về cơ chế quản lý ở tầm vĩ mô cũng như vi mô xuất hiện những sáng kiến mới phù hợp với đặc điểm mới của kinh tế thế giới. Những tiến bộ về khoa học - công nghệ, về tổ chức sản xuất và quản lý dã đào tạo ra năng xuất lao động cao hơn, hiệu quả kinh tế lớn hơn, làm cho lợi nhuận chủ nghĩa tư bản đạt mức tối đa chưa từng có. Thứ ba, từ tính tương thuộc chặt chẽ giữa các nền kinh tế quốc gia, các hoạt động thương mại, đầu tư, tài chính đều được gia tăng mạnh mẽ và bắt buộc mọi nền kính tế đều tham gia vào một thị trường thế giới thống nhất - một "sân chơi chung " bình đẳng cho mọi nền kinh tế, bất kể đó thuộc nền kinh tế nào. nói cách khác, bước vào thế kỷ XXI thì toàn cầu hoá trước hết toàn cầu hoá thị trường , bắt nguồn từ Toàn cầu hoá thông tin và cuối cùng là các quá trình kinh tế. thị trường Toàn cầu hoá , do đó được hiểu là thị trường mở và các nền kinh tế quốc gia tự nguyện mở cửa nền kinh tế nước mình để trên cơ sở các lợi thế so sánh vẫn có, hội nhập có hiệu quả vào thị tường khu vực và thế giới. Thứ tư, trong nền kinh tế toàn cầu, quốc gia dân tộc có chủ quền không còn là chủ thế duy nhất có vai trò chế định chính sách kinh tế mà sự tồn tại đồng thời của 5 chủ thế có thể đảm nhận vai trò một cách hiệu quả đó là: quốc gia dân tộc có chủ quyền ; các khối kinh tế khu vực (ví dụ : EU, ASEAN..); các thế kỷ kinh tế (IMF, WB…); các công ty xuyên quốc gia ( TNC) và các tổ chức phi chính phủ, ở đây cần đặc biệt chú trọng đến vai trò của các công ty xuyên quốc gia. Với cấu trúc hoạt động theo hình mạng lưới, cắm nhánh, mở văn phòng đại diện ở tất cả các quốc gia và khu vực, tự TNC đã là những tế bào kết nối nền kinh tế thế giới thành một hệ thống toàn cầu. Mặt khác, tự do hoá mậu dịch, đầu tư và tòan cầu hoá thị trường, sự điều chỉnh cơ cấu kinh tế toàn cầu, cạnh tranh gay gắt đã và đang đẩy nhanh tốc độ sát nhập và tổ chức lại sản xuất kinh doanh của các TNC. Năm 1999 tổng giá trị xát nhập trên toàn cầu đạt 3300tỷ USD, tăng 31% năm so với năm 1998. Các công ty xuyên quốc gia không chỉ là hiện thân của các quá trình tổ chức sản xuất, phân phối trao đổi, tiêu dùng xuyên quốc gia; không chỉ là biểu hiện ở cấp vĩ mô của những quá trình kinh doanh quốc tế vì mục tiêu lợi nhuận, thị phần, doanh số, ưu thế và ổn định mà cùng với tác động của các xu thế khác, chúng ngày càng ảnh hưởng đến các luật chơi, thậm chí hình thành và điều tiết các luật chơi cũng như các chính sách kinh tế của nhiều quốc gia. Điều đó cũng có nghĩa là, năm chủ thể trong nền kinh tế toàn cầu ảnh hưởng lẫn nhau, ràng buộc và chi phối lẫn nhau. Thứ năm, thời đại chúng ta đang sống không còn là thời đại tư bản chủ nghĩa trước đây mà đã là “thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi thế giới ”. Trên thực tế này, ngày nay lực lượng tham gia, thúc đẩy Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế không chỉ có nước tư bản phát triển mà bao gồm ba loại nước với hàng trăm dân tộc và nhà nước khác nhau: Các nước tư bản phát triển Các nước dân tộc chủ nghĩa vừa thoát khỏi ách đô hộ thực dân. Các nướcphát triển theo định hướng XHCN. Với phương thức sản xuất của riêng từng nước mang tính đặc thù quốc gia, vì thế các nước, các dân tộc lợi dụng Toàn cầu hoá và tham gia hội nhập quốc tế đều theo đuổi những mục tiêu ý đồ khác nhau, thậm chí còn đối lập nhau. Một số nước tư bản phát triển cao không chỉ theo đuổi mục tiêu lợi nhuận mà còn quan trọng hơn là tìm cách chi phối khống chế thị trường thế giới. Các nước dân tộc chủ nghĩa tận dụng xu thế Toàn cầu hoá và tham gia hội nhập có điều kiện xây dựng nền kinh tế quốc gia tự chủ. Các nước XHCN vận dụng xu thế này để tranh thủ những khả năng có lợi trên thị trường thế giới, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế định hướng XHCN nhằm thu hẹp khoảng cách về tiềm lực kinh tế so với các nước khác. Thứ sáu, trong nền kinh tế toàn cầu hoá, xu hướng liên kết kinh tế khu vực và toàn quốc tế được đẩy mạnh hơn bao giờ hết. Kể từ đầu thập kỷ 90, hàng loạt các tổ chức kinh tế khu vực và toàn quốc tế dưới nhiều cấp độ và mang tính thể chế ngày càng cao đã ra đời. Chính tính đa dạng về cấp độ phát triển, sự khác biệt về các đặc điểm địa – chính trị và địa – kinh tế cùng những đặc tính văn hoá đang làm cho hình thức liên kết kinh tế chở nên nhiều vẻ và rất phong phú về nội dung. Tuy vậy về bản chất là hiện thân của xu hướng tự do hoá về thương mại và đầu tư quốc tế. Do những đặc điểm nói trên, trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, luôn luôn tiềm ẩn hai khả năng: thời cơ và thách thức, mặt phải và mặt trái, hợp tác và đấu tranh, phát đạt và phá sản, vươn lên và tụt hậu, tự chủ và phụ thuộc… 3. Triển vọng phát triển toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Toàn cầu hoá đã đưa lại một khả năng to lớn đôi với các quốc gia trong việc khai thác các nguồn lực quốc tế theo nguyên lý của lợi thế so sánh mà lý thuyết cổ điển của David Ricacdo đã nêu nên. sự tự do hoá đầu tư, tài chính là nguồn lực giúp cho các quốc gia có thể tranh thủ các nguồn vốn quốc tế để phát triển. Đó là một tác động tích cực và tác động đó có thể khái quát trên một số cơ bản như sau: Một là về lĩnh vực kinh tế: trước hết vè thương mại toàn cầu hoá, đã tạo ra khả năng trong việc sử dụng các nguồn lực quốc tế theo nguyên lý của lợi thế so sánh mà lý thuyết cổ điện David Ricacdo đã nêu lên. Sự tự do hoá đầu tư, tài chính là nguồn lực giúp cho các quốc gia thì các quá trình này càng có ý nghĩa lớn. Vốn đầu tư chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý là những nhân tố có nhiều ý nghĩa không chỉ với các đang phát triển mà kể cả các nước tư bản phát triển. Đặc biệt trong các điều kiện tác động của các cuộc cách mạng hoa học – công nghệ yêu cầu về vốn và phương thức tổ chức trong công tác nghiên cứu khai thác (R- D) rất lớn. Việc sẽ ít hiệu quả nếu từng quốc gia,( kể cả những quốc gia phát triển ) thực hiện đơn độc, mà đòi hỏi có sự phối hợp quốc tế. Việc di chuyển lao động, đào tạo, phân bố lại lao động và theo đó là cơ cấu lại lực lượng lao động giữa các quốc gia là biều hiện tính khác do quá trình Toàn cầu hoá mang lại. Chính phối hợp quốc tế trong việc điều chỉnh và nâng cao tính hiện đại của các nhân tố tư liệu sản xuất , sự lao động, cũng như phương thức kết hợp chúng một cách có hiệu quả các nhân tố này đã làm cho năng xuất lao động tăng lên, số lượng và chất lượng sản phẩm có sự thay đổi, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thị trường. Đối với các nước đang phát triển, nhờ quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra trên nhiều quốc gia đã tiếp nhận được nguồn vốn, công nghệ chuyển giao, cũng như nhân tố mới của nền kinh tế thị trường mà thị trường là hình thức tổ chức kinh tế có hiệu quả nhất như P.Druker- nhà kinh tế hàng đầu của Mỹ đã nhận định. Lần thứ tư, là thời kỳ hiện nay với đặc trưng là xu thế Toàn cầu hoá được thúc đẩy với những nhân tố như: cuộc bùng nổ thông tin thế giới, làn sóng dân chủ của Bồ Đào Nha và năm 1974, sự xụp đổ của Liên Xô và Đông Âu và thập thể kỷ 90. Toàn cầu hoá lần này nặng về phương diện kinh tế và chính trị. Về kinh tế Toàn cầu hoá lấy Toàn cầu hoá về thị trường làm mục tiêu, lấy Toàn cầu hoá thông tin làm động lực, bởi vậy nó mang ý nghĩa sâu rông hơn nhiều so với lần trước. Cũng vì vậy nó đụng chạm đến nhiều nước, lôi cuốn đông đảo các nước nhập cuộc. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ những thập kỷ cuối của thế kỷ XX thuc đẩy không ngừng sự phát triển của lực lượng sản xuất, phan công lao động và hợp tác quốc tế. Trong xu thế ấy, nền kinh tế của quốc gia trên thế giới có quan hệ nagỳ mật thiết với nhau,tuỳ thuộc lẫn nhau. Nói cách khác, quá trình toàn cầu hoá đã và đang diễn ra rông khắp và mạnh mẽ trên toàn thế gới. Sự gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hoá kinh tế đặt ra yêu cầu khách quan đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lược hội nhập phù hợp và nền kinh tế thế giới và khu vực. Trong bối cảnh này khôg thể phát triển nếu như nền kinh tế không " mở cửa" hội nhập toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế và xu thế khách quan của lịch sử phát triển nhân loại. Tính khách quan ấy bắt nguồn từ. Một là, quá trình phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất đã dẫn tới phan công lao động và hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng. Kết quả là phá bỏ dần hàng dào cạn trở sự phát triển của mỗi quốc gia, sự giao lưu kinh tế dần dần vượt ra khỏi klhuôn khổ trặt hẹp thị trường địa phương, thị trường từng nước, thị trường từng khu vực. Mác và Ăng ghen cho rằng " Đại công nghiệp tạo ra thị trường thế giới". Sự phát triển của khoa học công nghệ mạnh mẽ làm cho nó ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Các ngành kinh tế truyền thống dần dần nhường bước cho các ngành đại diện cho tiến bộ khoa học kỹ thuật. Sự tăng trưởng của nền kinh tế từ chố chủ yếu chịu và nguyên vật liệu và lao động đang chuyển sang dựa chủ yếu vào tri thức. Đặc biệt sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ trong thế kỷ XX, nhất là những thập niên cuối, sự bùng nổ thông tin, sự ra đời của cách mạng của Internet đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình toàn cầu hoá ngày càng sâu, rộng. Từ đó thúc đẩy nhu cầu " mở rộng" giao lưu hội nhập. Hai là, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường.Kinh té thịi trường triển đã mở ra điều kiện cho sự ra tăng xu thế quốc tế hoá, thế hiện trên hai khía cạnh sau: Kinh tế thị trường đã mở ra điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, làm cho quy mô sản xuất khôg bó hẹp trong phạm vi của từng quốc gia mà mang tầm quốc tế, gắn các quốc gia vào sự rằng buộc của sản xuất và tiêu thụ. Kinh tế thị trường phát triển của các quốc gia đưa lại có chế thống nhất cho xử lý mỗi quan hệ kinh tế, đó là cơ chế thị trường - cơ chế phân bổ các nguồn lực dựa vào các quy luật kinh tế khách quan của kinh tế thị trường. Điều này có ý nghĩa cho việc thúc đẩy mở rộng đầu tư, giao dịch thương mại và tiếp nhận nguồn lao động,...hay nói cách khác là sự giao thoa, xâm nhập lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng gia tăng. Thứ ba, sự lẩy sinh và gia tăng của các vẫn đề toàn cầu như : môi trường sih thái, phạm tội, ma tuý, HIV/AIDS, di dân, vượt biển,...đòi hỏi phải có sự hợp tác của tất cả quốc gia trên thế giới mới giải quyết được. Hơn nữa sự ra đời và vai trò ngày càng tăng của các tổ chức kinh tế thế giới như: quý tiền tệ quốc tế ( IMF) ngân hàng thế giới (WB ), tổ chức thương mại thế giới (WTO),..dã trở thành nhân tố thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Như vậy, vậy với phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất trên cơ sở của những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại,quá trình toàn cầu hoá kinh tế tất yếu sẽ diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh, quy mô ngày cángâu với hình thức ngày càng phong phú. Đi đôi với xu hướng toàn cầu hoá, gần đây chúng ta đực chứng kiến sự phát triẻn rất mảnh mẽ của xu thế khu vực hoá. Điều đó thể hiện trên ba tầng nấc: ở tầm " đại khu vực", mở rộng liên minh Châu Âu ( EU) mở ra triển vọng biến toàn bộ Châu Âu thành một thực thể. ở Châu á - Thái Bình Dương, hội nghị hợp tác kinh tế Châu á- Thái Bình Dương họp ở Bôgô ( Inđônêsia) quyết định hình thành khu vực mộ dịch tự do. ở Châu Mỹ, hội nghị cấp cao họp ở Maiami ( Mỹ) cũng quyết định hình thành khu vực mậu dịch tự do toàn Châu Mỹ (FTAA) . Đòng thơừi các tổ chức khác như tổ chức thương mại thế giới ( WTO) quỹ tiền tệ quốc té ( IMF)...ở tầm " tiểu khu vực", các khu vực mậu dịchtự do Bắc Mỹ ( NAFTA), khu vực mậu dịch tự do ASIAN ( AFTA), khu vực mậu dịch tự do Nam Mỹ ( MERCOSUR) ... ra đời. Đồng thời cũng xuất hiện nhiều tổ chức hợp tác khu vực như: Hiệp hội hợp tác khu vực Nam á ( SAARC), tổ chức hợp tác kinh tế của Tây á ( ECO), diễn đàm Nam Thái Bình Dương (SPF) ... ở tầm liên quốc gia gần đây xuất hiện nhiều tam - tứ giác phát triển, nhất là ở Đông Nam á. Tam giác phát triển phía Nam bao gồm Xingapo, bang Gioho của MaLaiSia và đảo Ba Tam của Inđônêsia: tam giác phát triển phía Bắc bao gồm cac tỉnh phía Nam Thái._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33791.doc
Tài liệu liên quan